Lời nói đầu
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới với xu hướng mở cửa và hội nhập, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong những năm gần đây Việt nam được biết đến không chỉ qua xuất khẩu than, dầu mỏ mà còn được biết đến qua xuất khẩu nông sản.
Ngày nay thị trường thế giới đang mở ra nhiều triển vọng lớn, cùng với chính sách mở cửa của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản xuất khẩu phát triển và đủ khả năng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trư
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng Công ty XNK Nông sản & thực phẩm chế biến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc cộng với lợi thế của mình,Việt nam đã chọn xuất khẩu nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xét tương quan trong toàn ngành nông nghiệp, xuất khẩu nông sản chiếm một vị trí quan trọng về tổng sản lượng, nộp ngân sách và đặc biệt đã thu hút hơn 70% lực lượng lao động của cả nước.
Bên cạnh những thuận lợi cũng như những thời cơ nói trên, xuất khẩu nông sản cũng gặp nhiều thắch thức, khó khăn, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu nông sản luôn luôn mất ổn định và trải qua những thăng trầm diễn biến của thị trường. Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến với tên giao dịch: “VINAFIMEX” cũng trải qua những thách thức đó.
Trong thời gian qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu á và lan rộng ra một số nước phương Tây cũng làm thu hẹp thị trường hàng nông sản xuất khẩu của Tổng công ty. Trong thời gian tới đất nước gia nhập AFTA đặt ra cho Tổng công ty bài toán làm sao để khổi bị loại khỏi thị trường quốc tế, đứng vững và kinh doanh có lãi. Cả thị trường trong nước và ngoài nước đều có nhữngvấn đề khó khăn cho Tổng công ty khi tiếp cận. Đối với thị trường nước ngoài người tiêu dùng là người khó tính, họ có nhiều khả năng lựa chọn từ chủng loại đến kiểu cách tiêu chuẩn chất lượng…nhưng hộ là những người có vai trò quan trọng. Bên cạnh đó việc xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước làm cho cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn.
Tình hình đó đòi hỏi nhà quản lý Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến phải làm sao giữ được bạn hàng cũ, mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới tiềm năng. Muốn đạt được điều đó Tổng công ty phải hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, vận chuyển giao hàng đúng thời hạn,phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực. Điều đó có nghĩa là Tổng công ty phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước và trên thị trường thế giới.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại Tổng công ty VINAFIMEX với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Trần Đại, cùng ban giám đốc cán bộ phòng XNK5 và phòng kinh tế tổng hợp tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài góp phần làm rã căn cứ luận, phương pháp luận và thực tiễn nội dung của các khâu từ thu mua chế biến, bảo quản, đống gói…để đảm bảo chất lượng và có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng nhằm đưa ra nhữnh kiến nghị nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu đặc biệt là hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty như cà phê, điều nhân , cao su…
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 phần.
Phần I – tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến.
Phần II – Thực trạng khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến .
Phần III - Định hướng phát triển hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu và một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng đó.
Phần I
Sự cần thiết của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm
chế biến (VinaFimex)
I - Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều kiện tất yếu, là môi trường hoạt động của nền kinh tế thị trường. Không có một nền kinh tế thị trường nào không có cạnh tranh và ta cũng chỉ thấy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Là một phạm trù rất rộng, được rất nhiều nhà kinh tế học quan tâm nên cạnh tranh có rất nhiều khái niệm khác nhau.Tuy nhiên tựu chung lại cạnh tranh được hiểu là:
2 - Khái niệm về cạnh tranh.
Theo Marx: “cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản suất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Trong kinh tế học cạnh tranh (Competition) được định nghĩa là sự giành giật thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp.
Trong từ điển kinh doanh (Anh - Xuất bản 1920), cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là: “Sự kinh doanh ,sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản suất cùng loại sản phẩm về phía mình”.
Ngoài ra trên thực tế còn thấy cạnh tranh được hiểu là cuộc đấu tranh giữa các doanh nghiệp nhằm giành điều kiện thuận lợi trong sản suất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nhưng những cuộc đấu đá này không hề thấy trong nền kinh tế tập trung mà cạnh tranh theo nghĩa là giành giật thị phần (khách hàng) thì chỉ có trong nền kinh tế thị trường và có nền kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh.
Như vậy các nhà doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì đương nhiên phải đối mặt với cạnh tranh. Họ sẽ không được hậu thuẫn: “lãi hưởng, lỗ bù” mà họ phải tự vận động để cạnh tranh mà tồn tại. Hơn nữa vấn đề sống còn của doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi nhuận được tạo ra bởi những lợi thế của doanh nghiệp như mua rẻ, bán đắt, là thu hút được khách hàng nhiều hơn để tiêu thụ được lượng sản phẩm lớn hơn.
Suy cho cùng vì vấn đề lợi nhuận mà các doanh nghiệp phải làm vừa lòng khách hàng. Khách hàng sẽ hài lòng với những sản phẩm tốt giá cả phải chăng mẫu mã đẹp. Theo đó doanh nghiệp phải tìm mọi cách để nâng cao chất lượng, giảm thiểu giá thành, cải tiến mẫu mã, bao bì …để cung ứng ra thị trường những sản phẩm không những làm thoả mãn khách hàng mà còn có khả năng cạnh tranh trên thị trường, chính lợi nhuận sẽ đưa các nhà kinh doanh đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần nhiều hàng hoá hơn và từ bỏ những lĩnh vực mà xã hội cần ít hàng hoá hơn.
2 - Phân loại cạnh tranh.
2.1 - Phân loại theo mức độ cạnh tranh.
2.1.1 - Cạnh tranh hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó có nhiều người mua và người bán và mỗi người trong số họ hành động độc lập với tất cả những người khác. Nghĩa là giao dịch bình thường của người mua hay người bán đều không ảnh hưởng gì tới giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện. Hàng hoá trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo được coi là tương tự nhau, nên khách hàng không phải quan tâm tới việc mua hàng hoá đó ở nhà cung cấp nào. Cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ thông tin liên quan đên việc trao đổi. Thị trường này đòi hỏi tất cả người mua và người bán đều liên hệ với những người trao đổi tiềm năng biết tất cả các đặc trưng của các mặt hàng trao đổi, biết tất cả giá người bán đòi hỏi và người mua phải trả. Mọi người có liên hệ mật thiết với nhau và sự thông tin giữa họ là liên tục.Thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở mỗi thời điểm mọi người tự do tham gia vào thị trường trở thành người mua hoặc người bán và được trao đổi ở cùng một mức giá. Đồng thời nó cũng không có một trở ngại nào cản người mua hay người bán rút khỏi thị trường .
2.1.2 - Cạnh tranh không hoàn hảo .
2.1.1.1 - Cạnh tranh độc quyền.
Giống như thị trường cạnh tranh hoàn hảo thị trường cạnh tranh độc quyền cũng có sự tự do gia nhập nhưng khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán những sản phẩm riêng biệt (được làm cho khác với sản phẩm cửa doanh nghiệp khác). Các sản phẩm này có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Khi các sản phẩm này trở nên không có lãi thì gia nhập hay rút lui khỏi thị trường trở nên dễ dàng .
So với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì giá cân bằng trên thị trường này cao hơn chi phí cận biên nghĩa là giá trị của những đơn vị hàng hoá bổ sung đối với người tiêu dùng cao hơn chi phí để sản suất ra chúng .
2.1.2.2 - Độc quyền tập đoàn.
Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống hoặc khác nhau. Chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết tổng sản phẩm trên thị trường và họ có thể họ có thể thu lợi nhuận đáng kể trong dài hạn vì hàng rào gia nhập sẽ không cho phép hoặc ngăn cản các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường .
2.1.3 - Độc quyền.
2.1.3.1- Độc quyền bán.
Độc quyền bán là một thị trường trong đó chỉ có một người bán và nhiều người mua.
Các doanh nghiệp có được vị trí độc quyền bán nhờ đạt được tính quy mô hoặc phát minh sáng chế hoặc kiểm soát được các yếu tố đầu vào hoặc do quy dịnh của Chính Phủ.
Sự khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền bán là doanh nghiệp độc quyền bán có sức mạnh thị trường . Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo phải đặt giá ngang chi phí cận biên còn doanh nghiệp độc quyền bán đặt giá thấp hơn.
2.1.3.2 - Độc quyền mua.
Là một thị trường trong đó có nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua.
Khi đó người mua có sức mạnh thị trường, họ có thể thay đổi giá cả hàng hoá.Tuy nhiên họ chỉ mua hàng hoá đến số lượng mà đơn vị mua cuối cùng đem lại giá trị bổ sung hay lợi ích đúng bằng chi phí trả cho đơn vị cuối cùng đó.
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền các doanh nghiệp không phải thay đổi giá hoặc sản lượng ở diểm cân bằng. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các doanh nghiệp bán tất cả sản lượng mà doanh nghiệp sản xuất ra và tối đa hoá lợi nhuận ở mức sản lượng cung và cầu bằng nhau. Các nhà độc quyền tập đoàn cũng làm được điều đó nếu như các doanh nghiệp muốn làm điều tốt nhất mình có thể có tính đến các đối thủ và giả định rằng các đối thủ của mình cũng làm như thế.
2.2 - Phân loại theo hình thức cạnh tranh .
2.2. 1 - Cạnh tranh bằng giá cả .
Là hình thức cạnh tranh theo đó các doanh nghiệp ưu tiên mọi nỗ lực của mình hướng tới mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu giá thành.Từ đó giá cả sẽ là phương tiện chính để các doanh nghiệp cạnh tranh .
Theo thuyết kinh tế giá được hình thành do sự gặp gỡ của cung và cầu .Trên thực tế để cạnh tranh các doanh nghiệp thường đưa ra mức giá thấp hơn mức giá của các đối thủ nhằm lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Giá cả là tín hiệu phản ánh tình hình biến động của thị trường, là thông số qua đó doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy việc xác định giá bán trên thị trường là rất quan trọng, song theo dõi biến động giá thông tin phản hồi từ khách hàng là tối cần thiết. Đôi khi giá mà các doanh nghiệp xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ đôi khi hoà vốn thậm chí thua lỗ tạm thời. Khi các doanh nghiệp thực sự chiếm lĩnh thị trường, đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi vòng chiến hoặc làm suy yếu tiềm lực của đối thủ cạnh tranh cũng là lúc doanh nghiệp lấy lại những gì đã chi phí trong cạnh tranh.
2.2.2 - Cạnh tranh bằng chất lượng.
Nếu như giá cả là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh khi mà nhu cầu tiêu dùng chỉ dừng lại ở mức tiêu dùng đủ thì chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quyết định khi nhu cầu tiêu dùng không phải là tiêu dùng đủ mà là tiêu dùng tốt hơn, đẹp hơn… Thực tế cạnh tranh bằng giá cả đã trở thành biện pháp nghèo nàn nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được.
Đời sống ngày một nâng cao, khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao hơn cho sản phẩm tốt hơn. Đáp ứ ng nhu cầu đó, doanh nghiệp phải nỗ lực để tung ra thị trường sản phẩm có độ bền, chắc, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, dễ sử dụng, giá thành và giá cả thích hợp với túi tiền của mọi người có nhu cầu tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm trở thành cái cốt lõi đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh. Nó là yêu cầu, động lực cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khoa học công nghệ trang bị máy móc hiện đại cũng như tuyển chọn đội ngũ lao động có kỹ năng chuyên môn điều hành những máy móc đó và có khả năng ứng biến linh hoạt trong quản lý. Chính công nghệ hiện đại cộng với trình độ học vấn, kỹ năng, kỹ sảo của những người trực tiếp làm ra sản phẩm là cái tạo ra chất lượng của sản phẩm.
