LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hoá, đã bao trùm nên tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự gia tăng hợp tác quốc tế nhằm phát huy có hiệu quả những lợi thế so sánh của mình đã làm cho quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Việt Nam với tư cách là một thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO kể từ ngay 7/11/2006 đã tạo điều kiện mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu với tư cách là cầu nối
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa các quốc gia là cầu nối giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Đối với nước ta xuất khẩu là trung tâm của hoạt động ngoại thương và trở thành yếu tố “ bản lề “ là “đòn bảy” chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ lớn có ý nghĩa đạc biệt quan trọng trong việc tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Việt Nam đã và đang khẳng định quyết tâm hội nhập của mình với phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, hợp tác hai bên cùng có lợi… Lấy nhu cầu thị trường quốc tế làm mục tiêu cho sản xuất trong nước… “ trong đó ngành thủy sản được coi là ngành xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam, sau dầu thô và dệt may. Ngành thủy sản , trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường khu vực và quốc tế. Đặc biệt đã tạo được chỗ đứng khá vững chắc trên một số thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU…
Mặc dù ngành thủy sản Việt Nam có được những bước tiến khá nhanh, đã có một số thị trường lớn song một thực tế hàng thủy sản có sức cạnh tranh chưa cao so với các đối thủ trên trường quốc tế. Điều này biểu hiện bởi chất lượng chưa cao, đơn điệu về chủng loại, hạn chế về mẫu mã, chưa đáp ứng nhu cầu chuẩn mực, cạnh tranh khắt khe trên thị trường thế giới đặc biệt là các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật, EU… Do đó vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam để đáp ứng được những yêu cầu chuẩn mực cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhằm giữ vững thị phần cao của Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây đang là mối quan tâm đặc biệt có ý nghĩa chiến lược lâu dài của chính phủ, của các nhà kinh tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu giai trong đoạn hiện nay.
Trước thực trạng đó, dưới góc độ là một sinh viên kinh tế, chuyên ngành kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn để đáp ứng kịp thời thị trường thế giới. Em lựa chọn đề tài “ những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình nhằm thấy được những thuận lợi, khó khăn và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Chương II: Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp thuúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Để hoàn thành chuyên dề này , em nhận được sự giúp đỡ rất nhiều những đóng góp ý kiến của bạn bè, các thầy cô trường ĐH KTQD, đặc biệt là sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Đình Thắng người trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian thu thập tài liệu và viết chuyên đề này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, song do kinh nghiệm thực tế và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên đề án không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để bài viết được tốt hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU
THỦY SẢN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
1.1 Bản chất hoạt động xuất khẩu
Xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau mà hoạt động xuất khẩu được ra đời và ngày càng phát triển cho đến nay. Vậy hoạt động xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được đem bán ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mỗi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu tồn tại ngay cả khi công ty đã tiến hành những hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế, các lý do công ty thực hiện xuất khẩu là :
Thứ nhất : Sử dụng lợi thế của mình.
Thứ hai : Giảm chi phí giảm giá thành sản phẩm
Khi thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, các quy định khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chưa có đủ khả năng thực hiện các hình thức cao hơn thì xuất khẩu được lựa chọn
So với đầu tư, rõ ràng xuất khẩu đòi hỏi lượng vốn đầu tư ít hơn, rủi ro thấp hơn, thu được lợi nhuận trong thời gian ngắn. Chính vì thế hoạt động xuất khẩu không thể thiếu trong một nến kinh tế thị trường phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực như ngày nay. Hoạt động xuất khẩu càng phải được chú trọng hơn nữa khi mà Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.
1.2 Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ chi tiêu dùng trong nước và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như đặt cơ sở cho sự phát triển hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động đã áp dụng từ lâu đời nhưng cho tới nay thì nó luôn được khuyến khích phát triển và ngày càng đa dạng và phong phú, mở ra nhiều thuận lợi và khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu. Sở dĩ như vậy là do có sự chuyển đổi căn bản về kinh tế thị trường trên toàn thế giới và ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu theo hai chiều hướng tiêu cực và tích cực.
Có thể thấy một số vai trò chủ yếu của hoạt động xuất khẩu như sau :
Thứ nhất: Xuất khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay vốn, thu từ hoạt động du lịch, thu ngoại tệ xuất khẩu sức lao động. Các hoạt động đó tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả. Như vậy, nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởngcủa nhập khẩu.
Thứ hai: Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Một là: chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm do sản xuất vượt trội nhu cầu tiêu dùng. Theo cách này, nếu một nến kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Hai là: coi thị trường thế giới là tương quan của sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Theo quan điểm này, xuất khẩu phải có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nó được thể hiện ở
-Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội cùng phát triển
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển
- Xuất khẩu tạo điều kiện tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới và hoàn thành công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường thế giới
Ba là xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống thể hiện trên nhiều phương diện, trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với mức thu nhập khá. Thực tế đã cho thấy mức lương của cán bộ công nhân viên tại các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu đã dần được nâng lên, đến nay là tương đối cao. Bên cạnh đó xuất khẩu còn là nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Bốn là xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là bộ phận quan trọng của hệ thống kinh tế đối ngoại. Thực hiện hoạt động xuất khẩu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như hoạt động ngân hàng quốc tế , vận tải quốc tế… Vì vậy, khi xuất khẩu phát triển các hoạt động này cũng phát triển theo. Mặt khác các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng cho xuất khẩu.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản
2.1 Nhân tố thuận lợi
2.1.1 Điểu kiện tự nhiên
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, lượng mưa trung bình hàng năm lớn khoảng 1500-2000mm. Độ ẩm dưới 80% nên rất thuận lợi cho nuôi trồng các loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao.
Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3260km trung bình cứ 20km có một cửa sông thông ra biển. Các cửa sông này chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều khá phức tạp nên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đa dạng hoá các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ lực mà thị trường thế giới có nhu cầu, mặt khác còn tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng với mọi thị trường trên thế giới và khu vực bằng đường biển nên các sản phẩm thủy sản được bán ra nước ngoài dễ dàng hơn.
Nhìn chung có thể phát triển thủy sản trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có tiềm năng, đặc thù và sản vật đặc sắc riêng. Tuy nhiên, Việt Nam có một vùng sinh thái thấp đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa nước mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nước lợ chuyên hoặc nuôi trồng thủy sản kết hợp với trồng lúa thì sẽ tạo ra sản phẩm nuôi trồng có chất lượng cao, chi phí thấp mà các nước khác không có được. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp khi mà giá cả thủy sản trên thị trường thế giới ở mức thấp, nhất là mặt hàng tôm.
2.1.2 Yếu tố kinh tế xã hội
Việt Nam chưa phát triển nuôi thủy sản công nghiệp nên còn nhiểu tiềm năng đất đai, vùng ven biển để phát triển nuôi trồng thủy sản mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho phát triển các vùng nuôi tôm và hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp nhất là đối với vùng Duyên Hải dọc bờ biển miền trung, tạo được nguồn cung dồi dào cho hoạt động xuất khẩu thủy sản sang các nước trong khu vực và trên thế giới
Ngày nay khi nước ta đã là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam sẽ dễ dàng xuất khẩu vào thị trường các nước là thành viên của WTO tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường thế giới và khu vực.
Đến nay đã có 61 doanh nghiệp nằm trong danh sách xuất khẩu đi EU, gần 100 đơn vị áp dụng tiêu chuẩn HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản. Những cơ sở nâng cấp, mở rộng sản xuất, trên 40 cơ sở sản xuất mới có công nghệ hiện đại sẽ xây dựng ở địa phương gần nguồn nguyên liệu. Hơn nữa hiện nay hải sản tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khẩu phần ăn của người dân trên thế giới, đặc biệt là người Nhật và Mỹ. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam chế biến các loại sản phẩm đa dạng phong phú để xuất khẩu.
2.1.3 Các yếu tố khác
Do đường lối của Đảng và nhà nước tạo điều kiện cơ hội tốt nhất cho các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản ra thị trường thế giới. Nhà nước đã cung cấp vốn tín dụng ưu đãi và chính sách ưu đãi cho các chủ đầu tư tham gia vào chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản cụ thể: trong 5 năm đầu nuôi trồng thuỷ sản được miễn các loại thuế đất, thuế thu nhập, giảm 50% cho 5 năm tiếp theo kể từ khi dự án đi vào sản xuất kinh doanh. Đối với chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, ngư dân được vay vốn với lãi xuất ưu đãi 0,81%/ tháng, thời hạn hoàn vốn là 7 năm, vốn đối ứng của dân là 15%.
Bên cạnh đó, nhà nước còn có sự hỗ trợ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học kỹ thuật . Bộ thủy sản đã tập trung ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với các nước nhập khẩu, nâng cao năng lực cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm và tập trung trung tâm cơ sở sử chữa, nâng cấp nhà xưởng.
Với sự hỗ trợ tích cực của dự án cải thiện chất lượng và xuất khẩu thủy sản (SEAQIP) doanh nghiệp Đan Mạc tài trợ. Bộ thủy sản đã tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức các kênh thông tin về thị trường.
2.2 Nhân tố khó khăn và thách thức
2.1.2 Điều kiện tự nhiên
Đất nước ta hàng năm chịu ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt bão quét, khô hạn gây nhiều khó khăn cho việc sản xuất nuôi rrồng thủy sản, khó khăn trong việc cung cấp các sản phẩm thủy sản xuất khẩu một cách thường xuyên và liên tục. Hơn nữa với điều kiện thiên tai như thế mà ngành thuỷ sản lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi các yếu tố tự nhiên nên cũng hạn chế vào quá trình đầu tư sản xuất., nuôi trồng của các cá nhân và doanh nghiệp vì mức độ rủi ro là rất cao. Vậy để hạn chế thiệt hại về phía nhà nước cần có sự chỉ đạo công tác dự báo thời tiết thật chính xác và kịp thời cho người dân kịp ứng phó, còn về phía người sản xuất nuôi trồng thủy sản cần chủ động phòng chống khi có thông tin về thiên tai của nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro, thiệt hại cho mình.
2.2.2 Yếu tố kinh tế xã hội
Tính cạnh tranh trên thị trường thế giới rất cao, mặc dù nước ta có một số thị trường xuất khẩu thủy sản lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU … Nhưng các thị trường cũng là nơi được chú ý của rất nhiều nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Trong đó có những nước cũng có lợi thế tương tự như nước ta đều coi thị trường đó là thị trường chiến lược của mình và quyết tâm dành thị phần cao trên thị trường thế giới. Đây cũng là khó khăn tác động đến khả năng thúc đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu chưa hợp lý, biểu hiện tôm vẫn chiếm tỷ trọng cao trong sản lượng thủy sản xuất khẩu năm 2005 chiếm tỷ lệ 41.3% trong khi đó một số loại thủy sản khác cũng có giá trị kinh tế cao chưa được phát triển . Người sản xuất kinh doanh mới chỉ chú trọng vào tăng số lượng, sản lượng chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Chưa có nhiều sản phẩm tiêu biểu đặc sản mang bản sắc riêng của Việt Nam. Công nghệ đánh bắt nuôi trồng bảo quản và chế biến, mẫu mã bao bì thủy sản chưa tốt.
Gía cả nguyên vật liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu tăng cộng với giá xăng dầu liên tục tăng trong những năm qua làm cho chi phí vận chuyển tăng theo, nên chi phí sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản có xu hướng tăng nhanh, làm giảm khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam.
Tỷ lệ thủy sản xuất khẩu đã qua chế biến chưa cao, hơn nữa hình thức xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường thế giới chưa cao, chủ yếu là xuất khẩu qua một số thị trường trung gian như ( Hông Kông, Đài Loan, Singapor ) nên lợi nhuận thấp.
Tình trạng thiếu vốn ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tự lo vay vốn ngân hàng làm ảnh hưởng đến giá thành xuất khẩu. Trình độ học vấn và tay nghề của công nhân ngành thủy sản chưa cao làm ảnh hưởng đến sự phát triển xây dựng uy tín của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng tiêu chuẩn. Mặt khác, trình độ quản lý ở một số cán bộ còn chưa khoa học. Điều này thể hiện rõ ở nhiều mặt từ quy hoạch xây dựng dự án, kế hoạch đến phương thức thực hiện, biện pháp quản lý, cần được điều chỉnh cho phù hợp.
