Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng

Lời Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Cao Bằng là một vùng sinh thái nhân văn có nhiều đặc thù. Trong 10 năm qua thực hiện Nghị quyết 32/NQTƯ, chỉ thị /HĐBT, chỉ thị 252 TTG, nền kinh tế nông nghiệp nông thôn của tỉnh đã có bước phát triển quan trọng. Tuy vậy hiện nay đây vẫn là vùng phát triển chậm nhất trong cả nước, đời sống của các hộ gia đình còn ở mức thấp, tỷ lệ đói nghèo còn ở mức cao, kinh tế hộ gia đình chủ yếu là ở mức tự cấp tự túc, hiện còn 130 xã, 38767 hộ thuộc diện khó khăn.

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với chủ trương đổi mới kinh tế của cả nước, hiện nay hộ nông dân của nước ta đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ được giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài được khuyến khích phát triển sản xuất... Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, trong những năm qua được sự hỗ trợ giúp đỡ của các ngành, các cấp, kinh tế hộ nông dân đã được phát triển mạnh mẽ và trở thành hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu tạo ra sản phẩm nông nghiệp ở khu vực nông thôn của tỉnh và là nhân tố quan trọng góp phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế xã hội nông thôn của tỉnh. Tuy nhiên quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng mới là bước đầu, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và giải quyết. Do đó đề tài "Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng" được lựa chọn một mặt nhằm góp phần thực hiện chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Cao Bằng, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Nhà nước, mặt khác thông qua nghiên cứu kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng góp phần hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn kinh tế hộ nông dân ở nước ta trong cơ chế thị trường hiện nay. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở điều tra đánh giá thực trạng kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới, đề tài đề xuất những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu về điều kiện sống, điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất và thu nhập của các hộ nông dân trong vùng nghiên cứu. Qua đó tìm các giải pháp kinh tế nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân tỉnh Cao Bằng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu tại 3 huyện thuộc 3 tiểu vùng sinh thái ở Cao Bằng. - Huyện Hoà An thuộc tiểu vùng bồn địa. - Huyện Nguyên Bình thuộc tiểu vùng núi đất. - Huyện Trùng Khánh thuộc tiểu vùng núi đá. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề, em đã sử dụng các phương pháp sau: + Phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. + Sử dụng phương pháp thống kê. + Sử dụng kỹ thuật điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của nông dân (PRA) để thu thập thông tin + Sử dụng phương pháp chuyên gia: 5.Cấu trúc của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương: Chương I: Phát triển kinh tế hộ nông dân- Một số vấn đề lý luận Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng. Chương III: Định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của của thầy giáo: TS Trần Quốc Khánh và sự nỗ lực của bản thân, luận văn đã được hoàn thành. Tuy nhiên do khả năng có hạn, thời gian thực tập ngắn nên chắc chắn luận văn còn nhiều hạn chế, em mong được sự góp ý thêm của thầy giáo và cô giáo cùng các bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: TS Trần Quốc Khánh và các thầy cô giáo trong khoa KTNN & PTNN trường đại học KTQD Hà Nội. Chương I Phát triển kinh tế hộ nông dân Một số vấn đề lý luận I. Những lý luận chung. 1. Một số khái niệm, bản chất của kinh tế hộ nông dân. 1.1. Khái niệm: Hộ gia đình: Là tổ chức kinh tế, xã hội đã tồn tại từ lâu ở các nước, bao gồm cha mẹ và con cái là chủ yếu. Hộ nông dân: Là hình thức kinh tế gắn lao động của một gia đình nông dân với một mảnh đất nhất định (đất của riêng hoặc của người khác) và một số công cụ và sức kéo cần thiết để khai thác mảnh đất ấy. Kinh tế hộ nông dân là một thực tế lâu dài, là sự ra đời của một chủ thể kinh tế ở nông dân- Trong một thời gian dài kinh tế hộ nông dân có những tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Thực tế sản xuất nông nghiệp trên thế giới trong thế kỷ 20 cho thấy có nhiều hình thức sản xuất khác nhau như: kinh tế hộ nông dân, trang trại gia đình, xí nghiệp nông nghiệp, tập đoàn sản xuất, HTX nông nghiệp... Tuy nhiên lực lượng chủ yếu sản xuất ra các loại nông sản đáp ứng cho nhu cầu của 6 tỷ người trên hành tinh của chúng ta không phải là ở các xí nghiệp hàng hoá tập trung quy mô lớn mà chính là các hộ nông dân, trang trại gia đình nông dân. Trên 300 triệu hộ nông dân trên hành tinh đang góp phần đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế nông nghiệp thế giới. ở Việt Nam, trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, sản xuất của các hộ gia đình nông dân đã có nhiều biến đổi thăng trầm. Trước đây, dưới chế độ tập trung quan liêu bao cấp, trong nông thôn tồn tại hình thức kinh tế tập thể là chủ yếu, kinh tế hộ gia đình chỉ là phụ, thậm chí còn bị hạn chế, cản trở phát triển. Những năm gần đây cùng với sự đổi mới trong cơ chế quản lý và chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Hộ là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng cho các cá nhân của hộ. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của hộ và của xã hội nói chung. Hộ là đơn vị sản xuất và tái sản xuất chứa đựng các yếu tố hay các nguồn lực của quá trình tái sản xuất (lao động, đất đai, vốn, kỹ thuật, nguồn thu nhập...). Hộ là một đơn vị sản xuất tự thực hiện quá trình tái sản xuất dựa trên việc phân bố nguồn lực vào các ngành sản xuất để thực hiện tốt các chức năng của nó. Trong quá trình nó có mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị kinh tế khác và với hệ thống quốc gia. Khai thác các năng lực của hộ sẽ góp phần thúc đẩy hệ thống kinh tế quốc gia phát triển. 1.2. Bản chất: Bản chất của kinh tế hộ nông dân được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Kinh tế hộ nông dân là nền kinh tế trong đó các thành viên làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích kinh tế của bản thân của gia đình, xã hội. - Kinh tế hộ nông dân là nền kinh tế thích nghi với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất đai, lao động và đối tượng sản xuất của nông nghiệp là sinh vật sống. - Kinh tế hộ nông dân là nền kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù với điều kiện tự nhiên, kinh tế ở mỗi nước và mỗi khu vực trên thế giới. - Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất vừa tiêu dùng trình độ phát triển của kinh tế nông hộ từ thấp tới cao. - Kinh tế hộ nông dân phải vận dụng tổng hợp các quy luật kinh tế khách quan và không những phải giải quyết thoả đáng mục tiêu của kinh tế hộ nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây dựng nông thôn mới. Với vai trò, vị trí và đặc trưng của kinh tế hộ nông dân như nêu trên, từ trước tới nay đã có nhiều nhà kinh tế học bàn về kinh tế hộ nông dân. ở Anh, một trong những nước tư bản tiến hành công nghiệp hoá sớm nhất, người ta đã quan niệm một cách đơn giản rằng trong nền kinh tế hàng hoá nông nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn. Vì vậy ruộng đất được tích tụ tập trung xí nghiệp nông nghiệp tư bản được hình thành, nhiều trang trại gia đình bị phá sản hoặc phân tán và người ta hy vọng với mô hình này số lượng nông sản được tạo ra sẽ nhiều hơn, có giá trị rẻ hơn so với sản xuất gia đình phân tán. Nhưng người ta quên mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh vật, vào cây trồng cũng như vật