Do vậy để cạnh tranh bằng chất lượng doanh nghiệp phải xây dựng thật tốt chiến lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với việc kết hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh.
2.2.3 - Cạnh tranh bằng dịch vụ.
Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường quốc tế. Ngoài hình thức cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng thì các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau ở dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng mà chủ yếu ở khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Để tiêu thụ sản phẩm việc đầu tiên là các doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cho phép doanh nghiệp có được một sự vững chắc để phát triển thị trường, mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Từ đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên kéo doanh thu tăng lên làm cho khả thu hồi vốn nhanh. Không những thế, tổ chức tiêu thụ sản phẩm tốt làm cho nhiếu khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng, công dụng của sản phẩm gúp doanh nghiệp khai thác được nhiều thị trường mới, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Tiếp đến doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi. Đây là hình thức cạnh tranh phi giá cả, gây sự chú ý và thu hút khách hàng.
Ngày nay hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng phong phú và tinh vi hơn, thể hiện chi phí cho marketing của các doanh nghiệp ngày càng cao.
Ngoài hai hình thức phân loại trên, cạnh tranh còn được phân loại theo các tiêu thức khác nhau như cạnh tranh trong nội bộ ngành hoặc dựa vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp phân thành cạnh tranh mạnh, trung bình, yếu trong mối quan hệ so sánh với doanh nghiệp khác.
3. Vai trò của cạnh tranh trong kinh tế thị trường.
3.1. Khái niệm, đặc trương của kinh tế thị trường.
3.1.1. Khái niệm.
kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. kinh tế hàng hoá phát triển nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm cả yếu tố dầu vào của qúa trình sản xuất. Dung lượng và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá, khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có trật tự nội tại rất cao có khả năng tự điều chỉnh và tự xác định nhu cầu, khối lượng sản phẩm cần thiết nhờ cơ chế giá và hệ thồng thông tin thị trường. Nó là một guồng máy phức tạp và chỉ hoạt động có hiệu quả nếu tất cả các bộ phần cấu thành nó thực sự ăn khớp với nhau.
3.1.2 - Những đặc trưng chung của kinh tế thị trường.
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Họ tự bù đắp chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Họ cũng được tự do liên kết kinh doanh, tự tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá, là biểu hiện và yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động.
Hai là: Hàng hoá trên thị trường rất phong phú. Người mua tự do mua hàng hoá và chọn người bán, người bán bán hàng hoá và tìm người mua. Họ gặp gỡ nhau ở giá cả thị trường. Đây là đặc trưng phản ánh tính ưu việt hơn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá trên thị trường vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả hiệp giữ người mua và người bán. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người bán lại muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả còn doanh lợi thì càng nhiều càng tốt. Đối với người mua giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà cả lơi ích của người mua và người bán.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những ơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. theo quy luật giá trị tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Các đơn vị sản xuất, phải đua nhau cải tiến kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng xuất lao động cá biệt giảm hao phí lao động nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Năm là: Kinh tế thị trường là một hệ thống mở. Nó rất đa dạng và phức tạp, được điều hành bởi hệ thông tiền tệ và hệ thông pháp luật của Nhà nước. Trong những đặc trưng cơ bản nêu trên thì cạnh tranh là đặc trưng cơ bản quan trọng nhất, là điều kiên để nền kinh tế thị trường tồn tại và phát triển theo cơ chế thị trường.
3.2 - Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
* Cạnh tranh buộc doanh nghiệp sử dụng tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có thể giảm bớt chi phí, giảm giá thành sản phẩm để giành thị phần với các đối thủ cạnh tranh. áp dụng khoa học công nghệ mới không những cho phép doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu nhất mà còn cho phép hiện đại hoá dây truyền sản xuất tăng năng suất góp phần hiện đại hoá sản phẩm.
* Cạnh tranh làm cho nhu cầu tiêu dùng gắn liền với nhu cầu sản xuất. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch tập trung để sản xuất ra một loại hàng hoá thì cần một thời gian dài cho các khâu đệ trình, xét duyệt, thì trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để từ đó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, kịp thời nhất và hiệu quả nhất. Như vậy vì lợi nhuận mà các doanh nghiệp phải cạnh tranh, từ hoạt động cạnh tranh của họ đã dẫn đến nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất được gắn liền. Tuy nhiên, không chỉ tính kịp thời đã giúp các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh mà việc thi nhau sản xuất đã làm cho giá cả hàng hoá ngày càng có xu hướng giảm, chủng loại hàng hoá ngày càng đa dạng và phong phú, chất lượng và dịch vụ phục vụ ngày một tốt hơn. Tựu chung lại vì lợi nhuận – mục tiêu nóng bỏng của doanh nghiệp mà họ phải quan tâm tới khách hàng và tìm mọi cách để thuyết phục họ. Bất kỳ một ý kiến nào của khách hàng cũng được các nhà sản xuất quan tâm lập tức nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu đó một cách nhanh nhất, tốt nhất.
* Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế, là cách hữu hiệu nhất dể tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cạnh tranh là cơ chế hai đầu, một mặt nó đẩy các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả tới chỗ phá sản, mặt khác tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả phát triển tốt hơn. Tuy nhiên cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế giữa các doanh nghiệp sử dụng lãng phí nguồn lực, gây thất thoát cho Nhà nước bằng những doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách một cách tối ưu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Có thể nói cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, là động lực cho sự phát triển kinh tế. Tuy vậy cạnh tranh không chỉ toàn có ưu điểm mà nhược điểm của nó là khuyết tật cố hữu mang đặc trưng cuả cơ chế thị trường đó là khuyết tật của thị trường. Cơ chế thị trường buộc doanh nghiệp phải tham gia thực sự vào cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong quá trình cạnh tranh khát vọng tìm kiếm lợi nhuận làm lu mờ lợi ích xã hội, thậm chí vì lợi nhuận các doanh nghiệp còn vi phạm hoặc làm tổn thất lợi ích xã hội. Hàng loạt những vấn đè xảy ra như thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tiền công rẻ mạt là kết qủa của khuyết tật thị trường. Cạnh tranh một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển mặt khác nó cũng dẫn tới tình trạng phân hoá ghê gớm, kẻ thắng người bại dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền gây ra. Đó cũng chính là nguyên nhân khẳng định vai trò quản lý của Nhà nước đảm bảo cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh lành mạch và có hiệu quả.
4 - Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Trước đây xu hướng đồng nhất cạnh tranh, thị trường với tư bản chủ nghĩa, coi chúng là những phạm trù có tính chất xã hội giống nhau nên về cơ bản chúng được nhìn nhận ở khía cạnh tiêu cực. Khi xây dựng kinh tế XHCN, xoá bỏ kinh tế TBCN thì đương nhiên cạnh tranh, thị trường cũng phải xoá bỏ. Ngày nay sự tồn tại của thị trường,kinh tế thị trường được coi khách quan, là tất yếu của sự phát triển. Do dó cạnh tranh cũng được coi là điều kiện tất yếu của kinh tế thị trường. Cùng với sự thay đổi trong nhận thức về cạnh tranh, thị trường, Việt Nam tiến hành đổi mới kinh tế. Khẳng định định hướng XHCN là cầ thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đảng cũng khẳng định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN”.
4.1- Những nội dung chính của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
* Hai mặt kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lý nhằm thực hiện kinh tế và công bằng xã hội.
* Nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao.Nếu như nền kinh tế trì trệ kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân kém hấp dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN.
* Để có định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế nhằm tạo việc làm cho dân cư, tạo sản phẩm cho xã hội. Cơ cấu kinh tế như vậy được hình thành một phần do sự tự điều chỉnh của các quan hệ thị trường, một phần do Nhà nước tự điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo được môi trường cạnh tranh và huy động vốn được tối đa những nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế xã hội.
* Nhà nước XHCNquản lý nên kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời kỳ đầu Nhà nước thực hiện vai trò “bà đỡ” tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng.
* Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Với xu hướng phát triển kinh tế mở nội dung này còn có ý nghĩa to lớn không chỉ phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta mà còn làm cho kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
4.2 - Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN ở Việt Nam.
Cùng với sự thay đổi trong nhận thức về kinh tế thị trường, Việt Nam tiến hành đổi mới nền kinh tế và đạt được những chuyển biến có tính chất bước ngoặt không chỉ ở tốc độ tăng trưởng mà còn ở khẳng định nguyên lý tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, thời gian tiến hành đổi mới còn tương đối ngắn nền kinh tế nước ta mới chỉ hình thành được khuôn khổ chung của nền kinh tế thị trường. Vì thế để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN – một hình thái chưa hề có trong tiền lệ lịch sử hoạt động một cách thực sự trôi chảy thì còn rất nhiều việc phải làm. một trong số những việc chưa làm và rất khó làm nhưng không thể không làm chính là tạo lập môi trường có tính cạnh tranh và những điều kiện pháp lý đảm bảo cho sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Nền kinh tế Việt Nam có kế thừa nền kinh tế tập trung với tính độc quyền nằm ngay trong cơ chế quản lý nên chính sách cạnh tranh chống độc quyền trước hết nhằm hạn chế các yếu tố độc quyền trong cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Thức chất của quá trình đổi mới kinh tế là quá trình giải độc quyền của cơ chế quản lý tập trung. Sự hiển thị độc quyền ở Việt Nam là sự tồn tại của một số Tổng công ty Nhà nước. Chính sự vận hành của cơ chế Tổng công ty đã triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường mặc dù ý đồ thiết lập những tập đoàn kinh tế mạnh để tăng sức cạnh tranh là hoàn toàn chính đáng. Nhưng khác với điều mong đợi là trở thành đội quân chủ lực, lôi kéo doanh nghiệp vừa và nhỏ khác thành một đội hình tăng mạnh, tăng khả năng cạnh tranh với tập đoàn kinh tế nước ngoài thì các Tổng công ty lại cạnh tranh với “người nhà” ngay trên “sân nhà” bằng chính lợi thế độc quyền của cơ chế. Những Tổng công ty có mức lãi trước thuế cao nhất, những sản phẩm kém sức cạnh tranh phần lớn là những sản phẩm mang tính độc quyền dưới 2 dạng chính: hoặc là sản phẩm của một hay một số ít nhà cung cấp như Tổng công ty 90 – 91 hoặc là sản phảm được bảo hộ thậm chí cả hai hình thức đó.
Tóm lại, tình trạng kém sức cạnh tranh của nền kinh tế hiện nay không chỉ biểu hiện ở khía cạnh những thông số kỹ thuật của sản phẩm như giá cả cao, chất lượng thấp, chủng loại, kiểu dáng, bao bì kém hấp dẫn. Điều đáng nói là sự thiếu vắng một môi trường trong đó các yếu tố độc quyền bị hạn chế. Sự tồn tại cơ chế xin cho kết hợp với kiểu hình thành và vận hành của mô hình Tổng công ty như hiện nay trở thành cặp bài trùng duy trì trạng thái độc quyền. Vì thế trong giai đoạn tiếp tục công cuộc đổi mới tới đây cần thiết loại bỏ cơ chế xin cho và xem xét lại cơ chế vận hành của Tổng công ty.
II. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
1- Khái niệm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiện nay sự cạnh tranh trên thị trường diễn ra mạnh mẽ ở cả ba cấp độ: Nhà nước, doanh nghiệp và sản phẩm. Đối với cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp quy luật thị trường sẽ sẵn sàng loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, không có sức cạnh tranh và tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp có sức đề kháng cao vượt lên và chiến thắng trong cạnh tranh. Sức đề kháng đó là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện ít nhất một mức lợi nhuận bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện cac mục tiêu của doanh nghiệp.