2.2.3 Các yếu tố khác
Ngoài những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tác động xấu đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam còn một số yếu tố khác cũng gây khó khăn trong việc thúc đẩy quá trình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam như: vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, dư lượng kháng sinh trong sản phẩm thủy sản phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu, vấn đề về thuế quan, hạn ngạch, các hàng rào kỹ thuật của các nước đặt ra đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam rất khắt khe, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
3.Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả xuất khẩu thủy sản
3.1 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản
Kể từ năm 2000 đến nay,ngành thủy sản vẫn duy trì sự tăng trưởng với tốc dộ đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt 2,4 tỷ USD tăng gần 1 tỷ so với năm 2000 chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2005 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 2,74 tỷ USD, tăng 0,34 tỷ so với năm 2004 và đạt 114% so với năm 2004. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2006 đạt 3.1tỷ USD đạt 113% so với năm 2005, tăng 13% . Như vậy kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam không ngừng tăng trong những năm vừa qua , với tốc độ tăng bình quân các năm trên 10%. điều này chứng tỏ hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cũng đạt được những kết quả nhất định.
3.2 Sản lượng thủy sản xuất khẩu
Tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 đạt 2 triệu tấn, đến năm 2005 tổng sản lượng đạt 3,34 triệu tấn. Như vậy sau 5 năm sản lượng đã tăng 1.34 triệu tấn tương ứng tăng 71.5%, bình quân mỗi năm tăng 0.286 triệu tấn tương ứng 10.8% so với năm 2005
Về cơ cấu sản lượng thủy sản trong các năm qua đang dần dần thu hẹp khoảng cách giữa khai thác và nuôi trồng. Năm 2005 sản lượng khai thác là 1.995 triệu tấn, nuôi trồng là 1,437 triệu tấn băng 72,21% so với sản lượng khai thác. Năm 2006 sản lượng khai thác 2,13 triệu tấn, nuôi trồng là 1,67 triệu tấn bằng 78,5% so với khai thác. Như vậy qua các năm từ năm 2000 đến nay tỷ trọng sản lượng nuôi trồng đang có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ của khai thác. điều này là hoàn toàn phù hợp với quá trình phát triển ngành thủy sản bởi lẽ tiềm năng khai tháclà có hạn và tiềm năng nuôi trồng là vô hạn. Chúng ta phải giảm khai thác và tăng sản lượng nuôi trồng để tránh cạn kiệt nguồn tài nguyên
3.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản
Trước đây thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam khá hạn hẹp, Đến nay Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản đến khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong một số thị trường xuất khẩu, thị trường Mỹ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thị trường Nhật Bản trược kia chiếm tỷ trọng 50-60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đến nay chỉ còn dưới 30%, Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật Bản trở thành thị trường Xuất khẩu số một của Việt Nam vào năm 2001 và chiếm 38% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2005. Trung Quốc trước đây chỉ chiếm khoảng 2% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đã vươn lên đứng thứ 3 sau Mỹ và Nhật Bản và chiếm 18% vào năm 2005. Thị trường EU tăng rất mạnh mẽ nhưng tỷ trọng chỉ chiếm từ 8-10 %. Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự biến đổi tích cực, đang có xu hướng đa dạng các thị trường tiêu thụ và dần có sự cân bằng giữa các thị trường xuất khẩu tăng cường khai thác các thủy sản tiềm năng như Trung Quốc, Mỹ, EU.
4. Những kinh nghiệm phát triển xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
4.1. Tôm Việt Nam bị kiện bán phá tại thị trường Hoa Kỳ
4.1.1. Thông tin chung :
Việc một mặt hàng bị kiện bán phá giá là việc phổ biến trong hoạt động thương mại giữa các nước hiện nay. Bà Đinh Thị Mỹ Loan cho biết trong vòng 10 năm từ năm 1995 đến nay các doanh nghiệp thuộc thành viên của WTO đã đương đầu với 2840 vụ kiện bán phá giá trong đó 1804 trường hợp được kết luận bán phá giá, chiếm 63.25% trong đó năm 2002 và 2003 được coi là những năm có số vụ bán phá giá được kết luận nhiều nhất trong vòng 5 năm qua. Nhưng doanh nghiệp làm ăn tại thị trường Mỹ là dễ bị kiện nhất.
Còn đối với Việt Nam: Theo cục cạnh tranh,tính đến tháng 8/ 2006 , Việt Nam đã đương đầu với 28 vụ kiện bán phá giá .Trong đó đã có 23 vụ trường hợp được kết luận là có bán phá giá và đã bị áp thuế chống bán phá giá, có 3 vụ kiện tính từ 1994 – 1998 rơi vào các mặt hàng như gạo, mỳ chính, giầy dép hai vụ tỏi và bật lửa (trong năm 2000 – 2001) . Năm 2004 – 2005 kỷ lục về số vụ bán phá giá được các thị trường EU, Achentina, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pêru khởi kiện doanh nghiệp Việt Nam.
Phải chăng xuất khẩu tôm của Việt Nam càng tăng mạnh, hoạt động thương mại diễn ra càng nhiều thì các vụ kiện bán phá giá cũng vì thế mà nhiều hơn ?
Cục cạnh tranh cho biết các vụ kiện của Việt Nam chủ yếu các mặt hàng xuất khẩu lớn như cá, tôm, giầy dép, dệt may… Và các trường hợp của Việt Nam đều chung thời điểm các nước bị kiện như Trung Quốc , Thái Lan, Ấn Độ. Và tựu chung hầu hết các vụ kiện bán phá giá Việt Nam đều thua (23/28 vụ) . Phải chăng có mặt hàng nào mà Việt Nam bị kiện thì việc chúng ta bị thua là điều không tránh khỏi ?
4.1.2. Diễn biến vụ việc tôm Việt Nam bị Hoa Kỳ kiện chống bán phá giá.
Vào năm 2005 tôm Việt Nam khi xuất sang Hoa Kỳ chính thức bị bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) cáo buộc bán phá giá và áp thuế chống bán phá giá theo quyết định cuối cùng của Bộ Thương Mại là : Seaprodex Minh Hải (Bạc Liêu ) 4,3% , Minh Phú (Cà Mau ) 5.24 %, Kim Anh (Sóc Trăng ) 25,76 % ; Các doanh nghiệp là bị đơn tự nguyện 4,57% và toàn bộ doanh nghiệp khác là 25,67% . Chi phí để xem xét lại đối với các mức thuế với 1 công ty là 75000USD . Sau khi được lựa chọn các công ty có 30 ngày để quyết định có đồng ý tham gia quá trình xem xét lại hoặc rút lui .
Tin từ mạng seafood.com cho biết tại Ấn Độ có ít nhất 25 công ty xuất khẩu tôm lớn được dự đoán sẽ nộp đơn tham gia quá trình xem xét lại thuế chống bán phá giá năm nay, trong đó có công ty Seafood (bị áp thuế 4,9% và HLL(15,36).
Theo quy trình, Bộ Thương Mại Mỹ được lựa chọn 3 công ty bất kỳ trong tổng những công ty nộp đơn và tiến hành xem xét lại mức giá xuất khẩu của họ trong vòng 1 năm so với đánh giá ban đầu . Kết thúc quá trình DOC sẽ xác định mức thuế mới cho những công ty này, và tính toán mức thuế trung bình để áp dụng cho tất cả các công ty khác .
Theo các luật sư đã quen với quá trình xem xét lại thuế chống bán phá giá, trong hầu hết các trường hợp mức thuế chung đều được hạ bớt “ Việc các công ty nộp đơn xin xem xét lại mức thuế cũng có thể ngăn cho DOC ra lệnh cho hải quan Mỹ tiến hành thu lại các khoản thuế phải nộp của các lô hàng nhập khẩu trong năm trước, vì khoản tiền này có thể thay đổi.’’ Tuy nhiên DOC cũng có thể từ chối tiến hành xem xét lại nếu khối lượng công việc quá lớn và DOC không có đủ nhân lực .Vụ kiện tôm là một trong những vụ kiện chống bán phá giá lớn và phức tạp nhất từ trước đến nay, và DOC luôn gặp phải những vấn đề về nhân lực để xử lý hết các đơn xin xem xét lại mức thuế của các công ty .
Ngày 3/4/2006 Bộ Thương Mại Mỹ DOC ra thông báo bắt đầu triển khai quá trình xem xét lại mức thuế đối với tôm nhập khẩu từ 6 nước gồm Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Braxin, Ecuador và Việt Nam. DOC cũng cho biết đã nhận được đơn yêu cầu xem xét lại mức thuế áp lên tôm nước ấm , tôm đông lạnh nhập khẩu từ công ty chế biến thủy sản các nước. Trong số này , số lượng các công ty Ấn Độ nộp đơn xin xem xét lại mức thuế yêu cầu của bên nguyên đông nhất lên đến 348 công ty, tiếp sau là Trung Quốc với 163 doanh nghiệp , Ecuador 72 doanh nghiệp , Thái Lan 145 doanh nghiệp và Braxin 54 doanh nghiệp .
Theo danh sách bên nguyên đưa ra , có tới 84 công ty của Việt Nam nằm trong diện bị xem xét lại mức thuế . Song thực tế tổng số doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ chỉ trên dưới 50 doanh nghiệp . Phó tổng thư ký hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam(VASEP) Trương Đình Hòa cho biết danh sách mà CFA đưa ra lấy từ Hải Quan Mỹ, có rất nhiều tên trùng, hoặc có cả tên các doanh nghiệp , cá nhân không xuất khẩu tôm qua Mỹ .
Một động thái khác cũng liên quan và tác động mạnh mẽ đến diễn biến vụ kiện , đó là Bộ Thương Mại Thái Lan đã chính thức gửi đơn kiện nên tổ chức thưong mại thế giới WTO lý do , Vụ việc này thực hiện chính sách thương mại bất bình đẳng đối với tôm xuất khẩu của Thái Lan . Theo thông lệ WTO sẽ ra phán quyết cuối cùng sau 12-14 tháng . Tuy nhiên nếu Mỹ chấp nhận huỷ bỏ bond ( Ký quỹ - đặt cọc 100% giá trị hàng hoá ) trong vòng 60 ngày kể từ ngày Thái Lan gửi đơn thì vụ kiện sẽ được huỷ bỏ. Trước đó, hiệp hội thuỷ sản Hoa Kỳ NFI và hiệp hội xuất khẩu thuỷ sản Ấn Độ cũng nộp đơn kiện tính bất hợp pháp của quy định này lên WTO .
Nhận xét về vụ việc này, ông Trương Đình Hoà nói : đây là diễn biến tích cực đối với vụ kiện, nhất là trong thời điểm giao dịch , nhập khẩu tôm hiện nay đang chậm lại do các nhà nhập khẩu lo ngại rủi ro khi xem xét lại mức thuế .
Đối với một bạn hàng lớn như Hoa Kỳ thì vụ kiện trên ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình xuất khẩu tôm của Việt Nam. Ghi nhận từ các doanh nghiệp bị áp thuế : với mức thuế xuất như vậy việc cạnh trạnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi ưu thế duy nhất của tôm Việt Nam lâu nay đó là giá đã không còn tác dụng . Như thế sẽ đẫn đến việc thị trường Hoa Kỳ gần như bị khép lại đối với tôm Việt Nam nếu không có kết quả tích cực từ tranh chấp thương mại .
4.1.3. Nguyên nhân Việt Nam bị cho là có bán phá giá
Theo căn cứ bên phía Hoa Kỳ tôm Việt Nam bán phá giá đó là : giá xuất khẩu < giá trị thông thường . Vậy tại sao họ lại cho là như vậy , còn phía các doanh nghiệp Việt Nam lại không cho là như vậy. Nguyên nhân chính là phía Hoa kỳ đặt các điều kiện khác nhau để tính giá tôm Việt Nam có thể kể ra đó là : Việt Nam chưa tính tới một số chi phí như :
Môi trường
Chi phí xã hội
Giá lao động
Lấy nước thứ 3 không cơ bản để so sánh. Sự việc đó có hay không ? Xin trả lời là có :
Thứ nhất : Theo ghi nhận của trang vneconomy.com.vn Tại tỉnh An Giang nơi xuất khẩu tôm lớn nhất cả nước thì tình hình ô nhiễm nguồn nước là cô cùng nghiêm trọng. Tại nhà máy công ty Nam Việt chuyên chế biến tôm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Nhiều người dân sống quanh đấy cho biết, ống dẫn nước thải của nhà máy chảy thẳng ra sông có màu đen đậm đặc không chịu được. Màu đen này hoà vào sông Hậu và loang ra cả 1 vùng rộng lớn.