nuôi. Điều đó không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy mô lớn và việc sử dụng lao động làm thuê tập trung chỉ đem lại hiệu quả kinh tế thấp. Chính Mác và Ăngghen lúc đầu cũng cho rằng nền kinh tế hộ nông dân còn bị hạn chế nên cần cải tạo nó mới có thể phát triển sản xuất nông nghiệp lên trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Do đó, vào thời kỳ đó các ông đã dự đoán kinh tế hộ nông dân sẽ bị xoá bỏ trong điều kiện phát triển đại công nghiệp và thay thế vào đó là việc xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn. Nhưng về sau, với thực tế phát triển nông nghiệp theo hướng tập trung ở nước Anh và các nước tư bản chủ nghĩa, Mác đã cho rằng, ngay ở các nước có nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các nông trại gia đình không dùng các lao động làm thuê. Kinh tế nông trại gia đình tỏ ra là hình thức tổ chức nông nghiệp hợp lý, không mâu thuẫn với phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Từ những luận điểm về kinh tế hộ nông dân của các nhà kinh tế, chúng ta có thể nhận thấy rằng: kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế cơ bản và tự chủ trong công nghiệp, được hình thành và tồn tại khách quan lâu dài và dựa trên cơ sở sử dụng sức lao động, đất đai và tư liệu sản xuất khác của gia đình các hộ nông dân là chính. Kinh tế hộ nông dân là hình thái kinh tế có hiệu quả phù hợp với sản xuất nông nghiệp, thích ứng và tồn tại trong mọi chế độ kinh tế xã hội. Kinh tế hộ nông dân khác biệt so với các hình thức kinh tế khác bởi vì nó là kinh tế của những người cùng sống trong hộ gia đình. Nó bị chi phối chủ yếu bởi đất đai, lao động, tiền vốn của gia đình hộ nông dân và thái độ tiêu dùng sản phẩm của người dân. Vận dụng lý luận kinh tế hộ nông dân vào thực tế, các nhà kinh tế học nghiên cứu thực tiễn về hoạt động kinh tế hộ nông dân trên thế giới đã thấy kinh tế hộ nông dân phát triển từ trạng thái tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá ở các mức độ khác nhau. Một khi hội tụ được các điều kiện để phát triển kinh tế của gia đình như đất đai, vốn, lao động kỹ thuật thì các hộ nông dân phá vỡ cái vỏ ốc tự cấp tự túc của mình để dần dần đi vào quỹ đạo của sản xuất hàng hoá. Thông qua quá trình tiến hoá đó, các hộ nông dân thay đổi mục tiêu và cách kinh doanh cũng như phản ứng của thị trường. Lúc đầu, kinh tế hộ nông dân sản xuất hoàn toàn là tự cấp tự túc. Theo lý thuyết của Traiauov thì kinh tế hộ nông dân có mục tiêu tối đa hoá lợi ích, lợi ích ở đây là sản phẩm cần để tiêu dùng trong gia đình, người nông dân phải lao động để sản xuất lượng sản phẩm cho đến lúc không đủ sức sản xuất nữa, nhân tố ảnh hưởng nhất đến nhu cầu và khả năng lao động của hộ là cấu trúc dân số của hộ gia đình. Lúc này người nông dân có phản ứng một ít với thị trường, nhất là thị trường lao động và thị trường vật tư. Sau đó các hộ nông dân bắt đầu phản ứng với thị trường tuy rằng mục tiêu chủ yếu vẫn là tự túc. Đây là mô hình kiểu kinh tế mới hay còn gọi là nửa tự cấp tự túc. Các hộ nông dân có tiếp xúc với thị trường sản phẩm, thị trường lao động, thị trường vật tư. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân ở giai đoạn này vẫn chưa phải là kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường. Các yếu tố tự cấp tự túc vẫn còn lại rất nhiều và vẫn quyết định cách sản xuất của hộ nông dân. Cho đến những thập kỷ cuối thế kỷ XX, kinh tế hộ nông dân trên thế giới đã phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá là chủ yếu. Hoạt động kinh tế hộ nông dân ngày càng gắn với thị trường vốn, thị trường vật tư, thị trường ruộng đất, lao động và sản phẩm. Ngày nay nông trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn về đất đai canh tác cũng như khối lượng sản phẩm sản xuất ra. 2. Kinh tế hộ nông dân - một thành phần quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân Kinh tế hộ nông dân là loại hình tổ chức có hiệu quả về kinh tế xã hội, tồn tại phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp đại bộ phận lương thực, thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội và góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Trên toàn thế giới, với trên 300 triệu hộ nông dân đang đóng góp vai trò chủ lực trong sản xuất nông nghiệp thế giới. Hàng năm kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra khoảng 2000 triệu tấn gạo, trên 200 triệu tấn hạt có dầu và gần 1000 tấn thịt, sữa, rau quả... đảm bảo cung cấp cho gần 6 tỷ người về nhu cầu lương thực, thực phẩm. Hiện nay ở Mỹ kinh tế hộ gia đình sử dụng khoảng 65% đất nông nghiệp và sản xuất ra gần 70% giá trị nông sản của cả nước, sản xuất hơn 50% sản lượng ngô và đậu tương của toàn thế giới. ở Nhật Bản kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng lương thực thực phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của cả nước với mức độ đảm bảo 100% nhu cầu về gạo, 81% nhu cầu thịt, 98% nhu cầu trứng, 89% nhu cầu sữa, 84% nhu cầu đường và từ 80- 95% nhu cầu rau quả. ở Việt Nam hiện nay với gần 12 triệu hộ nông dân, chiếm 80% tổng số hộ toàn quốc, đang là các đơn vị chủ yếu sản xuất ra sản phẩm lớn các nông sản phẩm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hiện nay các hộ nông dân ở nước ta được giao trên 5 triệu ha đất nông nghiệp, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý nói chung, việc thừa nhận hộ gia đình là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo tiền đề và điều kiện quan trọng cho các hộ nông dân đầu tư phát triển sản xuất, góp phần quyết định tạo nên bước phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời gian qua. Hiện nay 100% sản lượng lương thực, khoảng 90- 95% rau thực phẩm và 80- 85% sản lượng thịt, trứng sản xuất ra của cả nước là do kinh tế hộ nông dân thực hiện. 3. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế cơ bản trong quá trình phát triển nông nghiệp của nước ta. Trong giai đoạn hiện nay nó được xác định là một thành phần kinh tế, là một kiểu tổ chức kinh tế vừa có tính chất truyền thống, vừa mang tính thời đại, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nói riêng, trong kinh tế xã hội nói chung. Kinh tế hộ nông dân là một tế bào bền vững và phát triển lành mạnh trong cơ chế nền kinh tế quốc dân, bởi có những đặc trưng sau đây: 3.1. Đặc trưng về mục đích sản xuất: Mục đích sản xuất của kinh tế hộ gia đình chủ yếu là trên cơ sở sản xuất đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cho hộ, từng bước tổ chức sản xuất các loại nông sản hàng hoá tăng thu nhập nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của hộ gia đình ngày càng tốt hơn. 3.2. Đặc trưng về sở hữu: Là sở hữu gia đình, quyền sở hữu đất đai, tư liệu sản xuất và sản phẩm do kinh tế hộ gia đình tạo ra là do mọi thành viên trong gia đình có quyền sử dụng. Sự sở hữu này không hoàn toàn giống như sở hữu tư nhân trong sở hữu tập thể. 3.3. Đặc trưng về lao động: Lao động của kinh tế hộ gia đình gồm các thành viên trong hộ thực hiện, họ làm việc với tính tự giác cao, tự chủ vì lợi ích của bản thân và gia đình họ và lợi ích của xã hội. 3.4. Đặc trưng về phân phối: Các sản phẩm do kinh tế hộ gia đình sản xuất ra được phân phối theo nhu cầu của các thành viên trong gia đình theo kết quả sản xuất chung của họ. 3.5. Đặc trưng về mặt tổ chức: Nó gần như chỉ là những người trong gia đình hoặc hộ gia đình có quan hệ huyết thống, hôn nhân điều khiển quá trình sản xuất chủ yếu là người chủ gia đình trên cơ sở thứ bậc, đơn giản, gọn nhẹ, hiệu lực cao bởi kỷ cương, nề nếp mang tính truyền thống ý thức hệ. 3.6. Đặc trưng về hoạt động kinh tế của hộ: Hoạt động đa dạng và phong phú, có thể tiến hành kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề, có tính tự điều chỉnh