2.1- Những biểu hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
2.1.1 - Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm.
Việc xác định sản phẩm và cơ cấu sản phẩm là nội dung trong chính sách sản phẩm. Khi xây dựng chính sách sản phẩm các doanh nghiệp phải xác định được các mặt hàng chủ lực, cơ cấu sản phẩm cho hợp lý thích hợp với nhu cầu thị trường cho phép doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh những mặt hàng chủ lực thì các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá sản phẩm.sản phẩm phải luôn được hoàn thiện về chất lượng, cải tiến bao bì mẫu mã, tăng cường đào sâu cách biệt ở sức cạnh tranh đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp chiếm lợi thế và duy trì khoảng cách cạnh tranh các sản phẩm của mình. Tuy nhiên đa dạng hoá sản phẩm không chỉ đảm bảo nhu cầu thị trường mà còn cho phép doanh nghiệp phân tán rủi ro trong kinh doanh. Khi sự cạnh tranh diễn ra khốc liệt kéo theo mức độ rủi ro rất cao. Tuỳ theo từng trường hợp nhất định các doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm để có thể thu hút sức hấp dẫn, tạo ra nét tiêu biểu khác biệt đối với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
Như vậy xác định sản phẩm và có cơ cấu sản phẩm hợp lý là yếu tố đầu tiên quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
2.1.2 - Yếu tố giá cả.
Là một trong những phương tiện cạnh tranh của doanh nghiệp. Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò rất quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Một hàng hoá cỏ chất lượng tốt nhưng giá cả lại quá cao không phù hợp với khách hàng ít tiền, ngược lại hàng hoá rẻ đôi khi lại bị nghi ngờ là hàng hoá không tốt. Do đó định giá ngang giá thị trường cho phép doanh nghiệp giữ được khách hàng, duy trì và phát triển thị trường.
2.1.3 - Chất lượng sản phẩm.
Cùng với giá cả chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố cạnh tranh. Tuy nhiên hiện nay chất lượng sản phẩm được coi là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam khi họ phải đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài có trình độ khoa học công nghệ cao hơn. Một khi chất lượng không được đảm bảo các doanh nghiệp sẽ mất khách hàng, mất thị trường.
Hiện nay khi nền kinh tế đã phát triển quan niệm chất lượng sản phẩm đã thay đổi. Không phải sản phẩm có chất lượng tốt, bền đẹp là đã tiêu thụ được nhiều mà còn phụ thuộc vào khách hàng. Quản lý chất lượng là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng sản phẩm mà chất lượng sản phẩm là kết quả của một quá trình từ thu mua, sản xuất , bảo quản đến tiêu thụ hàng hoá …
2.1.4 - Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Đây là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và lợi nhuận. Tổ chức têu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng. Việc lựa chọn các kênh phân phối giúp tiếp cận nhanh nhất với khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí và thu hồi vốn. Ngoài ra doanh nghiệp cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi và dịch vụ sau bán hàng.
2.1.5 - Nguồn nhân lực.
Là những người quyết định phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trực tiếp tạo ra sản phẩm. Trình độ tay nghề cao và tinh thần hăng say lao động cùng với trách nhiệm của họ là cơ sở đảm bảo chất lượng, năng suất lao động. Nguồn nhân lực giỏi, chất lượng cao là tiền đề, thế mạnh cụ thể để doanh ng._.hiệp có thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
2.1.6 - Cở sở vật chất khoa học kỹ thuật.
Một hệ thống khoa học hiện đại cùng với công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp lên rủi rất nhiều. Cùng với chất lượng nguồn nhân lực tốt, khoa học công nghệ hiện đại là yếu tố trực tiếp sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao với giá cả phải chăng là một sự kết hợp hài hoà tạo bước đột phá cho doanh nghiệp trên thương trường. Tuy nhiên để có thể giải quyết được những vấn đề đó nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì yếu tố đầu tiên là khả năng tài chính.
2.1.7 - Khả năng tài chính.
Nếu như tất cả những biểu hiện trên mà doanh nghiệp không có khả năng tài chính để trang trải thì mọi chuyện đều không thể thành hiện thực. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, có khả năng trang bị những kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động thì khả năng cạnh tranh của họ đối với những đối thủ là rất cao.
Quy mô lớn hay nhỏ phụ thuộc vào vấn đề tài chính. Các hoạt động đầu tư trang thiết bị, tổ chức mạng lưới tiêu thụ, quảng cáo đề phải tính toán dựa vào khả năng tài chính của doanh nghiệp. Các hình thức cạnh tranh, các mục tiêu mà oanh nghiệp đeo đuổi cũng bị chi phối rất nhiều vào khả năng tài chính của họ.
2- Các nhân tố ảnh hưởnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là những năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó lâu dài trên thị trường cạnh tranh. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp là thị trường mà thị trường lại bao gồm rất nhiều yếu tố phức tạp và khó có thể lượng hoá được, cả những yếu tố vi mô và vĩ mô.
2.1 - Môi trường kinh tế.
Là một nhân tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi sự ổn định hay bất ổn của nó đều ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả của doanh nghiệp nếu nền kinh tế ổn định, nền tài chính quốc gia lành mạnh tiền tệ ổn định lạm phát được khống chế. Điều đó là môi trường tốt cho sự tăng trưởng. Bởi vì khi nền kinh tế phát triển cao không những tốc độ đầu tư sản xuất sẽ tăng lên do khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn mà sức mua của người tiêu dùng cũng sẽ tăng lên do thu nhập tăng lên. Khi hàng hoá được bán nhiều hơn, cơ hội đầu tư nhiều hơn thì chắc chắn cơ hội tìm kiếm lợi nhuận sẽ tăng lên và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng lên. Tuy nhiên nền kinh tế phát triển cao làm số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường tăng lên nhanh chóng dẫn tới cạnh tranh ngày càng gay gắt. Ngược lại trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái tỷ lệ lạm phát cao, giá cả tăng lên, sức mua của người dân bị giảm sút, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, sự cạnh tranh trở nên khốc liết hơn.
Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi khi lãi suất tăng lên đẩy chi phi khoa học công nghệ tăng lên làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm.
Ngoài ra tỷ giá hối đoái, tiền công, tiền lương…cũng ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như mức độ cạnh tranh trên thị trường.
2.2 - Môi trường chính trị pháp luật.
Chính trị pháp luật là nên tảng cho sự phát triển kinh tế, là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường. Pháp luật rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường. Chính trị định tạo hành lang thông thoáng cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Hệ thống pháp luật rõ ràng là quy định lĩnh vực hình thức mà doanh nghiệp được phép và không được phép hoạt động.
Cho nên sự quy dịnh cụ thể tạo sân chơi thông thoáng cho các doanh nghiệp, trên cơ sở đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có cơ hội để phát triển. Do đó thúc đẩy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.3 - Môi trường khoa học công nghệ.
Thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán, khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng của doanh nghiệp. Bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất ra đều phải gắn liền với một khoa học kỹ thuật nhất định.công nghệ sản xuất quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm cũng như của toàn doanh nghiệp.
Trong cuộc cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì cạnh tranh phi giá cả đang được doanh nghiệp sử dụng rất nhiều. Việc nắm bắt và xử lý thông tin chính xác và kịp thời đôi khi quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Trong khi dó khoa học công nghệ mới cho phép doanh nghiệp làm được điều đó. Doanh nghiệp phải tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật để có đầy đủ chính xác thông tin diễn biến động thái thị trường của đối thủ cạnh tranh.Từ đó doanh nghiệp có được những quyết định chính xác nhờ thu thập lưu trữ và xử lý thông tin.
Khoa học công nghệ mới tạo hệ thống cơ sở vật chất hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung, của từng doanh nghiệp nói riêng là tiền đề để doanh nghiệp phát triển ổn định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
2.4 - Môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội.
Điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng quốc gia là nhân tố quan trọng tạo thuận lợi cũng như gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh. Thể hiện một điều kiện tự nhiên tốt có các trung tâm kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi cho việc tập hợp các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp, qua đó tiết kiệm được chi phí sản xuất.
Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá tác động trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua nhu cầu khách hàng và cơ cấu nhu cầu của thị trường. ở những vùng khác nhau, lối sống, thị hiếu, nhu cầu cũng khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu kỹ càng, nghiêm túc thị trường trước khi thâm nhập thị trường để có những chính sách sản phẩm, lựa chọn kênh phân phối đáp ứng tốt nhất nhu cầu của từng vùng, từng thị trường.
2.5 - Mô hình cạnh tranh (Micheal Porter với 5 lực lượng cạnh tranh).
Bên cạnh những tác động vĩ mô nói trên, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn chịu tác động của môi trường cạnh tranh. Theo Micheal Poster, doanh nghiệp cần quan tâm tới 5 lực lượng cạnh tranh theo mô hình sau:
Các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng có tiềm năng lớn
Các doanh nghiệp cạnh tranh hiện tại
Sản phẩm, dịch vụ
thay thế
Người bán
Người mua
Hình 1: Mô hình 5 sức mạnh cạnh tranh.
Chính sức ép của các đối thủ này đối với doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra biến động theo những xu hướng khác nhau. Doanh nghiệp phải linh động điều chỉnh các hoạt động của mình giảm thách thức, tăng thời cơ chiến thắng cạnh tranh để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, phù hợp, giá cả phải chăng theo mô hình Micheal Porter có 5 tác lực cạnh tranh là đối thủ tiềm ẩn, người cung cấp, người mua, sản phẩm, dịch vụ thay thế và sự cạnh tranh của các công ty hiện tại.
2.5.1 - Sự đe doạ từ các đối thủ tiềm ẩn.
Các đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp chưa có mặt trong ngành nhưng có khả năng tham gia vào ngành.
Trong bất kỳ môi trường cạnh tranh ngành nào đều có đối thủ tiềm ẩn.
Sự xuất hiện đối thủ này phụ thuộc vào rào cản nhập cuộc trong môi trường đó. Rào cản nhập cuộc là những điều kiện và khả năng của doanh nghiệp tính riêng biệt của một thị trường nào đó như các rào cản mang bản chất kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật (phương pháp sản xuất mà không phải ai cũng có hoặc những bí quyết công nghệ thậm chí là kinh nghiệm).
Khả năng về mặt tài chính là một rào cản nhập cuộc. Sẽ có một số ngành đòi hỏi khi tham gia phải được đầu tư lớn ngay từ đầu hoặc doanh nghiệp phải có lợi thế quy mô.
Những rào cản mang bản chất thương mại: hình ảnh và uy tín của sản phẩm hoặc sự lôi kéo được những khách hàng trung thành.
Ngoài ra với nguồn lực khan hiếm (bị kiểm soát rất chặt chẽ) cũng là một rào cản các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhập cuộc.
Chính vì những nguy cơ nhập cuộc của đối thủ tiềm ẩn mà nghiên cứu đối thủ tiềm ẩn là một quá trình hết sức cần thiết trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp chủ động né tránh, đối phó thậm chí là kìm hãm sự xuất hiện của đối thủ tiềm ẩn.
2.5.2 - Sức ép từ nhà cung cấp:
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao giờ cũng chịu sức ép từ những phía khác. Sức ép có thể từ nhà cung cấp hay từ khách hàng. Tuy nhiên trong mỗi trường hợp khác nhau, mức độ sức ép của nhà cung cấp cũng khác nhau, có thể là mạnh hay yếu. Nếu như các nhà cung cấp tập trung thì họ có khả năng ép giá, ngược lại doanh nghiệp có thể chi phối được giá cả đầu vào của người cung cấp.
