Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay

Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay Lời nói đầu Sau tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Nhà nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ đó đến nay qua hơn 10 năm đổi mới. Việt nam đã thu được những thành tựu kinh tế to lớn, thể hiện qua một loại các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: Tăng trưởng GDP liên tục (tỷ lệ trung bình hàng năm khoảng 7%); lạm phát giảm

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(từ hai con số còn một con số); giảm thâm hụt ngân sách; tăng tiết kiệm trong nước, dự trữ ngoại tệ. Đặc biệt XNK tăng gấp 3 lần nhịp độ tăng trưởng GDP, đạt 180 USD đầu người, vượt qua ngưỡng cửa của nước kém phát triển về ngoại thương. Vậy điều gì đã tạo nên một sự phát triển mạnh vững chắc như vậy. Một trong những nguyên nhân góp phần vào kết quả đáng tự hào đó phải kể đến chính sách quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. Chúng ta đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện chế độ tỷ giá - luôn tạo nên một sự thích ứng cần thiết với "nhịp đập" phát triển của đất nước. Cũng như các biến số kinh tế vĩ mô khác, tỷ giá luôn là một vấn đề khó và nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào trong tỷ giá nếu không đem lại những tác động tích cực sẽ đi ngược laị những điều mà những nhà hoạch định mong muốn. Bởi vậy, chúng ta rất khó có thể tiếp cận nó từ một góc nhìn cụ thể nào. Trong nội dung của bài viết này, chắc chắn một sự tiếp xúc lần đầu sẽ không thể tránh khỏi những điều còn bỡ ngỡ, nhưng chúng em - những sinh viên nghiên cứu, hay nói đúng hơn, là tìm hiểu về vấn đề này sẽ cố gắng đưa ra một cái nhìn tổng quát, xuất phát từ những góc độ khác nhau đến tỷ giá. Mục đích không phải đổ vạch rõ bản chất, ý nghĩa, nội dung kinh tế của tỷ giá, cũng không phải để chứng minh vai trò "quan trọng" của tỷ giá, mà xuất phát từ tổng hoà những mối quan hệ tác động phức tạp của tỷ giá với toàn bộ nền kinh tế quốc dân về những yếu tố khách quan bên ngoài, với vai trò như là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, từ đó có được một cái nhìn khách quan sinh động hơn về tỷ giá. Điều này là vô cùng cần thiết trong tiến trình nhận thức, đánh giá những gì chúng ta đã làm, thận trọng cân nhắc những gì chúng ta đang làm và sẽ làm trong điều chỉnh chính sách tỷ giá, tạo dựng một cơ chế tác động của việc thay đổi tỷ giá, định hướng cho những mục tiêu phát triển và ổn định tỷ giá, định hướng cho những mục tiêu phát triển và ổn định kinh tế của đất nước. Chương I. Tỷ giá hối đoái I. Tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối. Tỷ giá hối đoái: là quan hệ tỷ lệ về giá trị giữa đồng tiền nước này với nước khác. Hay nói khác đi tỷ giá là giá cả của một đơn vị của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của một nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua đơn vị ngoại tệ. Riêng ở Mỹ và Anh thuật ngữ này được sử dụng theo nghĩa ngược lại. Số lượng đơn vị ngoại tệ (nước ngoài) cần thiết để mua một đồng đôla hoặc một đồng bảng. ở Việt Nam, tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam được công bố theo thông lệ quốc tế số đơn vị đồng Việt Nam (VND) cần thiết để mua một đơn vị tiền nước ngoài chẳng hạn 15.468 đ/USD. Các tỷ giá hối đoái chủ yếu được xác nhận thông qua các lực lượng thị trường của cung và cầu tiền. