Những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng phương pháp quản lý chất lượng bằng tiêu chuẩn ISO 9000 vào ngành may Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Trong thời kì bao cấp chất lượng sản phẩm không phải là vấn đề quyết định vì sản phẩm sản xuất ra đã có nhà nước tiêu thụ, vì vậy mà các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc chạy đua tăng năng suất để vượt mức kế hoạch, còn chất lượng sản phẩm thì bị lơi lỏng bỏ quên. Nhưng ngày nay trong cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước, trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt thì chất lượng sản phẩm và dịch vụ, sự thoả mãn nhu cầu

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng phương pháp quản lý chất lượng bằng tiêu chuẩn ISO 9000 vào ngành may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của khách hàng, sự hợp lí về giá cả đảm bảo đúng thời gian giao hàng sẽ là những nhân tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy ngày nay chất lượng sản phẩm là một trong ngững mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Đặc biệt là ngành may mặc, một ngành sản xuất hàng hoá tiêu dùng có tính thời vụ thì chất lượng sản phẩm càng trở thành một vấn đề quan trọng. Với tính chất quan trọng của chất lượng sản phẩm và đặc điểm của ngàmh may mặc thì ta thấy rằng vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may mặc cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Tuy rằng đây là một công trình nghiên cứu còn sơ sài, trình độ còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, song tôi cũng hy vọng rằng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Rất mong sẽ được sự tham gia góp ý của cá thầy các cô và các bạn.Tôi xin chân thành cảm ơn. Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng và quản lý chất lượng 1.Chất lượng sản phẩm là gì? 1.1 Các quan điểm về chất lượng Có thể nói chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế kĩ thuật khá trừu tượng .Khi nhìn nhận sản phẩm trên những góc độ khác nhau ta lại có những quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm Quan niệm siêu việt về chất lượng : chất lượng là sự tuyệt hảo của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại Quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng sản phẩm: đứng trên góc độ này người ta cho rằng chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính phản ánh tính năng tác dụng của sản phẩm đó Quan niệm chất lượng hướng theo người sản xuất: đứng trên góc độ người sản xuất thì họ cho rằng chất lượng sản phẩm là sự phù hợp và đạt được của một sản phẩm so với một tập hợp các yêu cầu và hệ thống tiêu chuẩn đã được thiết kế từ trước Quan niệm chất lượng theo thị trường cho rằng chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với mục đích và yêu cầu của người sử dụng (xuất phát từ nhu cầu của thị trường) + Xuất phát từ giá cả (mối quan hệ giữa lợi ích của sản phẩm với chi phí phải bỏ ra ) chất lượng là cung cấp những sản phẩm dịch vụ ở mức giá mà khách hàng có thể chấp nhận được + Xuất phát từ cạnh tranh ta lại có định nghĩa : chất lượng đó là cung cấpnhững đặc điểm của sản phẩm và dịch vụ mà đối thủ cạnh tranh không có . Mỗi định nghĩa trên đều xuất phát từ một khía cạnh nhất định vì vậy tuy ở mỗi cách đêù có những ưu điểm nhất định song cũng đều không tránh khỏi những hạn chế nhất định để đưa ra một định nghĩa dễ hiểu, loại bỏ được những hạn chế trên thì tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) có định nghĩa trong ISO 9000 như sau: ” chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của sản phẩm có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoạc tiềm ẩn” 1.2 Các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm Trong một sản phẩm có nhiều nhóm thuộc tính thể hiện chất lượng sản phẩm như: - Các thuộc tính phản ánh chức năng tác dụng của sản phẩm thể hiện khả năng của sản phẩm có thể thực hiện chức năng hoạt động như mong muốn - Tuổi thọ sản phẩm thể hiện khả năng giữ được tính năng tác dụng trong điều kiện hoạt động bình thường trong khoảng thời gian nhất định - Tính thẩm mĩ của sản phẩm : là các thuộc tính thể hiện sự gợi cảm thu hút khách hàng như hình dáng màu sắc kích thước, cách trang trí, tính thời trang… - Độ tin cậy của sản phẩm : là khả năng thực hiện đúng tính năng hoạt động như thiết kế và hoạt động chính xác - Tính kinh tế của sản phẩm thể hiện ở tiết kiệm chi phí tổng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm -Tính tiện dụng của sản phẩm thể hiện ở khả năng dễ bảo quản, dễ vận chuỷên, dễ sửa chữa, dễ sử dụng - Tính an toàn của sản phẩm khác với các thuộc tính trên đối với tính an toàn của sản phẩm do nhà nước qui định các sản phẩm phải tuân thủ qui định về tính an toàn sản phẩm - Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm do các tổ chức các quốc gia qui định - Các dịch vụ kèm theo như bảo hành vận chuyển hướng dẫn 1.3 . Đặc điểm của chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố vì vậy nó sẽ có rất nhiều đặc điểm khác nhau . Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất - Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh tế xã hội kĩ thuật vì vậy nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật văn hoá của sản phẩm - Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường xuyên thay đổi theo không gian và thời gian. Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao nhưng ở giai đoạn sau thì không chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển và nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy chất lượng chỉ được đánh giá theo từng thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm chắc đặc điểm này để luôn luôn đổi mới và cải tiến công nghệ để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường . - Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và sở thích của người dân ở mỗi vùng là khác nhau .Vì vậy khi đưa sản phẩm mới vào thi trường thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó. - Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể . Tính trừu tượng thông qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và phụ thuộc vào nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có tác dụng tăng khả năng hấp dẫn thu hút khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng phải thông qua các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, cụ thể được thể hiện thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế, thông qua tính khách quan của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm giảm chi phí và tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. - Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong điều kiện tiêu dùng cụ thể, phù hợp với mục đích sử dụng nhất định. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp kinh tế kĩ thuật xã hội nên nó chịu sự tác động, ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế, kĩ thuật, xã hội. Vì vậy nhà sản xuất cần quan tâm đến các yếu tố đó để ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu về chất lượng sản phẩm của thị trường. 1.4.1. Các nhân tố bên ngoài . Tình hình thị trường : tình hình thị trường tác động đến sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến định hướng xác định sản phẩm thông qua Thứ nhất là đặc điểm của nhu cầu thị trường, đây là căn cứ để xác định đặc điểm của sản phẩm . Có xác định được đặc điểm của nhu cầu thị trường thì sản phẩm sản xuất ra mới phù hợp với thị trường có như vậy sản phẩm mới dược thị trường chấp nhận Thứ hai là sự cạnh tranh trên thị trường tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp phải đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm . - Tiến bộ khoa học công nghệ: tiến bộ khoa học công nghệ tác động toàn diện nhất đến chất lượng sản phẩm: khoa học công nghệ tạo khả năng để nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua: Thứ nhất thông qua việc tạo ra được các nguyên vật liệu mới thay thế nguyên vật liệu truyền thống tạo ra đầu vào có chất lượng cao hơn Thứ hai là tạo ra thiết bị sản xuất mới có khả năng sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu hơn, có tính chính xác hơn nên tạo ra sản phẩm có thuộc tính chỉ tiêu chất lượng cao hơn Cơ chế và chính sách quản lý : cơ chế hoạt động và chính sách quản lý có tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp thông qua: + Tạo ra môi trường bình đẳng bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất trong việc đầu tư nghiên cứu để nâng cao chất lượng sản phẩm + Tạo ra môi trường cạnh tranh, đây là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm +Tạo ra môi trường thuận lợi để kích thích và định hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp . 1.4.