Khả năng ép của người cung cấp còn phụ thuộc vào những vấn đề sau:
* Thứ nhất, ngành hoạt động có phải là khách hàng chủ yếu hay không, nếu không thì họ sẵn sàng bỏ qua ngành này để tập trung vào khách hàng chủ yếu. Khi đó sức ép thuộc về người cung cấp.
* Thứ hai, bản thân ngành hoạt động có khả năng tìm sản phẩm thay thế hay không nếu như khả năng thay thế dễ dàng thì doanh nghiệp có khả năng ép gía và ngược lại.
* Thứ ba, chi phí chuyển đổi là chi phí khi mà doanh nghiệp thay nhà cung cấp này bằng nhà cung cấp khác. Nếu chi phí này lớn thường doanh nghiệp không chuyển đổi và ngược lại.
* Thứ tư, là khả năng hội nhập dọc ngược chiều và xuôi chiều. Quá trình hội nhập là tự mình cung cấp nguyên vật liệu cho chính mình làm giảm sức ép của nhà cung cấp và hội nhập với nhà cung cấp. Khi đó, doanh nghiệp phải có những năng lực mới vì khi đó doanh nghiệp không chỉ hoạt động sản xuất mà còn hoạt động thêm của nhà cung cấp.
2.5.3 - Sức ép của khách hàng:
Cũng như quan hệ của doanh nghiệp và nhà cung cấp thông qua chỉ số: giá chất lượng, giao hàng và phương tiện tính toán. Những quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng có khác bởi khách hàng là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Sức ép của khách hàng tuỳ thuộc vào một số tiêu thức sau:
Quy mô tương đối của khách hàng.
Ngành hoạt động có phải là nhà cung cấp chủ yếu không.
Khách hàng có khả năng tìm sản phẩm thay thế hay không.
Chi phí chuyển đổi có cao không.
Khả năng hội nhập dọc, xuôi chiều của doanh nghiệp.
Thông tin của khách hàng.
2.5.4 - Đe doạ từ sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm cho phép cùng nhu cầu so với sản phẩm hiện tại của ngành.
Việc xác định sản phẩm thay thế là rất khó khăn vì có thể nó đến từ rất xa hoặc ngay trong nội bộ ngành.
3 - Một số tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh:
Thị phần là chỉ tiêu phản ánh phần trăm thị trường chiếm được của doanh nghiệp. Thị phần có thể tính:
Doanh thu
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng doanh thu trên thị trường.
Lượng bán
Hoặc thị phần =
Lượng tiêu thụ trên thị trường
Doanh nghiệp có thị phần càng lớn thì độ lớn của thị trường, vai trò, vị trí của doanh nghiệp những chỉ tiêu này khó chính xác.
Doanh thu của đối thủ mạnh nhất:
Doanh thu
Thị phần so với đối thủ =
cạnh tranh mạnh nhất. Doanh thu của các đối thủ cạnh
tranh mạnh nhất.
Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính do đối thủ cạnh tranh thường có nhiều thông tin hơn và những thị phần mà đối thủ cạnh tranh mạnh nhất chiếm giữ thường là khu vực thị trường có lợi nhuận cao hơn và rất có thể doanh nghiệp cần phải chiếm lĩnh khu vực thị trường này. Nhưng khó có thể lựa chọn được đối thủ mạnh nhất
+ Tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận =
Doanh thu
Đây là chỉ tiêu đánh giá mức cạnh tranh trên thị trường. Nếu chỉ tiêu này thấp thì mức cạnh tranh là rất gay gắt, có nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Ngược lại nếu chỉ tiêu này cao có nghĩa là công việc kinh doanh thuận lợi, thu lợi cao.
+ Tỷ lệ chi phí cho Marketing.
Là một công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu, marketing rất được ưa chuộng. Chi phí cho marketing chiếm một phần không nhỏ trong tổng chi phí của doanh nghiệp.
Chi phí marketing Chi phí marketing
(1) (2)
Tổng doanh thu. Tổng chi phí.
Nếu chỉ tiêu (1) cao tức là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào marketing nhưng lại không hiệu quả. Do đó doanh nghiệp cần xem xét lại marketing cho phù hợp hơn mang lại hiệu quả cao hơn.
Nếu chỉ tiêu (2) cao nghĩa là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào marketing. Doanh nghiệp cần xem xét lại cơ cấu chi tiêu để đảm bảo lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp: Tăng chi phí cho nghiên cứu và phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh.
2.- Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam:
Đến đầu năm 2000, Việt nam có khoảng 6000 doanh nghiệp Nhà Nước, trên 30000 công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân. Cả nước có khoảng 12000 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều có khả năng cạnh tranh yếu thể hiện:
2.1 - Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm:
Theo đánh giá chung thì sản phẩm của doanh nghiệp Việt nam có chất lượng thấp, giá cả cao, mẫu mã, bao bì kém hấp dẫn. Cơ cấu sản phẩm đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu rất nghèo nàn, chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu thô, tỷ trọng mặt hàng chế tạo còn chiếm khá khiêm tốn. Hàng nông sản và nguyên liệu thô xuất khẩu giá đã thấp, thị trường lại không ổn định vì cả hai đều là những sản phẩm có cung cầu đều ít co dãn.
Theo số liệu khảo sát của diễn đàn kinh tế thế giới xếp thứ hạng cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế năm 1999 thì Việt nam đứng thứ 48 trong số 59 nước được khảo sát. Hơn nữa các doanh nghiệp không còn lợi thế lao động rẻ vì chất lượng lao động Việt nam thuộc nhóm yếu kém, tay nghề dưới tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu rủi ro trong môi trường kinh doanh. Việt nam được 32/100 điểm. Việt nam đang có nguy cơ đánh mất khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên không thể phủ nhận được những thành tựu của doanh nghiệp Việt nam trong cuộc xây dựng chiến lược sản phẩm. Chất lượng của sản phẩm được tăng lên đáng kể ở một số mặt hàng: nhóm hàng chế biến đặc biệt chế biến sâu tăng dần, nguyên liệu thô xuất khẩu giảm dần từ 90% kim ngạch xuất khẩu năm 1991 xuống còn 60% năm 1999 và 55% năm 2000. Nhóm hàng nông sản, lâm thuỷ sản tỷ lệ xuất khẩu cũng giảm tương ứng theo các năm 53% năm 1991; 36,5% năm 1999 và 35% năm 2000. Nhóm hàng tiểu thủ công nghiệp lại tăng từ 47% năm 1991 lên 63,5% năm 1999 và 65% năm 2000.
Cơ cấu mặt hàng cũng được mở rộng và phát triển rộng ra thị trường năm 1999 có tới 16 nhóm, mặt hàng xuất khẩu và 20 nhóm hàng lần đầu tiên thâm nhập vào một số thị trường. Đặc biệt cơ cấu mặt hàng chủ lực cũng thay đổi về số lượng: năm 1991 mới có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực: xuất khẩu dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may với kim ngạch từ 100 triệu $ trở lên đến năm 2000 có thêm 8 mặt hàng chủ lực là cà phê, ca cao, giầy dép, hàng điện tử, than đá, thủ công mỹ nghệ, hạt điều, rau quả.
2.2 - Giá cả sản phẩm:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam không những chủ yếu về cơ cấu mà không có khả năng cạnh tranh về giá cả. Hạn chế về vốn dẫn tới tận dụng những công nghệ lạc hậu hoặc những sản phẩm thô để xuất khẩu. Giá tiêu dùng trong nước thì cao hơn giá hàng hoá cùng loại nhập khẩu vào từ 2-3 lần. Giá xuất khẩu thì lại thấp hơn so với giá của sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh vì chất lượng thấp. Khắc phục vấn đề giá cả các doanh nghiệp phải thực hiện đồng bộ các chiến lược khác nhau, kết hợp chiến lược kinh doanh với chiến lược công nghệ, chiến lược thị trường và chiến lược nguồn nhân lực.
Trong nền kinh tế thị trường giá cả phải được hình thành ngay trên thị trường. Tuy nhiên thực tế giá cả chưa chắc đã phản ánh đúng sự chấp nhận của thị trường mà nó có thể bị bóp méo bởi sự can thiệp của Nhà nước. Hiện tại nước ta chưa hề có một chính sách cạnh tranh cho các doanh nghiệp theo đó mà tuân thủ, vẫn tồn tại các yếu tố độc quyền ngay ở trong cơ chế. Chính điều này giá cả cạnh tranh trên thị trường có thể cao hơn giá thị trường do có lợi thế độc quyền.
+ Chất lượng sản phẩm:
Trong thời gian qua, hàng xuất khẩu Việt nam đã thâm nhập vào một số thị trường khó tính trên thế giới như Nhật bản, Mỹ và các nước EU. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng xuất khẩu của Việt nam ngày càng cao. Tuy nhiên nó vẫn chưa đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nguyên nhân chính là khâu tổ chức thu mua chưa tốt, nông dân mải chạy theo năng suất nên chất lượng còn kém. Công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch phát triển chậm, không theo kịp tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất. Số lượng doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn chất lượng HACCP còn rất ít. Điều đó là nguyên nhân làm cho giá hàng Việt nam trong nước thì cao hơn so với sản phẩm cùng loại nhập khẩu đến hai, ba giá. Đặc biệt đối với hàng xuất khẩu chưa thể có uy tín trên thị trường nên vẫn phải xuất nhờ bao tiêu hoặc dưới hình thức, mẫu mã của nước khác.
+ Nguồn vốn của doanh nghiệp.
Nguồn vốn của doanh nghiệp nước ta có quy mô còn nhỏ bé. Phần lớn những doanh nghiệp nhỏ có vốn hoạt động dưới 1 tỷ đồng (số này chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp thương nhân quốc doanh) và phần lớn là các doanh nghiệp địa phương. Nếu doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 3 tỷ thì số này chiếm 70%. Doanh nghiệp có quy mô vốn vừa (từ 3 đến 10 tỷ) chiếm 30% tổng số doanh nghiệp còn lại là số doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hơn 10 tỷ.
Đặc biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương nhân quốc doanh còn yếu, thể hiện ở hiệu quả kinh doanh thấp. Có đến 80% các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ, có tỷ suất lợi nhuận / vốn thấp (dưới 8%), thậm chí lỗ hoặc không lãi. Đối với các doanh nghiệp có quy mô vốn vừa cũng không khả quan hơn, khoảng 70% doanh nghiệp có quy mô vốn này có tỷ suất lợi nhuận/ vốn lớn hớn 8%. Có khoảng 7% doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hơn 10 tỷ còn thua lỗ, trong đó 10% doanh nghiệp có quy mô vốn này có tỷ suất lợi nhuận / vốn (8% trở lên).
+ Nguồn nhân lực.
Thực trạng nguồn nhân lực nước ta so với yêu cầu đặt ra còn một khoảng cách khá xa thể hiện yếu điểm ở những mặt sau:
* Một là, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề còn rất thiếu so với nhu cầu hiện tại (chiếm 13% tổng số lao động). Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tỷ lệ các loại lao động kỹ thuật (1 kỹ sư / 1,6 trung cấp và 3 công nhân) trong đó ở các nước phát triển tỷ lệ này là 1 kỹ sư / 3 trung cấp và 10 công nhân.
Chính sự mất cân đối này ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu nguồn nhân lực của các doanh nghiệp Việt nam. Hiện tượng nhiều kỹ sư quá dẫn tới tình trạng thừa thầy thiếu thợ, tình trạng làm trái nghề là hiện tượng phổ biến. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
* Hai là, trình độ tay nghề của công nhân nhìn chung là thấp, chưa đáp ứng yêu cầu vận hành máy móc, kỹ thuật hiện đại để cho ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới (số công nhân bậc 1, bậc 2 chiếm 51% tổng số công nhân), thậm chí số công nhân bậc cao cũng chưa có tay nghề thực sự tương ứng với cấp bậc.