Được biết, mỗi ngày các nhà máy của Việt Nam thải vào môi trường hơn 3000 m3, nhưng chỉ xử lý 400m3. Lượng nước thải sẽ cao hơn khi nhà máy tăng công suất. Tôm chết công nhân nhà máy vô tư ném xuống sông. Người dân ở đây sống trong tình trạnh sử dụng nguồn nước ô nhiễm và không khí bị ô nhiễm nặng. Bà con cho biết bệnh đường ruột và đường hô hấp đã trở thành kinh niên .
Mấy năm rồi bà con phường Bình Đức sống chung với chất thải của nhà máy ở đây. Bà con cũng phản ánh nước bốc mùi thối quá không chịu được nhiều lần gửi đơn . Nhưng nhà máy với chiêu “công nhân trong nhà máy là con em tại địa phương nên lại thôi “ và chuyện lại đâu vào đấy” .
Hiện nay trên địa bàn tỉnh An Giang có hơn 13 nhà máy chế biến tôm, cá xuất khẩu, hầu hết các nhà máy đều làm không tốt khâu xử lý chất thải. Ông Lâm Minh Chiếu - trưởng ban điều hành sản xuất và tiêu thụ xuất khẩu thuỷ sản - chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết : Trong thời gian qua UBND tỉnh đã xử rất nhiều đoàn làm việc với nhà máy, kiểm tra hệ thống xử lý nước thải. Qua kiểm tra tỉnh đã thống nhất phải kiên quyết xử lý những nhà máy không thực hiên cam kết với các cơ quan chức năng về vấn đề ô nhiễm môi trường, thậm chí tỉnh chấp nhận đóng cửa những nhà máy cố tình vi phạm .
Hầu hết các nhà máy chế biến thuỷ sản An Giang đều năm trong khu dân cư. Riêng khu tiểu thủ công nghiệp Mỹ Quí thành phố Long Xuyên có 4 nhà máy chế biến thuỷ sản Nam Việt, Cửu Long, Tuấn Anh và An Xuyên xây dựng đã không đúng mục đích ban đầu khi thành lập tiểu khu công nghiệp. Cả 4 nhà máy đều không xử lý hết lượng nước thải của nhà máy, còn nước thải đã qua xử lý lại không đảm bảo yêu cầu .
Không chỉ những nhà máy tại An Giang mà hầu hết các nhà máy xuất khẩu tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ đều xảy ra tình trạng này . Đây cũng là cớ mà Hoa Kỳ bắt bí ta khi kiện bán phá giá . Vì những điều này bên phía Hoa Kỳ thực hiện rất tốt .
Thứ hai : Từ vấn đề các nhà máy chế biến nằm trong khu dân cư kéo theo các vấn đề xã hội. Điều này chúng ta ít để ý khi xuất sang thị trường Hoa Kỳ, nhưng phía đối tác lại có. Ở Việt Nam tình trạng ô nhiễm nguồn nước kéo theo người dân sống xung quanh nhà máy bị các bệnh về đường hô hấp, đường ruột, trong khi người dân vô cùng bức xúc thì các nhà máy lại làm ngơ coi như không biết và cũng không phải chịu tổn thất gì. Trong các vụ kiện kéo dài vẫn với các chiêu bài cũ để làm yên chuyện. Như vậy vấn đề vẫn không được giải quyết triệt để mà lại tìm cách trốn tránh trách nhiệm. Do đó trong giá thành xuất khẩu không tính đến chi phí xã hội mà đáng lẽ ra nhà máy phải có nghĩa vụ giải quyết .
Thứ ba : Việc bị so sánh với các nước thứ ba không cơ bản cũng là bất lợi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường hoa Kỳ vì với các nước trung Á như bangladet, Pakitan với nguồn lợi mặt nước là rất thấp, chi phí cao thì việc so sánh là hết sức khập khiễng thậm chí nếu không muốn nói là vô lý. Điều này cũng làm cho phía Hoa Kỳ cho rằng tôm Việt Nam có bán phá giá.
Thứ tư : Chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Biểu hiện là bên phía Hoa Kỳ chưa trao cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn PNPR. Đây là cái cớ để Bộ Thương Mại Mỹ DOC và các doanh nghiệp chế biến tôm ở Mỹ cáo buộc nhà nước Việt Nam có trợ giá cho các doanh nghiệp tôm xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đây cũng là vấn đề tranh cãi chính trong các phiên sử tôm Việt Nam có bán phá giá hay không . Vấn đề này rất khó giải quyết nếu chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam .
Ngoài ra một nguyên nhân cũng khá quan trọng khiến cho mặt hàng tôm xuất khẩu Việt Nam cùng với 5 nước khác gồm: (Ấn Độ , Thái Lan, Trung Quốc, Braxin, Ecuador)bị khởi kiện là do: Các doanh nghiệp chế biến tôm ở Mỹ, nhiều năm nay không cạnh tranh được với các nước xuất khẩu tôm chỉ chiếm thị phần rất nhỏ trong thị trường Mỹ. Do lợi ích bị ảnh hưởng nên tìm cách gây sức ép lên chính quyền mà cụ thể là Bộ Thương Mại Mỹ DOC khởi kiện các nước xuất khẩu tôm lớn vào thị trường Mỹ làm đe dọa tới lợi ích của các doanh nghiệp Mỹ.
4.2. Dư lượng kháng sinh trong tôm xuất khẩu Việt Nam
Sau rào cản thương mại gần đây ._.các doanh nghiệp xuất khẩu đang vấp phải khó khăn mới khó giải quyết hơn nhiều đó là những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Xu hướng chung là các nước sử dụng ngày càng nhiều công cụ này nhằm hạn chế các mặt hàng mang tính nhậy cảm như tôm để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước đồng thời cũng bảo vệ người tiêu dùng của nước họ. Vì thế nó đã và đang đe doạ rất lớn đến các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
4.2.1. Các doanh nghịêp tự giết mình
Nhật Bản là bạn hàng truyền thống và lớn nhất của tôm xuất khẩu Việt Nam ( giá trị xuất khẩu hàng năm khoảng 500 – 600 tr USD trong tổng số hơn 1 tỷ USD của tôm xuất khẩu )
Thế nhưng đã qua rồi “tuần trăng mật”, tôm Việt Nam hiện đang “mắc cạn“ tại các thị trường truyền thống bởi các doanh nghiệp tự …giết mình hết mực đến tôm
Kể từ lúc Nhật Bản áp dụng lệch kiểm tra 100% đối với mặt hàng mực của Việt Nam từ cuối tháng 7/2006, chỉ trong 8 tháng Bộ Y Tế và Lao Động Nhật Bản lại liên tiếp phát hiện thêm 10 trường hợp khác của 7 doanh nghiệp có lô hàng có dư lượng kháng sinh và vi trùng đường ruột, những chất không được phép có trong thực phẩm theo luật vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật.
Điều này đồng nghĩa buộc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải thu hồi hay tiêu huỷ tại chỗ các lô hàng này. Tổng số là 20 tấn mực đông lạnh . Các cơ quan chức năng Việt Nam chưa kịp cảnh báo và chấn chỉnh thì cuối tuần qua, phía Nhật Bản bất ngờ công bố tăng cường kiểm tra tôm nhập khẩu từ Việt Nam với mức độ kiểm tra là 50 % thay vì trước đó chỉ là 5 % . Nguyên nhân do phía Nhật Bản phát hiện 4 lô tôm có nguồn gốc từ Việt Nam nhập khẩu vào Nhật có dư lượng kháng sinh cấm sử dụng .
Ông Trương Đình Hòa cho biết: Việc kiểm tra chất lượng các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu vào thị trường có 3 cấp độ ( 5 %, 50%, và 100% ). Sau đó, nếu tình hình không được cải thiện, các cơ quan chức năng Nhật Bản ban hành lệnh cấm nhập khẩu đối với mặt hàng vi phạm. Như vậy hiện nay mặt hàng mực đông lạnh của Việt Nam đang ở tình trạng “báo động đỏ” và mặt hàng xuất khẩu tôm chủ lực đang ở cấp độ 2 . Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của toàn ngành .
Đây không phải là điều đầu tiên và thị trưòng Nhật không phải là duy nhất “dị ứng “với các mặt hàng thủy sản Việt Nam.
Một số nước EU và mới đây là thị trường Nga cũng phát hiện hàng xuất khẩu cá tra, cá basa của một vài doanh nghiệp Việt Nam kém chất lượng . Theo phân tích của một số doanh nghiệp thuỷ sản, việc hàng xuất khẩu nhiễm dư lượng kháng sinh có hai khả năng ( Thứ nhất: doanh nghiệp chủ quản trong vấn đề kiểm tra nguồn nguyên liệu đầu vào. Thứ hai: Ngư dân, đại lý thu mua,các cơ sở chế biến hải sản sử dụng hoá chất không rõ nguồn gốc, thành phần để bảo quản ) Việc tăng cấp độ kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu gây tâm lý e ngại về phía các doanh nghiệp nhập khẩu.
Bởi chi phí cho việc kiểm tra sẽ tăng theo cấp độ 5% , 50% , 100% , và chi phí này các doanh nghiệp nhập khẩu phải trả, dẫn đến hiệu quả kinh doanh không còn. Việc đánh mất niềm tin và uy tín không những doanh nghiệp tự “đóng cửa” với mình mà còn giết chết một thị trường tiềm năng, chiến lược của cả ngành . Ông Lực phát biểu: Trước “sức ép“ Nhật Bản liên tục phát hiện sản phảm mực tôm của Việt Nam vi phạm luật vệ sinh an toàn thực phẩm, trong khi Bộ Thương Mại sót ruột “ với tốc độ này , uy tín mặt hàng xuất khẩu của ta sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng “ . Ngành chủ quản là Bộ Thuỷ Sản thì đủng đỉnh chỉ đạo : “các cơ sở tổ chức đợt kiểm tra tăng cường biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm , đặc biệt là việc sử dụng hoá chất kháng sinh…Thông báo cho Bộ Thuỷ Sản kết quả triển khai. Trước sức ép hội nhập, yêu cầu tiêu dùng các sản phẩm an toàn của thế giới ngày càng khắt khe. Nhưng Bộ Thuỷ Sản vẫn sử dụng cách xử lý “vô thưởng vô phạt” chưa thể hiện vai trò điều tiết của mình.
4.2.2. Nguyên nhân rút ra từ sự kiện trên
Thứ nhất: Từ phía các doanh nghiệp, không có tiêu chuẩn rõ ràng trong khâu thu mua, chế biến và xuất cảng là lý do chính hay nói đúng hơn là các doanh nghiệp chưa có sự đầu tư cho các sản phẩm nhậy cảm của mình. Không những thế do nước ta bắt đầu mở cửa hội nhập, còn các doanh nghiệp cung mới “ chập chững “ tìm hướng đi (tìm đầu ra ) do vậy bài học kinh nghiệm trên thị trường quốc tế là không nhiều đồng thời lại không có sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng nên có tình trạng có doanh nghiệp chưa ý thức được hoạt động kinh doanh sai phạm của mình mà điều đó có thể ảnh hưởng toàn bộ hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.Vì thế họ không chuẩn bị kỹ cũng như tìm hiểu những yêu cầu cần thiết cho hoạt động sản xuất của mình.
Thứ hai : Từ phía ngư dân, chủ trang trại, đại lý thu mua, các cơ sở chế biến hải sản
Đó là tình trạng sử dụng hoá chất không rõ nguồn gốc, thành phần để nuôi và bảo quản. Nguyên nhân sâu xa hơn xuất phát từ phía doanh nghiệp đã lây sang những người nông dân chỉ biết nuôi trồng khai thác theo hợp đồng với các doanh nghiệp chế biến, đại lý thu mua. Họ mặc sức nuôi trồng đánh bắt bảo quản theo ý mình sao cho chi phí thấp nhất mà không thấy tác hại lâu dài bởi hành động của mình. Cùng với đó là sự hiện hữu của nhà nước trong các hoạt động này và cũng như phong trào nuôi tôm hàng loạt ( nuôi theo phong trào sẽ dẫn đến tình trạng đổ xô vào nuôi không tinh đến đầu ra cho sản phẩm và rồi đến khi thất bại hay gặp rủi ro những hộ nông dân lại rủ nhau theo phong trào phá hàng loạt ) đã và đang làm cho vấn đề ngày càng nghiêm trọng hơn .