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp Doanh nghiệp là người trực tiếp tạo ra sản phẩm vì vậy tất cả khâu các giai đoạn của quá trình sản xuất các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất đều có tác động đến chất lượng sản phẩm. Nói đến các nhân tố bên trong doanh nghiệp tác động đến chất lượng sản phẩm người ta thường nghĩ đến nguyên tắc 4M -Con người(Men): con người là chủ thể của mọi hoạt động, của quá trình san xuất vì vậy con người là yếu tố quan trọng trong việc quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua: tay nghề, lòng nhiệt tình, tính sáng tạo… Máy móc thiết bị (Machinezy): là công cụ phương tiện để tạo ra sản phẩm vì vậy chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ kĩ thuật và tính đồng bộ của máy móc thiết bị của doanh nghiệp Nguyên vật liệu(Materials): là thứ cấu thành sản phẩm nên chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng nguên vật liệu, thời gian cung ứng nguyên vật liệu, bảo quản nguyên vật liệu … Quản lý( Management): trong doanh nghiệp nếu có 3 điều kiện trên đã tốt mà khâu quản lý kém, sự kết hợp giữa các khâu không tốt thì chất lượng sản phẩm cũng không cao. Vì vậy khâu quản lý cũng có vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm . 1.5. Vai trò của chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, nó thể hiện ở - Chất lượng sản phẩm thể hiện sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm có sức cạnh tranh lớn sẽ được tiêu thụ nhiều làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp - Chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản vô hình (uy tín) của doanh nghiệp trên thị trường… 2.Quản lý chất lượng sản phẩm 2.1. Các quan điểm về quản lý chất lượng (hay sự đóng góp của các chuyên gia hàng đầu về chất lượng ) Trong mỗi giai đoạn mỗi thời kì phát triển của sản xuất công nghiệp người ta lại có những quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng và ở mỗi thời kì lại nổi lên những tên tuổi lớn đại diện cho những phương pháp quản lý chất lượng hay (theo những quan điểm về quản lý chất lượng nhất định ) *Shewharts : ông là người đề xuất việc sử dụng các công cụ thống kê trong kiểm soát chất lượng . Theo ông tất cả mọi quá trình hoạt động đều có sự biến động, chính sự biến động làm sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không đồng đều nhau .Nhưng điều quan trọng là có thể nhận biết được vấn đề biến động đó và kiểm soát được nó bằng những công cụ thống kê đơn giản nhờ đó đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra là luôn nằm trong giới hạn tiêu chuấn sản phẩm cho phép *E. Deming : ông cho rằng - Quản lý chất lượng là một hoạt động cải tiến liên tục được thực hiện theo vòng tròn chất lượng :hoạch định chất lượng ,thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng điều chỉnh cải tiến chất lượng Quản lý chất lượng là trách nhiệm trước tiên là của cán bộ quản lý cấp cao của doanh nghiệp Giảm sự lệ thuộc vào các biện pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng Xây dựng các trương trình đào tạo giáo dục khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý chất lượng . *P. Crosby: quan điểm của ông về quản lý chất lượng -Phòng ngừa là biện pháp cơ bản để thực hiện quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để đánh giá tìng hình quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là không sai lỗi -Tất cả mọi vấn đề chất lượng đều có thể đánh giá đo đếm được thông qua chi phí nhờ đó căn cứ để đưa các quyết định cải tiến chất lượng *Feigenbaun: ông là người đầu tiên đề xuất phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Tức là quản lý chất lượng phải được thực hiện ở tất cả mọi khâu, mọi hoạt động trong doanh nghiệp và quản lý chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp, quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàngvà người cung ứng. *K. Ishikawa: ông là người đề xuất việc sử dụng sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá) trong quản lý chất lượng và ông cũng là người đề xuất cũng như trực tiếp tổ chức nhóm chất lượng trong các doanh nghiệp . * Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế(ISO)” Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động. Các biện pháp, phương pháp và qui định hành chính, kinh tế kĩ thuật tổ chức … dựa trên những thành tựu khoa học kĩ thuật, nhằn sử dụng tối ưu các tiếm năng trong kinh doanh để bảo đảm duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm (thiết kế , sản xuất ,tiêu thụ và tiêu dùng ), thoả mãn nhu cầu của xã hội.” (định nghĩa về quản lý chất lượng trong ISO 9000). 2.2 Các giai đoạn phát triển của quản lý chất lượng Cho đến nay quản lý chất lượng đã chải qua ba giai đoạn phát triển khácnhau *Giai đoạn 1 (từ đầu thập kỉ 20 dến 1939) :đây là quá trình hình thành và phát triển của quản lý chất lượng. Ở giai đoạn này chưa có khái niện về quản lý chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng .Đây là giai đoạn mà người ta đòng nghĩa quản lý chất lượng và kiểm tra chất lượng, quản lý chất lượng được hiểu theo nghĩa hẹp vì vậy chức năng chủ yếu là kiểm tra chất lượng . Mục đích của quản lý chất lượng ở giai đoạn này là phát hiện sản phẩm không đạt tiêu chuẩn ,tách ra khỏi những sản phẩm tốt để đảm bảo sản phẩm cuối cùng khi xuất xưởng luôn đạt tiêu chuẩn. Xuất phát từ mục đích quản lý chất lượng ở giai đoạn này mà nhiệm vụ quản lý chất lượng được giao cho các cán bộ kĩ thuật, bộ phận kiểm tra chất lượng được tăng cường củng cố, với những doanh nghiệp lớn thường thành lập phòng kiểm tra chất lượng riêng Vì phương pháp thực hiện quản lý chất lượng ở giai doạn này là kiểm tra chất lượng nên ở giai đoạn này quản lý chất lượng kém hiệu quả, chỉ thực hiện trong khâu sản xuất Cho đến cuối giai đoạn này một số doanh nghiệp đã bước đầu sử dụng công cụ thống kê đơn giản trong quản lý chất lượng . *Giai đoan 2 (từ 1947 đến cuối những năm 60) ở giai đoạn này quản lý chất lượng có những đặc đIểm sau: Đã có sự thay đổi về nhận thức trong quản lý chất lượng, khái niệm quản lý chất lượng ra đời thay cho khái niệm kiểm tra chất lượng . Quản lý chất lượng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó bao gồm bốn chức năng chủ yếu: hoạch định chất lượng, thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng, điều chỉnh cải tiến chất lượng (thể hiện bằng vòng tròn chất lượng - Quản lý chất lượng trở thành trách nhiệm cơ bản của cán bộ quản lý đồng thời có phân định rõ ràng về nhiệm vụ quản lý chất lượng giữa cán bộ kĩ thuật cán bộ quản lý và người lao động. - Các hoạt dộng quản lý tập chung vào các biện pháp phòng ngừa, làm giảm vai trò của kiểm tra chất lượng - Tiếp tục mở rộng các công cụ thống kê trong quản lý chất lượng *Giai đoạn 3 (từ 1970 đến nay) : ở giai doạn này quản lý chất lượng có những đặc điểm nổi bật sau Chuyển từ quản lý chất lượng thông thường sang quản lý chất lượng toàn diện (TQM): đây là phương pháp quản lý chất lượng mà quá trình quản lý chất lượng được thực hiện ở tất cả mọi khâu mọi hoạt động trong doanh nghiệp . - Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp - quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàng và người cung ứng. 2.3 Hệ thống quản lý chất lượng và nội dung quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng 2.3.1 Thực chất và vai trò của hệ thống quản lý chất lượng *Khái niệm hệ thống quản lý chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng là một tập hợp các cơ cấu tổ chức, quản lý, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp, và nguồn lực cần thiết để thực hiện quản lý chất lượng của doanh nghiệp * Cấu trúc của hệ thống quản lý chất lượng - Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bao gồm +Vai trò trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp về vấn đề chất lượng + Quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp + Mối quan hệ giữa các đơn vị bộ phận trong việc thực hiện các nhiệm vụ được đặt ra . + Các qui trình thủ tục cho việc đảm bảo cải tiến chất lượng trong doanh nghiệp - Chính sách chất lượng của doanh nghiệp: do ban lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp ban hành ,nó phải được công bố rộng rãi trước toàn bộ nhân viên. Giám đốc cam kết thực hiện bằng văn bản . Nội dung của văn bản là viết những gì sẽ làm và cam kết phải làm những gì đã viết. Mục tiêu chất lượng : đó là một cáI đích mà doanh nghiệp phải đạt được trong một thời gian nhất định (bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể) Kế hoạch chất lượng là một tài liệu đề cập đến từng hoạt động sản xuất, cung cấp ra sản phẩm, dịch vụ. Trong đó chỉ ra những hoạt động cụ thể cần thiết để đảm bảo về chất lượng sản phẩm, dịch vụ đó. Hệ thống tài liệu chất lượng là một hệ thống tài liệu gồm có: sổ tay chất lượng, quá trình thủ tục, các hướng dãn công việc. Cụ thể + Sổ tay chất lượng là bản mô tả về chính sách chất lượng, những điều lệ về chất lượng thuộc doanh nghiệp . + Qui trình thủ tục là sự mô tả về toàn bộ qui trình hoạt động của một công việc nào đó cần thực hiện + Các hướng dẫn công việc là bản hướng dẫn được dùng để thực hiện những công việc phức tạp: bản vẽ kĩ thuật, hướng dẫn kĩ thuật… *Những hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng QS 9000 là hệ thống quản lý chất lượng áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô - Hệ thống quản lý chất lượng tổng hợp (TQM) - Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 - Hệ thống quản lý chất lượng HCCAD áp dụng cho doanh nghiệp chế biến thực phẩm Hệ thống quản lý chất lượng GMP áp dụng cho các doanh