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về tiền trên các thị trường ngoại hối hoặc làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm cho giá trị quốc tế (tỷ giá hối đoái) của nó tăng lên và ngược lại. Như vậy, những giao động của tỷ giá hối đoái là do sự dịch chuyển của các đường cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Và như một phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế trong nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển các đường cung và cầu trên thị trường ngoại hối, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu là: + Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một nước tăng thì đường cung vẽ trên của nước ấy sẽ dịch chuyển sang phía phải và ngược lại. Nếu xuất khẩu của nước đó tăng thì đường cầu về tiền của nước đó sẽ dịch chuyển sang phải và ngược lại. + Tỷ lệ lạm phát tương đối: Nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác thì nước đó sẽ cần nhiều tiền hơn để mua lượng tiền nhất định của nước kia. Điều này làm cho đường cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống. + Sự vận động của vốn: Khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn mua các tài sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền các nước đó dịch sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái của nó. Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá hối đoái ở các nước phát triển cao (đặc biệt là Mĩ). e (USD)/VNĐ D s Q Q0 + Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển các đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ đôla giá trị tiền tệ mỗi ngày. II. Vai trò của tỷ giá hối đoái và mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thanh toán. Chịu ảnh hưởng bởi những nguyên nhân trên, tỷ giá hối đoái lại tác động ngược trở lại một loạt các cân bằng trong nước, mà trực tiếp là cán cân thương mại và cán cân thanh toán: - Cán cân thương mại (hay xuất khẩu ròng) được xác định theo công thức : NX = X - IM. Ta thấy cán cân thương mại thặng dư khi xuất lớn hơn nhập (X>IM) và thâm hụt khi nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu (IM >X). Tỷ giá hối đoái là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu ròng (NX). Thật vậy, tỷ giá hối đoái tác động đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Một khi giá cả sản phẩm nội địa rẻ tương đối, so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế thì khả năng cạnh tranh tăng lên, xuất khẩu có xu hướng tăng lên và đồng nghĩa nhập khẩu sẽ giảm xuống.Vây khi xuất khẩu ròng (NX) tăng, tổng cầu sẽ tăng lên và sản lượng cân bằng cũng tăng lên, và ngược lại. Như vậy, sự thay đổi tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượng, việc làm và giá cả. Mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán. ở đây có mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái của đồng tiền nội địa do đó tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân thương mại là cân bằng thì cán cân thanh toán sẽ kết dư (thặng dư). Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước giảm, cán cân thanh toán sẽ thâm hụt. Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến số quan trọng tác động đến sự cân bằng của các cán cân thương mại và các cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn duy trì chế độ tỷ giá cố định , còn phần lớn các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển nền kinh tế. Câu hỏi đặt ra ở đây là vậy thì chúng ta có những chế độ tỷ giá nào, phải chăng thế giới tồn tại những hệ thống tỷ giá khác nhau. Chúng được xây dựng trên những cơ sở nào và tính ưu việt hay hạn chế của chúng. III. Các hệ thống tiền tệ quốc tế. Thế giới đã có ba kiểu hệ thống được dùng để thiết lập các tỷ giá hối đoái đó là: Hệ thống tỷ giá cố định, hệ thống tỷ giá thả nổi (các tỷ giá thị trường linh hoạt) và hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý. a. Hệ thống tỷ giá cố định: BreHon Woods (1944 - 1971) Tháng 7/1944 tại hội nghị về tiền tệ và tài chính quốc tế tổ chức tại Bretton Woods (bang Newhampshire Mỹ), 44 nước đã thông qua Hiệp định Bretton woods thiết lập nên một hệ thống tỷ giá cố định có thể điều chỉnh, trong đó đồng đôla giữ vai trò chủ chốt (hệ thống tiền tệ Bretton Woods) và thành quĩ tiền tệ quốc tế với chức năng ban đầu là giữ gìn