nhanh nhạy trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, có tính năng động, linh hoạt cao, tuỳ theo điều kiện và khả năng của các thành viên trong gia đình. 4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế hộ nông dân. 4.1. Về điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên như đất đai, thời tiết khí hậu, địa hình có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển các loại cây trồng và các gia súc, ảnh hưởng đến việc bố trí các ngành sản xuất, cho nên nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ. Nếu đất đai màu mỡ, thời tiết khí hậu thuận lợi thì các loại cây trồng và các gia súc phát triển và như vậy thu nhập của hộ nông dân có thể tăng lên. Tuy nhiên nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi cây trồng con gia súc có phát triển thì thu nhập của kinh tế hộ sẽ bị giảm đi. Trong điều kiện như vậy muốn phát triển kinh tế thì các hộ phải đầu tư lớn điều này lại phụ thuộc vào khả năng tài chính của hộ, cũng như trình độ tổ chức quản lý của chủ hộ. 4.2.Về trình độ tổ chức sản xuất của chủ hộ. Chủ hộ là người có vị trí quyết định trong sự phát triển kỹ thuật của hộ nông dân, quyết định hướng sản xuất kinh doanh của nông hộ. Nhìn chung ở tỉnh Cao Bằng, các chủ hộ nông dân đa số là những người nông dân có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp tuổi đời từ 41- 50. ở những hộ này vấn đề quyết định tổ chức sản xuất của các chủ hộ thường dựa vào các kinh nghiệm qua thực tế sản xuất ở địa phương. Kết quả sản xuất ở những loại hộ này theo điều tra là những hộ đủ ăn nhưng sản xuất hàng hoá chưa được chú ý. Qua điều tra về mối quan hệ giữa trình độ của chủ hộ nông dân và kết quả sản xuất của hộ gia đình chúng tôi thấy ở Cao Bằng nhìn chung mối quan hệ trình độ của chủ hộ với mức thu nhập của hộ nông dân có tỷ lệ thuận. Các chủ hộ có trình độ cấp III, thường là những nông dân có tuổi đời còn trẻ (dưới 40 tuổi) ham học hỏi, những bộ đội xuất ngũ đã được thử thách trong chiến đấu, đi nhiều, biết nhiều... và họ là những người hiểu biết nhất định về một số cây trồng, vật nuôi và nền kinh tế thị trường. Phỏng vấn các chủ hộ này về phát triển kinh tế hộ trong thời gian tới họ đều có những ý kiến là sẽ đưa các giống mới có năng suất cao vào sản xuất và đều có ý muốn phát triển kinh tế vườn và vườn rừng. Có một số chủ hộ có ý đồ mở rộng chăn nuôi bò và gà theo hướng quy mô vừa để tạo ra khối lượng hàng hoá lớn. Từ thực tế này cho thấy để phát triển kinh tế hộ nông dân, trong những năm tới cần quan tâm đào tạo nâng cao hiểu biết kỹ thuật, và trình độ tổ chức quản lý cho các chủ hộ. Đây là một yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá làm cho nông thôn Cao Bằng ngày càng có nhiều hộ giàu. 4.3. Về các nguồn lực của hộ nông dân. Các nguồn lực của hộ gia đình (các yếu tố sản xuất của hộ gia đình) ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế hộ. Tuy nhiên với điều kiện nền kinh tế kém phát triển, trình độ tổ chức sản xuất chưa cao như ở Cao Bằng hiện nay thì mới tương quan giữa quy mô các nguồn lực của hộ và kết quả sản xuất của hộ chưa thể hiện rõ nét. - Về quy mô ruộng đất: Thông thường trong điều kiện kinh tế phát triển, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật của các chủ hộ tương đối khá thì quy mô ruộng đất của các hộ có liên quan tỷ lệ thuận với thu nhập của hộ nông dân. Nghĩa là các hộ có nhiều ruộng đất thường sẽ có thu nhập cao. Nhưng với điều kiện thực tế hiện nay ở Cao Bằng và nhiều tỉnh khác cho thấy khi mà kinh tế còn chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp thì yếu tố quyết định đến phát triển kinh tế hộ nông dân lại là trình độ tổ chức sản xuất của các chủ hộ chứ không phải do quy mô về ruộng đất của các hộ quyết định. Như vậy thực tế cho thấy: Những nơi có trình độ sản xuất trình độ dân trí và điều kiện sản xuất tương đối giống nhau thì quy mô đất đai của hộ nông dân có quan hệ tỷ lệ thuận với mức thu nhập của họ, có nghĩa các hộ có quy mô đất đai lớn thì có mức thu nhập cao. Tuy nhiên hiện tại vẫn có sự khác nhau về điều kiện và trình độ sản xuất do đó mối quan hệ giữa quy mô đất đai của hộ và mức thu nhập của hộ nông dân không chặt chẽ. - Về nhân khẩu / lao động: Đây cũng là yếu tố sản xuất quan trọng của kinh tế hộ. Phân tích mối liên quan giữa tỷ trọng lao động/nhân khẩu của các hộ với mức thu nhập của các thành viên trong gia đình cho thấy, nhìn chung các hộ có hệ số lao động / nhân khẩu lớn thì thu nhập cao. Tuy nhiên không phải lúc nào và trong điều kiện nào cũng như vậy. Bởi vì nhu cầu sử dụng lao động sống còn tuỳ thuộc vào yếu tố khác. Về tư liệu sản xuất: nhìn chung những hộ có tư liệu sản xuất khá thì có nền kinh tế phát triển, ngược lại những hộ nghèo rất thiếu công cụ sản xuất (kể cả công cụ cầm tay), thì kinh tế kém phát triển . 4.4. Các yếu tố về sự trợ giúp của Nhà nước. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và trong quá trình phát triển kinh tế hộ noí riêng. Các chính sách về phát triển kinh tế xã hội của nhà nước đối với các tỉnh miền núi và các chính sách về đất đai, chính sách hỗ trợ người nghèo... vừa qua đang có tác dụng tích cực đến việc phát triển kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng. - Chính sách giao đất giao rừng đã giúp một số hộ có trình độ sản xuất khá đã nâng quy mô sản xuất của hộ nông dân (có hộ đã nhận 20 - 30 ha rừng) và các hộ này bước đầu đã chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. - Chính sách cho người nghèo vay vốn và chính sách hỗ trợ xây dựng các cơ sở hạ tầng nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tiến hành thực hiện thâm canh trong sản xuất. - Chính sách đầu tư các mô hình áp dụng kỹ thuật thông qua công tác khuyến nông, khuyến lâm đã giúp một số hộ nông dân (các hộ tham gia mô hình) có điều kiện để mở rộng sản xuất và tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật mới đưa vào sản xuất. 5. Xu thế phát triển của kinh tế hộ nông dân 5.1. Xu thế phát triển Trong cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta hiện nay hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, có quyền quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của mình. Song do điều kiện thực tế hiện nay đa số các hộ nông dân có mục tiêu là phấn đấu có đủ ăn đủ mặc, con cái được học hành, ốm đau có thuốc chữa bệnh, chỉ có một số hộ có mục tiêu sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hoá để làm giàu.Vì vậy có thể thấy xu hướng phát triển kinh tế hộ hiện nay theo các hướng sau: 5.1.1. Xu hướng chuyển sang sản xuất hàng hoá. Đối với các hộ nông dân mà chủ hộ là những người có hiểu biết kinh tế thị trường, gần thị trường và là những hộ có trình độ sản xuất khá, chủ hộ có ham muốn làm giàu thì xu hướng phát triển kinh tế của các hộ này có thể tuỳ điều kiện của hộ mà phát triển theo một trong các hướng sau: + Trên cơ sở của phát triển trồng trọt và phát triển chăn nuôi, sự tác động thúc đẩy lẫn nhau làm cho phát triển sản xuất vượt qua mức nhu cầu cần thiết, do vậy chuyển sang sản xuất hàng hoá. Đây là xu hướng của đại bộ phận vùng nông hộ của Cao Bằng ở tiểu vùng bồn địa, nơi mà bình quân đất canh tác của hộ có hạn. Theo xu thế này các hộ tập trung đầu tư thâm canh trong trồng trọt và từng bước mở rộng chăn nuôi gia đình với quy mô vừa. + Đối với các hộ nông dân ở những nơi có điều kiện thuận lợi về đất đai, thị trường sẽ mở rộng quy mô sản xuất trước hết là quy mô đất đai trồng cây dài ngày để tạo ra khối lượng nông sản lớn. Để phát triển kinh tế hộ theo hướng này các chủ hộ phải là người có ý chí, được đào tạo có trình độ hiểu biết và cần có sự giúp đỡ khuyến khích của Nhà nước. + Đối với những hộ nông dân cư trú ở vùng có lợi thế so sánh (vùng cây đặc sản, vùng