Những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội

Phần i: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện hiện ở tất cả các nước trên thế giới. so với các loại hình bảo hiểm khác,đối tượng, chức năngvà tính chất của bảo hiểm xã hội có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối. I. khái niệm và bản chất của bảo hiểm xã hội. Trong cuộc sống, con người phải có các điều kiện tối thiểu như: ăn, mặc, đi lại …để tồn tại. Để thoả mãn những nhu cầu tối th

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu đó, con người phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đồi sống con người ngày càng đày đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ. trong quá trình đó con người không tránh khỏi quy luật”sinh, lão, bệnh, tử “. Khi còn nhỏ phải dựa vào những người đã trưởng thành nuôi dưỡng, khi trưởng thành lại phải lao động đẻ tự nuôi sống mình và những người phụ thuộc. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường . Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn , bất lợi , ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi rơi vào các trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động nói trên các nhu cầu cần thiết của cuộc sống không vì thế mà mất đi.Trái lại,có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng …Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuọc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiểu cách giải quyết khác nhau. Trong xã hội nguyên thuỷ, do chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất, mọi người cùng nhau hái lượm săn bắn. Sản phẩm thu được phân phối bình quân nên khó khăn bất lợi của mỗi người đựơc cả cộng đồng san sẻ gánh chịu. Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua; dân cư thì dựa vào sự đum bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng xã, hoặc sự cứu giúp của những người hảo tâm và cả của nhà nước.Ngoài ra, họ còn có thể đi vay hoặc thậm chí cả đi xin. Với những cách này, người gặp khó khăn hoàn toàn thụ động trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ. Do vậy sự giúp đỡ mới chỉ là khả năng có thể có hoặc không; có thể nhiều hoặc ít; và không hoàn toàn chắc chắn. Khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển đãlàm xuất hiện việc thuê mướn nhân công.Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản, tuổi già…Trong thực tế, nhiểu khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập buộc người chủ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ –thợ phát sinh, giới thợ liên kết với nhau đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện đúng những điều đã cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn đã tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tê - xã hội.Do vậy,nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn.Sự can thiệp này làm xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trò trung gian giúp thực hiện những cam kết giữa giới chủ và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Nhờ vậy, thay vì phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn khi người lao động làm thuê bị ốm đau, tai nạn, giới chủ có thể trích ra hàng tháng một khoản tiền nho nhỏ được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp những người lao động làm thuê. Số tiền này được giao cho bên thứ ba tồn tích dần thành một quỹ tiền tệ. Khi người lao động bị các biến cố ốm đau, tai nạn, thì cứ theo cam kết chi trả không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không. Như vậy, một mặt, giới chủ đỡ phải bị thiệt hại về kinh tế do không phải chi một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác, người lao động làm thuê được bảo đảm chắc chắn một phần thu nhập khi bị ốm dau tai nạn. Trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, không ai có thể dư tính hết được mọi khía cạnh của cuộc sống, nhiều trường hợp rủi ro xảy ra vượt quá khả năng khắc phục của một ông chủ. Giới thợ luôn luôn mong muốn được bào đảm nhiều hơn, còn giới chủ thì lại luôn luôn mong muốn phải chi ít hơn, tức là phải đảm bảo cho giới thợ ít hơn nên tranh chấp chủ thợ lại tiếp diễn. Trước tình hình đó, nhà nước tiếp tục can thiệp điều chỉnh buộc giới chủ phải đóng thêm đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự bảo đảm cho chính mình, hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.Chính nhờ mối quan hệ giàng buộc đó mà rủi ro,bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định.Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ,sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường tránh được những xáo trộn không cần thiết. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm …Trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ,góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Với cách hiểu như trên, bản chất của bảo hiểm xã hội được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất, bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hảng hoá hoạt động dựa trênhu cầuơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động đã phát triển đén một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, kinh tế chính là nền tảng của bảo hiểm xã hội. Thứ hai, bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường tồn tại hoạt động và phát triểndựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa người sử dụng lao động với người lao động thông qua một bên thứ ba-tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên trách dưới sự bảo trợ đặc biệt của nhà nước. Mối quan hệ đó được được thể hiện ở sự đóng góp có chất bắt buộc của ngươi sử dụng lao động và người lao động cho cơ quan bảo hiểm xã hội để tồn tích dần thành một quỹ tài chính độc lập đủ bảo đảm một cách ổn định và chắc chắn cho mọi hoạt động của bảo hiểm xã hội đối với ngươì lao động. Như vậy, mối quan hệ giữa các bên trong bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sơ quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên bảo hiểm xã hội và bên được bảo hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể chỉ là ngưòi lao động hoặc có thể cả người lao động và người sử dụng lao động . Bên bảo hiểm xã hội ( bên nhận nhiệm vụ bảo hiểm xã hội ) là cơ quan bảo hiểm xã hội . Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động và gia đình họ khi có đầy đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết . Thứ ba, những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động trong khái niệm về bảo hiểm xã hội là những rủi ro ngẵu nhiên trái với ý muốn chủ quan gắn với quá trình lao động được không chỉ trên cơ sở quan hệ lao động mà cả trên quan điểm xã hội. Nó bao gồm những trường hợp bị mất việc làm mất hoậc giảm khả năng làm việc trong quá trình lao động như ốm đau,tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp và cả những trường hợp liên quan diễn ra trong quá trình đó như: mất người nuôi dưỡng, tàn tật không do tai nạn lao động . Đồng thời, bảo hiểm xã hội cũng đảm nhiệm những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, tthai sản… làm tăng chi tiêu đột ngột. Bởi vì, việc tăng chi tiêu đột ngột trong những trường hợp này sẽ làm sụt giảm ngân quỹ gia đình và làm giảm khả năng thanh toán của người lao động đói vơ những nhu cầu sinh sống thiết yếu từ thu nhập theo lao động. Thứ tư, phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp là chủ yéu. Trong đó, người sử dụng có trách nhiẹm tham gia để bảo hiểm xã hội đối với người lao động mà mình sử dụng; người lao động phải tham gia đóng góp một phần để bảo hiểm cho chính mình. Ngoài ra quỹ này cònđược sự hỗ trợ từ phía nhà nước khi cần thiết. Thứ năm, mục tiêu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống ở mức cần thiết cho người lao động và gia đình họ trong những trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO )cụ thể hoá ở những điểm sau: Đền bù trợ cấp cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ. Chăm sóc sức khoẻ và phòng chống bệnh tật. Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và nhu cầu của người già người tàn tật và trẻ em. Với những mục tiêu trên, bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền con người và được đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận và ghi nhận vào Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 10/12/1948 rằng:”Tất cả mọi người với tư cach là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người “. II. Đối tượng bảo hiểm xã hội và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội ra đời vào những năm giữa thế kỉ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã phát triển mạnh mẽ ở các châu Âu. Tuy ra đời đã lâu như vậy, nhưng đối tượng của bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng bảo hiểm xã hội và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Như chúng ta đã biết, bảo hiểm xã hội là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân khác nhau như ốm đau, tai nạn, già yếu … Chính vì vậy, đối tượng của bảo hiểm xã hội chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị mất hoặc giảm khả năng lao động mất việc làm của những người tham gia bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là người lao động và người sử dụng lao động . Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách bảo hiểm xã hội đều thực hiện đối vối các viên chức nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Nếu xem xét mối quan hệ ràng buộc trong bảo hiểm xã hội ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội dưới sự bảo trợ của nhà nước.Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng.Còn cơ quan bảo hiểm xã hội nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của bảo hiểm xã hội. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm xã hội một cách ổn định và bền vững. III. chức năng của bảo hiểm xã Với bảo hiểm xã hội như đã nêu ở trên thì bảo hiểm xã hội có những chức năng sau: 1. Đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm xã hội khi họ bị giảm hoăc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định. Nói là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định phải xảy ra, chắc chắn phải xảy ra, xảy ra đúng như thế chứ không thể nào khác vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của bảo hiểm xã hội. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của bảo hiểm xã hội. 2. Phân phối và phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội Tham gia bảo hiểm xã hội không chỉ có người lao động mà còn có cả những người sử dụng lao động. Những người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm nhưng không phải trực tiếp cho mình mà là cho người lao động mà mình sử dụng nên không được quyền hưoửng trợ cấp. Những người lao động có đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội mới có quyền được hưởng trợ cấp nhưng do còn khoẻ mạnh, có việc làm cóthu nhập bình thường nên cũng không được hưởng trợ cáp bảo hiểm. Chỉ có những người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đầy đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ bảo hiểm xã hội. số lượng những người này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp nêu trên. Như vậy, bảo hiểm xã hội đã lấy số đông bù số ít và thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, giữa những người có thu nhập cao và thấp hơn , giữa những ngưòi khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc.Và khái quát hơn là giữa số đông những người đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội với số ít những người hưởng trợ cấp theo những chế đoọ xác định. Điều đó cũng góp phần vào việc thực hiện công bầng xã hội. 3. Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội Người lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh làm việc bình thường sẽ có tiền lương tiền công do chủ sử dụng lao động trả. Còn khi bị ốm đau thai sản,tai nạn lao động hoặc khi về già đã có bảo hiểm xã hội trợ cấp nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn luôn được đảm bảo và ổn định. Chính vì thế, người lao động yên tâm gắn bó với nơi làm việc tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động từ đó góp phần tăng sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Nói cách khác, tiền lương tiền công và bảo hiểm xã hội là những động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động. 4. Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và với xã hội Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền công tiền lương, thời gian lao động … Thông qua bảo hiểm xã hội, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Cả hai giới này đều thấy nhờ có bảo hiểm xã hội mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với nhau. Trên giác độ xã hội, bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả không gian và thời gian, bảo hiểm xã hội giúp giảm thiểu thiệt hại cho số đong những người trong xã hội ,đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội với một tổng dự trữ ít nhất . Đối với nhà nước, chi cho bảo hiểm xã hội đối với người lao động là cách thức phải chi ít nhất nhưng vẫn giải quyết tốt những rủi ro, khó khăn về đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tê chính trị xã hội ổn định và an toàn. Như vậy , bảo hiểm xã hội đã phát huy tiềm năng của số đông người và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động cũng như xã hội. Đồng thời, bảo hiểm xã hội cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích , cả lợi ích trước mắt cũng như lợi ích lâu dài của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, cũng như giữa các bên đó với nhà nước và xã hội. IV. Những quan điểm và nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm xã hội Do mỗi nước có đặc điểm kinh tế-xã hội khác nhau nên những quan điểm của các nước về bảo hiểm xã hội cũng khác nhau. Tuy nhiên, có một số quan điểm về bảo hiểm xã hội được hầu hết các nước thừa nhận. Những quan điểm này sẽ chi phối việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ở mỗi nước. Thứ nhất, chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong các chính sách xã hội ở mỗi quốc gia. Quan điểm này thể hiện sự thống nhất và nhất trí cao của các nước về tính xã hội của BHXH. Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội... Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ hai, người sử dụng lao động và Nhà nước phải có trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, đồng thời người lao động cũng phải đóng góp một phần để tự bảo hiểm cho chính mình. Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng, sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng có những kết quả bất lợi không mong muốn tác động trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra tình trạng như vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi ngân sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Vì vậy, khi trong xã hội loài người xuất hiện BHXH, một dạng bảo hiểm đời sống tiến bộ hơn đối với người lao động so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó. Đối với người sử dụng lao động, mỗi khía cạnh đặt ra cũng tương tự nhưng chỉ trong phạm vi doanh nghiệp. ở đó, giữa người lao động và người sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có máy móc, thiết bị hiện đại còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp phải rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động và những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm tham gia và thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo luật định. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Đối với người lao động, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khai thì trước hết đó rà rủi ro của bản thân. Vì thế nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khai thác hỗ trợ cho mình, là dàn trãi rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết đã. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình. Thứ ba, tất cả mọi người lao động đều bình đẳng về bảo hiểm xã hội cả về mức đóng góp cũng như quyền lợi được hưởng BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp... Quyền được bảo hiểm xã hội của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người như trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc đã nêu. Biểu hiện cụ thể quyền được BHXH của người lao động là việc họ được hưởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ ngày gắn với trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Tuy nhiên, nghĩa vụ là quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhưng nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị và xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng nhiều. Thứ tư, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương hưu đã đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải bảo đảm mức sống tối thiểu. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là loại trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp xã hội khác. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động hị họ thực hiện được những công việc nhất định hoặc định mức công việc nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện được những công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đủ không thể bằng tiền lương do lao động tạo ra được. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản... để được nhận trợ cấp. Hơn nữa, cách lập quĩ phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phep trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm, vì trả trợ cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những người khác. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức độ trợ cấp BHXH thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Thứ năm, Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH. Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ảnh hưởng, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội cho nên vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Nếu không có sự can thiệp và quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không đựơc duy trì, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ. Việc thống nhất quản lý của Nhà nước về BHXH thể hiện ở: - Trước hết, đó là khâu hoạch định chính sách BHXH. Đây là khâu đầutiên và là khâu quan trọng nhất. Nhà nước xây dựng và ban hành các văn bản luật, văn bản pháp qui về BHXH. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách. - Thứ hai, đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước qui định. Có những mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn diện; nếu nguồn bảo đảm trợ cấp do người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia quản lý. Việc quản lý BHXH Nhà nước có thể giao cho một bộ, ban, hoặc vụ trực tiếp điều hành. V- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. 