Thư ba : Nhà nước và các cơ quan chủ quản có liên quan trực tiếp là Bộ Thuỷ Sản chưa thực sự vào cuộc có thể coi là nhân tố không nhỏ cho những khó khăn trên. Chỉ khi tôm xuất khẩu Việt Nam gặp phải vướng mắc thì các cơ quan chức năng mới “giật mình” cảnh báo cho các doanh nghiệp có liên quan và cũng để cảnh báo cho mình, chứ không có chuẩn bị từ trước về những rào cản kỹ thuật này. Đó là biểu hiện của việc quản lý điều hành, phối hợp không hiệu quả các hoạt động nuôi trồng, khai thác, chế biến xuất khẩu của nhà nước. Tạo tình trạng chạy theo sau để giải quyết khó khăn trước mắt chứ không phải là dự báo ngăn chặn trước khi diếu đó xảy ra .
4.3. Con tôm ôm sổ đỏ
Đó là đặc trưng rõ nét nhất, phản ánh đầy đủ nuôi tôm theo phong trào đang diễn ra hiện nay. Mặc dù giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam rất khả quan (1,4 – 1,5 tỷ USD vào năm 2006 ). Tuy nhiên những người trực tiếp tạo ra mặt hàng chủ lực để xuất khẩu lại đang lao đao thậm chí nhiều hộ nông dân bị vỡ nợ. Điều này sẽ là khó khăn trở ngại không nhỏ cho những đóng góp của tôm xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Bởi vì nếu hiện tượng này không được giải quyết ổn thoả và triệt để sẽ lại có một phong trào mới xẩy ra nhưng tiếc thay đó sẽ là phong trào hàng loạt những hộ nông dân phá sản và chuyển sang nuôi trồng mặt hàng khác. Như vậy xuất khẩu tôm có giá trị lớn nhưng ẩn đằng sau nó là nguồn cung không đảm bảo cho xuất khẩu .
4.3.1. Thất bại từ những dự án chạy theo phong trào
Rất nhiều sổ đỏ của nông dân Bạc Liêu đang nằm trong ngân hàng với những món nợ lên tới 1100 tỷ đồng, trong đó nợ xấu khó đòi là trên 230 tỷ đồng là minh chứng thuyết phục nhất cho tình trạng này.
Một liên tưởng khác khiến chúng ta thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề: nếu tính tổng diện tích số sổ đỏ của người dân Bạc Liêu thế chấp để vay ngân hàng chúng ta sẽ được diện tích bằng nửa sân bóng đá, còn nếu xếp dọc số sổ đỏ này kết quả thu được là 10 cây số. Hậu quả thật nặng nề cho người dân.
Ở các xã Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A của huyện Hoà Bình (Bạc Liêu ) sự thất bại của phong trào nuôi tôm sú được thể hiện rõ nét qua những tấm bảng rao bán đất được dựng lên giữa những đồng tôm . Người dân ở đây cho biết lí do họ phải rao bán là vì nhiều năm liên nuôi tôm bị thất bại .
Ông Hải xã Vĩnh Mỹ A cho biết : Trước đây nhà ông có trong tay cả trăm công ruộng, mỗi vụ thu về trên 100 tấn lúa. Từ khi chuyển sang nuôi tôm thì đất đai lân lượt “đội nón“ ra đi, tiền chuyển nhượng đất được gần 700 tr cũng đã đi theo con tôm sú hết rồi. Giờ đây chỉ còn vài công đất còn sót lại ông rao bán cung không có ai mua, trong khi sổ đỏ đang nằm trong ngân hàng không biết bao giờ mới lấy ra được vì nợ trong nợ ngoài đang đẻ lãi từng ngày .
Tương tự: Anh Dương Chí Linh ở xã Vĩnh Hậu trước đây cũng là một đại gia trong giới nuôi tôm. Những chỉ sau năm mùa tôm thất thu anh buộc phải bán toàn bộ đất đai, nhà cửa để lấy tiền trả nợ.
Xã Vĩnh Hậu A thật sự là “điểm nóng“ của ”mô hình” con tôm ôm sổ đỏ vì phần lớn hộ nông dân đều thế chấp sổ đỏ để vay tiền. Anh Ba Hưng ”điển hình“ của phong trào chuyển dịch sản xuất từ cây lúa sang con tôm, từng cầm trong tay bạc tỷ lảm chủ cả chục chiếc xe cuốc, xe ủi…Nhưng sau ba vụ tôm thất bại anh bán tất cả tài sản qúy giá của mình để đổ vào mấy ao tôm còn lại với hy vọng gỡ được ít vốn. Tuy nhiên vụ tôm vùa rồi anh tiếp tục thua lỗ, không chỉ trắng tay anh Hưng con thiếu nợ ngân hàng và nợ bên ngoài với tổng số tiền lên đến gần 300 tr .
Mất bò mới lo làm chuồng : Khi nông dân vỡ nợ nhiều ngân hàng cũng “nóng ruột” vì có đến 25% nợ vay thuộc diện khó đòi ( gấp 4 lần theo quy định của nhà nước ). Tổng dư nợ nuôi trồng thuỷ sản ở 5 xã trong huyện Hoà Bình tại ngân hàng công thương chi nhánh Bạc Liêu là 24,2 tỷ đồng nhưng kỳ thu nợ gần đây chỉ thu được 1 hộ với số tiền 60 triệu đồng.
Ngoài ngân hàng công thương, hiện nay nơi “được” nông dân nợ nhiều nhất là ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn. Ông Trần Văn Cường giám đốc ngân hàng cho biết :
Hiện nay toàn huyện có đến 10247 hộ vay vốn, tổng dư nợ lên đến 225,5 tỷ đồng, trong đó 4257 hộ thế chấp “sổ đỏ” vay 132,5 tỷ đồng để nuôi tôm. Đến nay tổng số nợ quá hạn tại ngân hàng này liên quan đến con tôm là 88,2 tỷ đồng (3270 hộ). Theo quy định nếu nông dân không trả nợ thì ngân hàng sẽ nhờ đến cơ quan pháp luật kê biên tài sản thế chấp để phát mãi thu nợ. Tuy nhiên, đất nuôi tôm hiện nay bán chẳng ai mua làm sao ngân hàng thu được nợ .
Đó là tỉnh Bạc Liêu, còn rất nhiều tỉnh khác tình hình cũng không khả quan hơn là mấy. Ở các tỉnh như Sóc Trăng, An Giang và các tỉnh miền trung, nuôi tôm giờ đây không còn là giấc mơ vàng nữa mà nó đã trở thành “đánh bạc“ với số phận của người nông dân. Đây là khó khăn chung của ngành xuất khẩu tôm Việt Nam, cần được giải quyết ổn thoả ngay nếu như chúng ta muốn đạt giá trị cao trong xuất khẩu.
4.3.2. Nguyên nhân thất bại và hậu quả để lại
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nan giải này đó là từ phía ngân hàng và người nông dân .
Thứ nhất : Về phía ngân hàng
Một câu hỏi được đặt ra sau những vụ việc này là ngân hàng đóng vai trò gì trong hậu quả tiêu cực này. Việc này phải xem xét từ đặc điểm hoạt đông nghiệp vụ của ngân hàng. Đó là hỗ trợ tư vấn lựa chọn dự án cho các hộ nông dân có nhu cầu chính đáng . Mục đích là rất tốt tuy nhiên trong qúa trình thực hiện đã xảy ra sai lầm trong thẩm định dự án và việc cấp vốn hàng loạt cho nhiều hộ dân nuôi tôm phong trào là nguyên nhân chính. Thêm vào đó là tình trạng không bám sát điều chỉnh kịp thời các dự án . Sự việc nghiêm trọng tới mức 4 giám đốc ngân hàng ở tỉnh Bạc Liêu được chỉ thị từ cấp trên nếu không xoá được số nợ xấu ( vượt qua 18,8%) trong thời gian tới thì sẽ bị cắt chức. Trong đó có 1 giám đốc bị đình chỉ chức vụ để chuyển đi đòi nợ xấu từ người nông dân.
Đây là bài học lớn cho các tỉnh khác vì việc cho nông dân vay ồ ạt chứa đựng nhiều rủi ro, cũng như việc thẩm định dự án không kỹ càng ( lựa chọn những nông dân không đủ khả năng) sẽ không chỉ làm vỡ nợ mà cũng còn tự giết mình .
Thứ hai : từ phía người nông dân
Sau khi vấn đề đi đến kết cục không thể cứu vãn thì kết luận mói được đưa ra: Người nông dân chưa đủ khả năng để thẩm định dự án và tìm ra bệnh cho tôm khi rủi ro ập đến. Chính vì thế khi tất cả ồ ạt vay vốn, chuyển đổi đất từ trồng lúa sang trồng tôm thì rất dễ hiểu khi đầu ra không ổn định cộng với con tôm bị bệnh cũng đồng nghĩa với hàng loạt họ nông dân rơi vào cảnh “sống dở chết dở”. Nói như vậy bởi vì sau 3 -4 vụ tôm mất mùa liên tục hầu hết các hộ dân đều lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, ruộng đất đã bị bán gần hết để trả nợ, số đất còn lại cũng rất ít, mà muốn trở lại trồng lúa cũng không thể vì tất cả đất đai đều bị nạo vét nuôi tôm rồi, hơn trồng lúa hiệu quả thấp thì nông dân bao giờ mới có thể trả hết nợ. Đang từ những ông chủ nuôi tôm giờ đây họ trở thành người làm thuê ngay trên chính mảnh đất của mình .
Hậu quả để lại ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều người, nhiều ngành liên quan và còn nguy hiểm hơn là người dân không có việc làm và bị đẩy đến đường cùng là điều kiện lý tưởng để các tệ nạn xã hội nảy sinh. Hậu quả của nó có ảnh hưởng lâu dài và cần nhiều năm với sự nỗ lực của các cơ quan liên quan và nỗ lực của người dân mới có thể giải quyết được .
4.4. Mối quan hệ giữa người nuôi và nhà chế biến
Một hiên tượng khá phổ biến trong những năm gần đây đó là thường xảy ra tranh chấp giữa người nuôi tôm và nhà máy chế biến bất kể là lúc giá tôm lên hay xuống. Bởi vì quan hệ giữa người nuôi và nhà chế biến mang sẵn trong nó 2 mặt vừa hợp tác vừa cạnh tranh . Đó là hai mắt xích trong “chuỗi giá trị “ của thuỷ sản Việt Nam. Nếu chúng ta không sớm giải quyết tình trạng này thì việc tôm Việt Nam bị mất lợi thế trong cạnh tranh với nước ngoài là khó tránh khỏi. Bởi vì khi không có sự thông nhất trong giá xuất khẩu tôm cũng sẽ dẫn đến mất lòng tin với các bạn hàng .
Mặt khác hai bên cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm để bán ra thị trường (trong và ngoài nước) mối quan hệ này càng mang tính cộng sinh. Cả hai bên đều cần sự tồn tại của nhau và hiển nhiên nó chỉ bền vững khi cả hai bên cùng có lợi. Thêm vào đó là cả hai cùng chia nhau miếng bánh lợi nhuận mà không bên nào muốn mình bị thiệt. Tuy nhiên không có một tỷ lệ phân chia lợi nhuận nào được coi là hợp lý hơn cả trong tất cả các trường hợp. Tỷ lệ này hoàn toàn phụ thuộc vào lợi thế của mỗi bên trong quá trình mặc cả. Lợi thế thuộc về ai tuỳ thuôc vào từng thời điểm để xét xem bên nào có lợi thế hơn. Trong giai đoạn tôm sắp đạt tới kích thước thương phẩm tốt nhất (loại 1) thì người nông dân có lợi thế khi doanh nghiệp cần nguyên liệu để thực hiện đơn đặt hàng, trong khi người nuôi có thể giữ lại tiếp tục nuôi hoặc bán cho doanh nghiệp khác. Do vậy người nuôi có thể đẩy giá lên cao.Tuy nhiên điều khó khăn là phải biết đâu là điểm dừng lại trong cuộc mực cả. Đó là mức giá mà tại đó doanh nghiệp chế biến vẫn có thể có lãi. Nếu vượt qua ngưỡng này việc mua bán khó có thể diễn ra. Tương quan này không giữ nguyên trong quá trình mặc cả. Càng kéo dài thời gian ưu thế của người nuôi càng mất đi, mà chuyển dần về phía doanh nghiệp chế biến. Người nông dân phải bỏ thêm chi phí nhưng con tôm vượt qua kích thước của loại 1 còn bị giảm giá.