sản xuất nguyên liệu cho nhà máy). Xu thế phát triển kinh tế hộ nông dân ở các sản phẩm có lợi thế so sánh đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng. Điều kiện cụ thể ở Cao Bằng các hộ thuộc vùng trồng dẻ ăn hạt (thuộc huyện Trùng Khánh) trồng trúc sào (huyện Nguyên Bình) trồng mía (huyện Quảng Hoà) có thể chuyển sang sản xuất hàng hoá. 5.1.2. Xu hướng mở rộng quy mô sản xuất. Đối với một số hộ nông dân có trình độ sản xuất khá, chủ hộ có kiến thức có ý chí làm giàu, họ muốn có diện tích đất đai lớn hơn để tiến hành tổ chức sản xuất, thành lập các trang trại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá. Xu hướng này hiện nay ở Cao Bằng đã và đang được khuyến khích phát triển. Trong những năm tới sẽ tiếp tục được mở rộng. Tuy nhiên cần tạo điều kiện và giúp đỡ vốn để cho các hộ nông dân phát triển kinh tế hộ theo hướng này. Quy mô đất đai của các hộ phát triển kinh tế theo hướng này có thể từ 1- 3 ha. Sự ra đời của các nông trại nhỏ sẽ có ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất của nông hộ, chuyển một bộ phận nông dân từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, chuyển một bộ phận lao động sang sản xuất theo kiểu công nghiệp, chuyên môn hoá. 5.1.3. Xu hướng phát triển kinh doanh tổng hợp. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường, các hộ nông dân có xu hướng phát triển kinh doanh tổng hợp, thoát dần nền kinh tế thuần nông. Xu hướng phát triển này được thể hiện ở những vấn đề cụ thể sau: - Tỷ trọng loại hình kinh tế hộ thuần nông ngày giảm dần, tăng tỷ trọng loại hình kinh tế hộ kiêm vừa trồng trọt, chăn nuôi, làm nghề rừng và làm các nghề phụ, kết hợp làm dịch vụ... Đồng thời loại kinh tế hộ chuyên cũng được phát triển, sự biến đổi này phụ thuộc vào điều kiện từng khu vực, ở những khu vực xa, vùng sâu, vùng cao thì hộ phát triển kinh tế thuần nông là chủ yếu. Ngược lại ở ven đô thị, khu công nghiệp, đường giao thông các hộ kiêm chiếm tỷ lệ cao. - Tỷ trọng vốn đầu tư cho trồng trọt giảm dần, đầu tư cho chăn nuôi và các ngành nghề tăng dần. Xu hướng đối với các hộ phát triển kinh tế theo hướng này tỷ trọng vốn đầu tư cho trồng trọt 35%, đầu tư cho chăn nuôi 35- 40%, đầu tư cho phát triển ngành nghề 20- 25%. - Giảm dần lao động đầu tư cho ngành trồng trọt, tăng đầu tư lao động cho chăn nuôi và ngành nghề. Xu hướng đối với các hộ phát triển kinh doanh tổng hợp lao động đầu tư cho trồng trọt chiếm 50%, đầu tư cho chăn nuôi 25%, đầu tư cho các ngành nghề khác 25%. Đối với điều kiện cụ thể ở Cao Bằng nói riêng và ở miền núi Bắc Bộ nói chung xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng phát triển kinh doanh tổng hợp là tương đối phù hợp. 5.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ nông dân. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước đã thực hiện được hơn 10 năm, trong lĩnh vực nông nghiệp chúng ta đã đạt được những thành tích đáng kể, sản xuất phát triển tương đối toàn diện, ổn định với tốc độ tăng trưởng trên 4,3% năm. So với trước thời kỳ đổi mới năm 1987, đến nay sản lượng lương thực cả nước đã tăng hơn 1,8 lần; cà phê tăng 20 lần; cao su tăng 3,5 lần; chè 1,8 lần; đàn bò 1,2 lần; đàn lợn 1,5 lần... từ một đất nước phải nhập khẩu lương thực hàng năm, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 16,9%/năm. Có được những thành quả này trước hết là nhờ những chủ trương chính sách đổi mới về nông nghiệp nông thôn và đặc biệt là các chủ trương chính sách và phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước. Đảng ta rất coi trọng phát triển kinh tế hộ nông dân, xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm tạo điều kiện cho các hộ, khuyến khích các hộ nông dân phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trong sự nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Mở đầu cho chủ trương về đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta là chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư TW ĐCSVN về cải tiến công tác khoán (1.1981), mở rộng khoán sản phẩm đến người lao động trong các HTX nông nghiệp, chỉ thị này đã tháo gỡ nhiều vướng mắc ở nông thôn thời bấy giờ, bước đầu khơi dậy được tinh thần làm chủ, phấn khởi của người lao động, lôi cuốn mọi gia đình tăng thêm công sức (kể cả lao động phụ) chủ động trong sản xuất, phát huy mọi nguồn lực để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông dân. Trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm của việc thực hiện chỉ thị 100- CT/TW đã công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế hộ gia đình nông dân và kinh tế phát triển bảo vệ quyền làm ăn chính đáng, thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình nông dân, các hộ cá thể, tư nhân. Nhà nước đã cho phép và khuyến khích các hộ gia đình phát triển kinh tế gia đình như làm vườn cây ăn quả, cây nông nghiệp vườn rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... để cung ứng sản phẩm cho xã hội, tăng thêm thu nhập cho hộ gia đình. Đồng thời Nhà nước cũng đã đưa ra các chính sách về giao đất, thuê đất đối với các hộ gia đình ở những vùng đất chưa sử dụng và chính sách cho các hộ gia đình ở những vùng đất chưa sử dụng và chính sách cho các hộ nông dân vay vốn sản xuất. Những chính sách trên đã thực sự tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta phát triển. Hàng chục triệu hộ nông dân đã phấn khởi yên tâm tổ chức sản xuất trên ruộng đất của mình góp phần không nhỏ vào sự phát triển nông nghiệp của đất nước. Tiếp theo những chính sách trên, năm 1993 một loạt các chính sách cụ thể đã được ban hành nhằm giúp đỡ các hộ nông dân chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân. - Nghị định số 13-CP của chính phủ về công tác khuyến nông đã đưa ra các chính sách nhằm phổ biến những kiến thức, kỹ thuật về trồng trọt chăn nuôi, kinh nghiệm làm ăn, kỹ năng, quản lý kinh tế cho các hộ gia đình để giúp các hộ nông dân tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. - Nghị định số 14- CP của chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn để phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Theo Nghị định này các hộ gia đình có nhu cầu vay vốn để sản xuất theo đúng qy định thì được nhà nước cho vay trực tiếp thông qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đối với các hộ vùng núi cao, hải đảo... được hưởng chính sách vay vốn ưu đãi, chính sách này đã giúp các hộ nông dân có đủ vốn để phát triển sản xuất, tạo điều kiện giúp các hộ làm kinh tế giỏi có đủ vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư xây dựng vùng sản xuất, hàng hoá. - Nghị định số 64-CP của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp và Nghị định 02/CP về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, một số chính sách về đất đai như giao đất, giao rừng đến hộ, chính sách về thuế đất nông, lâm nghiệp, cấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yên tâm đầu tư thâm canh sản xuất, nhiều hộ trong quá trình tích tụ ruộng đất đã tạo ra các trang trại sản xuất quy mô vừa để tổ chức sản xuất hàng hoá làm cho kinh tế nông thôn phát triển. Ngoài những chính sách trên, Đảng và nhà nước còn ban hành một số chính sách nhằm tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình nông dân ở nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, chính sách hỗ trợ gia đình về khoa học công nghệ, chính sách đầu tư tín dụng và thị trường tiêu thụ nông sản, chính sách hỗ trợ sản xuất đối với các hộ gia đình ở vùng cao, xa, sâu... những chính sách này được cụ thể hoá trong Nghị quyết số 06/NQ/TTg về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết 135/TTg và 133/TTg về chương trình xoá đói giảm nghèo, tự phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi vùng