sự ổn định tỷ giá và đảm bảo sự hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ. Tóm lại hội nghị đã hoạch định "một hệ thống các tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Hệ thống này có các yếu tố sau: - Giá trị của đồng đôla Mỹ được cố định theo vàng (35$/1ouncc) - Tiền của các nước tham gia hệ thống cố định theo đồng đôla Mỹ. Các NHTW của những nước ngày có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái của họ bằng việc mua và bán đôla trên thị trường ngoại tệ. - Qũy tiền tệ quốc tế (IMF) đã được tạo ra để quản lý hệ thống này và làm một số chức năng của NHTW quốc tế (đảm bảo duy trì các nước tỷ giá, cho vay hỗ trợ khi dự trữ không đủ đối với NHTW các nước tham gia...) Song hệ thống này đã vấp phải một số khó khăn: - Dự trữ không tương xứng: do qui mô thương mại quốc tế tăng lên nhanh chóng gây nên những vận động tiền tồn trong những năm 50 và 60. - Các điều chỉnh tỷ giá theo xu hướng lâu dài: Các tỷ lệ tăng trưởng về xuất khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất khác nhau giữa các nước gây nên những thay đổi dài hạn về giá trị tương đối của tiền tệ. - Các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ: Khi đã rõ ràng rằng một đồng tiền được đánh giá quá cao hay quá thấp so với tỷ giá hiện tại của thì các nhà đầu cơ sẽ mua hoặc bán những lượng tiền lớn theo dự đoán của họ về sự thay đổi tỷ giá hối đoái, và áp lực ngày càng lớn đối với các ngân hàng trung ương do phải chi những lượng tiền ngoại tệ lớn nhằm duy trì tỷ giá cho tới khi nó được thay đổi. Và kết cục là ngày 15/8/1971, Mỹ đã quyết định chấm dứt việc qui đổi đôla ra vàng, tiếp đó các đợt phá giá mạnh đồng đôla Mỹ vào tháng 12/1971 và tháng 2/1973 đã dám đánh dấu sự kết thúc của hệ thống tiền tệ Bretton woods. b. Các hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi (linh hoạt): Nguyên lý của hệ thống này là: cho phép các tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn bởi các lực lượng cung và cầu của thị trường không có sự can thiệp nào vào chính phủ. Về mặt lý thuyết, các tỷ giá cần điều chỉnh một cách tự động theo những thay đổi trong lạm phát, trong cán cân thương mại và các luồng vốn và duy trì "sự ngang bằng của sức mua" sao cho có thể mua được một lượng hàng nhất định từ cùng một lượng tiền của một trong hai nước (ví dụ: nếu một chia rượu vang giá 10đôla ở Mỹ và 40 phrăng ở Pháp thì tỷ giá hối đoái sẽ là 4 phrăng một đôla. Nếu chai rượu vang giá 15đôla ở Mỹ và 45phrăng ở Pháp thì tỷ lệ hối đoái sẽ là 3 phrăng một đôla. Từ 1971 Mỹ và một số nước khác đã cho phép tiền của họ được thả nổi hoàn toàn hoặc phần lớn. Mặc dầu vậy tỉ giá hối đoái thả nổi vẫn gặp phải những khó khăn trước năm 1971 nhiều nhà kinh tế đã củng cố việc đó các tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và dự tính rằng các tỷ giá sẽ tương đối ổn định vì đầu cơ sẽ giữ chúng sát với sự ngang bằng của sức mua. Trong thực tế các tỷ giá đã chao đảo rất mạnh và đã tách rời khỏi sự ngang bằng sức mua trong những thời kỳ dài. Lý do là: Có những sự vận động về vốn do những khác biệt về lãi suất trong các nước gây ra các mục tiêu cuả chính sách trong nước đã làm cho các nước theo đuổi những chính sách tiền tệ rất khác nhau, chúng làm lãi suất thực tế khác nhau và làm cho những luồng vốn lớn chảy vảo các nước có lãi suất cao, đẩy tỷ giá hối đoái của nước này lên bất kể các điều kiện thương mại. - Đầu cơ tiền tệ quốc tế cũng dẫn tới việc tăng và giảm khá lớn các tỷ giá hối đoái và những thay đổi không liên quan đến các điều kiện thương mại. - Sự thay đổi về cơ cấu trong và giữa các nền kinh tế. Các giá trị tương đối của nhiều hàng hoá đã thay đổi cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp mới và sự suy giảm của những ngành cũ làm cho giá trị trao đổi thực tế thay đổi so với các giá trị dự kiến thông qua sự ngang bằng sức