nghiệp dược phẩm. - Hệ thống quản lý chất lượng Q Bass áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - Hệ thống quản lý chất lượng ISO 14000 là hệ thống quản lý chất lượng môi trường * Yêu cầu trong tổ chức hệ thống quản lý chất lượng - Hệ thống quản lý chất lượng phải dựa trên phòng ngừa là chính - Hệ thống quản lý chất lượng phải có cấu trúc rõ ràng, xây dựng rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị - Hệ thống quản lý chất lượng phải phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và qui mô hoạt động của doanh nghiệp . - Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện - Hệ thống quản lý chất lượng phải có sự tham gia trực tiếp của mọi thành viên, mọi đơn vị bộ phận vào quá trình xây dựng và triển khai. * Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng - Hệ thống quản lý chất lượng là một phân hệ cơ bản trong hệ thống sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nó có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác và đảm bảo liên kết với các hệ thống khác trong quá trình sản xuất - Hệ thống quản lý chất lượng là một phương tiện quan trọng cần thiết để thực hiện chức năng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp - Hệ thống quản lý chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp đảm bảo được hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã đặt ra và thoả mãn được khách hàng - Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng giúp cho các doanh nghiệp giảm sự biến động của các quá trình, các hoạt động nhờ đó tiết kiệm được chi phí sai hỏng - Hệ thống quản lý chất lượng nó còn có ý nghĩa rất lớn trong các doanh nghiệp trong việc đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách chất lượng chung của doanh nghiệp với các bộ phận phân tán 2.3.2. Nội dung của quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng. * Nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí (Vấn đề đẩm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng) Đó là toàn bộ những hoạt động nhằm đưa chất lượng sản phẩm lên mức cao hơn trước, giảm dần khoảng cách giữa những mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao hơn Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5200-90, đảm bảo chất lượng chia ra làm hai phần: - Đảm bảo chất lượng nội bộ Xem xét đánh giá các vấn đề về chất lượng trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hoạt động quản lý chất lượng. Là các hoạt động đảm bảo lòng tin cho lãnh đạo của doanh nghiệp rằng các sản phẩm, dịch vụ đã đạt chất lượng mong muốn, đúng tiêu chuẩn thiết kế. Để đảm bảo chất lượng nội bộ doanh nghiệp phải có một tổ chức hợp lý, phải có ban lãnh đạo đủ tài năng, có mục tiêu chất lượng, chính sách chất lượng rõ ràng, có các kế hoạch chi tiết để thực hiện mục tiêu chất lượng và chính sách chất lượng đó, phải quản lý tốt chất lượng ở các khâu marketing, thiết kế, sản xuất thử nghiệm, bao gói, bảo quản, vận chuyển bán và mua, quản lý tốt chất lượng các nguồn lực, quản lý tốt chi phí, áp dụng linh hoạt các biện pháp quản lý chất lượng, đặc biệt áp dụngcác biện pháp phòng ngừa. - Đảm bảo chất lượng với bên ngoài Là các hoạt động đảm bảo cho người mua và người đặt hàng tin rằng hệ thống chất lượngcủa người cung cấp chắc chắn đảm bảo cho sản phẩmvà dịch vụ phù hợp với các yêu cầu chất lượng. Để đảm bảo chất lượng với bên ngoài doanh nghiệpphải thỉa thuận với người mua các yếu tố sau: hệ thống bảo đảm chất lượngcủa người cung cấp để người mua tin rằng hàng hoá, dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của họ về phương tiện kỹ thuật và thủ tục tiến hành phòng ngừa thử nghiệm, kiểm tra và xuất trinh các tài liệu kiểm tra, tiến hành kiểm tra hàng hoá khi giao nhận, chính sách chất lượng của doanh nghiệp. Các điều khoản đảm bảo chất lượng cá thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm cụ thể. Hai phân hệ này không hề cô lập với nhau mà ngược lại chúng hỗ trợ cho nhau, ràng buộc nhau và thống nhất với nhau trong hệ thống chất lượng. Chúng đều nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Cải tiến và hoàn thiện chất lượng Cải tiến và hoàn thiện chất lượng cũng có ý nghĩa tương tự như đảm bảo chất lượng. Hoàn thiện chất lượng được tiến hành theo các bước sau: -Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm. -Thực hiện công nghệ mới áp dụng vào sản xuất. -Thay đổi quá trình sản xuất nhằm giảm khuyết tật của sản phẩm. Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chất lượng là tiến hành cải tiến đặc điểm của sản phẩm, đồng thời làm giảm tỷ lệ khuyết tật. Các bước tiến hành: - Thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảohoàn thiện chất lượng. - Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, đè ra dự án thực hiện những nhu cầu đó. - Thành lập tổ công tác có đủ khả năng thực hiện thành công dự án. - Cung cấp các nguồn lực cần thiết(tài chính, kỹ thuật,lao động). - Động viên đào tạo khuyến khích quá trìnhthực hiện dự án hoàn thiện chất lượng sản phẩm. - Coi chất lượng sản phẩm là nhận thức của khách hàng, múc độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng chính là mức độ chất lượng sản phẩm đạt được. Khách hàng là người đánh giá xác định chất lượng sản phẩm. Lấy con người làm trung tâm, là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm, mọi người từ giám đốc đều có vai trò về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện quản lý chất lượng. Lấy phòng ngừa là chính, với phương châm làm đúng ngay từ đầu, sản phẩm không có phế phẩm. Không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống và các quá trình từ thiết kế sản phẩmđến sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm. * Quản lý chất lượng được thực hiện trong tất cảmọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Khác với quản lý chất lượng chỉ kiểm tra ở khâu cuối của quá trình sản xuất. Quản lý chất lượng thuộc hệ thống quản lý chất lượng nhằm giảm thiểu sản phẩm hỏng dẫn đén giảm chi phí bằng cáchkiểm tra chất lượngở tất cả các khâu của quá trình sản xuất nhằm không để sai hỏng xảy ra chứ không bị động biết hỏng rối mới sửa. Việc thực hiện được bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm, mua nguyên vật liệu, quá trình bảo quản cũng như cung cấp nguyên vật liệu, quá trình gia công sản xuất tạo ra sản phẩm. * Quản lý chất lượng là quá trình thực hiện chức năng của quản lý theo vòng tròn chất lượng:hoạch định chất lượng –thực hiện chất lượng –kiểm tra chất lượng -điều chỉnh cải tiến chất lượng.hoạt động quản lý chất lượng là hoạt động quản lý chứ không đơn thuần thuầ 2.3.3. Sự khác nhau giữa quản lý chất lượng trước kia và ngày nay Sự khác nhau này được thể hiện thông qua các phương diện sau: Về tính chất : quản lý chất lượng trước kia mang tính chất kĩ thuật đơn thuần vì vậy vấn đè quản lý chất lượng thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ kĩ thuật. Còn ngày nay vấn đè quản lý chất lượng không đơn thuần là vấn đề kĩ thuật mà nó thuộc lĩnh vực quản lý. Khi nó được coi là vấn đề quản lý thì những mục tiêu về chất lượng bao giờ cũng được thực hiện một cách tốt nhất. Xét trên phương diện quan niệm về sản phẩm. Trước kia cho rằng tất cả những gì mà doanh nghiệp bán ra ngoài thị trường mới là sản phẩm. Còn ngày nay người ta cho rằng tất cả những gì là kết quả của doanh nghiẹp tạo ra có thể tiêu dùng nội bộ hoạc bán ra ngoàiđều là sản phẩm của doanh nghiệp. Quan niêm về sản phẩm như ngày nay bắt buộc mọi người phải có trách nhiệm với sản phảm mà mình tạo ra. -Xét trên quan niệm về khách hàng. Trước kia cho rằng khách hàng phải là những người không thuộc doanh nghiệp mà mua sản phẩm của doanh nghiệp. Còn bây giờ người ta cho rằngkhách hàng là toàn bộ những đối tượng đòi hỏi về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp (kể cả đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những đối tượng không mua sản phẩm của doanh nghiệp) -Xét trên phương diện phạm vi, đối tượng, trách nhiệm, mục đích của quản lý chất lượng ta thấy rằng trước kia quản lý chất lượng chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất và đối tượng là kết quả cuối cùng, trách nhiệm quản lý thuọc về phòng kiểm tra kĩ thuật(KCS) và lấy mục tiêu tài chính làm cơ bản. Còn bây giờ quản lý chất lượng được thực hiện ở tất cả các khâu, các hoạt động, các quá trình của doanh nghiệp,đối tượng là tất cả các khâu các giai đoạn trong quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản lý chất lượng là nhiệm vụ của tất cả mọi đối tượng, mọi đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp, nhằm mục đích là thoả mãn nhu cầu của khách hàng, lấy khách hàng làm gốc, làm cơ sở Trước kia đánh giá chất lượng một cách trực diện, tập chung vào con người, xem xét biệt lập với các yếu tố khác.Còn ngày nay người ta xem xét chất lượng nằm trong mối quan hệ với các yếu tốkhác của hệ thống quản lý chất lượng - Trước kia đẻ đánh giá tình hình chất lượng người ta sử dụng hệ thống các tiêu chuẩn kĩ thuật đã được đề ra. Còn ngày nay người ta xem xét đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ bằng phản ứng của khách hàng về chất lượng. Phần II . Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành may Việt Nam 1.Thực trạng về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may 1.1 Ngành may ngày càng nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí Trong một vài năm gần đây ngành may đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, dần chiếm lại thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có được những thành tựu trên là do đa số những doanh nghiệp may mặc Việt Nam những năm gần đây đã thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ. Nhưng theo thống kê và đánh giá của các chuyên gia, thiết bị công nghệ ngành may, tuy đã đổi mới 90-95% thiết bị nhưng trình độ tự động hoá quá trình sản xuất cũng chỉ ở mức trung bình, công nghệ lạc hậu hơn các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất là thời trang cuộc sống của người tiêu dùng trong nước tuy đã có những bước tiến đáng kể song vẫn còn yếu. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ trong ngành may mặc như hệ thống thông tin, giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ cũng như khả năng tổ chức thực hiện các đơn đặt hàng nhỏ của các doanh nghiệp nước ta cũng có một khoảng cách so với các nước trong khu vực. Giá cả là yếu tố hạn chế lớn nhất của hàng may mặc nước ta, với mức giá thường cao hơn mức giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khoảng 10-15%, cao hơn hàng Trung Quốc hơn 20%. Để giảm giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp cần xúc tiến ngay việc cải tiến hệ thống quản lý, tổ chức dây truyền sản xuất, nâng cao tay nghề, kỹ năng vận hành và xử lý công việccủa người lao động nhằm tăng nhanh năng suất (hiện năng suất lao động chỉ bằng 50-70% của Singapo, Malaysia, Thái Lan). Đồng thời, áp dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạn chế những lãng phí lớn về thời gian và sức người, vốn ít được để tâm tới. Nghệ thuật bán hàng của ta, tuy đã tiến bộ hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây, nhưng vẫn là điểm yếu cơ bản so với các nước trong khu vực. Đội ngũ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hệ thống bán hàng yếu về chất lượng, thiếu về số lượng. Nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin, hệ thống phân phối, đại diện thương mại ở các thị trườngxuất khẩu, nên khả năng phản ứng nhanh trước diễn biến của thị trường rất hạn chế và thường phải đối phó trong thế bị động, kém hiệu qua. Để khắc phục những điểm yếu này, các doanh nghiệp cần sớm đào tạo, xây dựng đội nhũ bán hàng và tiếp thị có kĩ năng cao kết hợp với việc thiết lập kênh phân phối rộng khắp trên thị trường nội địa. Đối với các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nếu như từng doanh nghiệp chưa có khả năng làm được thì 5-7 doanh nghiệp nên phối hợp với nhau mở văn phòng đại diện thương mại thường trực. Bên cạnh các biện pháp tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, đã có sự chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống –tức môi trường trường kinh doanh của toàn ngành may mặc. Chính phủ đang tập chung giải quyết nhiều vấn đề nhằm tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may gồm: mở rộng quan hệ thương mại song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế (EU, Mỹ, WTO, Trung và Nam Mỹ…) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành dệt may như nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vào EU như các nước khác trong ASEAN, hưởng thuế suất bình thường (NTR) vào thị trường Mỹ, giảm thuế nhập khẩu vao các nước Trung và Nam Mỹ, hưởng qui chế bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu như các thành viên WTO. Đòng thời xây dựng cơ chế định hướng cũng như qui hoạch và chính sách hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành dệt may, nhằm tăng tỉ lệ nội địa hoá trong hàng may mặc xuất khẩu từ 25-30% lên 50% vào năm 2005 và 70%vao năm 2010. 1.2.Hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều cho rằng quản lý chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của cán bộ kỹ thuật. Như đã biết phương pháp quản lý chất lượng bằng các hệ thống quản lý chất lượng mới được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (từ năm 1998. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng mới. Song vẫn còn nhiều nguyên nhân (cả về phía doanh nghiệp, cả về phía môi trường) đã ngăn cản các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng mới đó. Ngành may mặc cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy cho đến nay tỷ lệ d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0082.doc
Tài liệu liên quan