1. Khái niệm chính sách bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm xã hội. Chính sách BHXH là những qui định chung, rất khái quát của Nhà nước về những mục tiêu, phạm vi đối tượng, nội dung chính, các mối quan hệ và những giải pháp lớn về BHXH để đạt mục tiêu chung đã đề ra. Chính sách BHXH được đề ra trên cơ sở cơ cấu kinh tế - xã hội, các điều kiện kinh tế - xã hội và xu hướng vận động khách quan của chúng. Nói cách khác, chính sách BHXH có thể được biểu hiện dưới nhiều dạng phong phú như: trong các văn bản chung của Nhà nước, trong hiến pháp, bộ luật, đạo luật, kế hoạch Nhà nước… vì là ở cấp độ chung như vậy nên chính sách BHXH sẽ khó trở thành hiện thực nếu không thông qua các chế độ BHXH. Vậy, chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các qui định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các qui định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, điều kiện để được hưởng, mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH có thể phân theo các chế độ ngắn hạn hoặc dài hạn, các chế độ theo các trường hợp BHXH: ốm đau, thai sản, tuổi già…. 2. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. Theo công ước 102 tháng 6/1952 về an toàn xã hội của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra các chế độ BHHX bao gồm 9 chế độ: (1) Chế độ chăm sóc y tế (2) Chế độ trợ cấp ốm đau (3) Chế độ trợ cấp thất nghiệp (4) Chế độ trợ cấp tuổi già (5) Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (6) Chế độ trợ cấp gia đình (7) Chế độ trợ cấp thai sản (8) Chế độ trợ cấp tàn tật (9) Chế độ trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp tiên tuất) 9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Gtơnevơ có thể triển khai ở mức độ khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó phải có ít nhất một trong năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội, tài chính, thu nhập, tiền lương… Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, xác xuất rủi ro. Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: - Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước và điều kiện cụ thể của mỗi nước. - Hệ thống của chế độ mang tính chất chia sẽ rủi ro, chia sẽ tài chính. - Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ vào mức đóng góp của các bên tham gia. - Các chế độ BHXH cần phải được điều chính định kỳ để phản ánh hết sức thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. VI- Quỹ tài chính bảo hiểm xã hội. Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quĩ khác nhau như: quĩ tiêu dùng, quĩ sản xuất, quĩ dự phòng, quĩ tiền lương, quĩ tiền thưởng, quĩ phúc lợi, quĩ tiết kiệm… Tất cả các loại quĩ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước. Quĩ tài chính BHXH cũng vậy. Quĩ tài chính BHXH là một quĩ tài chính độc lập, tập trung năm ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành nên cơ sở sự đóng góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho những người lao động được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Như vậy, quĩ BHXH là một quĩ tiêu dùng, đồng thời là một quĩ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quĩ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện ở cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. Quĩ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động với Nhà nước. Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất và cơ bản của quĩ. Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quĩ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động đầu tư sinh lợi. Thứ ba, là phần nộp phát của những cá nhân và tổ chức vi phạm luật lệ về BHXH. Cuối cùng, là phần chênh lệch để lại do tham gia hợp tác về BHXH với các nước khác và các khoản ủng hộ của các cá nhân và tổ chức cho quĩ… Phần lớn các nước trên thế giới, quĩ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quĩ lương của tổ chức, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước qui định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí ytế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số khác lại qui định, Chính phủ bù thiếu cho quĩ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH… Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới. Tên nước Chính phủ Tỷ lệ đóng góp so với quĩ lương (%) Người lao động Người sử dụng lao động CHLB Đức Bù thiếu 44,8 - 18,8 16,3 CM Pháp Bù thiếu 11,82 19,68 Indonesia Bù thiếu 3,0 6,5 Philipin Bù thiếu 2,85 - 9,25 685-8,05 Malaysia Chi toàn bộ chế độ ốm đau thai sản 9,5 12,75 (Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới - Giáo trình Kinh tế bảo hiểm của PGS.TS. Hồ Sĩ Sà) ở Việt Nam theo điều lệ BHXH thì người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quĩ lương, người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng, Nhà nước hỗ trợ thêm. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Vậy, phí BHXH là khoản tiền đóng góp hàng tháng của những người tham gia BHXH cho quĩ BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu - chi quĩ BHXH. Vậy phí BHXH là khoản tiền đóng góp hàng tháng của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu - chi quỹ BHXH. Vì vậy, khi tính phí BHXH phải được tính toán một cách khoa học dựa trên việc sử dụng các phương pháp toán học và những căn cứ khác nhau để xác định. - Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở để xác định mức phí đóng. - Quy định mức phí BHXH trước, rồi từ đó xác định mức hưởng. - Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng… Mặ._.c dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định mức phí BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH có nhiều loại tuỳ theo cách phân loại cụ thể. Nếu theo kết cấu các chế độ BHXH thì mỗi chế độ có một loại phí tương ứng, đồng thời có phí BHXH tổng hợp chung cho tất cả các chế độ. Nếu theo kết cấu nội tại của phí BHXH thì có phí thuần tuý và phí toàn phần. Giả sử ta lựa chọn cách đóng phí BHXH tổng hợp cho tất cả các chế độ BHXH chứ không đóng phí riêng cho từng chế độ thì phí thuần tuý là phần phí tính toán của cơ quan BHXH mà người lao động phải tham gia BHXH phải đóng để có