mua. c. Các hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (không thuần nhất). Một hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý là một hệ thống trong đó tỷ giá hối đoái được phép thay đổi phù hợp với các điều kiện thị trường, nhưng khi chính phủ phải can thiệp vào để ngăn ngừa không cho nó vận động ra ngoài các giới hạn nhất định. Một số nước đã chấp nhận và thực hiện một "khối tiền tệ" trong đó họ tìm cách duy trì những tỷ giá cố định với những đồng tiền của những thuộc khối, nhưng lại cho phép cả khối thay đổi cùng với các lực lượng thị trường một cách tương đối với những nước bên ngoài khối. Ví dụ điều hành nhất là hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) được thành lập ngày 13/3/1979 thay thế con rắntiền tệ sau các hội nghị Brôme (7/4/1978) và Brusselles (5/12/1978) (con rắn tiền tệ châu âu được thiết lập ngày 21/4/1972 - ngày ký hiệp định Bale nhằm hạn chế sự biến động tỷ giá các đồng tiền thành viên). Hệ thống này dựa trên nguyên tắc tỷ giá ổn định giữa các đồng tiền tham gia hệ thống tiền tệ, xoay quanh đồng Ecu (đồng Ecu được tính trên cơ sở giả tiền tệ gồm các đồng tiền của các nước tham gia cộng đồng Châu âu. Mỗi đồng tiền được xác định tỷ giá cố định với đồng Ecu, trên cơ sở đó xác định tỷ giá giữa các đồng tiền với nhau). Tuy gọi là tỷ giá cố định nhưng tỷ giá giữa các đồng tiền được phép dao động trong khoảng 2,25%. Các NHTW của các nước cần can thiệp để giữ tỷ giá ổn định trong khuôn khổ này. Mọi sự thay đổi tỷ giá vượt khỏi khuôn khổ còn phải được sự đồng ý của tất cả các nước thành viên. Các hệ thống này đã gặp phải những khó khăn tương tự đã dẫn tới kết thúc hệ thống Bretton woods như: dự trữ không tương xứng, cần có điều chỉnh thường xuyên, các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ. Cuối cùng vào mùa thu năm 1992, hệ thống tiền tệ châu âu (EMS) đã sụp đổ do áp lực dự trữ khổng lồ của đồng bảng Anh. Đó là sự giảm xuống của giá trị ngang bằng sức mua do có những sự di chuyển lớn về tư bản vào nước Đức, nói mà lãi suất cao gấp đôi. Vẫn biết khi đồng EURO ra đời, tập hợp sức mạnh của toàn khối liên minh tiền tệ châu âu đã tạo nên một thách thức cho toàn thế giới. Có thể coi đây là một chấm sáng trong bức tranh kinh tế - tài chính toàn cầu. Nhưng nó cũng không thể xóa nhoà đi được những mảng tới trong bức tranh đó - đó là những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ liên tiếp trong những năm gần đây. Khủng hoảng nợ ở Mêhicô (năm 1994) và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á mà bắt nguồn từ Thái Lan (năm 1997). Nó đã phá hoại ghê gớm các nền kinh tế mới nổi ở Châu á và làm điêu đứng nền kinh tế toàn cầu. Phải chăng việc làm thế nào để thiết lập lại một cơ cấu kinh tế - tài chính quốc tế (sau hệ thống Dretton Woods) vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ, mà trong đó nổi bật lên vẫn còn là vấn đề xác định một hệ thống tỷ giá hối đoái. Phải chăng hoàn toàn không thể tìm được câu trả lời? Để kiếm tìm được một cơ chế điều hành, quản lý tỷ giá hối đoái, chẳng còn cách nào khác là chúng ta hãy trở về xuất phát từ việc: "Vậy thì nguồn ta có thể điều hành, quản lý tỉ giá hối đoái ở những hình thức nào", để từ đó đi sâu tìm hiểu, phân tích những ảnh hưởng, tác động đến nó cũng như sự ảnh hưởng tác động ngược trở lại của nó đến mọi mặt. Có thể chúng ta sẽ tìm ra được một cơ chế quản lý đúng đắn nhất hay ít ra cũng là để tìm được một cơ chế tương thích với điều kiện và mục tiêu kinh tế của nước ta. Chương II. phân tích cơ chế tỷ giá hối đoái I. Quan điểm chung. Nhìn sơ bộ, quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) về tỷ giá hối đoái xem ra khá thất thường. Năm 1997, IMF đã thúc giục các quốc gia Châu á hoặc là phá giá hoặc là thả nổi đồng tiền của mình. Năm 1998 IMF đã cho Nga và Brazil vay mượn hàng tỉ đôla để giúp hai nước