* Ba là, thái độ chấp hành kỷ luật lao động của công nhân còn kém, công nhân chưa quen với tác phong công nghiệp, đặc biệt ở nhiều doanh nghiệp, công nhân có tâm lý không muốn vì nếu nâng bậc thì phải làm những công việc bậc cao hơn, không đảm bảo năng suất, thu nhập sẽ giảm.
* Bốn là, đội ngũ lao động quản lý tuy không thấp về trình độ sản xuất nhưng năng lực thực tế cũng chưa tương xứng với nhu cầu công việc hiện tại, chưa được trang bị những kiến thức kinh tế, quản trị kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, chưa được đào tạo những kỹ năng hiện đại.
* Năm là, đội ngũ quản lý cao cấp của doanh nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý (chiếm 49%).
Thực trạng trên cho thấy mặc dù nguồn lao động của nước ta rất dồi dào song chất lượng lao động còn là vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam.
+ Khoa học công nghệ .
Trong khi các công ty Nhật khả năng cạnh tranh của họ phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ hiện đại và trình độ lao động của người trực tiếp làm ra sản phẩm thì các doanh nghiệp Việt nam không những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực mà khoa học công nghệ cũng rất lạc hậu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt nam sử dụng công nghệ từ những năm 60, thậm chí còn lạc hậu tới hàng trăm năm. Điều này không những gây ô nhiễm môi trường mà còn gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Nói tóm lại, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam còn rất yếu. Đặc biệt các doanh nghiệp vẫn “bình chân như vại” trước sự phát triển của các quốc gia, sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thị trường quốc tê.
III - Khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu.
1 – Khái niệm lợi thế cạnh tranh của hàng hoá.
Lợi thế cạnh tranh trước hết là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường tạo nên sức hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng.
Nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh được thể hiện ở các mặt như: chất lượng sản phẩm, giá cả, khối lượng và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt của sản phẩm so với sản phẩm khác nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Lợi thế cạnh tranh còn là sự thể hiện tính kinh tế của các yếu tố đầu vào cũng như đầu ra của sản phẩm. Nó bao gồm chi phí cơ hội và năng suất lao động. Vì vậy, lợi thế cạnh tranh là nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược trong quá trình sản xuất, trao đổi mà suy cho cùng là: “chinh phục cả thế giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và chất lượng”. Lợi thế cạnh tranh chính là năng lực riêng biệt của doanh nghiệp được khách hàng ghi nhận và đánh giá cao. Chính năng lực riêng biệt này doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh trên thị trường bằng chính khả năng cạnh tranh hàng hoá của họ.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá là khả năng chiếm lĩnh thị trường, giữ vững và phát triển thị trường của hàng hoá đó. Một hàng hoá có khả năng cạnh tranh là hàng hoá đó phải thoả mãn và tạo niềm tin cho khách hàng hiện tại, thuyết phục khách hàng trong tương lai ở trong và ở trong và ngoài nước.
Như vậy, để một ngành, một sản phẩm tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì giá cả sản phẩm (đã điều chỉnh theo chất lượng) phải tương đương hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm cạnh tranh:
PjE < P*j
Trong đó:Pj – giá cả của sản phẩm tính theo tiền nội tệ
E – tỷ giá hối đoái.
P*j – giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh.
2 - Một số tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu:
Xác định khả năng cạnh tranh của hàng hoá là điều hết sức cần thiết, là cơ sở để tiến hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Đồng thời xây dựng chính sách hỗ trợ và điều tiết thích hợp với ngành kinh tế, lựa chọn chiến lược hội nhập phù hợp với từng doanh nghiệp, từng ngành.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá được đánh giá theo nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể là:
2.1 - Xét về mặt định lượng:
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá được đánh giá theo các tiêu thức khác nhau.
2.1.1 - Hệ số chi phí nguồn lực trong nước ( Domestic Resource Cost).
Là hệ số phản ánh chi phí thực sự mà xã hội phải trả để sản xuất ra một hàng hoá đó. Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) chỉ thay đổi theo lợi thế so sánh của quốc gia chứ không thay đổi bởi những tác động nhất thời. Do vậy nó mang tính ổn định tương đối và thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của từng ngành hàng.
Hệ số chi phí nguồn lực trong nước được xác định bởi:
DRC = (DCj)/IVAj
Trong đó: DCj : chi phí trong nước cho các yếu tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j.
IVAj : giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới.
Như vậy, Hệ số chi phí nguồn lực trong nước là tỷ lệ giữa chi phí của các nhân tố sản xuất tính cùng của sản phẩm, ngành sản phẩm theo giá quốc tế.
Nếu RDC < 1 cần lượng tài nguyên trong nước < 1 để tạo ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế. Ngành sản phẩm hay sản phẩm đó có lợi thế để phát triển.
Ngược lại, RDC > 1 thì cần lượng tài nguyên trong nước > 1 để tạo ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế. Khi đó ngành sản phẩm hay sản phẩm không có lợi thế để phát triển.
2.1.2 – Hệ số bảo hộ hữu hiệu ( Effective Protection Rate – EPR).
Giả sử ngành công nghiệp j sử dụng chi phí đầu vào i kết hợp với các nhân tố sản xuất lao động, vốn tạo ra giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của sản phẩm j. Mức bảo hộ hữu hiệu sẽ làm tăng giá trị gia tăng được định nghĩa là:
Ej = (V*j – Vj)/ Vj = V*j/(Vj –1)
Trong đó: Vj là giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá quốc tế (không có loại thuế nào đối với i và j
V*j là giá trị gia tăng trong nước (có thuế nhập khẩu).
Vj = Pj ( 1 – aij )
V*j = Pj ( 1+tj ) – aij ( 1 + ti )
Pj là giá thế giới của sản phẩm j.
ti : mức thuế nhập khẩu danh nghĩa của sản phẩm i.
aij : là hệ số trung gian của đầu vào, đối với sản phẩm j. Từ đó ta có:
ej = ( tj - aij) / (1 – aij ).
Về mặt lý thuyết thì EPR có thể âm, dương hoặc bằng 0.
Nếu EPR càng thấp thì hệ số bảo hộ hữu hiệu càng ít. Khi hệ số bảo hộ thực tế âm thì ngành đó không những không được bảo hộ mà còn chịu những bất lợi do chính sách ngoại thương gây ra. Song thực tế, những ngành có mức bảo hộ âm hoặc thấp vẫn tồn tại và phát triển. Đó chính là những ngành có lợi thế nhất định, sản phẩm và doanh nghiệp sản xuất ra chúng có khả năng cạnh tranh, mức cầu và thị trường tiêu thụ chúng ổn định.
Việc tính toán RDC giúp ta xác định khả năng cạnh tranh của hàng hoá nhưng còn cách đơn giản hơn ta sử dụng hệ số so sánh trông thấy.
- Hệ số lợi thế so sánh trông thấy ( Revealed Comparative Advantage– RCA)
RCA chỉ ra khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm trong mối tương quan với mức xuất khẩu của thế giới. RCA là phần của nhóm sản phẩm chiếm trong tổng kim ngạch của quốc gia chia cho phần của nhóm sản phẩm đó trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới.
i: nước i
W: thế giới
Xij : xuất khẩu mặt hàng i của nước j.
Xwj : xuất khẩu mặt hàng j của thế giới.
Nếu tỷ trọng xuất khẩu của nước i so với thế giới về mặt hàng j Xij / Xwj lớn hơn tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nước i so với tổng xuất khẩu của thế giới ồ Xij / ồ Xwj thì nước i có lợi thế so sánh về sản phẩm j.
Hệ số này càng cao thì lợi thế của hàng hoá càng lớn.
Nếu RCA1 < 1 thì nước i bất lợi khi sản xuất sản phẩm j. Nhưng RCA1 lại bỏ qua nhập khẩu nên không phản ánh chính xác lợi thế so sánh. Để khắc phục nhược điểm này người ta sử dụng công thức:
RCA2 = (Xij - Mị )/ ( Xij + Mij ).
RCA2 nhận giá trị từ –1 á +1. Nếu RCA2 > 0 thì nước i có lợi thế so sánh mặt hàng j, RCA2 < 0 thì nước i bất lợi thế so sánh về sản phẩm j; RCA2 = 0: hiện trạng không rõ ràng.
Các hệ số RCA dùng để đánh giá lợi thế so sánh của các ngành sản phẩm giữa hai nước khác nhau trong đó xuất khẩu và nhập khẩu tính cho từng nước riêng lẻ mà chúng ta cần so sánh.
1.2 - Xét về mặt định tính.
2.2.1 - Công nghệ sản xuất:
Thể hiện trình độ khoa học kỹ thuật của một doanh nghiệp cũng như của một đất nước. Doanh nghiệp nào có máy móc thiết bị hiện đại thì sản phẩm sản xuất ra có chất lượng và mẫu mã đẹp. Công nghệ sản xuất còn thể hiện tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mạnh hay yếu. Nó cũng cho phép doanh nghiệp tiết kiệm nguyên liệu, tinh chế sản phẩm sâu hơn. Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khoa học công nghệ phải là doanh nghiệp có khả năng hoặc có khả năng chi trả cao về mặt tài chính.
2.2..2 - Marketing.
Là khâu không thể thiếu được khi doanh nghiệp tung sản phẩm ra thị trường. Hàng hoá nào được quảng cáo càng nhiều, tiếp thị càng rộng rãi thì càng thu hút được sự chú ý của mọi người. Điều đó giúp họ hiểu sâu về hàng hoá mà họ đang dùng hoặc sẽ dùng. Đặc biệt là đối với hàng hoá xuất khẩu bởi người nước ngoài có rất ít thông tin về hàng hoá mà họ lại có rất nhiều hàng hoá để lựa chọn. Nếu không phải là hàng hoá đã nổi tiếng từ lâu thì rất khó để lựa chọn, công tác marketing giúp họ được điều đó.
Việc thực hiện tốt khâu marketing không những thu hút được khách hàng mà còn kích thích họ thử tiêu dùng một lần. Đây chính là thành công bước đầu của công tác marketing. Ngày nay, các doanh nghiệp đua nhau quảng cáo với những hình ảnh sống động nhất, tiếp thị rộng rãi nhất và ráo riết tham gia vào các hình thức triển lãm, hội chợ, thông qua đó cốt để sản phẩm của mình có tên trong sự lựa chọn của khách hàng và làm cho họ quyết định mua hàng hoá đó.
2.2.3 - Chất lượng, mẫu mã.
Chất lượng, mẫu mã là một tiêu chuẩn tối quan trọng của một hàng hoá. Chất lượng tốt được mọi người tin dùng, tạo ra những khách hàng trung thành. Trên thị trường hàng hoá rất đa dạng và phong phú nên việc xây dựng khách hàng trung thành là rất khó khăn muốn làm được đó thì khâu đầu tiên phải làm là phải chú ý tới chất lượng sản phẩm. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá sẽ là rất cao nếu hàng hoá được những khách hàng tuyệt đối tiêu dùng mà không dùng hàng hoá của bất kỳ một nơi nào khác.
Hàng hoá kém chất lượng không bao giờ làm được điều đó cho dù giá cả có rẻ bao nhiêu đi nữa, thậm chí có quảng cáo rộng rãi thì cũng chỉ đánh lừa khách hàng được một lần rồi sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường đó.