thể được hưởng các chế độ xác định. Có thể hình dung phí thuần tuý gần giống như phần chi phí vật chất trong giá thành sản phẩm. Để chuyển từ có thể được hưởng thành hiện thực chắc chắn được hưởng thì cong phải cộng thêm một số chi phí cần thiết khác nữa như quản lý phí. Đây chính là phí BHXH toàn phần. Kết cấu của phí toàn phần do quan điểm thực hiện BHXH đối với người lao động quyết định. Nếu chủ trương không kinh doanh BHXH đối với người lao động thì phí toàn phần có kết cấu theo công thức sau: PTP = PTT + PQL + PDP (1) Trong đó: PTP: Phí toàn phần PQL: Phí quản lý PTT: Phí thuần tuý PDP: Phí dự phòng Nếu chủ trương kinh doanh BHXH đối với người lao động thì phí toàn phần sẽ theo công thức sau: PTP = PTT + PSP + PQL + PLĐM (2) Trong đó: PLĐM: là lãi định mức cho tổ chức BHXH. ở các nước trên thế giới (trừ các nước xã hội chủ nghĩa cũ) hệ thống BHXH của mỗi nước thường gồm hau hệ thống thành phần. Hệ thống thành phần lớn nhất, đóng vai trò trụ cột, có phạm vi hoạt động bao trùm cả nước và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lĩnh vực BHXH là do Nhà nước lập ra và sự tham gia là bắt buộc. Quỹ BHXH của hệ thống thành phần này có sự bù đắp thêm của ngân sách Nhà nước nên nó không hoạt động theo phương thức kinh doanh đối với người lao động và phí BHXH được tính theo công thức (1). Còn hệ thống thành phần thứ hai do tư nhân và các tổ chức xã hội lập ra theo quy định của pháp luật và có sự bảo trợ của Nhà nước nhằm BHXH cho những đối tượng ngoài phạm vi của hệ thống thứ nhất. Sự tham gia hay không của các đối tượng là tự nguyện và phí BHXH được áp dụng tính theo công thức (2). Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận chi những khoản chủ yếu như: chi trả trợ cấp thep các chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất) chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp (tiền lương, đào tạo…) chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý khác. Phần II: Tình hình thực hiện các chế độ BHXH ở Việt Nam I- Một vài nét về BHXH ở Việt Nam. BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, đến nay đã hơn 5 năm - là một khoảng thời gian quá ngắn so với sự phát triển của BHXH các nước khác. Tuy vậy, hoạt động của BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, khẳng định sự ra đời "BHXH Việt Nam" là đúng đắn, theo đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để có được những thành tựu này không thể không nhắc tới các chặng đường phát triển của các tổ chức BHXH tiền thân gia các thời kỳ. 1. Thời kỳ từ năm 1961 trở về trước. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thành lập và phải giải quyết trăm công nghìn việc quan trọng có tính sống còn của dân tộc; chống thù trong giặc ngoài, chống lại giặc đói, giặc dốt… Mặc dù trong bối cảnh hết sức khó khăn như vậy, Đảng và Chính phủ vẫn quan tâm đến công tác thực hiện các chế độ chính sách BHXH. Khởi đầu của chính sách BHXH là sắc lệnh số 54/SL ngày 3/11/1945 ấn định điều kiện cho công chức hưởng chế độ hưu trí, chủ yếu áp dụng cho nhân sỹ, trí thức, cán bộ cách mạng đã làm việc được 30 năm và đến tuổi 55. Tiếp đến là Sắc lệnh số 105/52 ngày 14/6/1946 ổn định mức trợ cấp hưu bổng cho công chức. Cũng tại sắc lệnh này, Chính phủ cũng đã quy định mức đóng góp của công chức và Nhà nước vào quỹ hưu là 10% tiền lương. Sau đó Chính phủ đã ban hành một loạt các Sắc lệnh: Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh số 70/SL ngày 20/5/1950; Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước. Đặc điểm thời kỳ này là các cơ quan quản lý sử dụng cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, đồng thời là cơ quan thực hiện các chế độ BHXH. Có thể đây là thời kỳ manh nha về BHXH của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trong giai đoạn này chính sách BHXH được thực hiện đã thực sự là nguồn động viên cổ vũ công nhân viên chức yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Tuy nhiên,, chính sách BHXH cũng bộc lộ nhiều nhược điểm không phù hợp. - Đối tượng tham gia còn hạn hẹp, người được hưởng chế độ BHXH chỉ có cán bộ công nhân viên chức, chưa mở rộng đến các đối tượng người lao động khác đã làm mất đi tính tích cực, ưu việt của chủ nghĩa xã hội đối với người lao động, chưa xác lập được sự công bằng giữa những người lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH. - Việc thực hiện các chính sách BHXH còn phân tán không có hiệu quả, vì thế nó chưa thực sự trở thành chính sách xã hội lớn. 2. Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1995. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 3 (năm 1960): xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, Quốc hội và Chính phủ đã khẩn trương thực hiện đề án xây dựng Điều lệ về các chế độ BHXH và tổ chức quản lý công tác BHXH. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ quốc hội ra Nghị quyết phê chuẩn việc Hội đồng Chính phủ quy định và ban bố "Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước". Hội đồng Chính phủ sẽ thoả thuận với Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) về việc quản lý quỹ BHXH của Nhà nước và quản lý các sự nghiệp BHXH. Ngày 27/12/1961 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218 kèm theo điều lệ tạm thời về BHXH, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/1962. Điều lệ về BHXH quy định áp dụng đối với tất cả những người làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và các đơn vị sản xuất thuộc khu vực Nhà nước, bao gồm cả công nhân viên chức thuộc các tổ chức Đảng, đoàn thể. Từ Nghị định trên, các chế độ BHXH được quy định riêng và hình thành tổ chức chuyên trách độc lập để quản lý và thực hiện các chế độ BHXH trong hệ thống Tổng công đoàn Việt Nam. Phương tiện vật chất đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức là công đoàn tổ chức thu 4,7% so với tổng quỹ lương của các cơ quan, xí nghiệp, nông - lâm trường, bệnh viện, trường học.. từ tháng 1/1962 đến tháng 8/1964 để chi trả 6 chế độ: - Chế độ ốm đau. - Chế độ thai sản. - Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. - Chế độ hưu trí. - Chế độ mức sức lao động - Chế độ tử tuất. Ngày 20/3/1962, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 31/CP