này giữ vững tỷ giá hối đoái của họ. IMF cũng đã ca ngợi chế độ ràng buộc chặt chặt chẽ tỷ giá của Hồng Kông, đồng thời lại tán dương Singapore về chính sách thả nổi cơ quản lý linh hoạt. Sự không kiên định của IMF đã phản ánh sâu sắc sự bất đồng về cơ chế tỷ giá hối đoái giữa các nhà kinh tế. Phải nói rằng các nhà hoạch định kinh tế (thuộc nhóm G7, G22, đã luôn tìm mọi cách né tránh vấn đề này, vì không thể nào đạt được sự nhất trí. Xem ra quan điểm chung ở đây có lẽ là chưa có quan điểm chung nào cả. II. Tỷ giá hối đoái - thả nổi hay cố định? Thả nổi? Trong một thế giới mà đồng tiền ngày càng cơ động hơn, các quốc gia không thể nào vừa cố định tỷ giá hối đoái vừa giữ vững một chính sách tiền tệ độc lập các quốc gia phải lựa chọn giữa một bên là niềm tin và sự ổn định mà tỷ giá có định đem lại với một bên là sự kiểm soát độc lập với chính sách tiền tệ của mình do tỷ giá thả nổi mang lại. Trước đây, nhân tố quyết định trong sự lựa chọn của một quốc gia chính là sự nhạy cảm của quốc gia đó đối với các cú sốc từ bên ngoài, chẳng hạn như sự thay đổi bất ngờ trong giá hàng hoá. Việc thả nổi đồng tiền sẽ cho phép quốc gia đó điều chỉnh để thích nghi trước những cú sốc từ bên ngoài thông qua tỷ giá hối đoái. ở các nước có đồng tiền cố định thì giá cả và tiền lương trong nước sẽ chịu sức ép nặng nề. Tuy nhiên, cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có một nhược điểm lớn, đó là nó có thể đi chệch hướng đã định trước và trở lên vô cùng mất ổn định, nhất là khi có một khối lượng lớn vốn chảy vào hoặc chảy ra khỏi một quốc gia. Sự bất ổn đó gây ra những cái giá phải trả về kinh tế thực sự. Hơn nữa tỷ giá thả nổi có thể làm suy giảm niềm tin vào đồng tiền của các nhà đầu tư, do đó làm cho việc chống lạm phát trở lên khó khăn hơn. Xét theo bề ngoài của vấn đề, trong một thế giới có sự lưu động của đồng vốn, một tỷ giá hối đoái linh hoạt dường như là một lựa chọn khả thi. Đồng tiền thả nổi sẽ buộc các công ty và các nhà đầu tư phải phòng vệ trước sự lên xuống giá cả thất thường, sẽ không ru ngủ họ với cảm giác ổn định giả tạo, và nó sẽ khiến cho các ngân hàng thận trọng hơn khi cho vay. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ thì việc lựa chọn cơ chế tỉ giá hối đoái không rõ ràng, đơn giản như thế sự độc lập về tiền có vẻ là bề ngoài hơn là thật sự, ít ra là đối với các nước đang phát triển có hệ thống tài chính qui mô nhỏ, đương đầu với sự hỗn loạn thị trường bất ngờ, các nền kinh tế mới nổi phụ thuộc vào đồng vốn nước ngoài phải nâng lãi suất cao ngất trời để giữ cho đồng tiền nước mình không sụp đổ. Vấn đề lớn nhất đối với đồng tiền thả nổi chính là những rủi ro do sự mất ổn định. Đối với các nền kinh tế mới nổi, các thị trường tài chính nhỏ bé đồng nghĩa với sự không ổn định tỷ giá hối đoái là một vấn đề về cấu trúc chứ không phải là một vấn đề tạm thời. Nếu một quĩ tương hỗ nào đó bất ngờ quyết định một cuộc đầu tư quan trọng thì tỷ giá hối đoái cuả quốc gia sẽ tăng nhanh. Khởi đầu cho một thời kỳ tăng vọt không bền vững trong ngành bất động sản và ngân hàng, để lại những hậu quả to lớn đối với các nhà xuất khẩu. ... Hay cố định tỷ giá? Các nhà kinh tế ủng hộ tỷ giá hối đoái thả nổi cũng nhận ra những rủi ro do sự mất ổn định này gây ra. Họ cũng đã đề nghị các nền kinh tế mới nếu không nên khuyến khích dòng chảy vào của đồng vốn ngắn hạn để hạn chế đến mức tối thiểu sự mất ổn định tỷ giá hối đoái. ít nhất là đối với các nước có nền tài chính còn nhỏ bé, tỷ giá hối đoái thả nổi chỉ khả thi về lâu về dài một khi tốc độ hội nhập thị trường vốn được chậm lại. Một số nhà kinh tế khác lập luận rằng tỷ giá hối đoái thả nổi không đem lại hiệu quả cho các nền kinh tế nhỏ mới nổi. Họ cho rằng tỷ giá hối đoái đựơc ràng buộc chặt chẽ sẽ có hiệu quả hơn và đề nghị các nền kinh tế nhỏ mới nổi lên tìm kiếm sự an toàn tài chính và sự ổn định tiền tệ về "qui mô" và về "tính đa dạng". Khi đề cập đến "tính đa dạng" họ muốn đề cập đến một mức độ sở hữu nước ngoài thích hợp trong khu vực tài chính, còn "qui mô" ở đây là muốn nói đến việc liên kết với các đồng tiền trong khu vực. Họ cho rằng các nước mới nổi nên nối kết đồng tiền của mình với đồng tiền hàng đầu của khu vực, chẳng hạn như đồng đôla với các quốc gia ở Châu Mỹ. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, gắn chặt đồng tiền với đồng đôla trong một biên độ hẹp là một lựa chọn khá hợp lý. HồngKông và Argentina (hai quốc gia áp dụng chế độ này) đã chứng tỏ được rằng họ có thể chịu đựng được những dao động lớn trong niềm tin của các nhà đầu tư. Sở dĩ như thế là vì việc gắn chặt đồng tiền với đồng đôla đòi hỏi ngành ngân hàng phải thận trọng hơn và khuyến khích sở hữu nước ngoài trong khu vực tài chính. Một bước đi mạnh mẽ hơn là sử dụng đồng tiên chung. Các quốc gia riêng lẻ có thể góp đồng tiền của mình để tạo thành đồng tiền chung mới (như các nước châu âu đã làm). Như vậy rõ ràng ở đây đã phải có sự lựa chọn: lựa chọn giữa hội nhập và quyền tự chủ quốc gia. Những quốc gia tham gia vào liên minh khu vực sẽ phải từ bỏ quên tự chủ của mình để đổi lấy hội nhập. Ngược lại, những quốc gia thả nổi tỷ giá hối đoái sẽ giữ vững quyền tự chủ nhưng thường phải đánh đổi lại bằng sự hạn chế trong hội nhập toàn cầu. III.sẽ có một cơ chế tỉ giá chung? Như vậy, thả nổi tỷ giá cho phép quốc gia theo đổi chính sách tiền tệ và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác đã được xác định trước vì họ không phải dùng nó để bảo vệ tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên thị trường có thể đẩy đồng tiền thấp dưới xa giá trị thực sự của nó dẫn đến đổi lạm phát về chi phí lớn cho dịch vụ nợ hoặc ở mức quá cao, gây tổn thất cho khả năng quốc gia và gây thâm hụt lớn cho cán cân thương mại. Cố định tỷ giá hối đoái có thể tránh được những vấn đề này nếu các nhà chức trách có thể thiết lập thành công tỷ giá ở mức bền vững và làm cho thị trường tin ở khả năng là họ sẽ giữ được cho nó ở mức đó. Hơn nữa cố định tỷ giá hối đoái có thể làm giảm các chi phí giao dịch trong thương mại quốc tế và đầu tư. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định có thể cung cấp một mỏ neo hữu dụng cho việc ổn định giá cả bởi việc nối một quốc gia nhỏp với nền kinh tế thế giới (đặc biệt là với một quốc gia lớn và giá cả tương đối ổn định như Mỹ và Đức). Tuy nhiên, nếu chính phủ không có khả năng giữ tỷ giá hối đoái ở mức bền vững thì các luồng vốn tư nhân có thể đổ vào như rút ra rất nhanh gây ra áp lực phá giá lớn. Một cuộc bảo vệ thành công tỷ giá hối đoái có thể phải trả giá rất đắt, đòi hỏi quốc gia phải nâng cao lãi suất và như vậy làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thế giới hiện đại với những luồng vốn tư nhân khổng lồ, các nhà kinh tế ngày càng đi đến quan điểm thống nhất là các quốc gia chỉ có thể được hưởng lợi từ chế độ tỷ giá cố định bằng hai cách: Kiểm soát hối đoái ngặt nghèo để trực tiếp giới hạn tác hại của đầu tư tư nhân, hoặc đưa ra những cam kết đáng tin cậy để làm thị trường tin rằng nó vẫn sẽ đứng vững dù có các cuộc tiến công đầu cơ dai dẳng và mạnh mẽ. Cho đến nay, những gì đã xảy ra với nền kinh tế các nước cho thấy rằng hệ thống tài chính quốc tế lại đang nằm trong môi trường của một thế giới với cơ chế tỷ giá thả nổi lai có quá nhiều biến động và một cơ chế tỷ giá ấn định lại quá dễ dàng bị tổn thương bởi sức ép đầu cơ. Trong điều kiện phát triển một nền kinh tế mở cửa, thì chính sách tỷ giá tiền tệ luôn là một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm của đời sống kinh tế xã hội. Chính sách điều tiết tỷ giá theo kiểu chết cứng, ổn định hay thả nổi hoàn toàn đều có tác động tích cực và tiêu cực. (Trong đó tiêu cực nhiều hơn đến mục tiêu mà nó muốn hướng