sâu, vùng xa... Những chính sách trên đã giúp cho các hộ gia đình nông dân có đủ giống tốt._., vật tư kỹ thuật đủ vốn đầu tư thâm canh và yên tâm sản xuất hàng hoá khi nhà nước đã tạo ra các thị trường tiêu thụ sản phẩm và đã làm cho kinh tế hộ nông dân phát triển ngày càng cao, tăng thu nhập cho mỗi gia đình nông dân, cải thiện đời sống ở nông thôn. Hàng chục triệu hộ nông dân phấn khởi yên tâm sản xuất, trong đó hàng triệu hộ làm kinh tế có hiệu quả số hộ nghèo ở nông thôn ngày một giảm và ở nông thôn hiện nay đã có hàng triệu hộ gia đình phát triển kinh tế trang trại theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Đứng trước thực trạng kinh tế nông dân ở nước ta đang chuyển sang sản xuất kinh tế hàng hoá kiểu tổ chức trang trại gia đình, để khuyến khích phát triển như các loại hình sản xuất khác của kinh tế hộ gia đình phát huy hiệu quả của kinh tế hộ gia đình vừa qua chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ/CP về phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, chủ trương này giúp cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta đặc biệt là kinh tế hộ nông dân ở các tỉnh miền núi, ven biển sẽ có điều kiện chuyển sang sản xuất hàng hoá, đây là động lực nối tiếp và phát huy động lực kinh tế hộ nông dân ở nước ta. II. Khái quát tình hình kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới và ở nước ta. 1. Khái quát tình hình kinh tế hộ nông dân của một số nước trên thế giới. Các tài liệu có đề cập tới kinh tế hộ nông dân của các nước cho thấy tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà các tác giả có phân loại kinh tế hộ nông dân khác nhau. Theo Traianov Baruum- Squire, Low… phân loại kinh tế hộ nông dân theo trình độ sản xuất. Theo quan điểm này kinh tế hộ nông dân được chia thành nông trại gia đình (nhỏ) và nông trại lớn hoặc chia thành loại nông hộ có quy mô đất đai và loại nông hộ có đất đai nhiều. Hiện nay kinh tế nông hộ ở hầu hết các nước trên thế giới đã phát triển theo kinh tế hàng hoá là chủ yếu và có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của cả nước. * Tại Hà Lan, các nông trại gia đình cung cấp 87% lượng sữa, 63% lượng củ cải đường, 85% lượng rau quả cho nhu cầu nông sản phẩm của đất nước và 90% tín dụng nông nghiệp được Nhà nước chấp nhận ở ngân hàng. * Tại Pháp, với 98 nghìn nông trại đã sản xuất nhiều gấp 2,2 lần so với nhu cầu nông sản trong nước- Tỷ suất sản phẩm hàng hoá của các nông trại này về hạt cốc là 95%, thịt sữa 70- 80% và rau quả là trên 70%. * Tại các nước châu á, kinh tế hộ nông dân (tiểu nông trại) thường canh tác trên 25- 30% diện tích và sản xuất ra 35- 40% sản lượng các sản phẩm trong nông nghiệp. Trong quá trình phát triển kinh tế nông trại, các hộ nông dân của các nước đã tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực sinh học, hoá học, cơ điện, tin học vào sản xuất và có xu hướng tăng quy mô sản xuất của các trang trại. Từ thực tiễn tình hình phát triển kinh tế nông trại của một số nước châu á cho thấy thực trạng kinh tế hộ nông dân của các nước này phát triển theo hướng dưới đây: - Mặc dù trình độ phát triển của các nước có khác nhau nhưng đều giống nhau là phát triển nông trại gia đình có quy mô nhỏ. Đây là hình thức phát triển của kinh tế hộ nông dân phổ biến và phù hợp trong sản xuất nông nghiệp của các nước hiện nay. - Hầu hết các nước đều có quy mô trang trại dưới 1 ha hoặc 1- 3 ha, loại hình nông trại này chiếm tới 60- 70% tổng số trang trại của cả nước. - ở Indonesia có tới 9,54 triệu nông trại nhỏ, trong đó nông trại dưới 1 ha chiếm 70,4% và nông trại từ 1- 3 ha chiếm 24%. - ở Philippin, nông trại dưới 3 ha chiếm 68,9% - ở Thái Lan, nông trại dưới 1 ha chiếm 15,9% và nông trại từ 1- 3 ha chiếm 27,4%. Về cơ cấu sản xuất, hầu hết các tiểu nông trại của các nước thường sản xuất đa dạng hoá sản phẩm để tránh rủi ro và đảm bảo an toàn lương thực. Phổ biến là sử dụng lao động của gia đình và họ hàng thân thiết, nếu có thuê mướn chỉ hạn chế trong lúc thời vụ và với số lượng ít. Có thể nói, ở các nước châu á tiểu vùng nông trại thường được đặc trưng bởi sử dụng cao độ lao động gia đình. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất và quản lý ngày càng được các nông hộ chú ý nên đã làm cho sản xuất của nông hộ phát triển mạnh, doanh thu và thu nhập ngày càng lớn. Do đó, kinh tế hộ nông dân của các nước châu á hiện nay đóng góp quyết định cho sự phát triển công nghiệp của các nước, có vai trò quan trọng đối với các ngành kinh tế khác và xuất khẩu. Xu hướng chung là quy mô sản xuất và đất canh tác của một nông hộ của các nước đều tăng, số lượng nông hộ giảm. 2. Tình hình kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Trong quá trình phát triển nông nghiệp ở nước ta, cùng với sự phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, kinh tế hộ nông dân ở nước ta đã có những biến đổi thăng trầm. Dưới thời kỳ Pháp thuộc tuyệt đại bộ phận kinh tế nông hộ sản xuất còn lạc hậu, thuần nông, tự nhiên, tự cấp tự túc. Đa phần nông dân làm rẽ ruộng của địa chủ và đi làm thuê. Một bộ phận lớn nông hộ còn sản xuất theo hướng cổ truyền với kinh nghiệm và kỹ thuật thô sơ sau hoà bình lập lại (1955- 1959) cuộc cách mạng cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã tạo ra nền kinh tế hộ nông dân dưới chế độ mới. Lúc này, trình độ sản xuất vẫn còn lạc hậu, nhưng nông nghiệp có dấu hiệu phát triển và bước đầu xuất hiện tiền đề của hàng hoá. Nhưng sau đó công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, do chủ trương phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nên trong thời kỳ này vai trò kinh tế hộ nông dân bị phủ nhận bởi mô hình tập thể và quốc doanh hoá. Trong 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế ở nước ta, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế hộ nông dân đã từng bước phát triển theo đúng quy luật đến nay kinh tế hộ nông dân đã thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn. Gần 12 triệu hộ nông dân đang là các đơn vị chủ yếu sản xuất ra phần lớn các nông sản phẩm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhiều hộ nông dân đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng có kết quả tiến bộ khoa học công nghệ, đầu tư thâm canh nên thu nhập tăng, đời sống các hộ nông dân được cải thiện và nâng cao một bước. Đề cập đến vai trò của kinh tế hộ nông dân ở nước ta hiện nay Nghị quyết số 06/NQ/TW của BCHTW khoá VIII đã chỉ rõ: "Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là loại hình tổ chức sản xuất có hiệu quả về kinh tế xã hội, tồn tại, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục khuyến khích kỹ thuật hộ phát triển mạnh mẽ để tạo ra lượng sản phẩm hàng hoá đa dạng có chất lượng giá trị ngày càng cao, tăng thu nhập cho mỗi hộ gia đình nông dân… đồng thời thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ…" Để đạt được mức độ phát triển như trên, kinh tế hộ nông dân ở nước ta đã phát triển từ thấp đến cao, quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân luôn gắn liền với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế hộ phù hợp trong từng thời kỳ của Đảng và Nhà nước. Trong thời kỳ "khoán 100" và thực hiện Nghị quyết 10- NQ/TW kinh tế hộ nông dân bắt đầu được hình thành, đã được tự chủ ít nhiều về sức lao động và tư liệu sản xuất. Tuy nhiên kinh tế hộ nông dân ở thời kỳ này vẫn bị chi phối bởi kinh tế tập thể nhưng đã phát huy tốt nguồn năng lực của hộ gia đình vào sản xuất, làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn ở nước ta. Từ cuối năm 80 và những năm đầu của thập niên 90, kinh tế hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp, từ đó đến nay với các chính sách về đất đai, vay vốn, khuyến nông, khoa học công nghệ và