Mẫu mã của sản phẩm cũng rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Hai hàng hoá có chất lượng như nhau, hàng hoá nào có mẫu mã đẹp sẽ được khách hàng ưa chuộng hơn. Đời sống ngày một nâng cao (đặc biệt là ở các nước phát triển) thì tiêu chuẩn chất lượng đôi khi được xem nhẹ đi một chút và nhường chỗ cho mẫu mã sản phẩm. Nhu cầu sản phẩm không chỉ dừng lại ở chất lượng sản phẩm mà sản phẩm đó phải hợp thời và hiện đại nhất. Có thể chất lượng, mẫu mã sản phẩm là yếu tố đẩy nhanh sự tiêu thụ của hàng hoá .
Do đó để nâng cao chất lượng sản phẩm thì nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã phải được xem trọng hàng đầu.
2.2.4 - Tính kịp thời chính xác.
Đây cũng là yếu tố hết sức cần thiết để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Tại một thời điểm nhất định thị trường cần một lượng hàng hoá phù hợp với thời điểm đó. Khi đó sản phẩm nào được tung ra thị trường thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá là cao nhất, lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng cao nhất.
Tính kịp thời chính xác của sản phẩm là kết quả của một quá trình nghiên cứu, phân tích và dự đoán thị trường. Doanh nghiệp nào dự báo đúng thời điểm mà thị trường cần thì doanh nghiệp đó luôn chiế._. .
Tuy nhiên, chỉ riêng công nghệ thôi chưa đủ đảm bảo Tổng công ty thành công mà Tổng công ty cần biết liên kết yếu tố công nghệ, sản phẩm và kinh doanh để tung ra thị trường sản phẩm ,dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường đơn vị. Cụ thể Tổng công ty cần xây dựng chiến lược liên kết sản phẩm công nghệ kinh doanh dựa trên việc phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài môi trường kinh doanh. Nhưng trong điều kiện ngày nay khi mà công nghệ thay đổi với tốc độ nhanh chóng và sự xuất hiện của công nghệ hiện đại làm biến đổi cơ cấu cạnh tranh của nhiều ngành công nghiệp thì chỉ phân tích yếu tố bên ngoài chưa đủ sẽ dẫn tới thất bại trong dự đoán chiều hướng phát triển tương lai. Do đó Tổng công ty cần nắm bắt được chính xác vị trí công nghệ của mình so với đối thủ cạnh tranh và so với mặt bằng hiện đại thế giới. Từ đó Tổng công ty sẽ có kế hoạch chi tiêu phù hợp cho máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị đó sẽ giải quyết vấn đề then chốt trong kinh doanh như thời điểm tung ra thị trường, tăng dòng thu nhập của dự án đáp ứng yêu cầu tiếp thị và quy trình sản xuất phù hợp với định hướng phát triển công nghệ trong giai đoạn hiện tại và tương lai.
Dưới góc độ kinh doanh, công nghệ được coi là phần tử hỗ trợ kinh doanh. Bởi lẽ công nghệ đặt ra cơ hội cho kinh doanh bằng cách làm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Dưới góc độ công nghệ với vai trò công là kỹ năng của con người, công nghệ sáng tạo ra kinh doanh và kinh doanh là phần tử hỗ trợ cho công nghệ. Tóm lại các nhà hoạch định chiến lược của Tổng công ty cần phải xem hai mặt kinh doanh công nghệ là hai mặt của tờ giấy bạc. Chúng không thể vắng bất cứ mặt nào trong việc hình thành giá trị của tờ giấy bạc. Hai mặt này hỗ trợ cho nhau, liên kết với nhau để tạo thành giá trị, đó chính là thành công của Tổng công ty.
Sơ đồ 1 : Quá trình hình thành và phát triển chiến lược liên kết sản phẩm công nghệ kinh doanh .
Phân tích các yếu tố bên ngoài và bên trong
D.Vụ
SP
Thị trường
Chiến lược công nghệ
Chiến lược kinh doanh
Liên kết 2 chiến lược
Chiến lược liên kết
SPCNKD
Tác động của CNvới KD
Lựa chọn CN phù hợp
Thực hiện
CN
SP
Tthị
2.3.Giải pháp về vấn đề vốn.
Khó khăn chung của tất cả các đơn vị kinh doanh hiện nay là thiếu vốn nên nguồn vốn vay giữ vai tró quan trọng vì nó bổ sung nguồn vốn cơ bản trong suốt quá trình kinh doanh .Tuy nhiên Tổng công ty luôn phải mang nặng gánh nợ do lãi suất cao. Cơ cấu vốn không hợp lý (tỷ lệ nợ ngắn hạn lớn 58,57% tổng nguồn vốn). Từ những khó khăn về vốn đã hạn chế rất nhiều khả năng phát triển cr Tổng công ty:huy động vốn thiếu không đủ trang trải khi thu gom nguyên vật liệu ,công nghệ lạc hậu dẫn tới chiến lược sản phẩm lạc, cafe, hạt tiêu còn kém ,bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Khắc phục vấn đề vốn hạn chế, mất cân đối vốn Tổng công ty phải xem xét lại cơ cấu vốn cho hợp lý, chặt chẽ phù hợp với quy mô vốn của Tổng công ty, tránh lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn vay ngắn hạn. Khi đi vào các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư theo chiều sâu cần phải có nguồn vốn ổn định. Không chạy quá nhiều dự án sẽ gây tình trạng mất cân đối tài chính.
Mặt khác phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hiện nay hiệu quả hoạt động còn thấp chỉ đạt 1,6. Bởi vốn sử dụng không có hiệu quả làm cho nợ đọng nhiều ma lợi nhuận lại không cao. Đây là một giải pháp rất tích cực nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng vốn kéo dài mà hoạt động lại thua lỗ. Đồng thời tiến hành cổ phần hoá thu hút vốn của các cổ đông. Trong năm 2000, Tổng công ty đã hoàn thành việc cổ phần hóa 3 đơn vị là Trung tâm vận tải và Đại lý vận tải (thuộc công ty vận tải và đại lý vận tải). Công ty xuất nhập khẩu hạt điều và hàng nông sản thành phẩm, xí nghiệp sản xuất và dịch vụ vật tư Đông Anh. Các công ty đơn vị được cổ phần hóa đều hoạt động tốt và có hiệu quả.
Năm nay công ty Xây dựng và sản xuất vật liệu vẫn đang tiếp tục được thực hiên. Đây là những kết qủa nhằm tháo gỡ dần tình trạng thiếu vốn của Tổng công ty đặc biệt là vốn kinh doanh .
Theo số liệu thống kê năm 2000 tổng số vốn huy động trong năm là 1197 tỷ đồng: trong đó vay ngắn hạn là 1099 tỷ đồng, gấp 11 lần vốn kinh doanh. Đây là một trong những nhân tố làm chi phí kinh doanh của các đơn vị cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp tốt nhất giải quyết vấn đề thiếu vốn của Tổng công ty.
2.4. Giải pháp thị trường .
Tập trung phát triển thị trường, coi thị trường là yếu tố quan trọng quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư . Củng cố phát huy thị trường truyền thống và tích cực mở rộng các thị trường mới như : Trung Quốc, Mỹ, Australia, ,Hà Lan, Canada, Singapore, bảo đảm duy trì và tăng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng điều, tiêu, cafộ, lạc nhân và nông lâm sản khác. Tăng cường nghiên cữu thị trường để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu chính ngạch, hạn chế xuất khẩu sang thị trường trung gian.
Đẩy mạnh nghiên cứu phân đoạn thị trường, xác định tiềm năng, xây dựng định hướng phát triển sản phẩm thị trường cho các đơn vị .Một hạn chế trong công tác thị trường của Tổng công ty là chưa xác định đâu là thị trường chủ lực trong chiến lược thị trường của mình.
Nên phân đoạn thị trường xác định tiềm năng ở từng thị trường là rất quan trọng: đối với Tổng công ty mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang Singapore là cao nhất, nhưng Singapore không phải là một thị trường tiềm năng của Tổng công ty do hạn chế về dân số, diện tích mà phải là thị trường Trung Quốc. Với diện tích và dân số lớn đầu tư, nhu cầu tiêu thụ rất cao, yêu cầu về chất lượng không cao lắm, Trung Quốc thật sự là một thị trường lớn trong chiến lược thị trường của Tổng công ty. Thị trường Mỹ mới chiếm tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu nhỏ của Tổng công ty, một số thị trường mà Tổng công ty còn bỏ ngỏ mặc dù đã có quan hệ từ lâu, khả năng kinh doanh đạt hiệu quả cao là rất dễ dàng như khu vực Đông Nam á : Lào, Campuchia.
Nhằm tránh tình trạng tranh mua, tranh bán làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu tạo cơ hội cho Tổng công ty có hiểu biết sâu về thị trường khu vực. Đổng thời tránh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu. Cơ chế quản lý giá xuất khẩu cần thích hợp với từng thị trường và linh động trong mỗi một giai đoạn.
Hoàn thiện hệ thống tổ chức Tổng công ty và các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu và thiết lập một hệ thống chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả có kế hoạch marketing quản cáo khiến mại. Tổng công ty đóng vai trò là đầu mối giao dịch xuất khẩu chính chịu trách nhiệm về vấn đề xuất hàng và thanh toán. Còn các chi nhánh khác đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Tổng công ty chịu trách nhiệm đầu tư hỗ trợ vốn , cung cấp thông tin...,thường xuyên đưa ra các tiêu chuẩn và giải pháp cải tiến chất lượng sản phẩm cho phát triển sản xuất và xí nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng hàng xuất khẩu. Ngược lại các xí nghiệp có trách nhiệm cung ứng hàng đảm bảo đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất khẩu, đúng thời gian, địa điểm. Như vậy thì việc sản xuất chế biến xuất khẩu mới hoạt động có hiệu quả, việc xâm nhập thị trường mang hiệu quả cao.
Tổng công ty thực hiện chương trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm, thị trường một cách quy mô và hệ thống. Nghiên cứu thành lập bộ phận nghiên cứu phát triển mang tính chuyên môn cao.
Tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược thị trường, chiến lược đầu tư của Tổng công ty trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới. Xúc tiến thành lập hiệp hội hạt tiêu Việt Nam.
Phối hợp công tác phát triển thị trường giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên, các thành viên với các thành viên, đầu tư tài chính, nhân sự có khả năng để xây dựng và phát triển thị trường.
Xây dựng Websize giới thiệu về Tổng công ty, các đơn vị thành viên, các mặt hàng chiến lược của Tổng công ty.
2.5. Giải pháp về con người
Một hạn chế lớn của các Tổng công ty nói chung và Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản thành phẩm chế biến nói riêng là vấn đề quản lý, tổ chức kinh doanh. Việc Tổng công ty chia thành nhiều nhóm kinh doanh độc lập để phát huy nội lực tổ chức, quản lý kinh doanh các phòng ban đã tạo ra sự chèn ép ngay trong nội bộ văn phòng Tổng công ty. Mặt khác do không phân biệt rõ trách nhiệm và quyền hạn của các phòng ban ở Tổng công ty nên quá trình thủ tục hành chính còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên hạn chế này năm 2000 đã được khắc phục dần bằng cuộc chuyển giao giữa các thế hệ Tổng công ty và nhiều đơn vị thành viên. Chính cuộc chuyển giao này sẽ mang lại sự phối hợp, cơ chế làm việc nhịp nhàng giữa Hội đồng quản trị, Ban điều hành, lãnh đạo đơn vị thành viên cho phép khai thác sự sáng tạo nhưng lại phát huy được tập thể trong quản lý.
Việc quản lý điều hành các hoạt động chung của Tổng công ty và các đơn vị phải sâu xát hơn. Các ủy viên Hội đồng quản trị, lãnh đạo Ban điều hành, thường xuyên đi kiểm tra chỉ đạo các đơn vị thành viên, chi nhánh, nhất là trong công tác phát triển dùng nguyên liệu cho các dự án, việc thực hiện các dự án.