Ngoài ra trên thực tế vào thời điểm của vụ thu hoạch trong các thông kê, lượng cung tôm nguyên liệu cũng sẽ tăng, trong khi một số thị trường chính, lượng hàng xuất khẩu lại giảm xuống do trùng vào dịp nghỉ hè. Sự tương quan cung cầu cũng làm giảm ưu thế của người nông dân góp phần làm giảm giá. Cũng xin lưu ý rằng chỉ cần cung tăng hay cầu giảm là có thể làm giảm giá mà không cần điều kiện cung vượt quá cầu. Cung vượt qúa cầu là điều kiện làm cho giá thị trường thấp hơn giá thành sản xuất. Lúc nào doanh nghiệp có nhiều lợi thế hơn trong mặc cả. Đây chính là thời điểm xảy ra tình trạng mà người nuôi gọi là “doanh nghiệp éo giá nông dân “.
Ai thoả mãn hơn? Nếu đã không có 1 tỷ lệ chia lợi nhuận nào được coi là hợp lý thì điều gì quyết định sự thoả mãn của mỗi bên. Thực ra mức độ thoả mãn khác nhau của 2 phía quyết định từ mức độ bất đối xứng về thông tin .
Trên thực tế người ta thường có xu hướng nhìn sang những hoạt động mua bán xung quanh mình để tìm kiếm sự hài lòng. Do vậy nếu hộ nông dân bán tôm mà không có bất cứ thông tin nào để so sánh, người ta luôn có cảm giá mình bán hớ. Cuộc mặc cả trong trường hợp này thường kéo dài và không mang lại sự thoả mãn . Điều này phần nào giải thích cho việc tại sao chúng ta thường ít thấy những lời than phiền từ phía doanh nghiệp so với người nông dân. Nói chung doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận thông tin nhanh chóng và dễ dàng hơn nên cảm nhận về mặt bằng giá tốt hơn .
Trong trường hợp tôm tại vùng ĐBSCL, một lý do nữa gia tăng sự không thoả mãn của ngưòi dân là họ đã so sánh mặt bằng giá cũ. Do các hộ nuôi tôm thu được siêu lợi nhuận với tỉ lệ lãi rất cao, một lượng lớn người đã tập trung vào nuôi dẫn đến lượng cung tăng vọt. Hơn nữa thời điểm diễn ra cuộc tranh cãi là thời điểm vào vụ thu hoạch, khối lượng cung tăng vọt so với các tháng trước. Thiếu vắng thông tin dự báo, người nuôi có xu hướng so sánh với lợi nhuận thu được tại các thời điểm trước đó của mình và của các hộ nuôi khác. Điều này cũng làn nặng thêm tâm lý “thua thiệt” từ phía người nông dân .
Cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu thủy sản khác của Việt Nam, tôm xuất khẩu cũng luôn lâm vào cảnh khi giao dịch với quốc tế luôn bị hớ. Lúc thì giá cao nhưng không gom đủ nguyên liệu để bán, còn khi thu mua đủ nguyên liệu thì giá đã rớt xuống rồi. Còn đối với người nông dân còn bi đát hơn, cứ mỗi khi được mùa chúng ta lại nhận được thông tin “các hộ nông dân năm nay được mùa nhưng mất giá“ hoặc “doanh nghiệp chèn ép giá nông dân“. Còn khi mất mùa sẽ là “ giá tôm lên cao nhưng người dân không có để bán “ … Đó là một thực trạng đau buồn đã tồn tại nhiều năm nay. Rốt cuộc nhà doanh nghiệp hay hộ nuôi tôm đều không được lợi như mong muốn khi giao dịch với bạn hàng quốc tế điều đáng ra chúng ta xứng đáng được hưởng .
Chương II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
1. Khái quát về ngành thuỷ sản Việt Nam.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam
Thuỷ sản là một trong những ngành hoạt động kinh tế nằm trong tổng thể kinh tế xã hội của con người. Thuỷ sản đóng góp vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, không thế nó còn là ngành kinh tế tạo ra công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt nông dân vùng ven biển. Thuỷ sản là ngành đem lại nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận nhân dân làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ cũng như ngành dịch vụ cho nghề cá như: Cảng biển, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung ứng dầu nhớt…và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân. Thuỷ sản có những đóng góp to lớn cho sự khởi động và tăng trưởng kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ tầm quan trọng của bước đi đầu tiên là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: Coi ngành thuỷ sản là ngành mũi nhọn, coi chuyển một bộ phận đất đai đang canh tác nông nghiệp và làm muối kém hiệu quả hơn sang làm nuôi trồng thủy sản là hướng đi chủ yếu của biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn( Nghị định 09/ NĐ – CP ngày15 /06/2000). Đảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình, chính sách lớn hỗ trợ cho công việc chuyển đổi và phát triển thuỷ sản năm 1998, chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thuỷ sản năm 1998, hỗ trợ phát triển thuỷ sản: Các dự án phát triển nuôi tôm công nghiệp; các dự án phát triển nuôi biển.
Ngành thủy sản đã có một thời kỳ khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế mới( khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thủy sản đã có sự cọ xát với kinh tế thị trường và đã tạo ra được một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả các lĩnh vực từ khai thác, chế biến, nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tế cũng tăng lên đáng kể.
Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng, thế thượng phong và ổn định trên thị trường thế giới.
Định hướng phát triển.
Trong 10 – 15 năm nữa, ngành thuỷ sản vẫn lấy xuất khẩu làm động lực phát triển, coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường có nền kinh tế phát triển cao và Trung Quốc là thị trường chính, đồng thời coi thị trường trong nước là một thị trường đang phát triển đầy tiềm năng với những đòi hỏi ngày càng cao về sự phong phú và chất lượng.
Coi phát triển kinh tế thuỷ sản là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế ven biển, là một trong những định hướng hiệu quả và nhiều triển vọng nhất của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của cư dân và thay đổi bộ mặt của nông thôn đặc biệt là vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia.
Phát triển kinh tế thuỷ sản phải dựa trên tiêu chuẩn cơ bản là hiệu quả và bền vững. Hiệu quả là thước đo động lực cho sự phát triển. Hiệu quả được thể hiện ở mức độ lợi nhuận và tổng thu nhập trên một đơn vị đất đai canh tác thuỷ sản và trên một đồng vốn đầu tư, năng suất lao động tính bằng giá trị. Sự bền vững phải được xem xét toàn diện: Kinh tế( có hiệu quả kinh tế ngày càng gia tăng), môi trường( không gây ô nhiễm, không làm suy thoái các nguồn lợi tự nhiên) và xã hội( không gây mâu thuẫn và tranh chấp, được đồng tình).
Ngành thuỷ sản chỉ có thể phát triển mạnh hiệu quả, có khả năng cạnh tranhcao và bền vững khi các chính sách đầu tư và quản lý phù hợp với điều kiện và tính chất đặc thù của ngành đồng thời phát huy mạnh mẽ hiệu lực quản lý của Nhà nước kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế tham gia vào ngành thuỷ sản. Mọi chính sách và chiến lược phát triển ngành đều phải xuất phát từ những đánh giá về lợi thế so sánh và tiềm năng của đất nước.
Tạo điều kiện thuận lợi cơ bản nhất để thu hút mọi thành phần kinh tế, trong đó lấy kinh tế tư nhân và hợp tác là lực lượng cơ bản áp dụng công nghệ thích ứng với trình độ của quan hệ sản xuất, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho ngư dân và cho nền kinh tế quốc dân, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng mạnh vào sản xuất và nội địa, hiện đại hoá ngành thủy sản đang là mục tiêu vươn tới của ngành.
Hội nhập với nghề cá khu vực và thế giới là định hướng tất yếu. Mọi luật lệ các quy định và cách hành sử của nghề cá nước ta đang dần thích ứng và phù hợp những công ước - pháp luật quốc tế và khu vực; mọi điều kiện sản xuất và kinh doanh phải được cải thiện cho phù hợp và đáp ứng những yêu cầu tất yếu thị trường sau hội nhập WTO
1.2. Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam.
Tiềm năng điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội - thị trường.
Trong lịch sử phát triển lâu dài của mình Việt Nam đã sớm là một quốc gia biển. Đánh bắt hải sản, vận tải biển và buôn bán trên biển đã là một bộ phận cấu thành của nền văn hoá Đông Nam Á ngay từ thuở khai nguyên cho đến những năm 50 của thế kỷ 20. Nhìn chung nghề cá Việt nam hiện nay vẫn còn ở trình độ thô sơ lạc hậu. Nhưng trong tương lai nó sẽ trở thành một nghề sản xuất vật chất có vị trí lớn, tương xưng với tiềm năng thuỷ sản to lớn của mình và những đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam có đường bờ biển dài và khí hậu nhiệt đới với sự đa dạng sinh học cao, vừa có nhiều thuỷ sản đặc sản quý giá được thế giới ưa chuộng, vừa có điều kiện phát triển hầu hết các đối tượng xuất khẩu chủ lực mà thị trường thế giới cần. Mặt khác, nước ta nằm trong cửa ngõ giao lưu Âu – Á, có nhiều điều kiện tiếp cận dễ dàng với thị trường khu vực và trên thế giới.
Nhìn chung có thế phát triển thuỷ sản khắp cả nước. Ở mỗi vùng lại có một điều kiện đặc thù, một tiềm năng và những đặc sản riêng có. Tuy nhiên, Việt Nam có một số vùng sinh thái thấp đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa nước mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nuôi nước lợ chuyên hoặc nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với trồng lúa thì sẽ tạo ra được sản phẩm nuôi trồng có chất lượng cao, chi phí thấp mà các hệ thống canh tác khác không thể có được.Lợi thế này đặc biệt phát huy mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi công nghiệp khi giá cả thuỷ sản trên thế giới ở mức thấp nhất là mặt hàng tôm.
Việt Nam chưa thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để nuôi trồng, còn nhiều tiềm năng sinh thái ở các vùng để nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp, nhất là đối với vùng Duyên Hải dọc theo bờ biển miền Trung. Khả năng vừa mang ý nghĩa đẩy nhanh tốc độ phát triển nuôi trồng thuỷ sản thâm canh, sử dụng những tàu thuyền xưa nay bỏ phí, vừa có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo đồng thời là một giải pháp hữu hiệu nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường ven biển.
Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản:
Nằm trong khu vực biển Đông, biển Việt Nam có tính chất như một vùng biển kín. Vịnh Bắc Bộ tương đối nông, mức sâu nhất không quá 90m. Bờ biển nước ta dài 3260 km, các vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng 1 triệu km2 , hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và hàng nghìn đảo lớn nhỏ khác.
Nhờ đặc điểm địa hình, biển nước ta thuộc loại giàu hải sản với 2038 loại cá biển, trong đó có hơn 100 loài có giá trị kinh tế trữ lượng cá khoảng 3 triệu tấn/ năm, sản lượng khai thác cho phép từ 1,2 – 1,3 triệu tấn / năm. Giáp xác có 1647 loài, trong đó tôm có hơn 70 loài với những loại tôm hùm có giá trị kinh tế lớn. Nhuyễn thể khoảng 2500loài, khác nhau với những loài có giá trị như: mực, sò, huyết, hải sâm, bào ngư…Ngoài ra, còn có trên 600 loài rong biển, trong đó những loài có thể làm thực phẩm hoặc bộ nguyên liệu, chất phụ gia cho công nghiệp bánh keo, dệt vải…
Cùng với chiều dài bờ biển, các măt nước nội địa cũng rất phong phú 12 đầm và các eo vịnh, 112 cửa sông, hệ thống sông ngòi chằng chịt, ao hồ đã tạo cho nước ta tiềm năng lớn về mặt nước có khả năng phát triển thuỷ sản( khoảng 1700000 ha) trong đó có 120000 ha ao hồ nhỏ, mương vườn, 340000 ha hồ chứa mặt nước lớn, 580000ha ruộng úng trũng, ruộng nhiễm mặn cấy lúa một vụ hoặc 2 vụ bấp bênh, 600000 ha vùng triều.