các chính sách khuyến khích kinh tế hộ nông dân phát triển đã tạo cho kinh tế hộ nông dân phát triển khá nhanh, từ sản xuất chủ yếu đáp ứng nhu cầu cuộc sống của hộ gia đình, ngày càng có nhiều hộ nông dân sản xuất hàng hoá, thoát dần thuần nông. Đến nay ở nông thôn đã xuất hiện nhiều hộ làm kinh tế tổng hợp, hộ chuyên làm dịch vụ nông nghiệp và xuất hiện hình thức kinh tế trang trại mỗi ngày một tăng dần về quy mô. Quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân gắn liền với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội ở các vùng nông thôn. Thời kỳ đầu do kinh tế ở nông thôn chưa phát triển các hộ nông dân tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào đất đai do Nhà nước giao chủ sử dụng (0,2- 0,5 ha/hộ) nguồn lao động của gia đình (2- 2,5 lao động/hộ) nguồn vốn tự có của gia đình. Nhưng trong quá trình tái sản xuất mở rộng các yếu tố sản xuất như đất đai, vốn lao động… ngày được tăng cường. Một số hộ phát triển kinh tế hộ gia đình theo hình thức trang trại quy mô gấp 3 lần so với diện tích bình quân 1 hộ, lao động sử dụng khoảng 10 lao động thường xuyên, vốn khoảng 30- 40 triệu. Sự phát triển kinh tế hộ thành kinh tế trang trại là tất yếu vì theo quy luật phát triển không đồng đều, có một bộ phận hộ gia đình trong quá trình sản xuất đã bứt phá lên, đi vào sản xuất hàng hoá, cho thị trường ở các mức độ khác nhau. Về cơ cấu kinh tế của hộ nông dân, lúc đầu chủ yếu lấy trồng trọt làm chính trong cơ cấu cũng có sự chuyển dịch theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng ngành trồng trọt. Chính vì vậy mà thu nhập của hộ nông dân từ nông nghiệp giảm từ 91% (1993) xuống còn khoảng 75% hiện nay. Từng bước tăng dần tỷ suất sản phẩm hàng hoá của hộ nông dân ở các hộ nông dân sản xuất theo hình thức trang trại tỷ suất sản phẩm hàng hoá đạt tới 50- 70%. Về thu nhập của các hộ nông dân đã có sự gia tăng đáng kể, bình quân trong những năm qua mức thu nhập của các hộ nông dân ở nước ta tăng từ 8- 10%/năm. Tuy nhiên mức thu nhập của các hộ nông dân có sự chênh lệch giữa các vùng và ngay cả trong một vùng mức chính sách thu nhập giữa các nhóm hộ cũng có sự chênh lệch khá nhiều, có nơi chênh lệch nhau từ 8- 10 lần. Theo thống kê ở nông thôn nước ta hiện nay số hộ giàu chiếm khoảng 10- 20% số hộ có thu nhập trung bình chiếm 50- 60% và số hộ nghèo còn tới 10- 15%. Chương II thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở tỉnh cao bằng I. Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu 1. Điều kiện tự nhiên 1.1. Vị trí địa lý Cao Bằng là tỉnh núi cao biên giới thuộc vùng miền núi Bắc Bộ, có toạ độ địa lý 2202'- 23040' vĩ độ Bắc, 105040'- 106040' kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Tây giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) có đường biên giới dài 311 km, ba cửa khẩu lớn là Tà Lùng, Hùng Quốc, Sóc Hà (trong đó Tà Lùng là một trong 6 cửa khẩu lớn của quốc gia). Tỉnh lỵ Cao Bằng cách thủ độ Hà Nội 286 km với đường quốc lộ số 3 (Hà Nội- Thái nguyên- Bắc Cạn- Cao Bằng) cách thị xã Lạng Sơn 120 km theo đường quốc lộ 4B qua Đông Khê, Thất Khê, cách đường biên giới 60 km. Với vị trí địa lý của tỉnh như trên, Cao Bằng là một tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá. 1.2.Địa hình, địa mạo. Cao Bằng là một tỉnh có địa hình phức tạp, độ cao trung bình so với mặt biển trên 300 m, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Đỉnh cao nhất là ngọn Phia Da thuộc huyện Bảo Lạc có độ cao 1980 m. Địa hình của Cao Bằng được chia thành ba vùng rõ rệt: - Vùng bồn địa: địa hình bằng phẳng, đồi thấp xen kẽ các cánh đồng rộng, chủ yếu phân bố ở huyện Hoà An, thị xã Cao Bằng và các xã phía Nam huyện Hà Quảng. Độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 100- 200 m. - Vùng núi đất: vùng này chạy từ phía Tây Bắc huyện Bảo Lạc qua Nguyên Bình xuống phía Tây Nam thuộc huyện Thạch An. Độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 300- 600 m. Địa hình chia cắt phức tạp, độ dốc lớn. - Vùng núi đá vôi: Chạy tư phía Bắc và phía Đông dọc theo biên giới Việt Trung vòng xuống phía Đông nam của tỉnh bao gồm các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Thông Nông, Hạ Lang, Quảng Hoà. Đặc điểm chung của vùng này là địa hình cao, dốc, chia cắt phức tạp. 1.3 Đặc điểm thời tiết khí hậu. Do nằm sát chì tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nên khí hậu của tỉnh Cao Bằng mang tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có hai mùa rõ rệt: mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 19,80c- 21,60c tổng tích ôn trong năm đạt từ 7000- 7500 0c. Lượng mưa trung bình năm đạt 1450- 1600 mm. Lượng bốc hơi trong năm biến động từ 850- 100 mm. Trong năm thường có từ 5- 6 tháng lượng bốc hơi/tháng lớn hơn lượng mưa/tháng. Do sự chi phối của địa hình nên khí hậu Cao Bằng mang tính chất đặc thù của khí hậu thềm lục địa miền núi cao. Tỉnh có nét đặc trưng riêng so với các tỉnh khá thuộc vùng đông bắc là ở Cao Bằng có một số tiểu vùng có khí hậu đặc biệt, cho phép phát triển những loại cây trồng đặc sản như cây để ăn hạt Trùng Khánh, cây hồi ở Trà Lĩnh… Với đặc điểm khí hậu của tỉnh Cao Bằng như trên, cho phép phát triển được một nền công nghiệp đa dạng và gieo trồng được nhiều vụ trong năm. 1.4. Điều kiện đất đai. Theo tài liệu điều tra bổ sung xây dựng bản đồ đất tỉnh Cao Bằng (tỷ lệ 1/100.000) của viện quy hoạch và TKNN năm 1998, trên địa bàn Cao Bằng đất tự nhiên là 6690,72 km2 trong đó đồi núi chiếm tới 97% và được hình thành do kết quả phong hoá nhanh, mạnh triệt để, đồng thời cũng dễ bị thoái hoá rửa trôi, xói mòn mạnh một khi mất cân bằng sinh thái. Cụ thể gồm các loại đất chính sau: - Đất đỏ vàng trên phiến đá thạch sét 210.269 ha chiếm 0,0314 % - Đất nâu đỏ, nâu vàng trên đá vôi 19.517 ha chiếm 0,0029 % - Đất đỏ vàng trên đá Mauna Bazơ trung tính 23.604 ha chiếm 0,0035 % - Đất đỏ vàng trên đá Mauma a xít 13.890 ha chiếm 0,0020 % - Đất vàng nhạt trên đá cát 31.351 ha chiếm 0,0046 % - Đất đỏ vàng trên phù sa cổ 2.323 ha chiếm 0,0003 % - Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa 8.578 ha chiếm 0,0012 % - Đất xói mòn trơ sỏi đá 92.823 ha chiếm 0,0138 % Ngoài các loại đất đồi núi trên, ở Cao Bằng còn có 10.348 ha đất dốc tụ, 4.307 ha đất phù sa và 64.938 ha đất mùn vàng đỏ trên núi. 1.5. Nguồn nước Cao Bằng là vùng thượng nguồn của một số sông thuộc hai hệ thống sông Hồng và sông Tả Giang (Trung Quốc). Trên địa bàn tỉnh có khoảng gần 1200 con sông, suối có chiều dài từ 2 km trở lên với tổng chiều dàilà 3.175 km, mật độ sông suối 0,41 km/km2. Các sông chính gồm sông Bằng, sông Gấm, sông Năng, sông Quảng Sơn. - Sông Bằng: Sông này gồm 2 nhánh chính, nhánh phía Tây bắt nguồn từ huyện Thông Nông, nhánh phía Đông bắt nguồn từ huyện Trùng Khánh và đổ vào Trung Quốc qua Thuý Khẩu. Diện tích lưu vực tính đến Thuỷ Khẩu là 4560 km2 chín phần Việt Nam là 4000 km2. Đây là con sông lớn nhất ở Cao Bằng, lưu lượng nước trung bình của sông này là 72,5 m2/ngày. - Sông Gấm: sông này bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Bảo lạc và nhập với sông Nho Quế chảy từ Hà Giang sang. Diện tích lưu vực tính đến Bảo lạc là 4060 km2, chiều dài sông chính là 192 km. - Sông Năng: Sông này bắt nguồn từ Ngân Sơn chảy qua huyện Chợ Rã đổ vào hồ Ba Bể. Diện tích lưu vực tính đến thác Đầu Đẳng là 1890 km2 chiều dài sông chính là 122 km2. - Sông Quây Sơn: Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Trùng Khánh sau đó lại chảy vào Trung Quốc. Diện tích lưu vực tính đến thác Bản Giốc là 1570 km2, chiều dài sông chính là 89 km (phần Việt Nam 38 km). 