Tổng công ty nên duy trì chế độ họp giao ban hàng tháng, nhằm kiểm điểm họat động của từng đơn vị, đánh giá biến động của từng môi trường. Đưa ra biện pháp xử lý kịp thời và có thông báo kết luận của từng cuộc họp gửi tới từng đơn vị thành viên.
Đối với các dự án liên doanh, ban điều hành phải có chế độ cụ thể rõ ràng cho công tác quản lý tại các dự án liên doanh, tham gia tích cực vào hướng dẫn các liên doanh sản xuất, kinh doanh cắt giảm chi phí nâng cao hiệu quả. Hội đồng quản trị và ban điều hành cũng phải có những quyết sách đúng, kịp thời cho việc chỉ đạo công tác liên doanh.
Về công tác sử dụng nguồn nhân lực Tổng công ty tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giỏi có trình độ tin học ngoại ngữ tốt, sử dụng thông thạo các hệ thống thông tin: LAN, WAM, ITERNET và E.Mail tiếp cận E.Commerce, xây dựng đội ngũ cán bộ nguồn để chuẩn bị các lớp cán bộ kế cận đảm bảo tính liên tục, có tính hệ thống và thực hiện dân chuyển cán bộ.
3. Chính sách nhà nước
3.1. Xây dựng chính sách
Khác với nền kinh tế thị trường truyền thống nơi xu hướng độc quyền xuất phát từ bản thân các lực lượng thị trường trong quá trình cạnh tranh. Nên việc xây dựng chính sách cạnh tranh chống độc quyền trước hết là nhằm hạn chế các nhân tố độc quyền của lực lượng thị trường.
Trong khi đó ở các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, kế thừa di sản kinh tế kế hoạch hóa tập trung với tính độc quyền nằm ngay trong cơ chế quản lý nên chính sách cạnh tranh chống độc quyền trước hết là nhằm hạn chế các nhân tố độc quyền trong cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Thực chất của đổi mới kinh tế là quá trình gỉai độc quyền của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà những gì làm được cho tới nay tuy không ít nhưng cũng chỉ bắt đầu.
Chính sách cạnh tranh được hiểu là tăng cường và khuyến khích cạnh tranh nhằm đảm bảo thị trường họat động có hiệu quả. Theo nghĩa rộng có thể xem đó là tất cả các biện pháp tạo một môi trường cạnh tranh kinh tế chung nhằm duy trì được sự tăng trưởng bền vững.
Chính sách cạnh tranh là biện pháp tạo ra một môi trường cạnh tranh mà điều kiện để có một môi trường cạnh tranh là các thành viên trên thị trường được đảm bảo cạnh tranh bình đẳng. Sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu trên bình diện vĩ mô tạo khung pháp lý về quyền sở hữu và tự do kinh doanh, sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô, đầu tư vào cơ sở hạ tầng... thực tế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không có sự bình đẳng, sự ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước là kìm hãm khả năng cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp đặc biệt là Tổng công ty. Ngay từ đầu việc thành lập các Tổng công ty là mong muốn xây dựng chúng thành những tập đoàn kinh tế mạnh. Song thực tế chúng lại đi ngược lại, chúng được hưởng những ưu đãi hơn hẳn những doanh nghiệp khác thì các Tổng công ty này lại cạnh tranh ngay trên “sân nhà”.
Cũng như bất kỳ nền kinh tế nào chấp nhận thị trường là một cơ chế đảm bảo hiệu quả cho các họat động kinh tế, Việt Nam cần có một chính sách cạnh tranh nhất là theo nghĩa rộng.
3.2. Môi trường cạnh tranh
Trước hết môi trường cạnh tranh kinh tế chung của Việt Nam chở nên xấu hơn trong 2 đến 3 năm nay. Nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những điều đáng lo ngại trong việc thiết lập và duy trì các nhân tốt tạo tăng cường bền vững liên quan đến đầu tư và thiết bị trong nước, cán cân thanh toán, tính hiệu quả của khu vực, doanh nghiệp Nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng, chế độ thương mại... minh bạch chính sách và hệ thống thông tin kinh tế. Theo đánh giá của WEF năm 1997 nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 49 trong số 53 nước xét theo sự đảm bảo của môi trường kinh tế chung cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Điểm yếu của Việt Nam thể hiện ở cả 7 trong 8 nhóm nhân tố (mức độ mở cửa xét dưới góc độ chính sách, vai trò chính phủ, tài chính ngân hàng, kết cấu hạ tầng công nghệ quản trị lao động và thể chế) ngoại trừ nhân tố Chính phủ được đánh giá là tương đối tích cực. Nhưng ngay ở đây, tính không hiệu quả của đầu tư nhà nước, khu vực doanh nghiệp Nhà nước, mức độ minh bạch chính sách tệ quan liêu cũng là những vấn đề nghiêm trọng.
Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 39 trong số 53 nước, xong vẫn xếp sau các nước nền kinh tế ASEAN mới nổi đang chịu khủng hoảng nặng nề. Năm 1999 thứ tự xếp hạng nền kinh tế Việt Nam lại bị đẩy lùi về phía 48 do hình thành các nước được cải thiện nhờ đẩy nhanh cải cách.
Nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn có những đặc trưng cơ bản về pháp lý, thể chế cấu trúc thị trường và hành vi trên thị trường của một nền kinh tế chuyển đổi và kém phát triển.
Khuôn khổ pháp lý còn quá chú trọng đến một loạt hình sở hữu để tạo ra sân chơi trong khi quyền sở hữu và bảo hộ quyền sở hữu còn thiếu rõ ràng, tính cưỡng chế của pháp luật và hợp đồng thương mại còn yếu. Chính nhiều khía cạnh pháp lý thể chế của Nhà nước đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì một cấu trúc thị trường thiếu cạnh tranh và khuyến khích các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Cấu trúc thị trường có nét đặc trưng nổi bật và dễ nhận thấy là sự độc quyền và chi phối thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện trạng chủ đạo thị trường của khu vực doanh nghiệp Nhà nước lại được tăng cường bằng sự ra đời một loạt Tổng công ty 90 và 91 và các liên doanh với nước ngoài với chỉ làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền ở Việt Nam không phải là kết quả của quá trình tích tụ nhằm đạt tới quy mô tối thiểu hóa chi phí trung bình mà cơ bản là do Nhà nước xây dựng nên và”nuôi dưỡng”. Trong khi đó khu vực tư nhân đặc biệt là khu vực công ty trên thực tế còn bị kìm hãm phát triển và vẫn chưa có một sân chơi bình đẳng.
Với khung pháp lý và cấu trúc thị trường như vậy gây ra sự chạy chọt lợi ích vây quanh khu vực kinh tế Nhà nước của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp không hoặc rất ít đầu tư vào R & D, Marketing và đào tạo huấn luyện thay vào đó doanh nghiệp thường trú trọng quá mức đến thái độ của Nhà nước với tính cách là tăng nhân lớn đến kết quả kinh doanh.
Trong điều kiện vậy, cải thiện cơ bản môi trường cạnh tranh kinh tế là vấn để có ý nghĩa hàng đầu đối với cạnh tranh nhằm mục tiêu duy trì sự tăng trưởng bền vững. Điều này đồng nghĩa với việc thực hiện một chương trình cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc biệt cải cách triệt để đối với hệ thống ngân hàng, đầu tư Nhà nước vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Minh bạch hóa chính sách nâng cao chất lượng thông tin và khả năng tiếp cận thông tin kinh tế một cách có hệ thống. Thực hiện tự do hóa thương mại cũng tạo ra những áp lực thúc đẩy cạnh tranh và các quá trình cải cách pháp lý và hành chính.
Tuy nhiên khuôn khổ pháp lý của Việt Nam phải có một nhìn nhận nhất quán từ quan niệm, mục tiêu cho đến phạm vi bao quát chung cho vấn đề cạnh tranh. Việt Nam cần có luật cạnh tranh xong phạm vi điều chỉnh và xử lý của Luật đến đâu là thích hợp là vấn đề.
Để xây dựng môi trường cạnh tranh phải có cách tiếp cận cạnh tranh như thế nào để có biện pháp xử lý thích hợp. Trên thực tế có 3 cách tiếp cận cơ bản: Điều tiết, độc quyền và sự chi phối thị trường ngăn cấm quan hệ ứng sử hạn chế phải cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực của chính sách Nhà nước đối với cạnh tranh (quan điểm tạo môi trường cạnh tranh). Theo quan điểm tạo môi trường cạnh tranh cần loại bỏ, hạn chế đáng kể các rào cản pháp lý chính sách về nhập cuộc rút lui khỏi thị trường và sự phân biệt đối sử trong tiếp cận và giảm thiểu vấn đề xung đột lợi ích của bộ máy quản lý Nhà nước. Điều chỉnh, xử lý các hành vi hạn chế, phản cạnh tranh cũng là một trọng tâm của việc xây dựng luật cạnh tranh. Một số khía cạnh liên quan đến điều tiết độc quyền cũng nên được tính đến. Tuy nhiên việc xem xét theo quan điểm điều tiết cũng có thể rất hạn hẹp vì điều này còn phụ thuộc vào tư duy của Nhà nước về vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp nhà nước kể cả hệ thống tài chính, ngân hàng thương mại và quá trình cơ cấu lại cấu trúc của thị trường thông qua cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và khuyến khích khu vực tư nhân nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Hiện nay Việt Nam cần có một chính sách cạnh tranh nhằm tăng cường hiệu quả kinh tế nhằm góp phần duy trì kinh tế bền vững. Sự nhìn nhận tổng thể về chính sách cạnh tranh đòi hỏi Việt Nam thực sự có những cải cách kinh tế và hành chính đồng bộ và triệt để. Minh bạch hóa chính sách và hoàn thiện hệ thống thu nhận thông tin kinh tế để Việt Nam có thể xây dựng được một khuôn khổ pháp lý về cạnh tranh toàn diện có tính tới tất cả các khía cạnh về xử lý, điều tiết độc quyền, ngăn cấm hạn chế các hành vi phản cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ những cản trở không cần thiết đối với những cạnh tranh do pháp lý, chính sách hiện hành gây ra. Sức mạnh của Nhà nước không phải ở việc nắm giữ trong tay nhiều Công ty các loại mà ở khả năng thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội của mình thông qua việc thúc đẩy cạnh tranh, thực hiện thích hợp các cơ sở vĩ mô và cung cấp dịch vụ có chất lượng.
Hy vọng rằng bằng việc phân tích hiện trạng khả năng hiện nay của Tổng công ty cũng như chính sách môi trường cạnh tranh của nước ta, từ đó đưa ra những giải pháp cho Tổng công ty hoạt động sẽ hiệu quả hơn. Song để hội nhập kinh tế, quốc tế thành công không chỉ nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa mà nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và cấp nhà nước là điều hết sức cần thiết. Trong đó cho thấy vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc tạo lập chính sách cạnh tranh và thiết lập môi trường lành mạnh.
3.3. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản.
Ngoài việc thiết lập chính sách cạnh tranh tạo môi trường cạnh tranh tốt cho các doanh nghiệp hoạt động nói chung, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nông sản cũng cần có chính sách hỗ trợ công nghệ chế biến, hỗ trợ xuất khẩu nông sản….
3.3.1. Hỗ trợ công nghệ chế biến.
Để hàng nông sản đáp ứng được yêu cầu về chất lượng trong quá trình chế biến, Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ công nghệ chế biến nông sản cho các cơ sở sơ chế, các doanh nghiệp thông qua chương trình giới thiệu rộng rãi các tài liệu và trình diễn công nghệ mới, hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu và cải tiến công nghệ đang áp dụng và có chính sách khuyến khích nâng cao công nghệ chế biến thông qua thuế, tín dụng, khấu hao.