về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ và quản lý và thực hiện các chế độ BHXH giữa Bộ nội vụ, Bộ Lao động, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tê và Tổng công đoàn Việt Nam. Ngày 23/3/1962, hội đồng Chính phủ ra tiếp Nghị định số 39/CP về quy định nội dung thu và chi quỹ BHXH của Nhà nước, phù hợp với nhiệm vụ được giao tại Nghị định số 31/CP. Bộ Lao động, Bộ Nội vụ được giao thực hiện các chế độ BHXH như: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất và quản lý thu quỹ BHXH 1% so với tổng quỹ lương của cơ quan xí nghiệp; Tổng công đoàn thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và quản lý thu quỹ BHXH 3,7% so với tổng quỹ lương của công nhân viên chức Nhà nước. Thực hiện hai Nghị định trên, các tổ chức BHXH ở các bộ có liên quan được hình thành, riêng tổ chức BHXH của Tổng công đoàn được giữ nguyên nhưng thu gọn lại do chỉ còn thực hiện 3 chế độ, có lúc Tổng công đoàn đã nhập ban BHXH vào Ban tài chính (1968-1973). Việc bàn giao nhiệm vụ, hồ sơ đối tượng và quỹ giữa Tổng công đoàn với tổ chức BHXH các bộ đến tháng 8/1964 mới xong. Do thay đổi tổ chức của các bộ, nên quản lý và thực hiện các chế độ BHXH đã chuyển giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Lao động; Bộ Lao động sang Bộ Thương binh xã hội, rồi lại nhập về Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Tháng 5/1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm từ 1962-1993, chính sách BHXH đã đạt được những thành tựu to lớn và đã thực sự trở thành sự bảo vệ của Nhà nước và xã hội đối với công nhân viên chức và quân nhân yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất và chiến đấu góp phần giải phóng và xây dựng đất nước. BHXH còn góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh, hàng vạn cán bộ, viên chức, quân nhân bị giảm sút sức khoẻ đã nghỉ việc hưởng chế độ đã được đãi ngộ, ổn định cuộc sống. BHXH đã khẳng định quyền lợi thiết yếu của cán bộ, viên chức, quân nhân trong suốt quá trình làm việc và nghỉ hưu khi tuổi cao sức yếu, chỉ tính đến đầu năm 1993, chính sách BHXH đã đảm bảo trợ cấp cho hơn 6 triệu lượt người hưởng trợ cấp thai sản, hơn 2 tỷ ngày nghỉ ốm, hơn 3 vạn người hưởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, gần 60 vạn người hưởng trợ cấp mất sức lao động, 1,5 triệu người hưởng lương hưu trong đó có 16 vạn tướng lĩnh sĩ quan quân đội,công an; 30 vạn người hưởng tiền tuất hàng tháng, hàng chục vạn lượt người được hưởng chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chính sách BHXH cũng dần bộc lộ những nhược điểm, đặc biệt là từ khi Nhà nước đổi mới nền kinh tế - xã hội, đó là: Thứ nhất, chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước nên rất hạn chế việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bởi vì việc di chuyển lao động từ khu vực kinh tế Nhà nước ra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hoặc ngược lại rất khó thực hiện. Đồng thời không tạo sự bình đẳng trong việc thực hiện quyền làm việc và quyền được hưởng phúc lợi xã hội giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế. Thứ hai, không quy định rõ mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, nghĩa vụ và trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh không được làm rõ, tất cả đều thu qua ngân sách Nhà nước, nghĩa vụ người lao động bị lãng quên và BHXH được coi là món quà Nhà nước tặng cho công nhân viên chức. Do đó, thu không đủ chi ngày càng trầm trọng, ngân sách Nhà nước phải cấp bù ngày càng lớn. Cụ thể, nguồn thu do ngành lao động - thương binh và xã hội quản lý số thu năm 1985 chỉ đạt 3,03% so với số chi, ngân sách Nhà nước phải cấp bù tới 96,97%. Để khắc phục sự thiếu hụt nguồn quỹ BHXH, tháng 10/1986 Chính phủ đã quyết định nâng tỷ lệ nguồn thu quỹ do ngành lao động - thương binh và xã hội quản lý lên 10% và nguồn thu do tổng công đoàn quản lý lên 5% so với tổng quỹ lương. Song tình trạng thu không đủ chi, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh vẫn không trích nộp BHXH đúng quy định. Nên năm 1987 số thu do ngành lao động - thương binh và xã hội quản lý chỉ đạt 2,34% so với số chi. Từ năm 1988 đến năm 1994 số thu BHXH mới nhích dần từ 12% đến hơn 30% so với số chi. Việc thu không đủ chi đã dẫn đến tình trạng kinh phí luôn luôn vị thiếu hụt, bị chậm, đôi khi trở nên gay gắt ảnh hưởng đến đời sống của đối tượng hưởng BHXH. Thứ ba, việc tổ chức quản lý thực hiện chính sách bị phân tán, phần chi về BHXH có bộ phận dư thừa không thể điều tiết sang bộ phận thiếu được. Quá trình quản lý đan xen với các lĩnh vực ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội nên việc giải quyết chế độ nhiều khi bị chồng chéo, kém hiệu quả. Hoạt động của tổ chức BHXH bị cứng nhắc, hành chính hoá, gây nhiều phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Để chính sách BHXH phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội và khắc phục những nhược điểm trên. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương đổi mới chính sách BHXH, chủ trương được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là: "Nhà nước thực hiện BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động". Ngày 22/6/1993, Chính phủ ra Nghị định 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH thay cho Nghị định 218/CP. Nội dung Nghị định đã bao hàm những cải cách lớn về BHXH, làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp xây dựng quỹ của người sử dụng lao động và người lao động; các chế độ BHXH chỉ còn lại 5 chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất), chế độ mất sức lao động được đưa vào hưu trí hưởng tỷ lệ thấp hay trợ cấp một lần. Sau một năm, ngày 23/6/1994, tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá IX đã thông qua bộ luật lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong đó có chương 12 về BHXH. Đây là một chấm phá, cải cách các chế độ BHXH và tổ chức quản lý thu - chi, thực hiện các chế độ BHXH. Thi hành luật lao động về BHXH, chính phủ đã ra Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. 