Nguồn nhân lực phát triển thuỷ sản dồi dào với hàng chục triệu hộ nông dân vừa làm nông nghiệp vừa nuôi trồng và khai thác thủy sản. Trên 4 triệu hộ nông dân sống ở vùng triều và khoảng 1 triệu người sống ở các đầm, phá, luyến đảo thuộc 28 tỉnh và thành phố có biển hằng năm đang tạo ra một nguồn lợi nhân lực đáng kể.
1.3. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành thuỷ sản Việt Nam.
1.3.1 Đầu tư cho ngành thuỷ sản.
Trong 6 năm từ 2000 đến 2006 đầu tư cho ngành không ngừng tăng lên, tổng mức đầu tư nước ngoài là 545000 triệu đồng ( chiếm 5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chính, vốn đầu tư trong nước là 8600 tỷ đồng chiếm 94,07% tổng mức đầu tư. Để có được nguồn vốn này, ngoài vốn ngân sách cấp, ngành đã huy động trong dân 1700 tỷ đồng( chiếm 18,62%). Tuy vậy, có thể thấy đầu tư nước ngoài vào ngành thuỷ sản còn quá hạn chế, thị trường thuỷ sản chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề ngành cần nghiên cứu để đề ra những giải pháp chiến lược, chính sách thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài trong những năm tới.
Nếu tính tổng mức đầu tư của nền kinh tế trong 6 năm thì đầu tư cho ngành thuỷ sản còn quá nhỏ bé chỉ chiếm 1,83%. Song hiệu quả đem lại cho nền kinh tế quốc dân là từ 3 – 3,2%. Đây là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy hoạt động đầu tư đã đem lại hiệu quả cao. Các nguồn vốn đầu tư cho thuỷ sản tâp trung phân bổ như sau:
Đầu tư khai thác hải sản là: 2.497.122 triệu đồng chiếm 27,88%
Đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản là 2.28.057 triệu đồng chiếm 25,49%
Đầu tư cho lĩnh vực chế biển là 2.727.308 triệu đồng chiếm 30,45%
Nhờ có nguồn vốn đầu tư này mà 6 năm qua đã đem lại kết quả như sau:
Số tàu thuyền đánh bắt tăng lên 5928 chiếc, trong đó tàu có công suất lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt.
Xây dựng được 23 cảng cá, trong đó nhiều cảng cá đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng có hiệu quả cao.
Nuôi trồng thuỷ sản đã tăng thêm hàng chục nghìn ha, chuyển dịch cơ cấu về diện tích trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản đã có hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó hoạt động đầu tư của ngành vẫn tồn tại những mặt hạn chế. Đó là :
Công tác quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch thực hiện chậm nên nhiều dân đầu tư tự phát, phá đê, xây cống ngăn mặn, gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái bền vững.
Chất lượng tư vấn lập dự án và thiết kế, xây lắp chưa cao, việc thẩm định các dự án đầu tư chưa làm tốt dẫn đến báo cáo nghiên cứu khả thi chất lượng thấp, tổng dự toán nhiều, dự án cao hơn tổng đầu tư, công tác đấu thầu còn kém và thiếu kinh nghiệm.
Nhiều dự án triển khai chậm, chi phí phát sinh quá lớn và cải hoán và đóng mới tàu thuyền khai thác xa bờ còn tồn tại nhiều bất cập dẫn tới việc hiệu quả đầu tư không cao. Ngành thuỷ sản cần khắc phục nhứng hạn chế này những năm tới
1.3.2. Tình hình sản xuất nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản của Việt Nam.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê và Bộ thuỷ sản, sản lượng hải sản đánh bắt của Việt Nam không ngừng tăng qua các năm. Sản lượng đánh bắt tăng từ 928.860 tấn năm 1995 lên 1.456.000 tấn năm 2005 tức là tăng 57% so với năm 1995( tăng trung bình 5,7% / Năm) và đạt gần 1,5 triệu tấn năm 2006.
Sản lượng nuôi trồng tăng từ 415.280 tấn năm 1995 lên 1.504.000 tấn năm 2005, tăng 262% so với năm 1995( tăng trung bình 26,2% / năm) và đạt 1.721.000 tân năm 2006, tăng 314% so với năm 1995( tăng trung bình 28,5%). Có được lượng tăng lớn này vì nước ta đã thực hiện chuyển một phần diện tích đất trồng lúa và làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Năm 1998 cả nước mới chỉ có 623.320 ha nuôi trồng thuỷ sản thì đến năm 2001 lên tới 1.091 ha tăng 74,2% so với năm 1998.
Như vậy tổng sản lượng thuỷ sản cả nước tăng từ 1,34 triệu tấn năm 1995 lên 2, 96 triệu tấn năm 2005, tăng 121%( tăng trung bình 12,1% / năm) và đạt 3,12 triệu tấn năm 2006( tăng 133% so với năm 1995, bình quân tăng 13,3% / năm). Xu hướng tăng sản lượng thuỷ sản Việt Nam thời gian qua là phù hợp với xu hướng tăng chung của khu vực và thế giới. Có thể thấy mức tăng sản lượng thuỷ sản bình quân hàng năm của Việt Nam đạt trên 10% / năm trong thời gian qua là một tỷ lệ đá._.n thuỷ sản của họ. Hồng Kông có nền công nghiệp chế biến thuỷ sản khá phát triển, có sự đầu tư áp dụng những thành tựu khoa học tiên tiến vào ngành này. Vì vậy, họ có nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản dưới dạng nguyên liệu, sơ chế để tái chế, tái xuất. Nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu này cũng để đảm bảo sử dụng hết công suất chế biến của các nhà máy chế biến bởi trữ lượng khai thác có hạn. Hơn nữa các sản phẩm thuỷ sản có nguồn gốc từ Hồng Kông rất có uy tín trên thị trường và được người tiêu dùng ưa chuộng.
Thêm vào đó thị trường này cũng gần Việt Nam nên chi phí vận chuyển bốc dỡ đỡ tốn kém và các điều kiện thuế quan và phi thuế quan cũng dễ dàng đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu.
+ Thị trường Mỹ và EU
Đây là hai thị trường mới mà Công ty đang hướng tới. Tuy chỉ chiếm dưới 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty nhưng đây cũng là hai thị trường mà Công ty đang hướng tới tăng tỷ trọng trong những năm tới.
+ Các thị trường tiềm năng khác.
Ngoài những thị trường quan trọng trên, công ty con xuất sang một số thị trường khác như Singapor, Trung Quốc, đây có thể nói là những thị trường tiềm năng mà ngành thuỷ sản của Việt nam nói chung và của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội nói riêng cần có những biện pháp, những chính sách cụ thể nhằm phát huy cao nhất nguồn lực của mình để đạt kết quả cao trong kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản ở những thị trường đầy tiềm năng này.
Việc Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ choc thương mại thế giới WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm thuỷ sản của Công ty tiếp cận với thị trường thế giới mạnh mẽ và thuận lợi hơn trước rất nhiều. Nhưng bên cạnh đó là những khó khăn không dễ gì giải quyết, đó là tình hình cạnh tranh trên thị trường này vô cùng lớn và phức tạp, điều này được thể hiện rõ nét qua vụ kiện cá tra và cá basa của Mỹ đối với sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, vụ kiện bán phá giá tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ,các vụ kiện về hàng thuỷ sản Việt nam có chứa dư lượng chất kháng sinh vượt quá quy định.... Điều này gây khó khăn lớn đối với Công ty khi thâm nhập vào những thị trường mới.
Vì vậy Công ty cần phải có kế hoạch vừa đảm bảo giữ được thị phần ở những thị trường truyền thống, lại vừa nâng cao sản lượng xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường tiềm năng trong môi trường cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác có công nghệ chế biến cao và có nhiều lợi thế hơn.
3.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu thuỷ sản của công ty
Qua hơn 20 năm hoạt động, Công ty đã thể hiện một sự cố gắng nỗ lực không ngừng để duy trì và phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế mở lại mới thoát khỏi khủng hoảng, lạm phát không ít những doanh nghiệp lớn nhỏ gặp phải những khó khăn lúng túng, sản xuất kinh doanh thua lỗ hoặc kém hiệu quả, thậm chí dẫn đến phá sản thì Công ty SEAPRODEX Hà Nội vẫn đứng vững và phát triển. Đây là thành quả vô cùng quý giá, là phần thưởng vô cùng cao quý cho sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên SEAPRODEX Hà Nội. Nắm bắt xu thế thời cuộc là phải vươn ra ngoài, phải chiếm lĩnh thị trường thì mới có khả năng phát triển, Công ty đã từng bước khẳng định vị trí của mình với các nhà cung cấp trong nước và các bạn hàng nước ngoài. Trong công tác thị trường, hiện nay các sản phảm của công ty đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới.
3.3.1. Những mặt đã đạt được
Công ty đã và đang thực hiện thành công chủ trương đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các bạn hàng nước ngoài. Ngay tại các thị trường truyền thống như Nhật Bản, công ty đã duy trì và ngày càng củng cố thị phần thị trường của mình bằng các biện pháp thích hợp như cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn hoá sản phẩm...., tăng cường các mặt hàng mới, giá trị gia tăng đóng gói nhỏ để thâm nhập vào các siêu thị nên đã thu hút được sự chú ý của khách hàng.
Bên cạnh đó, để có khả năng thâm nhập vào các thị trường khó tính, đòi hỏi rất cao về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, SEAPRODEX Việt Nam trong đó có SEAPRODEX Hà Nội, với chính sách tăng cường chất lượng để có lợi thế cạnh tranh đã kiên trì đường lối không ngừng củng cố, nâng cao uy tín và truyền thống chất lượng của mình. SEAPRODEX là một doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam đã đăng ký nhãn hiệu tại Tổ Chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế Giới ở Geneve. Sau nhiều năm không ngừng đổi mới công nghệ, cùng với SEAPRODEX Việt Nam, SEAPRODEX Hà Nội đã được nhiều giải thưởng quốc tế về uy tín và truyền thống chất lượng. Hiện tại, công ty đang nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý chất lượng theo HACCP. Đây là một bước đi đón đầu xu thế đổi mới về hệ thống an toàn chất lượng của thế giới.
Chính sách phân phối của công ty trong thời gian qua đã có đóng góp lớn vào công tác thâm nhập và mở rộng thị trường của công ty. Vì không phải qua bất kỳ một tổ chức trung gian nào mà trực tiếp tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng với các khách hàng nước ngoài nên so với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản khác, công ty giảm bớt được chi phí trung gian, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, do trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên công ty thu thập được các thông tin cần thiết về chủng loại, giá cả sản phẩm, mẫu mã hàng hoá từ đó có các biện pháp khắc phục để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng
Chúng ta có thể thấy rằng hoạt động thâm nhập và mở rộng thị trường của công ty SEAPRODEX Hà Nội trong những năm qua đạt được không ít thành công do những nỗ lực của bản thân công ty có thể kể đến như
Được tiếp cận trực tiếp với thị trường, đặc biệt là đối với thị trường nước ngoài, SEAPRODEX Hà Nội đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thương mại quốc tế, tạo được lòng tin và uy tín đối với khách hàng, đặc biệt công ty thường xuyên tìm hiểu về thị hiếu nhu cầu của từng thị trường để sớm phát hiện những thiếu sót, kịp thời khắc phục và có các biện pháp thoả mãn nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất.
Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến thành công của SEAPRODEX Hà Nội là yếu tố con người. SEAPRODEX Hà Nội có một đội ngũ cán bộ công nhân viên tận tuỵ với công việc, năng động, sáng tạop, luôn chú trọng đến hiệu quả.
