Những giải pháp Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường nội địa của Công ty cổ phần may và Dịch vụ Hưng Long

Thực hiện công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một trong những chiến lược hàng đầu phát triển nền kinh tế nước ta. Cùng với các nước trên thế giới, nước ta đã và đang từng bước chuyển dịch dần nền kinh tế phù hợp với tình hình điều kiện môi trường kinh doanh chung của thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng nhìn nhận sự thay đổi phát triển một cách cơ bản trong việc xác định các chính sách chiến lược mục tiêu kinh doanh của mình. Có thể nói rằng một trong những chiến lư

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường nội địa của Công ty cổ phần may và Dịch vụ Hưng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc hàng đầu và quan trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam đưa ra đó là việc đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm là một trong những giải pháp được nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng bảo đảm uy tín và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Ngành dệt may nước ta là một ngành công nghiệp mũí nhọn trong công cuộc công nghiệp hóa - hiên đại hóa. Công ty Cổ phần May và Dịch vụ Hưng Long là một trong những công ty may được cổ phần tương đối sớm tại tỉnh Hưng Yên theo chủ trương của nhà nước. Trong thời gian qua bên cạnh hoạt động tăng cường xuất khẩu công ty còn xác định thị trường nội địa là một thị trường đầy tiềm năng cho sản phẩm của mình nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tiêu thụ và vấn đề đa dạng hoá sản phẩm. Sau một thời gian thực tế tìm hiểu tại công ty và những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường đã giúp tôi viết báo cáo thực tế: “Những giải pháp Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường nội địa của công ty Cổ phần may và Dịch vụ Hưng Long.” Báo cáo này bao gồm các nội dung sau: Chương I: Thị trường dệt và vấn đề đa dạng hoá sản phẩm dệt của doanh nghiệp Chương II: Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm của công ty May Hưng Long Chương III: Những định hướng và giải pháp nhằm đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường nội địa của Công ty May Hưng Long Có được nội dung và sự thành công của chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo cùng các phòng ban Công ty May Hưng Long và cô giáo hướng dẫn thực tập đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành. Do thời gian thực tế có hạn và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi kính mong được sự góp ý của các thầy cô và các anh (chị) để tôi có điều kiện hoàn thiện hơn nữa kiến thức của mình. Sinh viên: Đặng thế Vân CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG DỆT VÀ VẤN ĐỀ ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM DỆT CỦA DOANH NGHIỆP I. Thị trường và những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường dệt 1. Khái niệm thị trường Quy luật cung cầu thị trường là kim chỉ nam của chiến lược kinh doanh trong xu thế hội nhập toàn cầu trên thế giới hiện nay.Vấn đề xác định nhu cầu trên thị trường là một vấn đề hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, thị trường là một phạm trù kinh tế khách quan mà trên quan điểm marketing thì thị trường được định nghĩa như sau: “Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu hay mong muốn đó” . Như vậy quy mô của thị trường phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn vào lượng thu nhập, lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hoá thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Trên thực tế thị trường chỉ có thể ra đời, tồn tại và phát triển khi có đầy đủ 3 yếu tố sau: Thứ nhất, phải có khách hàng là các đối tượng mà doanh nghiệp quan tâm đầu tiên khi tiến hành kinh doanh trên một thị trường bất kỳ. Thứ hai, khách hàng có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chính là động lực chủ yếu của doanh nghiệp tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, khách hàng phải có sức mua đó là khả năng thanh toán chi trả để thoả mãn nhu cầu của mình. Thuật ngữ thị trường ban đầu ra đời được hiểu người mua và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hoá sản phẩm dịch vụ của mình nhằm thảo mãn nhu cầu. Tuy nhiên những người làm Marketing lại coi người bán hợp thành ngành sản xuất, còn người mua thì hợp thành thị trường. Mối quan hệ giữa ngành sản xuất và thị trường được thắt chặt với nhau qua thông tin, qua hàng hoá dịch vụ và tiền. Sơ đồ 1: Quá tình trao đổi hàng - tiền - thông tin Ngành sản xuất (Tập hợp những người bán) Thị trường (Tập hợp những người mua) Thông tin Hàng hoá dịch vụ Tiền Thông tin Thị trường là tập hợp những người mua có nhu cầu và có khả năng thanh toán khác nhau. Vì vậy nền kinh tế hiện đại ngày nay có rất nhiều thị trường mỗi thị trường là một nhu cầu khác nhau. Việc phân chia thị trường có nhiều cách khác nhau nhưng chúng ta xem xét ba thị trường cơ bản sau; Thị trường tiềm ẩn là tập hợp những người tiêu dùng tự công nhận có đủ mức độ quan tâm đến một thị trường hàng hoá nhất định của thị trường. Ví dụ: Đối với sản phẩm dệt may thời trang thì phụ nữ là một thị trường tiềm ẩn với nhu cầu cao và hết sức đa dạng. Một thị trường mà có khả năng thanh toán mua sản phẩm, quan tâm tiếp cận sản phẩm là thị trường hiện tại. Cuối cùng là thị trường mục tiêu là toàn bộ hay một đoạn của thị trường hiện tại mà công ty quyết định theo đuổi. Ví dụ: Thị trường mục tiêu của sản phẩm công ty May 10 là những khách hàng có thu nhập khá trở nên. 2. Vai trò của thị trường Kinh doanh là việc đầu tư tiền của công sức trí tuệ vào một phần hay toàn bộ qúa trình từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng nhằm mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận. Kinh tế thị trường là nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, các doanh nghiệp tự tìm lấy thị trường của mình và sản xuất ra hàng hoá. Như vậy, mục tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp là làm thế nào để tiêu thụ được nhiều hàng hoá dịch vụ để từ đó có thể đạt được mục tiêu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đầu tư vào sản xuất để thu lợi nhuận, có lợi nhuận các doanh nghiệp mới có khả năng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, lợi nhuận sẽ là nhân tố quyết định sự sống còn,tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Mọi hoạt động của doanh nghiệp dù bất kể hình thức nào đều nhằm vào mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Để thu được lợi nhuận, sản phẩm sản xuất phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường và được thị trường chấp nhận và tiêu dùng sản phẩm đó. Vì vậy, khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường từ đó sẽ quyết định tiến hành sản xuất sản phẩm gì? như thế nào? bán sản phẩm đó cho ai? Xuất phát từ nhu cầu thị trường thì hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh hiện nay đều tiến hành thành lập thực hiện các chiến lược Marrketing. Trong nền kinh tế thị trường khi khách hàng quyết định mua hàng hoá, dịch cụ của một doanh nghiệp điều đó có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp đã đáp ứng thoả mãn một nhu cầu nào đó của khách hàng nói riêng hay một thị trường nào đó nói chung. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thực sự là vì lợi ích của khách hàng và thông qua đó doanh nghiệp thu được lợi nhuận. Vì vậy, khách hàng trở thành trung tâm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và phát triển trên thị trường buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau nhằm thu hút nhiều khách hàng, nâng cao được lợi nhuận. Hoạt động trong môi trường cạnh tranh nên các doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác bằng cách nghiên cứu tìm kiếm thu thập những thông tin từ thị trường, nhu cầu thị trường để từ đó lập và tổ chức thực hiện sản xuất sản phẩm và kế hoạch Marketing cho sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Thị trường là nơi đánh giá, kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách biện pháp kinh tế của Nhà nước và các chiến lược mục tiêu của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, chiến lược chính sách cùng với các biện pháp phù hợp đúng đắn sẽ dẫn tới thành công, còn các doanh nghiệp yếu kém thể hiện sự sai lệch trong chiến lược và chính sách sẽ dẫn đến sự thất bại. Một ví dụ để chứng minh cho vấn đề xác định nhu cầu thị trường là rất quan trọng ta có thể nói đến đó là Tổng công ty dệt may Việt Nam. Do quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu hàng hoá. Trong năm 1991, thị trường Liên Xô và Đông Âu sụp đổ kèm theo sự tan rã của Hội đồng tương trợ kinh tế(SEV) đã làm cho việc xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đứng trước những khó khăn và thử thách lớn. Hàng loạt các xí nghiệp phải cắt giảm sản xuất, thất nghiệp gia tăng, hàng hoá sản xuất không được tiêu thụ do mất thị trường. Tóm lại, thị trường có những vai trò to lớn không thể phủ nhận đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cần phải ưu tiên giải quyết nó sẽ là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 3. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may Việt Nam Chuyển sang nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển trước sự cạnh tranh quyết liệt mạnh mẽ đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải huy động tốt mọi tiềm lực, nội lực của mình bằng cách chiếm lĩnh được thị trường, duy trì và phát triển thị trường. Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã làm tiền đề cho sự vận động diễn ra nhanh chóng, thị trường biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi nắm bắt các thay đổi của thị trường để từ đó có chiến lược phát triển hợp lý. Việc phát triển thị trường của doanh nghiệp thường được tiến hành theo hai hướng: - Phát triển thị trường tiêu thụ theo chiều rộng tức là phát triển hay mở rộng phạm vi địa lý, phạm vi không gian tiêu thụ sản phẩm. - Phát triển thị trường tiêu thụ theo chiều sâu tức là phát triển thông qua phân loại nhu cầu, thoả mãn tốt hơn từng nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó có thể nâng cao được doanh số bán. Việc khai thác và phát triển thị trường theo chiều sâu và chiều rộng phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Với ngành dệt may của nước ta cũng vậy, sự phát triển về thị trường tiêu thụ cũng chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau như: yếu tố của môi trường vĩ mô và các nhân tố của môi trường vi mô. 3.1. Ảnh hưởng của những nhân tố vĩ mô: * Các nhân tố kinh tế Đối với ngành dệt may nói chung hay ngành dệt nói riêng là những ngành tạo ra sản phẩm thuộc mặt hàng tiêu dùng thiết yếu trong xã hội hiện nay. Ví dụ như vải, quần áo, sợi, khăn, màn tuyn…Những mặt hàng này cũng chịu sự tác động trực tiếp thường xuyên của các nhân tố kinh tế như thu thập, tốc độ phát triển kinh tế, tỷ giá hối đoái, lao động và việc làm… Trong những năm gần đây kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường nước ta đã phát triển đi lên một cách rõ rệt. Cơ cấu ngành nghề có sự chuyển biến tích cực, đặc biệt từ năm 1995 ngành dệt may nước ta bước vào sự thay đổi mới. Mức tăng trưởng kinh tế nước ta trung bình ngày càng ổn định. GDP năm 2001 là 7,0% đến năm 2002 là 7,4% điều đó làm cho đời sống người dân ngày được nâng cao hơn, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm tăng lên không chỉ có nghành dệt may mà hầu hết các sản phẩm khác cũng được kích cầu mạnh. Hiện nay, nền kinh tế nước ta khá ổn định, tỷ lệ lạm phát được khống chế ở mức hợp lý không có những biến động mạnh. Tỷ giá hối đoái không sụt giảm quá nhiều, tiền đồng không bị mất giá trước các đồng ngoại tệ khác. Điều đó làm cho quá trình sản xuất trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài gặp nhiều thuận lợi. Phát triển sản xuất chính là phát triển quy mô cơ cấu doanh nghiệp từ đó ngành dệt may đã thu hút 20% lao động của nước ta. Ngoài những thuận lợi trong công cuộc phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành dệt may nói chung hay ngành dệt nói riêng thì vẫn tồn tại nhiều khó khăn bởi ảnh hưởng của nhân tố kinh tế như: sự cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… xâm nhập vào thị trường Việt Nam với giá thành thấp hơn và chất lượng mẫu mã đẹp hơn. Mặt khác còn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Đông Nam Á sau đó lan ra các khu vực kinh tế khác làm cho tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm dệt may của nước ta giảm đáng kể, tiêu dùng trong nước bị hạn chế do hàng ngoại xâm nhập vào. * Về nhân tố chính trị - pháp luật Từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế cùng các chính sách của Đảng và Nhà nước đã đóng góp cho nền kinh tế ngày càng phát triển vững mạnh. Với phương châm ngoại giao Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới đã giúp cho các doanh nghiệp nước ta nói chung hay ngành dệt may nước ta nói riêng có cơ hội hợp tác đầu tư với các đối tác nước ngoài và được Nhà nước bảo vệ thông qua các chính sách ưu đãi khác nhau. Đây chính là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nước ta. Với ngành dệt may Nhà nước bảo hộ bằng cách khuyến khích xuất khẩu, không đánh thuế xuất khẩu và đánh thuế rất cao vào những sản phẩm nhập ngoại. Ngoài những thuận lợi trên thì nhân tố chính trị - pháp luật cũng tạo ra một số khó khăn như: thủ tục đầu tư và các quy định đầu tư không thuận lợi cho các đối tác hay sự toàn cầu hoá nền kinh tế Việt Nam gia nhập vào WTO, AFTA. * Về nhân tố kỹ thuật công nghệ Sự phát triển của khoa học, công nghệ, kỹ thuật ngày càng nhanh và hiện đại. Cùng với sự trợ giúp của khoa học, công nghệ ngành dệt may nước ta ngày càng được hiện đại hoá hơn trong quá trình sản xuất, xoá bỏ dần công nghệ thủ công. Chính vì vậy, sẽ là điều kiện tốt để các doanh nghiệp nói chung hay ngành dệt may nói riêng có những thiết bị công nghệ tiên tiến phục vụ cho việc sản xuất ra những sản phẩm dệt đạt chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Ngành dệt may nước ta có 21 công ty dệt và ở mỗi thành viên này đã có chỗ đứng riêng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Ví dụ: Công ty dệt 8-3 với sản phẩm chủ yếu là vải đã hầu như bao phủ toàn bộ nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam. Hay công ty Hanosimex chuyên về quần áo dệt và khăn, công ty dệt Minh Khai Hà Nội chuyên sản xuất các loại khăn, màn phục vụ nhu cầu trong nước và quốc tế. Công ty May Hưng Long chuyên sản xuất áo Jacket, quần soóc…cho nhu cầu xuất khẩu và trong nước. Và một số các doanh nghiệp khác cũng có vị trí tốt trên thị trường như dệt Phong Phú, dệt 10-10, dệt Nam Định… Vì vậy, mỗi doanh nghiệp muốn ngày càng phát triển hơn thì việc đầu tư khoa học, công nghệ, kỹ thuật là hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. * Các nhân tố văn hoá xã hội và nhân khẩu học Ở nước ta hiện nay, ngành dệt may vẫn còn tồn tại phương thức sản xuất gia công và sản xuất theo đơn đặt hàng cho nên mọi yếu tố về văn hoá tập quán của người tiêu dùng không được quan tâm, nhu cầu của khách hàng là gì cũng không được chú ý quan tâm. Đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta khi đang chuyển dần phương thức kinh doanh mới là đưa sản phẩm của mình sang thị trường khác chứ không sản xuất theo đơn đặt hàng thì vấn đề văn hoá xã hội phải được quan tâm trong quá trình nghiên cứu sản xuất ra sản phẩm đáp ứng phù hợp với người tiêu dùng. Với mỗi một dân tộc khác nhau thì nhu cầu tiêu dùng cũng rất khác nhau, với 54 dân tộc chính là một thị trường đa dạng nhu cầu về các loại sản phẩm và sản phẩm dệt may cũng không nằm ngoài các nhu cầu đó. Để làm được điều này buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận đúng đắn các nhân tố ảnh hưởng như thế nào tới việc tiêu dùng sản phẩm để từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh cho phù hợp. 3.2. Các nhân tố vi mô Mục tiêu cơ bản của các công ty là thu lợi nhuận. Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống Marketing là đảm bảo sản xuất ra những mặt hàng hấp dẫn đối với các thị trường mục tiêu. Nhưng thành công của hệ thống Marketing còn phụ thuộc vào cả hoạt động của các đơn vị khác trong công ty và sự tác động của những người môi giới, các đối thủ cạnh tranh và công chúng trực tiếp. * Công ty Đối với mỗi doanh nghiệp việc soạn thảo bất kỳ một chiến lược chính sách nào thì những lãnh đạo phải quan tâm đến lợi ích của chính sách đó như thế nào đối với việc phát triển của công ty. Việc soạn thảo các chiến lược marketing là sáng tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để cung cấp cho thị trường mục tiêu. Hiện nay, cũng như ngành dệt may nước ta, công ty dệt Minh Khai đã có nhiều thay đổi về cơ cấu sản phẩm so với thời kỳ mới thành lập. Tuy nhiên các quyết định marketing phải tuân thủ nhiệm vụ chiến lược mục tiêu cụ thể và định hướng phát triển do ban lãnh đạo công ty vạch ra. Do đó, ban lãnh đạo công ty có ảnh hưởng lớn tới hoạt động và các quyết định của bộ phận marketing. Hoạt động marketing có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Để đảm bảo việc mở rộng thị trường của Công ty May Hưng Long thì bộ phận marketing phải phối hợp chặt chẽ với các phòng ban khác của công ty để sử dụng những chính sách hợp lý đưa sản phẩm ra thị trường trong nước. * Những người cung ứng Người cung ứng là những công ty kinh doanh và những cá thể cung cấp cho công ty và các đối thủ cạnh tranh các nguồn vật tư cần thiết để sản xuất ra những mặt hàng cụ thể hay dịch vụ nhất định. Những sự kiện xảy ra trong môi trường “người cung ứng” có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động Marketing của công ty. Với ngành dệt may nước ta hiện nay các thành viên trong ngành chủ yếu cung cấp bổ trợ cho nhau về nguyên vật liệu sản xuất. Ví dụ công ty dệt Minh Khai hiện đang sử dụng một phần nguyên liệu sợi của công ty dệt may Hà Nội (Hanosimex), công ty 8-3, công ty dệt Nam Định… Còn một phần nguyên liệu được nhập từ Ấn Độ… Có thể nói rằng việc cung ứng có vai trò rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc thay đổi giá cả vật tư, nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng tới giá của sản phẩm. Vì vậy, người quản trị Marketing phải chú ý theo dõi giá cả mặt hàng cung ứng, những người cung ứng trong và ngoài nước để có những chính sách hợp lý trong quá trình sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường nội địa của Công ty May Hưng Long . *Những người môi giới Marketing Người cung ứng vật tư cho quá trình sản xuất có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh doanh thì những người môi giới marketing cũng có vai trò rất quan trọng đối với công ty. Người môi giới marketing bao gồm các công ty chuyên tổ chức lưu thông hàng hoá, các tổ chức dịch vụ marketing và các tổ chức tài chính tín dụng.Với vai trò của môi giới marketing sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất không phải quan tâm đến việc phân phối hàng hoá của mình như thế nào? Và việc sản xuất hàng hoá là được tìm hiểu nhu cầu khách hàng là gì và sản xuất ra sản phẩm phục vụ đúng nhu cầu đó. Trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước ít sử dụng tới những người môi giới marketing mà họ tự sản xuất và tự tìm kiếm khách hàng. Hoạt động marketing trong doanh nghiệp chưa được chú trọng và quan tâm nên vấn đề tìm kiếm khách hàng và tiêu thụ sản phẩm chưa có hiệu quả. Đối với Công ty May Hưng Long là một thành viên thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam, sản phẩm chủ yếu là gia công xuất khẩu nên việc tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa vẫn còn kém. Tiêu thụ hàng hoá trong nước là vấn đề rất khó khăn với nhiều doanh nghiệp không chỉ riêng Công ty May Hưng Long gặp phải. Với vai trò của người môi giới marketing sẽ giúp cho công ty một phần tìm kiếm được nhu cầu của thị trường nội địa và người tiêu dùng cần thoả mãn nhu cầu của mình như thế nào. Ví dụ như sản phẩm họ ưa thích mầu sắc gì, kích cỡ bao nhiêu là phù hợp… Vì vậy, vai trò của người môi giới marketing rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, trong chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường nội địa của Công ty May Hưng Long . * Khách hàng Khách hàng của mình là ai? Ở đâu? Họ có nhu cầu thoả mãn là gì? Đây là những cơ hội đặt ra cho những doanh nghiệp khi bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên thị trường bất kỳ. Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Khách hàng bao hàm cả nhu cầu, mỗi nhóm khách hàng khác nhau sẽ có nhu cầu khác nhau và thường xuyên biến đổi. Vì vậy, doanh nghiệp phải theo dõi khách hàng về những thay đổi nhu cầu của họ để giúp cho hoạt động sản xuất sản phẩm phù hợp. Việc theo dõi và nắm bắt thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập trung vào bốn loại thị trường khách hàng như sau: Thị trường người tiêu dùng: Các cá nhân và hộ tiêu dùng mua hàng hoá dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân. Thị trường khách hàng doanh nghiệp là các tổ chức doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ, đặt hàng gia công . Thị trường buôn bán trung gian. Hiện nay, hệ thống phân phối trực tiếp của công ty chưa được mở rộng thì buôn bán trung gian là một thị trường giúp cho công ty giảm bớt chi phí trong quá trình gia công hàng hoá và đem lại hiệu quả về lợi nhuận. Thị trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng dịch vụ không chỉ muốn phục vụ cho khách hàng trong nước mà còn hướng tới khách hàng quốc tế. Thị trường quốc tế hấp dẫn đối với mỗi doanh nghiệp nó đem lại lợi ích kinh tế cao, uy tín và chất lượng cho doanh nghiệp.Bên cạnh đó nó lại chịu sự cạnh tranh hết sức gay gắt của những quốc gia có giá gia công thấp hơn. * Đối thủ cạnh tranh Mỗi công ty đều có nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Nhu cầu của con người luôn đa dạng và phong phú họ có quyền lựa chọn bất kỳ một doanh nghiệp nào để thoả mãn được nhu cầu của mình. Vì vậy có rất nhiều các công ty cùng sản xuất một loại sản phẩm để phục vụ một loại nhu cầu. Điều đó cho thấy rằng các đối thủ cạnh tranh trong một môi trường kinh doanh là hoạt động rất gay gắt nên hầu hết các doanh nghiệp luôn tìm cách làm thế nào để sản phẩm của mình vượt trội hơn đối thủ cạnh tranh. * Công chúng trực tiếp là một nhóm bất kỳ tỏ ra quan tâm thực sự hay có thể sẽ quan tâm đến những tổ chức hay có ảnh hưởng đến khả năng đạt tới những mục tiêu đề ra của nó. Công chúng trực tiếp có thể hoặc là hỗ trợ hoặc là chống lại những nỗ lực của công ty nhằm phục vụ thị trường. Nó ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cuả công ty hay nó có thể sẽ huỷ hoại công ty nếu những phản ảnh của họ là đúng sự thật. II. Vấn đề đa dạng hoá sản phẩm dệt 1. Sản phẩm là gì? Sản phẩm là một yếu tố chủ yếu để quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp đưa ra các sản phẩm được thị trường chấp nhận có nghĩa là doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu sản phẩm không được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp không có khả năng tồn tại trên thị trường. Vậy sản phẩm là gì? Theo quan điểm marketing: “Sản phẩm là mọi thứ có thể chào bán trên thị trường để chý ý, sử dụng hay tiêu dùng, để có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu nào đó.” Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chính sách sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh thất sự có hiệu quả thì các nhà sản xuất phải xác định được sản phẩm và dịch vụ cụ thể sẽ cung cấp trên thị trường ở đâu? Có đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp không? Trong hoạt động marketing, chính sách sản phẩm là nòng cốt để xác định chính sách giá, phân phối và chính sách xúc tiến. Để có những chính sách sản phẩm hợp lý, nhà quản trị marketing cần phải có những hiểu biết nhất định về cấp độ sản phẩm. Khi tạo ra một mặt hàng người ta thường xếp các yếu tố đặc tính và thông tin theo ba cấp độ. Sơ đồ 2: Ba cấp độ cấu thành sản phẩm hàng hoá Cấp độ cơ bản là sản phẩm hàng hoá theo ý tưởng có chức năng trả lời câu hỏi như thực chất sản phẩm thoả mãn nhu cầu cốt yếu nhất là gì? Và đó chính là những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách hàng. Cấp độ thứ hai là sản phẩm hàng hoá hiện thực là những yếu tố phản ánh sự có mặt thực tế của sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố đó bao gồm các chỉ tiêu phản ánh về chất lượng, các đặc tính, bố cục bề ngoài, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói. Cấp độ thứ ba sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh là những yếu tố tạo ra sự đánh giá mức độ hoàn chỉnh khác nhau trong nhận thức của người tiêu dùng về mặt hàng hay nhãn hiệu cụ thể. Các yếu tố này bao gồm: Tính tiện lợi cho việc mua, việc lắp đặt và sử dụng những dịch vụ sau khi bán, những điều kiện bảo hành và hình thức thanh toán. Tuỳ thuộc vào sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp mà các nhà quản trị Marketing sẽ có những chiến lược, chính sách hợp lý để xác định sản phẩm ngày một phát triển hơn và cũng chính là sự tồn tạo và phát triển của công ty hiện tại và tương lai. 2. Vấn dề đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp 2.1 Danh mục sản phẩm Danh mục sản phẩm là một tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua. Danh mục sản phẩm của một công ty sẽ có chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và mật độ nhất định. Cũng như các sản phẩm khác sản phẩm dệt với bốn chiều danh mục được thể hiện rất rõ ràng: Chiều rộng danh mục sản phẩm dệt là thể hiện công ty có bao nhiêu chủng loại khác nhau như: áo Jacket, quần soóc, quần Jeans, áo bơi... Chiều sâu của danh mục sản phẩm là số lượng các mặt hàng có trong một chủng loại sản phẩm. Chiều sâu danh mục càng lớn càng thể hiện công ty càng có nhiều mặt hàng. Chiều dài của danh mục chính là tổng số các mặt hàng mà công ty có trong các chủng loại. Mật độ của chủng loại thể hiện ở mối liên hệ giữa các chủng loại trên có chặt chẽ hay không. Sản phẩm có nhiều cách phân loại khác nhau và sản phẩm là hàng không lâu bền, hàng tiêu dùng mua sắm thường xuyên, có thể bán ở nhiều nơi, tính phụ giá nhỏ. Vì vậy việc phát triển danh mục sản phẩm này là rất cần thiết nó sẽ quyết định tới sự lớn mạnh của công ty trên thị trường kinh doanh. Với những chiều phát triển danh mục sẽ tạo nên những căn cứ để xác định chiến lược sản phẩm của công ty.Công ty có thể khuyếch trương doanh nghiệp mình theo bốn cách: 1. Công ty có thể bổ sung những chủng loại sản phẩm mới và như vậy sẽ mở rộng danh mục chủng loại sản phẩm. 2. Công ty có thể bổ sung thêm các phương án sản phẩm cho từng chủng loại và tăng chiều sâu của danh mục sản phẩm. 3. Công ty bổ sung những loại sản phẩm mới từ đó danh mục hàng hoá rất phong phú và đa dạng. 4. Công ty có thể tiếp tục tăng hay giảm mật độ của loại sản phẩm tuỳ theo ý đồ của công ty là có uy tín vững chắc trong lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực. 2.2 Chủng loại sản phẩm Chủng loại sản phẩm được coi là quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp khi đang phát triển. Một danh mục sản phẩm có thể bao gồm những chủng loại sản phẩm khác nhau. Chủng loại sản phẩm là một nhóm sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với nhau bởi vì chúng thực hiện một chức năng tương tự, được bán cho cùng một nhóm khách hàng qua cùng một kênh như nhau hay tạo nên một khung giá cụ thể. Khi thực hiện quản lý chủng loại sản phẩm doanh nghiệp thường phải quan tâm đến một số vấn đề sau: a. Đánh giá loại sản phẩm Để đánh giá loại sản phẩm của doanh nghiệp mình, doanh nghiệp thường dựa vào doanh số bán và lợi nhuận của từng mặt hàng trong loại sản phẩm, tình trạng của loại sản phẩm đó so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Về doanh số bán và lợi nhuận của loại sản phẩm, người quản lý cần phải biết tỷ lệ % của từng mặt hàng trong tổng số doanh số bán và lợi nhuận thu được. Mặt hàng nào là mặt hàng tạo sự hiện diện, mặt hàng nào là mặt hàng tiềm năng. Về đặc điểm thị trường cần kiểm tra xem lại sản phẩm của mình có vị trí như thế nào trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm của mình đáp ứng được nhiều nhu cầu tiêu dùng không? Để đánh giá vị thế này các doanh nghiệp cần phải xác định những đoạn thị trường mới để tiếp cận tới nhu cầu và cải tạo những thị trường cũ ngày một tốt hơn. b. Quan điểm về kéo dãn cơ cấu mặt hàng Một trong những vấn đề trong đa dạng hoá sản phẩm là việc xúc tiến nhiều loại sản phẩm mới và cải tiến những sản phẩm hiện tại có chất lượng hơn. Vì vậy việc kéo dãn cơ cấu mặt hàng nghĩa là nối dài cơ cấu mặt hàng, tự lấp khoảng trống bằng sản phẩm của mình trên thị trường. Có ba cách kéo dãn cơ cấu mặt hàng. Thứ nhất là kéo dãn cơ cấu mặt hàng xuống phía dưới là nhằm cung cấp thêm sản phẩm ra thị trường hiện tại và nhu cầu là sẵn có mà công ty chưa đáp ứng được. Công ty thực hiện mục tiêu này là tìm kiếm thị phần lớn và sự tăng trưởng thị trường. Để chiếm lĩnh toàn bộ thị trường công ty phải tự bổ sung hàng hoá lấp kín khoảng trống phía dưới thị trường. Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì tối đa hoá doanh số và lợi nhuận trên thị trường là mục tiêu hàng đầu phát triển của mình. Vì vậy, một công ty khi thực hiện chiến lược này cần phải nghiên cứu xem xét cụ thể về lợi thế của mình trên thị trường để có những chính sách hợp lý trong việc mở rộng sản phẩm. Thứ hai là kéo dãn cơ cấu mặt hàng lên phía trên. Đây là cách xâm nhập thị trường có nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp khi thực hiện mục tiêu này. Với thị trường có thu nhập cao đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao buộc các doanh nghiệp phải tự thay đổi chiến lược phát triển doanh nghiệp của mình. Quyết định phát triển lên đoạn thị trường phía trên các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn như đối thủ cạnh tranh đã có vị trí vững chắc còn khách hàng tương lai có thể không tin rằng những công ty ở đoạn thị trường phía dưới lại có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao. Một trong những vấn đề đa dạng hoá sản phẩm là việc nâng cao chất lượng sản phẩm hiện tại để phục vụ cho đối tượng tiêu dùng ở thị trường phía trên. Thứ ba là phát triển cơ cấu mặt hàng theo hai phía là việc sản xuất và cung cấp đồng thời các sản phẩm có chất lượng từ cao xuống thấp nhằm đáp ứng nhu cầu cả hai phía trên và phía dưới. Chiến lược này thực hiện khi công ty đang chiếm vị trí ở khu giữa thị trường, lúc đó xem xét việc kéo dài cơ cấu theo 2 phía. Hiện nay, sản phẩm của Công ty May Hưng Long chưa được bán rộng rãi trên thị trường nội địa. Vì vậy, để phát triển cơ cấu mặt hàng vào toàn bộ thị trường đòi hỏi công ty phải cung cấp nhiều chủng loại hàng hoá đa dạng phong phú với nhiều mức tiêu dùng khác nhau. Đây là việc làm cần thiết đối với bất kỳ nhà sản xuất nào muốn duy trì thị trường cũng như phát triển sản xuất kinh doanh của mình. c. Quyết định bổ sung loại sản phẩm Quyết định được thực hện khi công ty quyết định tăng danh mục mặt hàng trong danh mục mặt hàng hiện tại. Thực hiện chiến lược này có hiệu quả sẽ giúp công ty mở rộng sản xuất,thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nó còn giúp cho công ty lấp khoảng trống thị trường, loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường của mình. Để bổ sung loại sản phẩm vào doanh mục sản phẩm hiện có của mình với các doanh nghiệp dệt may nói chung hay Công ty May Hưng Long nói riêng hầu hết phải đầu tư thêm máy móc thiết bị để tạo ra được sản phẩm mới hay tận dụng khả năng sản xuất của công ty để tạo ra sản phẩm bổ sung. d. Quyết định cải tiến sản phẩm Ngay cả khi chiều dài của loại sản phẩm đã thoả đáng thì lo._.