1.6. Thảm thực vật. Thảm thực vật ở Cao Bằng khá phong phú và đa dạng. Thực vật tự nhiên phổ biến ở Cao Bằng là hạt dẻ, cây săng lẻ, họ sến. Trên các nương bỏ hoá lâu năm có các cây huba soi, thành nganh, trà hươu. Một điều đáng chú ý là khả năng tái sinh rừng ở Cao Bằng tương đối khá. - Thực vật trồng: ở vùng khai thác để sản xuất nông, lâm nghiệp thảm thực vật cây ngắn ngày gồm có lúa nước, ngô khoai, sắn, thuốc lá, mía, đậu tương. Cây ăn quả gồm lê, mận, mơ, hồng, mắc mật, vải, nhãn. Cây lâu năm gồm dẻ, hồi, thông trầu, trúc, xoan, mắc rác… Như vậy thảm thực vật khá đa dạng, có cả cây ôn đới và nhiệt đới. 2. Điều kiện kinh tế xã hội và môi trường. 2.1. Cơ cấu kinh tế của tỉnh. Cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước trong thời kỳ đổi mới, mấy năm gần đây, kinh tế Cao Bằng đã có sự chuyển biến đáng kể. Giá trị tăng thêm năng 2000 đạt 872.552 triệu đồng theo giá cố định năm 1994, bình quân GDP đầu người đạt trên 1,5 triệu đồng trên người. Từ năm 1996- 2000 tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10% đây là tốc độ tăng trưởng khá cao đối với một tỉnh miền núi như Cao Bằng. Đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần, tỷ trọng ngành công nghiệp dịch vụ và giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Bảng số liệu dưới đây cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Cao Bằng trong những năm qua là rất tích cực, tỷ trọng ngành nông nghiệp, lâm nghiệp giảm xuống 8,0% và tỷ trọng ngành công nghiệp , dịch vụ thương mại tăng lên 8,2% ( xem bảng 1 ). Bảng 1. Cơ cấu kinh tế tỉnh Cao Bằng thời kỳ 1990- 2000 Hạng mục Năm 1990 Năm 1994 Năm 1998 Năm 2000 Tổng GDP 100 100 100 100 Ngành nông- lâm nghiệp 74,8 66,2 61,0 53 Ngành công nghiệp xây dựng 7,1 12,2 16,2 16 Dịch vụ, thương mại 18,9 21,6 22,8 31 (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Cao Bằng) - Điểm nổi bật nhất trong phát triển kinh tế của tỉnh vừa qua là trong nông nghiệp đã xoá dần thế độc canh cây lương thực, chuyển sang phát triển theo hướng đa dạng hoá cây trồng, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển tổng hợp, kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi (kể cả nuôi trồng thuỷ sản) và ngành nghề nông nghiệp đã gắn với lâm nghiệp. Sản lượng lương thực sản xuất năm 2000 đạt 171880 triệu tấn, tăng hơn so với năm 1992 gần 36 nghìn tấn, tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 5,0%/năm (tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân chung của cả nước), bình quân lương thực quy thóc năm 2000 đạt 307 kg/người, là một trong 3 tỉnh ở vùng miền núi Bắc Bộ có mức lương thực sản xuất bình quân trên đầu người vượt mưcs 300 kg/người/năm. - Diện tích các loại cây trồng mang tính hàng hoá cũng đều có sự gia tăng đáng kể. Năm 2000 diện tích cây công nghiệp đạt 11474 ha tăng 2021 ha so với năm 1994, diện tích cây thực phẩm là 3661 ha, tăng 228 ha, diện tích cây ăn quả 2114 ha, tăng 969 ha. - Đi đôi với phát triển trồng trọt, trong những năm qua ngành chăn nuôi cũng đã được chú ý phát triển, giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi tăng bình quân 3,6%/năm Trong mấy năm gần đây, trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số mô hình phát triển kinh tế nông- lâm nghiệp theo hướng nông lâm kết hợp và thâm canh. Như mô hình phát triển vườn rừng, trang traị, mô hình thâm canh lúa nước, ngô đạt năng suất cao ở huyện Hoà An, mô hình phát triển cây ăn quả kết hợp cây công nghiệp, mô hình nuôi bò kết hợp trồng rừng… Tuy đã đạt được một số thành tựu trong phát triển kinh tế hộ nông dân, nhất là trong sản xuất nông lâm nghiệp. Nhưng đến nay nền kinh tế của Cao Bằng vẫn đang ở điểm xuất phát thấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức, nền kinh tế của tỉnh phổ biến là sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, chưa có ngành sản xuất nào được coi là ngành sản xuất hàng hoá đáng kể. Thuốc là cây trồng hàng hoá truyền thống của tỉnh hiện nay phát triển chậm. Cây ăn quả tuy có phát triển nhưng phân tán và chủng loại cây phức tạp, nền kinh tế của tỉnh mới tự đảm bảo tiêu dùng trên lãnh thổ khoảng 80%, thu nhập còn thấp, bình quân GDP trên đầu người mới bằng 60% bình quân chung của cả nước, hàng năm phải nhận trợ cấp ngân sách từ trung ương khoảng 70% tích luỹ thấp do đó thiếu vốn để đầu tư phát triển sản xuất. 2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Sau gần 20 năm khắc phục hậu quả chiến tranh biên giới Cao Bằng đã khôi phục và xây dựng mới một số cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, hiện nay nhìn chung hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh còn nghèo nàn chưa đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhưng những kết quả xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn đạt được trong thời gian qua là tiền đề quan trọng để tạo điều kiện cho kinh tế của tỉnh nói chung, kinh tế của hộ gia đình nói riêng phát triển. Dưới đây là thực trạng một số cơ sở hạ tầng chính của tỉnh. - Hệ thống đường giao thông: hiện nay ở Cao Bằng có 347 km đường quốc lộ (3 tuyến đường), 467 km đường tỉnh lộ. 651 km đường huyện lộ, 95 km đường đô thị và 1023 km đường xã. Nhìn chung đường giao thông phân bố khá đều và đã được từng bước đầu tư nâng cấp. Tuy nhiên khó khăn hiện nay là toàn tỉnh có tới 44 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã. - Hệ thống công trình thuỷ lợi tính đến cuối năm 2000 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã xây dựng được 25 hồ chứa nước, 1288 phai đập, 99 trạm bơm, 1899 mương tự chảy và gần 7000 kho gạch, guồng con phục vụ tưới cho khoảng 33000 ha. Tuy nhiên nhìn chung hiện nay các công trình trên đang bị xuống cấp nghiêm trọng cần được đầu tư nâng cấp mới phát huy được hiệu quả. - Hệ thống mạng lưới điện hiện tại ở Cao Bằng có 4 trạm thuỷ điện do tỉnh quản lý, sản lượng điện hàng năm của các trạm này đạt 4-5 triệu kw/h. Ngoài ra ở khu vực mỏ Tĩnh Túc còn có 3 trạm biến áp 110 KV đạt 16 MVA, 106,6 Km đường dây 35 KVm (2 trạm biến áp 35 KV/10KV, 4 trạm biến áp 35/0,4KV ) và 70 KM đường dây 0,4KW. - Hệ thống các công trình phúhc lợi công cộng khác. Trong những năm qua hệ thống công trình phúc lợi ở nông thôn như trường học, trạm y tế, các cơ sở văn hoá, công trình cấp nước sạch… cũng đã được chú ý đầu tư xây dựng, tạo điều kiện cho việc nâng cao dân trí điều kiện sống góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình. + Về trường học: hiện toàn tỉnh có 35 trường mẫu giáo, 314 trường tiểu học và trung học cơ sở, 5 trường phổ thông trung học, 3 trường trung học và 2 trung tâm đào tạo, tiếp nhận khoảng 2000 cháu nhà trẻ, 120092 cháu mẫu giáo, 86881 học sinh tiểu học, 307949 học sinh trung học cơ sở, khoảng 8000 học sinh phổ thông trung học. + Về mạng lưới y tế: trên địa bàn tỉnh hiện hay có 28 bệnh viện, phòng khám khu vực, 1 xí nghiệp dược và 181 trạm y tế xã. Bình quân có 26 giường bệnh và 6 bác sĩ trên 1 vạn dân. + Về công trình cấp nước sạch, tính đến cuối năm 2000 toàn tỉnh có 9595 bể chứa nước sinh hoạt( 6 m3/ bể), 16 tuyến đường ống dẫn nước có tổng chiều dài 12,8 km và 251 km bể chứa nước công cộng. Tóm lại, tuy trong những năm qua ở Cao Bằng có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất cho dân cư trong tỉnh. Nhưng nhìn chung còn nghèo nàn nên chưa đáp ứng được nhu cầu. Phần lớn đường giao thông có chất lượng kém, đường giải nhựa hoặc bê tông chỉ mới chiếm 63% tổng chiều dài các loại đường, mật độ đường giao thông chỉ mới đạt 0,44km/1 km2 ( bằng khoảng 35-30% mật độ chung của cả nước). Hệ thống công trình thuỷ lợi mới tưới cho được 1/2 diện tích đất canh tác cần tưới hiện nay toàn tỉnh còn tới 94 xã chưa có điện. Do điều kiện cơ sở hạ tầng như trên đã làm cho nhiều khu vực nông thôn của tỉnh bị kìm hãm trong vòng luẩn quẩn của tự cấp tự túc và đói nghèo. Thế mạnh về rừng, cây lâu năm chưa được khai thác