3.3.2. Những mặt chưa đạt được
Bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng còn rất nhiều hạn chế công ty cần khắc phục để có thể thâm nhập và mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty. Đó là:
Hiện tại chất lượng thuỷ sản xuất khẩu của công ty cũng như của Việt Nam nhìn chung còn thấp. Nguyên nhân là do ngư dân thiếu các phương tiện đánh bắt xa bờ. Mặt khác ở khâu chế biến, bảo quản, kỹ thuật bảo quản còn thấp nên sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài chủ yếu dưới dạng sơ chế. Điều này làm giảm giá trị thuỷ sản xuất khẩu rất nhiều. Những người mua nước ngoài có điều kiện ép giá bất lợi cho công ty. Công ty cần nhanh chóng nghiên cứu và đưa vào áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng thuỷ sản xuất khẩu để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Với việc vận hành kênh phân phối xuất khẩu hiện hành, công ty SEAPRODEX Hà Nội chỉ đóng vai trò là một hãng buôn xuất khẩu đứng trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Kiểu phân phối này tuy có ưu điểm là hạn chế được các trung gian môi giới, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty nhưng nó cũng có một nhược điểm lớn là làm cho công ty rơi vào thế bị động, phụ thuộc vào các xí nghiệp chế biến. Công ty chỉ có thể hoạt động nếu các đơn vị này cung cấp hàng cho công ty. Hiện tại các xí nghiệp này chưa có khả năng xuất khẩu trực tiếp nên công ty vẫn giữ vai trò quan trọng trong kênh phân phối. Tuy nhiên trong tương lai nếu các xí nghiệp này lớn mạnh và có khả năng xuất khẩu trực tiếp thì sẽ là một khó khăn lớn đối với công ty.
Hiện tại, hoạt động khuyếch trương quảng cáo, Marketing của công ty được thực hiện chưa có hiệu quả. Công tác tiếp thị mới được tiến hành ở mức độ thấp, công ty chủ động tạo ra mặt hàng mới để chào hàng với khách hàng nước ngoài, số mặt hàng được coi là mới, có giá trị gia tăng chủ yếu lại do khách hàng đưa ra.
Do khả năng tài chính của công ty SEAPRODEX Hà Nội có hạn (khi xét trên thị trường quốc tế) nên SEAPRODEX Hà Nội chỉ có thể điều khiển được kênh phân phối trong nước. Một khi sản phẩm đã xuất cho người mua nước ngoài thì công ty không còn khả năng kiểm soát và điều chỉnh nữa. Vì thế, công ty chỉ có thể tiếp xúc với khách hàng nước ngoài chứ không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng nước ngoài nên hình ảnh về sản phẩm cũng như của công ty trên thị trường quốc tế còn rất mờ nhạt.
Mặc dù công ty SEAPRODEX Hà Nội đã rất cố gắng điều chỉnh cơ cấu thị trường theo hướng phát triển sang Châu Âu, Bắc Mỹ nhưng đến nay thị trường Nhật Bản vẫn là chủ yếu chiếm 30-40% tổng giá trị xuất khẩu của công ty, thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ chỉ dưới 10%.
Trong công tác thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế tuy đã rất tích cực và chủ động nhưng công ty vẫn còn đang bị lúng túng, bị động đối phó với tình trạng thị trường ngày càng thu hẹp, chưa có chiến lược phát triển thị trường một cách vững chắc.
Nguyên nhân:
Hiện tại, mặc dù đã rất cố gắng trong công tác thu thập thông tin thị trường nhưng công ty vẫn rất thiếu thông tin về thị trường, giá cả, thị hiếu khách hàng. Các thông tin thu lượm được thường phân tán, độ tin cậy thấp, không kịp thời, không góp phần thiết thực cho công tác hoạch định chính sách, xác định giá cả, triển khai mặt hàng.
Trình độ cán bộ chuyên môn chưa thật đồng đều, đặc biệt còn rất yếu về ngoại ngữ. Cán bộ trẻ làm công tác xuất khẩu còn ít được tôi luyện trong môi tường kinh doanh, ít được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên, một cách chính quy. Cán bộ nghiệp vụ thật giỏi chưa nhiều.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Ngành thủy sản đã đặt ra mục tiêu xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 như sau:
Không ngừng tăng phần đóng góp ngành thủy sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế, giải quyết nhiều công ăn việc làm nâng cao thu nhập, mức sống của các cộng đồng dân cư. Tăng mức cung cấp sản phẩm thủy sản cho các thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân có thể tiếp cận và tiêu dùng sản phẩm thủy sản dễ dàng. Phát huy lợi thế so sánh của ngành, ngành thủy sản cần tập trung:
- Cần chế biến xuất khẩu với sản xuất nguyên liệu, tạo cơ sở vững chắc cho hàng hóa quy mô lớn, giảm giá thành nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Giữ vững và phát triển thị trường tại các khu vực chính trên thế giới, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 4 tỷ USD vào năm 2010, hướng tới đạt 5 tỷ vào năm 2020.
- Phát huy lợi thế kinh tế biển bằng cách khai thác hợp lý nguồn tài nguyên, phấn đấu đưa tỷ trọng ngành thủy sản trong GDP lên 2,5-3% và bảo đảm tốc độ tăng sản lượng bình quân của ngành 4,5-5% năm.
- Không tăng sản lượng khai thác nhiều trong giai đoạn 2005-2010 giữ mức tăng từ 1,2-1,4 triệu tấn. Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản từ 10-13%/năm.
- Số lao động trực tiếp và phục vụ nghề cá tăng trung bình 2,65%/năm, đạt chỉ tiêu 3,9 triệu lao động vào năm 2005 và 4,4 triệu lao động vào năm 2010. Trong đó lao động nuôi trồng thủy sản và lao động chế biến thủy sản tăng gấp 2 lần.
Phương hướng trong những năm tới
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thủy sản
Kim ngạch xuất khẩu sẽ dự kiến tăng 2,4 triệu tấn lên 2,55 triệu tấn (trong đó khai thác đánh bắt khoảng 1,4 triệu tấn, nuôi trồng 1,15 triệu tấn)
- Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng xuất khẩu mạnh vào các thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU và các thị trường mới như Bắc Mỹ, Trung Quốc nhưng thời gian tới ta tập trung vào Nhật Bản, Bắc Mỹ và EU. Bởi vì Việt Nam đã được EU đưa vào danh sách các nước được xuất khẩu thủy sản và nhuyễn thể vào EU.
- Phát triển thêm nhiều mặt hàng thủy sản mới cho xuất khẩu, chú trọng đến hàng thủy sản chế biến chất lượng cao.
Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu trong thời gian tới của Việt Nam sẽ có xu hướng phù hợp tương đối với cơ cấu thủy sản của thế giới. Tăng hơn nữa thủy sản xuất khẩu đồ hộp và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng thủy sản cao cấp ở dạng sống cũng hứa hẹn nhiều tiềm năng.
- Phấn đấu tăng giá xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh.
Việt Nam có thể cải thiện giá xuất khẩu thủy sản từ mức thấp hiện nay và nâng mức giá trung bình xuất khẩu hàng thủy sản lên ít ra cũng bằng 75%-85% mức giá xuất khẩu cùng loại sản phẩm của các nước trong khu vực nhưng bảo đảm sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh chiến lược giá cần đi liền với giải pháp khác nhau về sản xuất, chế biến và có quan hệ mật thiết với dạng sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị trường nhập khẩu.
2. Các giải pháp:
2.1. Các giải phápđối với doanh nghiệp nói chung.
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá thuỷ sản bao gồm cả nuôi trồng thuỷ sản, khai thác đánh bắt thuỷ sản và chế biến thuỷ sản. Đây là biện pháp rất cơ bản để thúc đẩy phát triển thị trường sản phẩm thuỷ sản. Song muốn đẩy nhanh quá trình sản xuất hàng hoá thuỷ sản thì cần phải quy hạch phát triển ngành thuỷ sản theo hướng sản xuất tập trung, chuyên môn hoá phù hợp với từng vùng, từng địa phương trong cả nước, nhằm khai thác tốt nhất diện tích đất đai, mặt nước, lao động và khoa học công nghệ. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất và chế biến thuỷ sản theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra được khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá với cơ cấu phong thú về chủng loại sản phẩm sản xuất và chế biến đáp ưng nhu câu của thị trường.
- Trong chiến lược hướng về xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển các nhóm sản phẩm chủ lực, trong đó chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng tiềm năng để có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm đạt các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường thế giới, hợp khẩu vị của người dân. Khi lựa chọn công nghệ chế biến, các doanh nghiệp cần chú ý thị trường thế giới đang có nhu cầu các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn về sinh thực phẩm cao. Trong thời gian tới cần gắn khâu chế biến với việc nâng cao chất lượng nguyên liệu hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp một lượng thủy sản nguyên liệu lớn với chất lượng ổn định. Trong khâu bảo quản sau thu hoạch, cần chú ý đến kỹ thuật bảo quản để hạn chế tỷ lệ phế phẩm, kiểm soát các yếu tố độc hại, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong khâu chế biến. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ các quy định, yêu cầu của luật kiểm dịch (quaran-tine law) và luật vệ sinh thực phẩm (food santitation law) của các nước.Ngoài ra,các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam lại nắm rất vững quy luật chặt chẽ quyền lợi của người tiêu dùng. Do sơ suất nhiều nhà sản xuất đã phải trả giá đắt cho các vụ kiện cáo của người tiêu dùng. Vì vậy các nhà xuất khẩu thành công trên thị trường thế giới khẳng định rằng mua bảo hiểm về thương mại đối với hàng hóa tại các công ty bảo hiểm về thương mại đối với hàng hóa tại các công ty bảo hiểm có tiếng là biện pháp tốt nhất. Để tiếp cận tốt hơn với thị trường thế giới về lâu dài, các doanh nghiệp có thể thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại các nước để thâm nhập thị trường tốt hơn. Bên cạnh đó nên cộng tác với văn phòng tư vấn hoặc luật sư tại nước sở tại để có những thông tin về những thay đổi thủ tục hải quan một trong những thủ tục phức tạp nhất, thậm chí cả về xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Nghiên cứu thuế nhập khẩu đối với hàng thủy sản phải được quan tâm thường xuyên phải xem xét chi tiết cụ thể từng mặt hàng. Thuế suất có thể thay đổi từng năm, thuế suất được giảm nhiều khi hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị gia tăng lớn.
- Một số lưu ý nữa là hàng thủy sản nhập khẩu vào thị trường thế giới phải dán nhãn, cung cấp các thông tin tối thiểu là: tên sản phẩm, hạn dùng, tên và địa chỉ của công ty nhập khẩu, các phụ gia đã sử dụng, phương pháp bảo quản, phải ghi rõ sản phẩm đã nấu chín hay còn sống.
- Một trong những kênh phân phối hiệu quả là thông qua thị trường bán lẻ và những thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến để họ phân phối đến các cửa hàng lớn. Cửa hàng bán lẻ và các cơ sở phục vụ ăn uống hoặc phân phối trực tiếp đến các công ty chế biến thực phẩm. Các doanh nghiệp có thể liên kết với một công ty nào đó của nước sở tại, có thể là một công ty liên doanh, công ty chế biến hay nhà phân phối thuộc hiệp hội nhập khẩu của nước đó. Để thực hiện công đoạn này, các doanh nghiệp cũng cần tận dụng các triển lãm, các hội nghị để xây dựng các mối làm ăn, trao đổi kinh nghiệm thâm nhập thị trường. Trong đó cần phải biết cụ thể những bộ phận trong hệ thống phân phối thủy sản. Đặc biệt là vai trò của từng bộ phận, mạng lưới nhà hàng.
- Mặt khác, cần nắm thông tin về đối thủ cạnh tranh. Hàng thủy sản của Việt Nam xuất sang các nước đang chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ, các đối thủ có nhiều điều kiện tương đồng về điện kiện sản xuất. Nắm vững thông tin về đối thủ không chỉ dừng ở việc xem xét các mặt hàng xuất khẩu mà xem xét cách thức họ đưa hàng vòa như thế nào. Đồng thời đã đến lúc các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần tính đến khả năng giới thiệu sản phẩm trên mạng và tiếp cận với thương mại điện tử, ngoài ra nắm thông tin về hàng thủy sản từ nước Nhật thông qua Internet.
- Nâng cao nguyên liệu chế biến: Một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản đó chính là chất lượng nguyên liệu chế biến. Hiện nay, chất lượng nguyên liệu chế biến chưa cao do công tác bảo quản sau thu hoạch còn kém, công nghệ chế biến nguyên liệu chưa đạt yêu cầu. Do vậy chất lượng nguyên liệu chưa cao vạ tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản.