ại sản phẩm ấy vẫn phải cải tiến. Cải tiến chủng loại sản phẩm là làm cho sản phẩm có chất lượng tốt hơn phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Trong quan điểm đa dạng hoá sản phẩm bất kỳ thì việc cải tiến sản phẩm là hết sức quan trọng để sản phẩm có chu kỳ sống dài hơn trên thị trường. Chỉ với thị trường nội địa nhu cầu của người tiêu dùng là hết sức đa dạng đòi hỏi các sản phẩm ngày càng có chất lượng tốt hơn, hay sản phẩm may phải được cải tiến thường xuyên trong quan điểm tồn tại trên thị trường. Đặc biệt với hàng gia công xuất khẩu thì yêu cầu của khách hàng rất khắt khe về chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng .Để giữ được khách hàng lâu dài thì công ty phải thực hiện mọi yêu mà khách hàng đưa ra đây là một trong những điều gây ra nhiều khó khăn cho công ty.Việc hiện đại hoá sản phẩm phải được diễn ra liên tục, các công ty có kế hoạch cải tiến sản phẩm, khuyến khích khách hàng chuyển sang những mặt hàng được đánh giá cao hơn và cũng được định giá cao hơn điều đó sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh của mình. e. Quyết định hiện đại hoá sản phẩm Cũng như các quyết định khác của chủng loại sản phẩm thì việc hiện đại hoá sản phẩm của mình trên thị trường sẽ giúp cho khách hàng được quan tâm hơn khi mà sản phẩm hàng hoá ngày càng thoả mãn nhu cầu của mình hơn, sản phẩm hàng hoá có mẫu mã đẹp hơn. Đời sống của con người ngày một nâng cao thì nhu cầu cũng đòi hỏi cao hơn. Chính vì vậy, hiện đại hoá sản phẩm sẽ giúp sản phẩm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Với các sản phẩm khác cũng vậy, hiện đại hoá sản phẩm dệt may tạo ra những sản phẩm có mẫu mã, chủng loại, mầu sắc đa dạng, sản phẩm sẽ đáp ứng nhiều đối tượng tiêu dùng hơn. Đây chính là một trong những hoạt động của quá trình dạng hoá sản phẩm giúp cho doanh nghiệp mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm trên thị trường. 2.3 Quyết định về nhãn hiệu sản phẩm Nhãn hiệu hàng hoá được hiểu là tên, thuật ngữ biểu tượng hay kiểu dáng hoặc là sự kết hợp các yếu tố đó nhằm xác định hàng hoá hay dịch vụ của người bán một nhóm người bán và phân biệt chúng với những thứ của đối thủ cạnh tranh. Như vậy, nhãn hiệu chính là sự xác nhận người bán hay nhà sản xuất và họ được độc quyền sử dụng nhãn hiệu vĩnh viễn khi họ đăng ký nhãn hiệu. Nhãn hiệu về cơ bản là sự hứa hẹn của người bán bảo đảm cung cấp cho người mua một tập hợp những tính chất lợi ích và dịch vụ. Những nhãn hiệu tốt thường là những nhãn hiệu kèm theo sự đảm bảo cao về chất lượng. Vì vậy khi thực hiện các chiến lược sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải quyết định hàng loạt các vấn đề có liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá. a. Quyết định gắn nhãn Một quyết định đầu tiên quan trọng liên quan đến nhãn hiệu sản phẩm đó chính là doanh nghiệp có nên phát triển một tên nhãn cho sản phẩm của mình hay không? Ngày nay, việc gắn nhãn sản phẩm đã trở thành một sức mạnh to lớn mà khó có một thứ hàng hoá nào lại có thể không cần gắn nhãn. Việc gắn nhãn sản phẩm là rất cần thiết cho doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng nên quyết định gắn nhãn sản phẩm vì một số nguyên nhân sau: Tên nhãn làm cho người bán hàng dễ dàng xử lý những đơn đặt hàng và nhận biết các vấn đề. Tên nhãn hiệu và dấu hiệu thương mại của người bán bảo đảm một sự bảo hộ của luật pháp. Việc gắn nhãn thu hút được nhiều khách hàng hơn. Dễ dàng phân đoạn thị trường theo đặc tính nhãn hiệu sản phẩm. Tạo dựng hình ảnh của công ty. Đứng trước sự quan trọng của việc nhãn hiệu hàng hoá đối với Tổng công ty dệt may Việt Nam nói chung và ngành dệt nói riêng cũng đã thấy sự cần thiết của nó. Đối với các sản phẩm chung của Tổng công ty dệt may thì nhãn hiệu lấy chung là VINATEX thể hiện sự xuất xứ và ra đời của sản phẩm từ các đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty. Vì vậy, với sản phẩm dệt nhãn hiệu là VINATEX nhưng mỗi sản phẩm của công ty cũng có một nhãn hiệu riêng để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường. Quyết định sử dụng tên nhãn sẽ là một hình thức tốt cho doanh nghiệp phần nào là hoạt động quảng cáo và khách hàng cần có tên nhãn của doanh nghiệp để giúp họ xác định được những khác biệt về chất lượng và việc mua sản phẩm có hiệu quả hơn. b. Quyết định người sở hữu nhãn hiệu Sau khi quyết định có gắn nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình hay không, nhà sản xuất phải đi tới quyết định lựa chọn người bảo trợ nhãn hiệu. Sản phẩm có thể tung ra thị trường như một nhãn hiệu của nhà sản xuất, một nhãn hiệu của nhà phân phối hoặc một tên nhãn được phép sử dụng. Nhà sản xuất cũng có thể sản xuất theo một sản phẩm dưới tên mình và một sản phẩm dưới tên các nhãn hiệu của nhà phân phối. Mỗi một hướng trên đều có ưu nhược điểm và hạn chế nhất định. Thông thường thì nhà sản xuất là chủ sở hữu của nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá mà họ sản xuất ra, họ bán sản phẩm dưới nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên hiện nay có rất nhiều người bán sỉ và lẻ muốn đưa ra những nhãn hiệu của chính họ. c. Quyết định tên nhãn Khi quyết định đưa ra một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm ra thị trường nhà sản xuất phải quyết định gắn tên nhãn cho chúng như thế nào? Nếu doanh nghiệp chỉ sản xuất ra một chủng loại hàng hoá đồng nhất thì việc gắn tên nhãn quả thật là đơn giản nhưng việc này sẽ trở nên phức tạp hơn khi doanh nghiệp sản xuất nhiều chủng loại hàng hoá không đồng nhất. Vì vậy, có bốn phương án đặt tên cho sản phẩm: Thứ nhất là tên nhãn cá biệt là đặt cho mỗi loại sản phẩm một tên riêng. Thứ hai là tên họ chung của tất cả sản phẩm. Ví dụ như tất cả các sản phẩm của Tổng công ty dệt may Việt Nam lấy tên là VINATEX. Thứ ba là tên họ riêng cho tất cả các sản phẩm tức là mỗi sản phẩm của công ty đều có tên khác nhau. Thứ tư là tên thương mại của công ty kết hợp với tên cá biệt của sản phẩm. Việc đặt tên nhãn như thế nào là quyết định của công ty nhưng phải đảm bảo một số yêu cầu như: lợi ích sản phẩm, dễ đọc, dễ nhớ, chất lượng tính năng màu sắc… d. Chiến lược nhãn hiệu Cùng với sự phát triển tong sản xuất và kinh doanh khi đưa ra những sản phẩm mới thì một vấn đề đặt ra là có nên mở rộng giới hạn sử dụng tên nhãn hiệu hay vẫn sử dụng nhãn hiệu cũ cho sản phẩm. Trong hoạch định chiến lược nhãn hiệu, doanh nghiệp có bốn sự lựa chọn: Sản phẩm cũ Sản phẩm mới Mở rộng chủng loại Mở rộng nhãn hiệu Nhiều nhãn hiệu Nhãn hiệu mới Tên nhãn cũ Tên nhãn mới Mở rộng chủng loại là công ty bổ sung thêm những mặt hàng vào cùng một loại sản phẩm dưới cùng một tên nhãn mặt hàng có hình thức mới, màu sắc mới. Mở rộng nhãn hiệu là công ty quyết định sử dụng tên nhãn hiện có để tung ra sản phẩm thuộc loại mới. Chiến lược này đem lại một số lợi thế như một tên nhãn hiệu nổi tiếng sẽ làm cho sản phẩm mới được biết đến ngay và sớm được chấp nhận, hơn nữa nó tiết kiệm khá nhiều chi phí nhưng có thể sẽ làm thất vọng người mua và giảm uy tín của các sản phẩm khác của công ty. Sử dụng nhiều nhãn hiệu cho cùng một loại sản phẩm. Công ty muốn bảo vệ nhãn hiệu của chính mình bằng cách tung ra nhiều nhãn hiệu bao quanh nhưng mỗi nhãn hiệu có thể chỉ dành một thị phần nhỏ và không có nhãn hiệu nào có thể có khả năng sinh lời đáng kể. Khi nói đến nhãn hiệu là một vấn đề rất khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Trong quá trình đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng nhãn hiệu sẽ tạo ra hình ảnh của công ty trong tâm trí khách hàng nhưng hiện nay sản phẩm dệt may của nước ta hầu như không có một nhãn hiệu cụ thể nào. Sử dụng nhãn hiệu mới là khi công ty tung ra những sản phẩm thuộc loại mới và trong số tên nhãn hiệu dùng không có cái nào thích hợp hoặc khi công ty thấy rằng thế lực của những nhãn hiệu hiện có của mình đang suy yếu trên thị trường. 