tới nói riêng và đến sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Điều quan trọng là phải đặt chính sách tỷ giá trong sự thống nhất đồng bộ với các chính sách và định hướng phát triển chung của nền kinh tế, cũng như cần được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời theo những biến động thị trường dựa vào các quan hệ cung cầu ở trong và ngoài nước sao cho các cân bằng vĩ mô (xuất - nhập khẩu, tỷ giá - lãi suất - thuế quan; tỷ giá - giá cả nội địa...) luôn được hài hoà và duy trì theo hướng tích cực. Có lẽ đã đến lúc cái chung chính sách tỷ giá bản tệ của một nước được "séo cố định vào đồng tiền của một nứoc khác dù là mạnh nhất, vì nó biến chính phủ của nước đó thành tù binh của chính mình, cũng tựa như khi áp dụng chính sách thả nổi hoàn toàn tỷ giá - tức là áp dụng công cụ của một nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, vào một nền kinh tế chưa thực sự hoàn thiện. Vậy đâu là một giải pháp "an toàn nhưng hiệu quả" cho Việt Nam, điều này phải xuất phát từ chính thực tiễn và định hướng phát triển của nền kinh tế. Cho dù còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, sự bất đồng trong quan điểm trong chính sách tỷ giá hối đoái thì chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều rằng: Tỷ giá hối đoái là một công cụ quan trọng - thậm chí là một vũ khí lơi hai trong thương mại và vận hành nền kinh tế. Trên thế giới chúng ta đã được thấy vai trò của tỷ giá trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt giữa Mỹ - Nhật - Tây Âu. Vẫn biết tỷ giá hối đoái là một vấn đề nhạy cảm. Nhưng cụ thể ra thì sự nhạy cảm đó được biểu hiện khi nào. Câu trả lời ở đây là: Không phải lúc nào chúng ta cũng có được tất cả những điều kiện thuận lợi cho việc thực thi một chính sách tỷ giá mà ngày hôm nay được coi là hoàn toàn hợp lý. Một sự lên giá đồng tiền đột phá trong quan hệ thương mại, hay một sự mất giá đồng loạt của những đồng tiền trong khu vực, hay những xáo trộn trong bản thân nền kinh tế của mỗi nước... đều đỏi hỏi phải có được những phản ứng tích cực trong chính sách về tỷ giá. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Chính sách tỷ giá đã được nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Trong thực tế cho thấy tại những thời điểm khác nhau, nếu không có quyết sách về tỷ giá kịp thời, phù hợp sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm vụ cuả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công những mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và khi đã đặt mình vào hoàn cảnh "Sự đã rồi" thì mọi giải pháp đưa ra chỉ còn mang tính chất tình thế hay buông trôi để rồi hứng chịu tất cả. Trong phạm vi bài viết này, chúng em xin được đề cập đến một khía cạnh của vấn đề: Phá giá đồng nội tệ, cái được hay cái mất. Chương III. ảnh hưởng phá giá nội tệ và kinh nghiệm của một số quốc gia I. Nguyên nhân dẫn đến phá giá đồng tiền. Đó là khi một đồng tiền được đánh giá quá cao hay quá thấp so với đồng tiền khác. Nếu đồng nội tệ được định giá quá cao làm cho nhập khẩu trở lên rẻ hơn giả tạo đối với người tiêu dùng và xuất khẩu trở nên đắt hơn đối với người sản xuất, từ đó làm giảm sản xuất nội địa, tăng thâm hụt ngân sách và tăng thất nghiệp. Đặc biệt, nếu việc định giá quá cao cố định và kéo dài sẽ là nguyên nhân quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ do làm giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, làm tăng mạnh dòng vốn vay bất chấp khả năng rủi ro thanh toán, kích thích nhập khẩu và tiêu dùng quá mức, nền kinh tế phát triển quá nóng và thiếu một loạt hệ quả tiêu cực làm theo. Ngược lại, nếu nội tệ được định giá quá thấp sẽ làm tăng lạm phát, tăng chi phí dịch vụ nợ, tăng giá hàng nhập khẩu, làm tăng nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp, tăng nạn thấp nghiệp, kéo theo sự mất ổn định lan truyền toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích do giá trị nội tệ quá cao hoặc quá thấp đem lại là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa đựng trong nó tất cả những hiểm hoạ bùng nổ trong tương lai, khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn những lợi ích thu được. Khi tỷ giá giữ ở mức hợp lý sẽ tạo ra quan hệ bình đẳng trong cạnh tranh, phân phối và thu nhập, sẽ khuyến khích phát triển sản xuất ... do vậy, trên thực tế chính phủ các nước đã phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa cho phù hợp tỷ giá hối đoái thực tế. Có nhiều phương pháp điều chỉnh tỷ giá, trong đó phá giá tiền tệ là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa (theo hướng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ, đã tạo được khẳng định về mặt lý thuyết và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên quyết định phá giá tiền tệ phải được cân nhắc thận trọng có tính đến tác động tích cực và tác động tích cực của nó để có những đối sách thích hợp. II. Những tác động tích cực của việc phá giá đồng bản tệ. Trước hết, phá giá sẽ giảm giá tương đối hàng xuất khẩu, do đó về lâu dài sẽ thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại từ đó tăng khối lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Phá giá sẽ làm tăng giá đồng USD, do vậy hạn chế việc đầu đồng USD, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Vào những năm 70 - 80, cứ chu kỳ 3 - 5 năm vào thời điểm biến động kinh tế thế giới (tăng, giảm giá dầu quốc tế, tăng lãi suất quốc tế) một số nước đang phát triển đã tiến hành phá giá từng đợt. Tuy nhiên kết quả của những đợt phá giá này rất khác nhau. Một số quốc gia khá thành công trong việc thực hiện phá giá chẳng hạn như: Năm 1979, trong tình trạng thâm hụt thương mại, chính phủ Braxin đã tăng tỷ giá hối đoái lên 30% và cán cân thương mại bắt đầu có thặng dư trong năm 1981 - 1982. Đến tháng 2/1983, chính phủ lại tăng tỷ giá tiền 30%. Kết quả thật khả quan năm 1984, cán cân thương mại dư thừa 11 tỷ USD và cán cân thanh toán quốc tế đạt mức cân bằng lên đầu tiên trong nhiều năm. III. Những tác động tiêu cực của việc phá giá đồng bản tệ. Việc phá giá có thể mang lại những kết quả tiêu cực, song nó cũng có thể gây ra những hiệu quả ghê gớm không lường. Một là, phá giá sẽ làm tăng thêm lạm phát vì nó làm tăng giá các vật tư và thiết bị nhập, thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu tài chính dẫn đến bội chi ngân sách và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn. Đồng thời khi lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá. Càng phá giá càng không kiểm soát nổi tiền tệ và đất nước sẽ lâm vào vòng xoáy của mô hình: phá giá - tăng lạm phát - tăng bội chi ngân sách - tăng lạm phát - phá giá. Về vòng xoáy sau lớn hơn vòng xoáy trước. Hai là: Phá giá dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ lệ thất nghiệp. Phá giá làm cho giá cả hàng nhập trở lên đắt hơn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước kém phát triển, tỷ lệ "nhập đầu vào" của sản xuất rất cao do họ muốn rút ngắn quá trình phát triển và tận dụng lợi thế của người đi sau. Như vậy khi phá giá vô hình dung đã làm cho giá thành sản xuất tăng, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Mặt khác, khi nội tệ giảm giá mạnh sẽ khiến cho nhiều chủ đầu tư chuyển dịch tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ mạnh (USD) lúc này cầu về ngoại tệ cũng có nghĩa là góc nội tệ càng giảm. Để cân bằng lại và kiềm chế lạm phát do phá giá thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng. Hậu quả là chi phí sản xuất sẽ tăng, hạn chế tốc độ tăng trưởng, thất nghiệp tăng. Tất cả tình hình trên tác động xấu đến xuất khẩu. Mêxicô là một ví dụ về thất bại trong việc thực hiện phá giá: Năm 1976,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33677.doc