Hiện nay nhóm hàng đông lạnh sơ chế chiếm trên 70% giá trị xuất khẩu. Mặt hàng có giá trị và hiệu quả thấp các nước thường mua để tái chế ra những thành phẩm có giá trị và hiệu quả cao hơn nhiều. Do đó từ nay đến năm 2010 tỷ trọng giá trị xuất khẩu khối các mặt hàng đông lạnh giảm xuống dưới 60%, các mặt hàng có giá trị gia tăng lên trên 30%, đồng thời phảI mở rộng, đa dạng hoá các mặt hàng, gắn liền với chế biến kinh doanh các mặt hang tiêu thụ trong nước.
Để đảm bảo kết quả trên thì trước hết phải nâng cao được nguyên liệu chế biến. Phải có biện pháp bảo quản, thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm đảm bảo vệ sinh và an toàn chất lượng trong quá trình vận chuyển, giam thất thu sau thu hoạch.
Chất lượng mà cụ thể là hương vị của sản phẩm như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguyên liệu đầu vào. Hiện nay nguồn nguyên liệu cho thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu từ khai thác ngoài khơi và một phần từ nuôi trồng. Hơn nữa ta lại có khí hậu nóng ẩm nên nguyên liệu dễ bị hư hang. Vì vậy, đầu tư vào công nghệ bảo quản sau thu hoạch là cực kỳ quan trọng. Nếu chỉ chú trọng đầu tư vào công nghệ chế biến mà quên đi đặc điểm của ngành thuỷ sản Việt Nam thì sẽ làm giảm đáng kể chất lượng thuỷ sản. Bảo quản sau thu hoạch không chỉ đảm bảo chất lượng cho hàng thuỷ sản xuất khẩu mà còn tiết kiệm dược chi phí do tận dụng được tối đa nguyên liệu đầu vào.
- Xây dung, phát triển và bảo vệ thương hiệu thuỷ sản: trong vài năm gần đây, vấn đề thương hiệu đã được nhắc khá nhiều ở nước ta và được xem như là vấn đề cần thiết của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với khách hàng, một thương hiệu uy tín luôn mang lại niềm tin và sự lựa chọn của khách hàng. Do vậy, vấn đề xây dung và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp là một biện pháp cần thiết để các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu sản phẩm.
Cần nâng cao nhận thức trong doanh nghiệp về sự cần thiết và tác dụng của việc thành lập thương hiệu. Việc nhận thức về thương hiệu phải được phản ánh đầy đủ trong mọi khâu, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc lựa chọn nguyên liệu, xử lý nguyên liệu, đến khâu sản xuất, bao gói, đưa sản phẩm đến ngươi tiêu ding và các sản phẩm hậu mãi.
Các doanh nghiệp cần dành chi phí thích hợp cho việc xây dung và phát triiển thương hiệu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tạo dung được thương hiệu phả đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển sản phẩm,…nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng với mức giá hợp lý, đồng thời các doanh nghiệp phải đầu tư cho hoạt động quảng cáo sản phẩm, tiếp thị sản phẩm đến người tiêu ding. Viêc xây dung và phát triển thương hiệu là một vấn đề mà Việt Nam cần chú trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mình.
Hoạt đọng xây dung và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp là một hoạt động mang tinh đồng bộ, lâu dài và tốn kém. Do đó, đẻ thưc hiện một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải xem xét hoạt động này như là một bộ phận quan trọng, thậm chí cần phải xây dựng thành một chiến lược phát triển thương hiệu trong chiến lược Mảketing.
Tạo dung thương hiệu cho doanh nghiệp đã khó, nhưng bảo vệ giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách lâu dài còn khó khăn hơn nhiều. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần đề cao chữ “tín” trong kinh doanh trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng.
- Tăng cường năng cường năng lực công nghệ chế biến: trong tình hình canh tranh ngày càng gay gắt, yêu cầu về chất lượng ngày càng được chú trọng, các đối thủ cạnh tranh luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Trên thị trương thế giới hiện nay yêu cầu về chất lương đươc đặt lên hàng đầu. Vậy làm thế nào để đáp ứng yêu cầu khắt khe trong điều kiện trình độ công nghệ kém phát triển? Tăng cường năng lực công nghệ chế biến chính là biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới.
Hiện nay chất lượng sản phẩm thuỷ sản luôn là vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Đầu tư vào công nghệ chế biến là một vấn đề chiến lược nhằm nâng cao giá trị hàng thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2.2. Một số kiến nghị đối với nhà nước.
1.2 Đẩy mạnh hoạt động xóc tiến hàng thuỷ sản Việt Nam.
Đẩy mạnh công tác thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại, đáp ứng thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp. Ngoài những nỗ lực của bản thân doanh nghiệp trong việc duy trì, mở rộng thị trường, Nhà nước cần có chính sách cụ thể cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các thị trường mới.
Nhà nước nên cho phép Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam được mở văn phòng đại diện tại các nước để tăng cường công tác tiếp thị cho sản phẩm thuỷ sản nước ta. Đồng thời, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam với tư cách là người đại diện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cũng cần cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp và giúp đỡ giải quyết những vấn đề phát sinh trong các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. Ngoài ra, Hiệp hội cần tiến hành nghiên cứu thị trường thuỷ sản thế giơi, nghiên cứu và đề xuất việc tham gia các hội chợ, tổ chức các chiến dịch quảng cáo hàng thuỷ sản Việt Nam ở các nước. Phối hợp với các nhà nhập khẩu và phân phối ở thị trường tiềm năng để quảng cáo khuếch trương hàng thuỷ sản Việt Nam hay trợ giúp và đào tạo kỹ thuật cho cán bộ thị trường của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu.
1.3. T ích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Việt Nam đã gia nhập Hiệp hôi nghề cá các nước Đông Nam Á, APEC đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hội nhập với khu vực và thế giới, mở ra nhiều khả năng to lớn cho Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của các nước có ngành thuỷ sản phát triển, hạn chế được những tranh chấp có thể xẩy ra giữa các nước trong vùng.
Việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức thế giới như AFTA, APEC, WTO,... chắc chắn sẽ mở ra nhiều cơ hội mới để Việt Nam tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật để phát huy tốt nhất nội lực của đất nước, mở ra thị trường rộng lớn hơn cho hàng thuỷ sản nước, từ đó mà nâng cao kim ngạch xuất khẩu cũng như hiệu quả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
1.5. Chỉ đạo đẩy nhanh quá trình cổ phần, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Sức ì của các doanh nghiệp quốc doanh đã làm chậm đáng kể bước tiến của ngành thuỷ sản xuất khẩu khi mà có đến 80% doanh nghiệp chế biến thuỷ sản là doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp này thường thụ động, quản lý kém, kìm hãm sự cạnh tranh. Ngược lại hẳn là khối doanh nghiệp tư nhân, họ hết sức linh hoạt, năng động và có khả năng cao trong xuất khẩu thuỷ sản. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng động trong đa dạng hoá sản phẩm và tìm kiếm thị trường, Nhà nước cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trong ngành thuỷ sản. Tiếp tục hoàn thành cổ phần hoá các doanh nghiệp thuỷ sản thuộc Bộ và tổ chức 3 Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - con. Tập hợp và phối hợp với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản ở các tỉnh, thành phố để nghiên cứu thử nghiệm mô hình tổ chức tập đoàn các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Đồng thời, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, đầu tư vào sản xuất thuỷ sản, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo nhiều việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống các ngư dân. Phát huy mô hình quản lý cộng đồng gắn với việc nâng cao vai trò của các tổ chức Hội, Hiệp hội, hợp tác xã trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, kinh doanh thuỷ sản.
1.6. Đẩy mạnh cải cách hành chính.
Thủ tục hành chính luôn là yếu tố cản trở sự phát triển chung của ngành. Trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều cải cách đáng kể trong thủ tục hành chính. Tuy nhiên, để thực sự có bước đột phá trong thời gian tới, cải cách hành chính cần tạo ra được chuyển biến thực sự trong chỉ đạo điều hành của Bộ, trong quản lý Nhà nước về thuỷ sản từ Trung ương đến địa phương với 5 ưu tiên sau đây:
Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, năng lực kiểm tra thực thi chính sách và luật pháp.
Chuyển biến rõ rệt trong quản lý Ngành theo quy hoạch, theo tính thống nhất các khâu sản xuất với điều kiện sản xuất hàng hoá trình độ cao.
Cải tiến thủ tục hành chính theo hướng minh bạch, giản tiện và nhanh gọn.
Từ Bộ đến cơ quan quản lý Nhà nước về thuỷ sản ở địa phương, quan hệ giữa chức năng và nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cán bộ phải có chuyển biến rõ rệt. Có việc thì phải có người làm, có bộ máy đảm nhận. Trách nhiệm phải có địa chỉ, không đùn đẩy, chồng chéo theo tinh thần phân cấp mạnh cho địa phương.
Lồng ghép các chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với kế hoạch thực hiện cải cách hành chính của Ngành.
PHẦN KẾT LUẬN
Thủy sản là một ngành có nhiều ưu thế phát triển, hiện nay nhu cầu thủy sản trên thế giới tiếp tục gia tăng dưới ảnh hưởng của hai nhân tố: Một là, sự gia tăng dân số trên thế giới; hai là, thủy sản có khả năng thay thế khá hoàn hảo các loại gia cầm. Xu hướng hai đã trở thành xu hướng chung của thế giới từ những thập niên cuối thế kỷ 20, đặc biệt là tại Châu Âu như Anh, Bỉ, Pháp.. . Ngày nay xu hướng này càng được củng cố vững chắc hơn do mức an toàn vệ sinh thực phẩm của thủy sản cao hơn các loại thực phẩm khác ( 50% thủy sản đánh bắt từ môi trường tự nhiên), trong khi đó dịch bệnh gia súc gia cầm có chiều hướng gia tăng như dịch bò điên, long mong lở mồm, dịch cúm gà… Doanh nghiệp ưu điểm của các loại thực phẩm này, nhu cầu tiêu thụ thủy sản trên thị trường thế giới đã tăng mạnh và tạo lên làn sóng chuyển từ tiêu dùng thịt gia cầm sang tiêu dùng thuỷ sản. Vì vậy thủy sản đang trở thành ngành đóng vai trò quan trọng và góp phần lớn vào thu nhập của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Là một nước đi sau Việt Nam đã và đang tận dụng những cơ hội “Đi tắt đón đầu” để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Việt Nam có khả năng đầu tư công nghệ tiên tiến, đặc biệt là trong khai thác xa bờ, công nghiệp sinh học phục nuôi trồng thủy sản, nhầt là nuôi cá biển và nuôi giáp xác, công nghệ chế biến xuất khẩu …. Cùng với cơ hội tiếp cận công nghệ mới, Việt Nam cũng rút ra được các bài học kinh nghiệm quản lý từ những nước thành công và thất bại trong chế biếnvà xuất khẩu hàng thủy sản, cũng như tiếp cận các phương thức quản lý kinh doanh hiện đại trên thế giới. Ngành thủy sản hiện nay ở Việt Nam đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, nhưng lại gặp phải nhiều khó khăn về rào cản kỹ thuật của một số thị trường như Mỹ, Nhật Bản và EU với các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, mẫu mã, tiêu chuẩn chất lượng môi trường. Tuy vậy em tin rằng với sự cố gắng vươn lên cùng với những chính sách hỗ trợ của nhà nước thì ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ phát triển hơn nữa và sẽ dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới.
Trên đây là bài viết của em về những giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, em đã cố gắng hoàn thành tốt bài viết này song do kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót mong các thầy cô góp ý để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Vũ Đình Thắng tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài viết này .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế thuỷ sản(ĐHKTQD)
PGS.TS. Vũ Đình Thắng
GVC.KS. Nguyễn Viết Trung
2. Thị trường xuất khẩu thủy sản :
PGS.TS Nguyễn Văn Nam
3. Thủy sản Việt Nam phát triển và hội nhập
NXB Chính trị quốc gia
4. Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản 2001
( Tổng cục thống kê )
5.Thương mại quốc tế (ĐHKTQD)
PGS.TS : Nguyễn Duy Bột
6. Nông nghiệp nông thôn Việt Nam và chương trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản
7. Tạp chí kinh tế phát triển
8. Tạp chí nông nghiệpvà phát triển nông thôn
9. Tạp chí thuỷ sản
10. Thông tin thương mại thuỷ sản
11. Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ thuỷ sản
12. Báo cáo tổng kết hàng năm của Viện chính sách và chiến lược PTNN & NT
13. Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty XNK thuỷ sản Hà Nội
14. Trang web của Bộ thuỷ sản
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32095.doc