2.4. Quyết định bao gói sản phẩm Bao gói ngày càng trở nên quan trọng khi đưa sản phẩm ra thị trường nhất là với sản phẩm tiêu dùng. Mỗi sản phẩm khi tham gia lưu thông trên thị trường cần có bao bì, nhãn mác để quảng bá sản phẩm của mình hay đơn giản chỉ là để bán sản phẩm dễ dàng hơn. Với quyết định bao gói sản phẩm chính là một quá trình với nhiều chức năng đi kèm như: Thứ nhất là chức năng bảo quản sản phẩm. Bao gói là lớp bao bì trực tiếp gói từng sản phẩm với các chi tiết rời của nó thành một sản phẩm hoàn chỉnh hoặc là gói một sản phẩm hoàn chỉnh. Với các sản phẩm dệt may thì việc bao gói rất quan trọng vì đặc tính của sản phẩm là dễ bị ẩm ướt nên bao gói sẽ giúp cho sản phẩm tránh được trong khâu vận chuyển lưu kho. Như phân tích ở trên, cải tiến sản phẩm để nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình đa dạng hoá thì việc bao gói sản phẩm là một quá trình nâng cao chất lượng dich vụ cho sản phẩm tới người tiêu dùng. Khi một sản phẩm được bao gói cẩn thận sẽ là ấn tượng tốt về sản phẩm khi khách hàng quyết định mua sản phẩm đó. Vì vậy, sản phẩm dệt nước ta hiện nay cần phải chú ý quan tâm đến bao gói sản phẩm không chỉ bảo quản sản phẩm mà chứng minh rằng sản phẩm có giá trị cao với người tiêu dùng. Thứ hai là chức năng thông tin. Lớp bao bì không chỉ bảo vệ sản phẩm mà còn có chức năng thông tin về sản phẩm đến người tiêu dùng. Nó là lớp bao bì quan trọng nhất của một sản phẩm. Nó phải làm cho người tiêu dùng thấy rõ được các chức năng, tính năng cách sử dụng, bảo quản… của sản phẩm.Và quan trọng hơn mữa là nó phải có chức năng giới thiệu với người tiêu dùng về nhà sản xuất và sản xuất ở đâu, hạn sử dụng của sản phẩm như thế nào? Cũng như chức năng bảo quản sản phẩm thì chức năng thông tin không kém phần quan trọng trên mỗi bao bì sản phẩm. Thị trường luôn cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ, thì sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn sẽ được tiêu dùng nhiều hơn. Với sản phẩm dệt nước ta trên thị trường nội địa chức năng này hầu như ít được các doanh nghiệp quan tâm. Do đó để mở rộng tiêu thụ nội địa thì các doanh nghiệp dệt may nên chú ý quan tâm tới bao gói sản phẩm nó sẽ là mối liên hệ gắn kết thông tin giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất. Thứ ba là chức năng vận chuyển bảo vệ sản phẩm tránh bị hư hỏng giúp cho trong quá trình vận chuyển được dễ dàng hơn. 2.5. Xây dựng và phát triển sản phẩm mới Đây là một chiến lược quan trọng không thể thiếu trong sự hoạt động sản xuất doanh nghiệp của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển sản phẩm mới là chiến lược các nhà sản xuất đưa ra thị trường những sản phẩm chưa từng có mặt trên thị trường. Chiến lược này trải qua nhiều giai đoạn từ khi hình thành ý tưởng, nghiên cứu sau đó tiến hành sản xuất thử nghiệm cho đến khi tung sản phẩm ra thị trường được người tiêu dùng chấp nhận. Hầu như doanh nghiệp nào cũng vậy, việc phát triển sản phẩm mới là một trong những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Trên thị trường nội địa hay thị trường quốc tế khi một sản phẩm mới ra đời nó như là món quà của các nhà sản xuất gửi tới người tiêu dùng. Món quà đó được chấp nhận hay không thì xem việc tiêu dùng sản phẩm lặp lại trên thị trường như thế nào? Với quá trình đa dạng hoá sản phẩm là hết sức quan trọng khi đưa sản phẩm mới ra thị trường. Đa dạng sản phẩm không cho cải tiến, hiện đại hoá sản phẩm hiện tại mà tạo ra nhiều sản phẩm mới phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Sản phẩm dệt của nước ta được đưa vào thị trường và được chấp nhận sản phẩm là hết sức khó khăn. Ví dụ: Khi đưa một sản phẩm khăn mới ra thị trường thì việc tạo dựng một hình ảnh của sản phẩm này cho khách hàng là rất khó do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như hoạt động marketing, hay có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường nội địa do đó sản phẩm khó tồn tại lâu trên thị trường nội địa. Vì vậy, một sản phẩm có được sự chấp nhận trên thị trường hay không phụ thuộc rất nhiều yếu tố như chất lượng sản phẩm, thị hiếu người tiêu dùng… và phụ thuộc rất nhiều vào kết quả thực hiện các chiến lược marketing, các chương trình quảng cáo, khuyến mại, đặc biệt là chính sách giá có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công trong chiến lược này. Thông thường một sản phẩm mới không dễ dàng được chấp nhận ngay trên thị trường nếu nó không có những ưu điểm nổi bật hay chí ít cũng có sự khác biệt với các sản phẩm khác. Thất bại của nhà sản xuất trong chiến lược sản phẩm mới không phải là điều ít thấy. Muốn thành công trong lĩnh vực này, các nhà sản xuất phải có đủ khả năng về tài chính công nghệ và sẵn sàng chấp nhận rủi ro, không được rơi vào thế bị động khi sản phẩm bị từ chối trên thị trường. Các nhà sản xuất phải lường trước hậu quả xấu có thể xảy ra là khi họ tập trung cho chiến lược sản phẩm mới, sự quan tâm với sản phẩm cũ phần nào bị giảm bớt. Lợi dụng tình hình đó, đối thủ cạnh tranh sẽ nhảy vào thị trường và thu hút khách hàng hiện tại xa rời sản phẩm của họ. 2.6. Chu kỳ sống sản phẩm Chu kỳ sống sản phẩm mô tả sinh động các giai đoạn trong lịch sử tiêu thụ của một sản phẩm. Tương ứng với những giai đoạn này là cơ hội hay vấn đề riêng biệt đối với chiến lược Marketing và tiềm năng sinh lời. Mọi sản phẩm đều có chu kỳ sống của nó và trải qua bốn giai đoạn sau: Thứ nhất giai đoạn xâm nhập thị trường. Ở giai đoạn này lợi nhuận âm hay thấp là vì mức tiêu thụ chậm, các chi phí khuyến mại rất lớn, chỉ có một số ít đối thủ cạnh tranh. Các công ty tập trung việc bán sản phẩm của mình cho những người mua nào đã sẵn sàng mua nhất, thường là nhóm có thu nhập cao. Giá trong giai đoạn này có xu hướng cao. Tuỳ vào chiến lược của công ty khi tung ra sản phẩm mới, các nhà quản trị Marketing có thể sử dụng mức giá cả và khuyến mãi theo bốn chiến lược, hớt váng, hớt váng từ từ, xâm nhập chớp nhoáng và xâm nhập từ từ. Lấy một ví dụ rất cụ thể trong ngành dệt may nước ta là công ty may 10 mới chưa ra nhãn hiệu sản phẩm áo sơ mi nam BIGMAN trong chủng loại áo sản phẩm khác. Với giá sản phẩm từ 115.000đ đến 175.000đ chứng tỏ sản phẩm mới này tập trung vào khách hàng có thu nhập cao. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm ở giai đoạn này đòi hỏi công ty phải có chi phí lớn cho quảng cáo hay các chương trình khuyến mãi. Thứ hai giai đoạn phát triển với mức tiêu thụ tăng nhanh các đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường vì bị hấp dẫn bởi những cơ hội mở rộng sản xuất và lợi nhuận cao. Họ tung ra những tính chất mới của sản phẩm và mở rộng thêm những cửa hàng phân phối. Ở giai đoạn này đa dạng hoá sản phẩm có vai trò quan trọng hơn cả trong quá trình tồn tại và phát triển trên thị trường. Mỗi thị trường khác nhau phát triển sản phẩm theo nhiều hướng khác nhau. Còn với thị trường nước ta, giai đoạn phát triển là giai đoạn cần bổ sung giới thiệu nhiều chức năng hay giảm giá và tặng quà cho khách hàng khi mua sản phẩm. Thị trường nội địa là thị trường hấp dẫn của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, với sản phẩm dệt may muốn tồn tại kéo dài giai đoạn này phải có nhiều chiến lược đa dạng hoá sản phẩm hợp lý như đưa ra nhiều mầu sắc cho khách hàng sự lựa chọn, kích cỡ nhiều loại phù hợp với từng đối tượng có nhu cầu khác nhau. Thứ ba giai đoạn bão hòa. Tại một điểm nào đó nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ sản phẩm sẽ chững lại và sản phẩm bước vào giai đoạn bão hoà, xuất hiện tình trạng dư thừa năng lực sản xuất trong ngành dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt hơn. Các đối thủ cạnh tranh tìm kiếm và xâm nhập góc thị trường còn trống. Họ thường xuyên giảm giá và thay đổi bảng giá chính thức. Những đối thủ cạnh tranh tương đối yếu rút lui. Cuối cùng ngành đó chỉ còn lại các đối thủ cạnh tranh vững chắc với định hướng cơ bản là giành cho được lợi thế cạnh tranh. Tại thị trường nào cũng vậy, cạnh tranh là vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nói chung hay các sản phẩm nói riêng. Với bất kỳ sản phẩm nào ở giai đoạn này thì việc tiêu thụ bị chững lại nhưng các doanh nghiệp phải tìm cách đầu tư phát triển sản phẩm tồn tại trên thị trường. Việc đa dạng hoá sản phẩm ở giai đoạn này nên chú trọng vào chất lượng sản phẩm và sự khác biệt có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Chỉ có chất lượng mới quyết định sự tồn tại của sản phẩm và sự khác biệt sản phẩm đem đến quyết định mua sản phẩm nhanh hơn. Thứ tư là giai đoạn suy thoái, mức tiêu thụ hầu hết các sản phẩm đều giảm mạnh. Khi mục tiêu và lợi nhuậ giảm một số công ty rút khỏi thị trường. Những công ty còn lại có thể giảm bớt số sản phẩm chào bán, họ rút ra khỏi những thị trường nhỏ và những kênh thương mại tương đối yếu hơn. Họ có thể cắt giảm ngân sách khuyến mãi và giảm giá hơn nữa. Tuỳ vào mỗi giai đoạn thuộc chu kỳ sống sản phẩm khác nhau thì những nhà làm marketing phải có những chiến lược và chính sách hợp lý để giảm tối thiểu chi phí và phát triển tối đa lợi nhuận. Với giai đoạn này hầu hết hoạt động đa dạng hoá sản phẩm bị đẩy lùi do mức tiêu thụ chậm và lơị nhuận giảm. Nhưng không vì thế các doanh nghiệ lại bỏ qua sự tồn tại của sản phẩm ở giai đoạn này. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá sản phẩm ở giai đoạn này là rất cần thiết tạo ra nhiều chức năng mới và cải tiến sản phẩm có chất lượng tốt hơn để đẩy sản phẩm lên giai đoạn phát triển. Làm được điều này thì ở mỗi sản phẩm doanh nghiệp phải xem nó đang nằm ở giai đoạn nào để có những biện pháp hỗ trợ cho sản phẩm phát triển hoặc là loại bỏ sản phẩm thay thế những sản phẩm khác phù hợp. III.Tổng quan thị trường dệt may Việt Nam Trong những năm gần đây sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may có vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. Ngành dệt may đã có những thành tựu đáng kể như sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tính đến năm 2000 giá trị hàng dệt may xuất khẩu đạt 1,9 tỷ USD, năm 2001 đạt 2,1 tỷ USD và năm 2002 hàng dệt may xuất khẩu lên tới 3,2 tỷ USD (Nguồn từ Tạp chí Thương mại số 21/2001). Giá trị xuất khẩu dệt may tăng mạnh trong 2 năm vừa qua đã cho thấy ngành dệt may nước ta ngày càng tăng trưởng và phát triển ổn định. Ngoài ra, ngành dệt may hiện nay đang có gần 90 vạn lao động làm việc chiếm tới 20% tổng số lao động công nghiệp của cả nước là một ngành giải quyết một số lượng lớn lao động phổ thông của nước ta. Đứng trước những thuận lợi trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ và Châu Âu nhưng thị trường trong nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa biết tận dụng những ưu thế để phát triển như dân số nước ta trên 80 triệu dân là thị trường có nhu cầu hết sức đa dạng và sức mua lớn. Có thể nói rằng những khó khăn mà ngành dệt may nước ta đang gặp phải hiện nay là thiếu những nhà cung ứng trên thị trường và sản phẩm chưa đa dạng cho nhiều đối tượng tiêu dùng, các doanh nghiệp chỉ chú trọng đến việc đặt hàng cho các nước nhập khẩu mà không tập trung phát triển thị trường trong nước. Hiện nay, các xí nghiệp dệt may lớn ở Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành những năng lực tốt nhất cho hàng dệt may xuất khẩu, phần nào không xuất được thì để lại tiêu dùng trong nước. Vì vậy mà hàng hoá không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng và họ phải tìm đến những nhà sản xuất cung ứng khác như: Trung Quốc là một trong những đối thủ cạnh tranh lớn của ngành dệt may Việt nam hiện nay. Do đó, để tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa thì ngành dệt may Việt Nam đã và đang có những hướng chiến lược phát triển mới, những mục tiêu kinh doanh sản xuất khác nhau nhằm đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước. Sự phát triển không ngừng và những thành công nối tiếp nhau trong những năm vừa qua của ngành dệt may Việt Nam là cả một quá trình phát triển hơn 110 năm từ công cụ sản xuất thủ công với công nghệ truyền thống sang một nền sản xuất mới với nhiều máy móc thiết bị hiện đại và chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng thị trường mở cửa. Bắt đầu từ ĐH VI của Đảng năm 1986 với việc nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyển đổi cơ cấu kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thực sự mang lại cho ngành dệt may những động lực và định hướng phát triển mới. Sau một thời gian dài với những biến động của thị trường Liên Xô và Đông Âu sụp đổ kèm theo sự tan rã của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã làm cho việc xuất khẩu hàng dệt may của nước ta gặp khó khăn và thử thách lớn. Hàng loạt các xí nghiệp phải cắt giảm sản xuất, thất nghiệp gia tăng, hàng hoá sản xuất không được tiêu thụ do mất thị trường. Đứng trước những khó khăn, ngày 29/4/1995 Thủ tướng CP đã ký quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam với tên giao dịch “Việt Nam National Textile and Garment Coporation (VINATEX)” với 55 đơn vị thành viên trong đó có 15 công ty may, 21 công ty dệt, 3 công ty len và nhuộm, 1 viện mẫu thời trang, 1 viện kinh tế kỹ thuật may, 3 trường đào tạo và một số đơn vị khác. Tổng công ty thực hiện chức năng kinh doanh hàng dệt, may mặc từ đầu tư sản xuất, cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm; xuất nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, thiết bị, sản phẩm dệt may và các hàng hoá có liên quan đến ngành Dệt May. Ngoài một số chức năng trên, Tổng công ty còn thực hiện những nhiệm vụ như nhận, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao, quản lý hoạt động kinh doanh theo đúng chức năng, ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của Nhà nước. Sau gần 10 năm thành lập cho đến nay đã có hơn 64 đơn vị thành viên và nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2000 giá trị sản xuất công nghiệp là 4.880,9 tỷ đồng, doanh thu 5.864,6 tỷ đồng, giá trị kim ngạch xuất khẩu 529,6 tỷ đồng. Đến năm 2001 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 11%, doanh thu tăng 10% và giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 15%. Năm 2002 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 3,2 tỷ USD (Nguồn từ báo Thời báo kinh tế Việt Nam 10/2002). Nhờ những thuận lợi trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực hiện nay như khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn kinh tế khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APEC) và khối kinh tế thế giới (WTO) mà ngành dệt may đã có những chiến lược mới phát triển mới trong xu thế thương mại hoá toàn cầu. Tổng công ty dệt may dưới sự chỉ đạo của Bộ công nghiệp đã xây dựng bản quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may trong những năm tới với các quan điểm chủ đạo như: Ngành dệt may phải được ưu tiên phát triển và được coi là một ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại đất nước. Chú trọng đa dạng hoá sản phẩm coi trọng thị trường nội địa thay thế hàng nhập khẩu. Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Giải quyết việc làm cho lao động phổ thông. Cùng với sự phát triển ngành dệt may Việt Nam ngày càng vững mạnh thì một trong những đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty dệt may là Công ty May Hưng Long cũng đang từng bước xây dựng hướng phát triển mới cho công ty mình nói riêng và ngành dệt may nói chung. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY VÀ DỊCH VỤ HƯNG LONG I. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty Công ty May Hưng Long 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty May Hưng Long Theo Nghị định số 68/1999/QĐ ngày 20/10/1999 của Bộ trưởng bộ công Nghiệp phê duyệt phương án cổ phần hoá và chuyển xưởng may Mỹ Văn thuộc công ty May Hưng Yên thành Công ty Cổ phần may và Dịch vụ Hưng Long. Là doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, được tổ chức và hoạt động theo luật Doanh nghiệp do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 12/6/1999. Tên giao dịch đối ngoại là: HUNG LONG GARMENT STOCK AND SERVICE COMPANY. Tên viết tắt: HUNG LONG ST.CO Địa chỉ: Km 24 - Quốc lộ 5- Xã Dị Sử- Huyện Mỹ Hào - Tỉnh Hưng Yên. Chức năng của Công ty: Sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu trực tiếp hàng may mặc, các dịch vụ khác. Sản phẩm chính của công ty là: áo Jacket, quần âu, quần áo tắm. Công ty Cổ phần May và Dịch vụ Hưng Long có tư cách pháp nhân đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thời gian hoạt động của công ty là 50 năm ( Kể từ ngày ghi trong Quyết định chuyển từ doanh nghiệp nhà Nước sang công ty cổ phần). Với vốn điều lệ của công ty tại thời điểm thành lập được xác định bằng Việt Nam đồng là: 7000,000,000 đồng (bảy tỷ đồng) . Trong đó vốn vốn sở hữu Nhà nước là 17%, vốn cổ đông là CBNV là 50%, vốn cổ đông khác 33% trên vốn điều lệ. Vốn điều lệ của công ty được chia thành 70,000 cổ phần, mỗi cổ phần trị giá 100.000 đồng có giá trị ngang nhau về mọi mặt…Mọi hoạt động của công ty phải tuân theo bản điều lệ gồm 8 chương , sáu mươi điều , được Đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần thông qua và chấp thuận toàn bộ vào ngày 29/12/2000. Trong thời gian mới thành lập, việc sản xuất của công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, máy móc thiết bị sau khi cổ phần không đồng bộ. Thiết bị ban đầu chỉ có 500 máy may, tài sản cố định khi thành lập chỉ có 6.201.223.512 đồng (Thời giá lúc bấy giờ). Một trong những khó khăn trong thời kỳ này phải kể đến là đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật thiếu trình độ chuyên môn, tay nghề kém. Do vậy kết quả hoạt động của công ty mới chỉ đạt được: Giá trị tổng sản lượng: 14,469,121,529 đồng. Tổng sản lượng : 1.755.000 chiếc các loại. Lương bình quân : 850.000 đồng/ tháng. Lợi nhuận chưa phân phối: 3.132.321.043 đồng (Trích từ Phòng kế hoạch, tài liệu báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001) Tuy nhiên bằng sự nỗ lực của Hội đồng quản trị và ban giám đốc công ty đã đưa công ty ngày một phát triển và từng bước đi vào ổn định sản xuất trong hai năm qua. Trên cơ sở giải quyết tốt những vấn đề còn hạn chế, thực hiện công khai tài chính, quan tâm hơn đến đời sống của cán bộ công nhân viên xây dựng mới nhà xưởng mua sắm trang thiết bị hiện đại của Nhật Bản, nhằm hiện đại hoá máy móc, thiết bị, cải tiến dây truyền sản xuất, cải tiến cách tổ chức quản lý và khối lượng sản phẩm sản xuất ra ngày càng lớn nhằm phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu là chính. Do đó tính đến hết ngày 31/12/2003 số lượng máy may của công ty đã trên 1,200 máy,(trong đó có 70% là may may được nhập khẩu từ Nhật bản), số lao động 1,300 người, tổng sản phẩm là 2,500,000, doanh thu đạt 41,850,000,000 đồng. Lợi nhuận trước thuế 5.363.000.000 đồng.(Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003) Nhưng hiện nay đa dạng hoá sản phẩm của công ty còn nhiều vần đề cần giải quyết trong chiến lược mở rộng thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Công ty hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, với xu hướng ngày một tăng, công ty đã bảo toàn và phát triển vốn trong sản xuất kinh doanh, chăm lo hơn đến đời sống của cán bộ công nhân viên. Đó cũng chính là một hướng phát triển tích cực của Công ty May Hưng Long - một doanh nghiệp Cổ phần làm ăn có hiệu quả. 2. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty CP May và DV Hưng Long 2.1. Chức năng nhiệm vụ của bộ máy quản lý Cơ cấu tổ chức đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là một công ty cổ phần , bộ máy quản lý của Công ty May Hưng Long theo hình thức trực tuyến tham mưu. Hội đồng quản trị và Ban giám đốc trực tiếp chỉ đạo, giúp đỡ các phòng ban của công ty. SƠ ĐỒ 3: BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY HĐQT GIÁM ĐỐC PGĐ CÔNG TY PHÒNG XNK- KH PGĐ KỸ THUẬT PHÒNG KỸ THUẬT PHÒNG TÀI VỤ PHÒNG TỔ CHỨC PHÒNG HÀNH CHÍNH PX.MAY PX. HOÀN THÀNH PX. THÊU PX. GIẶT Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: ¬ Hội đồng quản trị là cơ quan đầu não cao nhất của công ty chịu trách nhiệm toàn bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, là nơi đưa ra những định hướng phát triển sự tồn tại của công ty (đại diện là chủ tịch Hội đồng quản trị). Ban Giám đốc:(đại diện là Giám đốc công ty), do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, là người đại diện pháp nhân hợp lý trong mọi giao dịch, bảo vệ quyền lợi cho công nhân viên chức, phụ trách chung về các vấn đề đối nội, đối ngoại, thực hiện các chức năng: + Tổ chức bộ máy, tổ chức cán bộ. + Lập kế hoạch tổng thể dài hạn, ngắn hạn. +Đầu tư xây dựng cơ bản. Phó giám đốc: người giúp đỡ Giám đốc theo các trách nhiệm được giao. Phòng Xuất nhập khẩu - Kế hoạch với chức năng tham mưu cho giám đốc trong công tác kế hoạch xuất nhập khẩu, chịu trách nhiệm trước giám đốc trong việc chỉ đạo các hoạt động cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm.Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp coi thị trường là vấn đề quan trọng nhất trong chiến lược phát triển.Vì vậy, Phòng Xuất nhập khẩu - Kế hoạch của công ty thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: Phân bổ kế hoạch hàng tháng, quý cho các phân xưởng. Xây dựng kế hoạch khai thác, khả năng hợp tác sản xuất với bên ngoài. Chỉ đạo xây dựng, kí kết và theo dõi thực hiện hợp đồng kinh tế, các hợp đồng gia công có liên quan tới sản xuất. Nghiên cứu khảo sát thị trường, đề xuất với giám đốc các giải pháp cụ thể trong kinh tế đối ngoại trên cơ sở pháp luật hiện hành về công tác xuất nhập khẩu. Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ quản lý và sử dụng vật tư trong công ty. Tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Tiếp nhận thông tin qua điện thoại, fax, thư tín. Tổ chức mọi hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Phòng kỹ thuật: Chức năng: Tham mưu giúp đỡ ban giám đốc về công tác quản lý sử dụng kế hoạch và biện pháp dài hạn, ngắn hạn, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Nhiệm vụ: Quản lý quy trình công nghệ: xây dựng và quản lý dây chuyền sản xuất, quy trình công nghệ, theo dõi kiểm tra và hướng dẫn thực hiện quy trình, quy phạm đã đề ra. Xây dựng, điều chỉnh mức tiêu hao vật tư hàng tháng, có báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện định mức toàn công ty. Xây dựng kế hoạch sửa chữa lớn và sửa chữa thường kì của máy móc thiết bị, tham gia giải quyết các sự cố về kỹ thuật vượt quá khả năng của phân xưởng. Phối hợp với phòng tổ chức huấn luyện công nhân viên quy trình kỹ thuật sản xuất, bổ túc nâng cao tay nghề. Xác định chất lượng xuất khẩu các lô hàng, giải quyết các khiếu nại về chất lượng sản phẩm. Phòng tài vụ: Chức năng: Tham mưu cho ban giám đốc, giúp giám đốc quản lý các mặt hàng về tài chính. Nhiệm vụ: Lập và thực hiện các kế hoạch về kế toán, thống kê, tài chính. Theo dõi kịp thời, liên tục và có hệ thống các số liệu về số lương, tài sản, tiền vốn và quỹ công ty. Tính toán các khoản chi phí để lập biểu giá thành thực hiện. Tính lỗ lãi các khoản thanh toán với ngân sách theo chế độ hiện hành. Quyết toán tài chính, lập báo cáo hàng tháng, kì theo quy định. Phòng tổ chức bảo vệ: Chức năng: Tham mưu cho ban Giám đốc về công tác tổ chức lao động như: tiền lương, tổ chức các phong trào thi đua khen thưởng, kỷ luật, tiến hành chi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24650.doc