Nhà nước cần hỗ trợ việc đào tạo và hướng dẫn hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu để người sản xuất và chế biến nắm rõ được các yêu cầu chất lượng để đầu tư đúng hướng và tăng cường quản lý chất lượng đồng bộ đối với các nông sản xuất khẩu.
Sớm thành lập và đưa vào hoạt động quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để trong mọi trường hợp đều tiêu thụ hết hàng hoá nông sản.
3.3.2. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế.
Để tạo điền kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu, Nhà nước nên thành lập các trung tâm xúc tiến xuất khẩu nông sản để trợ giúp các nhà sản xuất chế biến và kinh doanh xuất khẩu nông sản ở Việt Nam. Các trung tâm này sẽ nắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp tổ chức xúc tiến xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài kịp thời nhất. Về lâu dài sẽ tiến tới thiết lập một Ngân hàng dữ liệu cho từng thị trường nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho các doanh nghiệp khi cần thiết. Tạo điền kiện và trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội trợ nông sản quốc tế nhằm giới thiệu về hàng nông sản Việt Nam cho toàn thế giới, thu hút sự chú ý của khác hàng.
Chú trọng công tác nghiên cứu cơ bản về dự báo dài hạn tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản trên thế giới để cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế trong nước và hướng dẫn người sản xuất xuất khẩu .
3.3.3. Các hình thức khác
Ngoài hai hình thức hỗ trợ trên Nhà nước cũng cần cải tiến tổ chức quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng phân khu vực thị trường cho các đầu mối xuất khẩu lớn như các Tổng công ty để tạo hướng chuyên sâu về khu vực thị trường, hạn chế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp của ta làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Xây dựng cơ chế quản lý giá, lãi suất, thuế, tỷ giá và dự trữ xuất khẩu linh hoạt nhưng phải nằm trong khuôn khổ nhất định.
Nghiên cứu xây dựng và triển khai quỹ tài trợ xuất khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu bằng các nguồn khác nhau như: Ngân sách Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản theo tỷ lệ lợi nhuận khi giá xuất khẩu tăng nhanh hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh giảm ở mức độ lớn tỷ giá đồng nội tệ.
Nghiên cứu áp dụng hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong trường hợp cần thiết như cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng, hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, kể cả với các thị trường nhập khẩu chủ yếu sản phẩm Nông nghiệp.
Nghiên cứu, xây dựng và hình thành quỹ khai thác thị trường xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu nhằm trợ giúp cho hoạt động marketing ở thị trường nước ngoài.
Xúc tiến nhanh việc hình thành các hiệp hội xuất khẩu đổi với sản phẩm chủ yếu, đối với sản phẩm xuất khẩu khối lượng còn nhỏ có thể thành lập các hiệp hội theo các sản phẩm cùng nhóm
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty Vinafimex.
Trên thương trường, các yếu tố nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh độc quyền, chiếm thị trường của sản phẩm bao gồm hai yếu tố chính là:
* Các yếu tố về giá cả: Bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí vận chuyển đóng gói, quảng cáo và Marketing sản phẩm, lợi nhuận … Nói chung tất cả các chi phí liên quan đến việc dưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ, tính gộp vào cả giá bán hàng
* Các yếu tố phi giá cả: các yếu tố này ngày càng trở nên quan trọng hơn khi mà vấn đề cung cấp sản phẩm nhu cầu, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng vào đúng thời điểm hoặc đúng mùa vụ tiêu thụ ngày càng được người tiêu dùng có thu nhập cao tại các nước phát triển quan tâm.
Đối với yếu tố giá cả, hầu hết các sản phẩm nông sản của Tổng công ty đều bán ra với mức giá thấp hơn nhiều so với giá sản phẩm cùng loại của các nhà cung cấp ở các nước khác. Trong điền kiện phương tiện bảo quản và thiết bị chế biến thô sơ hầu như không có cơ hội để sản phẩm của Tổng công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ có tiềm lực mạnh mẽ trên mọi phương diện đặc biệt là tiềm lực tài chính để nâng cao đầu tư phát triển sản xuất trên quy mô lớn, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy trong những năm tới Tổng công ty phải ra sức khai thác triệt để các yếu tố phi giá cả để tăng khả năng cạnh tranh nông sản xuất khẩu đặc biệt là một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Các yếu tố quan trọng nhất mà bất kỳ một nhà nhấp khẩu nào cũng phải quan tâm đặc biệt là các bạn hàng khó tính trên thị trường có sức tiêu thụ cao đồng thời có nhiều đòi hỏi nghiêm ngặt về mọi phương diện liên quan đến mặt hàng là chất lượng sản phẩm và cung cấp hàng đúng thời hạn cam kết. Đây là hai vấn đề có tính sống còn để sản phẩm của Tổng công ty có thể tồn tại và đứng vững trên thương trường quốc tế.
Để nâng cao chất lượng nông sản, Tổng công ty cần tiến hành các biện pháp cụ thể trên các phương diện sau.
* Khâu thu mua.
- Tăng cường thu mua nhanh, kịp thời vụ với số lượng lớn, chất lượng đồng đều. Đòi hỏi khả năng huy động vốn nhanh, công tác thu mua khép kín.
- Cần thiết lập mối quan hệ lâu dài, tin tưởng với nhà cung cấp, nông dân bằng cách đặt tiền cho nông dân trước mùa thu hoạch nhằm khuyền khích họ có vốn để chăm bón tốt nâng cao chất lượng.
* Không chế biến và kiểm tra trước khi xuất khẩu
- Đầu tư đồng bộ xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho cơ sở và hệ thống sơ chế, chế biến thành phẩm và kho bảo quản chuyên dùng tại nơi sản xuất và tại cảng hàng nông sản xuất khẩu.
- Tích cực đầu tư, liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng trung hoặc dài hạn để đầu tư các cơ sở chế biến sản phẩm cho chất lượng cao, bao bì đẹp, hấp dẫn các sản phẩm xuất khẩu
- Thực hiện nghiêm chỉnh các khẩu kiểm tra chất lượng trước khi giao hàng, đảm bảo hàng xuất đúng yêu cầu đã ký trong hợp đồng.
* Khâu lưu thông vận chuyển.
- Đầu tư đóng hoặc nhập khẩu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng, phương tiện có kho lạnh, nâng cấp thiết bị vận chuyển đảm bảo hàng không bị hư hao, mất mát hoặc suy giảm chất lượng trên đường vận chuyển.
Về cam kết thực hiện
Qua tìm hiểu phân tích đánh giá hàng hóa xuất khẩu nói chung và xuất khẩu chủ yếu nói riêng của Tổng công ty còn yếu. Để phát triển thành công trong hội nhập, thiết nghĩ Tổng công ty cần thiết thực hiện những vấn đề hết sức cần thiết mà Tổng công ty chưa làm hoặc làm chưa tốt.
* Xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển kinh doanh dài hạn cho Tổng công ty. Qua đó Tổng công ty sẽ xác định được vị thế của mình ở đâu, mục tiêu là gì, những khó khăn là giải pháp để đạt được mục tiêu đó. Hiện nay Tổng công ty mới chỉ xây dựng kế hoạch cho từng năm còn chưa có kế hoạch dài hạn. Điều này cho thấy Tổng công ty còn chưa chú trọng đến công việc xây dựng một chiến lược nói chung và công tác kế hoạch hóa nói riêng.
* Hiện nay vấn đề vốn và cơ cấu vốn của Tổng công ty là rất hạn chế, trong đó tỷ lệ vay ngắn hạn lãi rất cao. Đây cũng là điều phải khắc phục ngay bằng cách: Tiến hành xúc tiến cổ phần hóa các đơn vị thành viên đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề then chốt quan trọng nhất và hiệu quả nhất. Đồng thời điều chỉnh cơ cấu vốn cho hợp lý cơ cấu chi tiêu cho thích hợp với khả năng tài chính của Công ty.
* Để chủ động nguồn hàng Tổng công ty cần xây dựng một hệ thống thu mua chọn gói, thiết lập những cụm điểm thu mua hàng tránh lãnh phí vận chuyển và không có được nguồn hàng có chất lượng đồng đều. Chủ động nguồn hàng sẽ cho phép Tổng công ty tận dụng hết công suất của máy móc.
* Để trở thành tập đoàn kinh tế mạnh, Tổng công ty VinaFimex phải có nhìn nhận lại cơ cấu tổ chức quản lý điều hành của mình hiện nay. Chấm dứt tình trạng dựa dẫm vào nhà nước phát huy sức mạnh của từng đơn vị kinh doanh bằng cách giao kế hoạch từng năm, phải có kế hoạch nghiên cứu thị trường một cách sâu xát hơn và hệ thống hơn.
Trên đây là một số kiến nghị đưa ra nhằm nhấn mạnh bổ sung những biện pháp mà Tổng công ty thực hiện ngay trong thời gian tới.
Kết luận
Trong điền kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN thì công tác XNK hàng hoá đặc biệt là xuất khẩu nông sản chủ yếu có vị trí vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Xuất nhập khẩu hàng hoá là cầu nối giữa sản xuất, tiêu thụ và là công cụ quản lý của Nhà nước trong việc điều chỉnh và lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Hiện nay hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp XNK nói chung và của Tổng công ty VINAFIMEX nói riêng được đặc biệt chú trọng. Do vậy việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty càng khẳng định được vai trò quan trọng.
Trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Tổng công ty đã đạt được những thành công nhất định đặc biệt trong việc xây dựng nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Trong thời gian tới, điều nhân là mặt hàng ưu tiên số một của Tổng công ty, với uy tín đã có với khách hàng, hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình cũng như của các đối thủ cạnh tranh , huy vọng rằng với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nói chung và của hàng xuất khẩu nói riêng Tổng công ty sẽ cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, hội nhập thành công với nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian 12 tuần thực tập tại Tổng công ty ViNAFIMEX, kết hợp song song giữa lý luận và thực tiễn, tôi đã thực hiện đề tài: “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công tyVINAFIMEX”. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song hạn chế về thời gian thực hiện và trình độ của bản thân là nguyên nhân không thể tránh khỏi của những sai sót trong bải viết này. Bởi vậy tôi rất mong được sự chỉ dẫn của thầy giáo, sự góp ý của bạn đọc để luận văn tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Trần Đại cùng Ban Giám đốc, các cán bộ phòng XNK 5, phòng kinh tế tổng hợp để tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội tháng 05 năm 2001
Sinh viên
Vũ Thị Nhiên
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo hoạt động kinh doanh của Tổng công ty VINAFIMEX
Năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000
2. Tạp chí kinh tế và dự báo (Năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001)
3. Tạp chí kinh tế phát triển ( Năm 1998, 1999)
4. Tạp chí thương mại (Năm 1998, 1999, 2000, 2001)
5. Tạp chí kinh tế và phát triển (Năm 1998, 1999, 2000, 2001)
6. Tạp chí cộng sản (Năm 1999, 2000, 2001)
7. Giáo trình kinh tế chính trị II
8. Tạp chí con số và sự kiện (Năm 1999, 2000)
9. Tạp chí công nghiệp (Năm 1998, 1999)
Nghiên cứu kinh tế (Năm 1998,1999,2000)
Từ điển kinh tế
Marketing căn bản (Philip Kotter – Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 1998)
13. Giáo trình chiến lược kinh doanh (Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 1999)
14. Giáo trình kinh tế vi mô
15. Giáo trình kinh tế phát triển
16. Văn kiện đại hội VIII, dự thảo văn kiện đại hội IX và các văn bản khác.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0421.doc