tốt, các hộ gia đình nông dân ở các khu vực này thường vẫn phải canh tác theo phương thức đốt nương làm rẫy và khai thác sản phẩm rừng tự nhiên để đảm bảo cuộc sống ngày. 2.3. Dân số Theo thống kê năm 2000 dân số của tỉnh Cao Bằng là 494742 người cư trú tại 189 xã, phường. Mật độ dân số là 74 người/ 1km2. Trên địa bàn tỉnh có 9 dân tộc đang sinh sống, trong đó người Tày đông nhất(43,6%), người Nùng(35,5%), người Dao(8,9%), người H' mông(6,4%), người Kinh( 3,9%), người Sán chỉ(1,1%), người Lôlô( 0,15%) và 0,655 là người các dân tộc. Dân số ở Cao Bằng hiện nay sống chủ yếu ở khu vực nông thôn. Dân số nông thôn năm 2000 của tỉnh là 429133 người chiếm 90,6% dân số chung của tỉnh. Trong những năm qua tuy công tác dân số, kế hoạch hoá giai đoạn ở tỉnh Cao Bằng có nhiều chuyển biến nhưng hiện nay Cao Bằng vẫn là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển dân số cao. Theo thống kê năm 2000 ở khu vực nông thôn tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên 2,55%/năm, tỷ lệ tăng tự nhiên 2000 là 1,3%/năm. Bảng 2: Diện tích và dân số tỉnh Cao Bằng năm 2000 Chỉ tiêu Số xã Số phường thị trấn Diện tích(km2) Dân số (người) Mật độ dân số(người/km2) Tổng số 175 14 6690,72 494742 74 Thị xã Cao Bằng 3 4 44,04 43066 978 Huyện Bảo Lạc 23 1 182,75 91006 50 Huyện Hà Quảng 18 453,67 33948 75 Huyện Thông Nông 9 1 360,49 22859 63 Huyện Trà Lĩnh 9 1 256,98 21314 83 Huyện Trùng Khánh 18 1 469,15 49795 106 Huyện Nguyên Bình 18 2 837,2 39081 47 Huyện Hoà An 24 1 667,67 72141 108 Huyện Quảng Hoà 24 2 633,41 64143 101 Huyện Hạ Lang 14 463,35 26033 56 Huyện Thạch An 15 1 683,01 31356 46 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Cao Bằng năm 2000 2.4. Lao động và việc làm. Theo số liệu thống kê năm 98 trên địa bàn tỉnh có 285.000 lao động (chiếm 87% lao động của tỉnh), bình quân hiện nay một lao động nông thôn phụ trách 0,23 ha đất nông nghiệp và 0,62 ha rừng. Kết quả điều tra cho thấy do lao động nhiều, việc làm ít nên ở khu vực nông thôn hiện nay số giờ làm việc trong ngày của người lao động rất thấp thường chỉ 3- 4 giờ (ngày), số ngày công trong năm chỉ đạt từ 125- 150 ngày công/năm. Theo báo cáo về giải quyết việc làm của ngành lao động tỉnh Cao Bằng có thể giải quyết việc làm tại chỗ cho khoảng 80% số lao động của tỉnh, số lao động còn lại cần phải điều phối giữa các khu vực sản xuất và giữa các huyện thị trong tỉnh thậm chí có thể phải nghiên cứu chuyển 10- 15% lao động của tỉnh để tạo việc làm ổn định, lâu dài. 3. Tình hình đời sống dân cư Nằm trong tình hình chung của các tỉnh thuộc vùng miền núi Bắc Bộ, tình hình đời sống của các hộ gia đình ở Cao Bằng, đặc biệt là các hộ dân cư ở khu vực nông thôn huyện còn ở mức thấp. Trình độ dân trí hiện nay còn rất thấp và không đều giữa các tiểu vùng sinh thái và giữa các dân tộc. Theo điều tra hiện nay thì toàn tỉnh có khoảng 25% số người trong độ tuổi lao động còn mù chữ, dịch vụ y tế cơ sở còn nhiều khó khăn và thiếu thốn, đội ngũ cán bộ quản lý hiện nay đang còn hạn chế nhiều mặt so với yêu cầu đổi mới, nền kinh tế thiếu lực lượng kỹ thuật và công nhân lành nghề, nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi như nghiện hút, mê tín dị đoan, tình trạng du canh du cư vẫn còn tương đối phổ biến. Năm 1997 vòn 3182 hộ, 23389 khẩu sống du canh du cư. Trình độ dân trí và những tập tục lạc hậu như trên đã kìm hãm sự phát triển sản xuất trong những năm tới đi đôi với việc nâng cao trình độ dân trí, cần phải tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật đến các hộ gia đình có vậy mới có điều kiện để khai thác được nguồn lực của hộ nông dân, đẩy mạnh phát triển sản xuất. Đời sống đại bộ phận các hộ nông dân ở Cao Bằng hiện nay đang gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, đặc biệt là các hộ gia đình người H'Mông, Sán chỉ, Giao… cư trú tập trung ở tiểu vùng sinh thái núi đất (Bảo Lạc, Nguyên Bình). Hiện nay ở khu vực này phương pháp canh tác nương rẫy vẫn giữ vai trò chủ đạo quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lương thực nói riêng, nhiều nơi thuộc các xã vùng cao, vùng sâu có sản lượng lương thực trên đầu người rất thấp, mới chỉ đạt dưới 150 kg/người/năm, trong đó chủ yếu là màu, nơi có sử dụng 100% là màu (ngô, sắn). Theo kết quả điều tra nông thôn năm 1994, số hộ đói nghèo của tỉnh chiếm khoảng 33% (riêng hộ thiếu đói chiếm 20%) với thực trạng đời sống của các hộ gia đình như trên, trong những năm tới cần đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình để giải quyết an toàn lương thực và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. 4. Cảnh quan môi trường. Tuy là một tỉnh miền núi vùng cao, những vấn đề môi trường của tỉnh Cao Bằng cũng là vẫn đề cần được đặt ra và quan tâm giải quyết, vấn đề môi trường sinh thái đáng quan tâm nhất của tỉnh là do một thời gian dài không chú ý các biện pháp ngăn ngừa tệ nạn đốt rừng làm nương rẫy và do hiệu quả của chiến tranh biên giới để lại nên thảm thực vật che phủ đấ hiện nay chỉ mới đạt khoảng 60% so với tỷ lệ che phủ đảm bảo cân bằng sinh thái. Một số nơi đầu nguồn, dốc lớn, đất bị xói mòn, rửa trôi mạnh, diện tích đất sói mòn trơ sỏi đá của tỉnh chiếm tới 1,5% diện tích các loại đất của tỉnh. Để tái tạo lại cảnh quan môi trường của một tỉnh miền núi trong những năm tới cần có các giải pháp để cải tạo phục hồi những khu vực đất đã bị xói mòn trơ sỏi đá và nâng tỷ lệ che phủ của thảm thực vật rừng đạt mức cân bằng sinh thái. Tuy công nghiệp và đô thị của tỉnh chưa thật sự phát triển, nhưng do ngay từ đầu chưa chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường, chưa có các giải pháp về bảo vệ môi trường cho nên đã có ô nhiễm môi trường ở khu vực mỏ Măng gan Trà Lĩnh, ô nhiễm môi trường do rác thải đô thị, chất thải công nghiệp, hoá chất độc sử dụng trong nông, lâm nghiệp, đã có hiện tượng ô nhiễm đầu nguồn nước. Vì vậy cùng với quá trình khai thác các nguồn lợi một cách tối đa để phát triển kinh tế- xã hội nâng cao chất lượng cuộc sống thì việc tái tạo lại cảnh quan, bảo vệ môi trường đảm bảo cho phát triển lâu bền là vô cùng cần thiết. II. Thực trạng kinh tế hộ nông dân ở Cao Bằng. 1. Các yếu tố sản xuất kinh doanh của hộ nông dân. Các yếu tố sản xuất của các hộ nông dân ở tỉnh Cao Bằng bao gồm đất đai, lao động công cụ sản xuất, nguồn vốn.…Qua những số liệu điều tra về các yếu tố sản xuất kinh doanh của hộ nông dân cho thấy sự khác nhau giữa các vùng sinh thái. Dưới đây là kết quả điều tra một số sản xuất chính của hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 1.1. Về quy mô đất đai của hộ nông dân Kết quả điều tra, tổng hợp về quy mô đất đai canh tác của các hộ nông dân ở các tiểu vùng sinh thái của tỉnh Cao Bằng năm 2000 được trình bày trong bảng dưới đây: Bảng 3: Quy mô đất đai bình quân hộ nông dân tỉnh Cao Bằng. Đơn vị tính: ha/hộ Hạng mục Chung toàn tỉnh Tiểu vùng núi đất Tiểu vùng bồn địa Tiểu vùng núi đá Tổng diện tích 100 100 100 100 1. Đất trồng trọt 0,6373 0,461 0,862 0,678 - Đất lúa 0,4160 0,36 0,469 0,43 - Đất màu, cây CNNN 0,1641 0,1 0,199 0,22 - Đất nương rẫy 0,0424 - 0,16 0,02 - Đất cây lâu năm 0,0145 0,001 0,034 0,008 2. Đất rừng 1,9 0,8 3,5 1,3 3. Đất thổ canh thổ cư 0,0498 0,008 0,027 0,034 Nguồn: Tổng hợp từ các phiếu điều tra năm 2000 của Bộ NN & PTNT Bảng 4: Phân loại hộ theo quy mô đất đai của hộ nông dân tỉnh Cao Bằng Hạng mục ĐVT Chung toàn tỉnh Tiểu vùng núi đất Tiểu vùng bồn địa Tiểu vùng núi đá Tỷ lệ hộ có đất rừng < 1ha % 60 55 80 40 Tỷ lệ hộ có đất trồng trọt >1ha % 16 0 44 0 Tỷ lệ hộ có đất rừng 1-5ha % 32 40 10 50 Tỷ lệ hộ có đất rừng >5 ha % 8 5 10 10 Nguồn: Tổng hợp từ các phiếu điều tra năm 2000 của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33925.doc
Tài liệu liên quan