3. Thời kỳ từ năm 1995 đến nay. Với việc Chính phủ ban hành các nghị địh 12/CP ngày 26/2/1995, ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp BHXH Việt Nam. Nội dung của việc đổi mpí chính sách BHXH góp phần thực hiện các mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trường lao động và góp phần nào đó đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. Nội dung cơ bản của chế độ chính sách BHXH mới: 3.1. Đối tượng tham gia BHXH. Điều lệ BHXH quy định các đối tượng sau phải áp dụng các chế độ BHXH. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân cử, bẩu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. - Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. - Ngoài ra, Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1999 của Chính phủ quy định việc tham gia BHXH đối với các cán bộ xã, phường, thị trán. Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng ở nước ngoài mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. Với đối tượng đã được quy định như ở trên, tính đến năm 2000 cả nước có khoảng 4,2 triệu lao động tham gia BHXH. 3.2. Các chế độ BHXH. Theo điều 2 của điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay thực hiện 5 chế độ. - Chế độ trợ cấp ốm đau: chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. - Chế độ trợ cấp thai sản: chế độ này giúp cho lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh sản, đồng thời quy định thời gian nghỉ có tính đến yếu tố điều kiện, môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. - Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: góp phần đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. - Chế độ hưu trí: đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập khong được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. - Chế độ tử tuất: chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết. Nội dung cơ bản của 5 chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ BHXH. 3.3. Quỹ bảo hiểm xã hội. Theo điều lệ BHXH hiện hành, quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất, 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng 5% tiền lương tháng để chi cho các chế độ hưu trí và tử tuất. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Các nguồn khác. Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngành bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Hàng tháng, Bộ Tài chính trích từ ngân sách Nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất, bảo hiểm y tế của những người đang hưởng BHXH trước ngày thi hành điều lệ này và hỗ trợ để chi lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ ngày thi hành điều lệ này. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH Việt Nam thực hiện. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được sử dụng để chi cho 5 chế độ mà điều lệ BHXH đã qui định. Đồng thời được sử dụng để chi phí cho sự cho sự nghiệp BHXH ở các cấp, các ngành. Phần quĩ nhàn rỗi được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo qui định của Chính phủ. 3.4. Tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội. Theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống lao động - thương binh xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quĩ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo luật pháp Nhà nước. Theo nghị định này BHXH Việt Nam có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Tổ chức việc thu BHXH theo qui định của Chính phủ. - quản lý quĩ BHXH và tổ chức chi trả cho người lao động tham gia BHXH và các khoản trợ cấp BHXH đầy đủ thuận tiện và đúng thời hạn. - Có quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu, đồng thời ra văn bản thông báo việc từ chối chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật. - Bồi thường mọi khoản thu, chi sai các qui định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia và chịu trách nhiệm trước pháp luật. - Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án, biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ theo qui định của Chính phủ. - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lý, định mức lệ phí thu - chi quĩ BHXH và các qui định khác có liên quan đến hoạt động BHXH và tổ chức thực hiện. - Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chế độ chính sách BHXH phù hợp với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn. - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ thu, chi BHXH và kiểm tra thực hiện và tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH. - Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu - chi BHXH. - Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH. - Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo qui didnhj của Chính phủ. - Quản lý tổ chức, viên chức và cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo qui định của Nhà nước. BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của Bộ Lao động - thương binh xã hội, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn. Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam, Hội đồng quản lý và giám sát kiểm tra việc thu - chi, quản lý quĩ, quyết định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quĩ BHXH, thẩm tra quyết toán và thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung sửa đổi các chế độ chính sách BHXH; giải quyết các khiếu nại của người tham gia BHXH; đề xuất việc bổ nhiệm miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Thành viên của hội đồng quản lý bao gồm: đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động - Thương bình xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và các thành viên do thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương có cơ cấu như sau: - ở Trung ương: BHXH Việt Nam - BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. BHXH Việt Nam do Tổng Giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng, giúp việc Tổng Giám đốc có các phó Tổng Giám đốc. Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam. Sơ đồ hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam Thủ tướng Chính phủ Hội đồng quản lý Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Các phòng ban nghiệp vụ BHXH BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương BHXH quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Sơ đồ quản lý BHXH Người sử dụng lao động góp 15% Người lao động góp 5% Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm Thu khác Thu khác từ các dự án phát triển Cơ quan BHXH Tài sản đầu tư các dự án Chi trả trợ cấp Chi phí quản lý Chi đầu tư các dự án Trợ cấp ngắn hạn - ốm đau - Thai sản - Tai nạn lao động trợ cấ 1 lần Trợ cấp dài hạn - Hưu trí - Tử tuất - Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng Với việc hình thành hệ thống BHXH Việt Nam thống nhất từ Trung ương đến quận, huyện, việc thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH, chi trả cho đối tượng quản lý đối tượng tham gia hưởng chế độ và xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH đã được tập trung vào một đầu mối bảo đảm thực hiện các chế độ BHXH và quản lý quĩ BHXH thống nhất trong cả nước, bảo đảm cho việc quản lý BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH, đến từng người tham gia và hưởng chế độ BHXH; quản lý và theo dõi mức đóng, mức hưởng thường kỳ hàng tháng với từng người. Thực hiện cấp sổ BHXH cho từng người tham gia BHXH để theo dõi mức đóng, thời gian đóng làm căn cứ hưởng các chế độ BHXH. II- Tình hình thực hiện các chế độ BHXH. 1. Những kết quả chung. Trong những năm qua, mặc dù ngành BHXH còn rất nhiều khó khăn như điều kiện vật chất, điều kiện làm việc vẫn còn thiếu thốn, công việc rất mới mẻ… song ý thức được việc thực hiện tốt của chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động là đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động theo qui định của pháp luật, mặt khác là nhiệm vụ hàng ngày, là trách nhiệm của cơ quan BHXH. Vì vậy kết quả thực hiện các chế độ BHXH đạt được là rất đáng khích lệ nó đã chứng minh được việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo sự đổi mới về kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng và thực sự phát huy tác dụng góp phần ổn định cuộc sống cho hàng triệu người lao động đồng thời góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. Kết quả thực hiện của chế độ BHXH trong những năm qua như sau: - Trong 5 năm 1995 - 1999, BHXH các tỉnh, thành phố đã chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn 24.076.089 triệu đồng. Trong đó chi từ ngân sách Nhà nước cho các đối tượng hưởng trợ cấp và hưu trí hàng tháng trước ngày 1/1/1995 là: 20.838.016 triệu đồng, chi từ quĩ BHXH là 3.238.073 triệu đồng. Ngoài ra, mỗi năm còn chi trả khoảng 200 tỷ đồng cho hàng triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt Nam cũng đã tiếp nhận và giải quyết cho 161.888 người hưởng chế độ dài hạn và 247.943 người hưởng trợ cấp một lần. Nhìn chung công tác xét duyệt các chế độ BHXH được bảo đảm kịp thời, chặt chẽ, đúng chế độ qui định, luôn tạo thuận lợi cho người lao động và các đơn vị sử dụng lao động. - NĂm 2000, BHXH Việt Nam chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng 7.566.427 triệu đồng an toàn và kịp thời đúng chế độ trong đó có khoảng trên 1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau với số tiền trên 76 tỷ đồng và 118.914 người được hưởng chế độ thai sản với số tiền trên 200 tỷ, đồng thời giải quyết chế độ cho 54.335 người hưởng BHXH thường xuyên tăng 17% so với năm 1999. - 6 tháng đầu năm 2001, BHXH Việt Nam đã chi trả an toàn, chu đáo 4.708 tỷ đồng cho 1,8 triệu đối tượng hưởng BHXH hàng tháng và trên 30 vạn lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn trong đó kinh phí do ngân sách Nhà nước đảm bảo là trên 3.707 tỷ đồng và kinh phí do quĩ BHXH đảm bảo là 1.001 tỷ đồng. Qua những con số trên cho ta thấy bình quân số tiền chi trả lương hưu và các loại trợ cấp của BHXH Việt Nam cho các đối tượng là khoảng 6.000 tỷ đồng/năm. con số này là rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng lên hàng năm. 2. Tình hình thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn. Tổ chức chi trả các chế độ trợ cấp ngắn hạn bao gồm: - Chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ ốm đau - Chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ sinh con (thai sản) - Chế độ trợ cấp khi bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp gây ra. Đây là ba nội dung chi trả cho người lao động đang tham gia đóng BHXH. Việc chi trả trợ cấp cho 3 chế độ trên phải thể hiện sự công bằng, công khai, an toàn, kịp thời, đúng nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH theo qui định của pháp luật nhằm giữ vững mối quan hệ ba bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH, từ đó đẩy mạnh hoạt động thu BHXH không xâm hại đến quyền lợi của người lao động BHXH quận, huyện trực tiếp tổ chức thực hiện chi trả chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản theo cơ quan, đơn vị sử dụng lao động trên cơ sở hồ sơ chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản của từng người đã được qui định. Cán bộ BHXH quận huyện được phân công theo dõi cơ quan đơn vị sử dụng lao động nào có nhiệm vụ đối chiếu kết quả đóng BHXH, hướng dẫn ghi sổ BHXH và đối chiếu chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản để thực hiện chi trả căn cứ vào thời điểm đóng BHXH củ từng đơn vị cơ quan đó để thanh toán trợ cấp trước một tháng thay cho việc tạm ứng tiền trước, giảm phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động trong việc quyết toán sau này. Việc chi trả được thực hiện theo 2 phương thức: chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho người lao động có chứng từ nghỉ ốm đau, thai sản hoặc chi trả bằng chuyển khoản thông qua đơn vị sử dụng lao động nếu thực tế đơn vị đã ứng tiền chi trả cho người lao động. Riêng trường hợp nghỉ sinh con, nghỉ ốm dài ngày và hưởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, BHXH quận huyện có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở lập hồ sơ chuyển lên BHXH tỉnh, thành phố xem xét giải quyết. Nếu đối tượng hưởng trợ cấp 1 lần (mức suy giảm khả năng lao động dưới 31%), BHXH tỉnh, thành phố trực tiếp chi trả cho người bị tan nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Từ những qui định củ BHXH Việt Nam, trong những năm qua (1995 - 1999) các cơ quan BHXH trên cả nước đã giải quyết và chi trả cho hơn 3 triệu lượt người nghỉ ốm, 7 vạn người hưởng chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hơn 30 vạn người nghỉ thai sản với số tiền bình quân trên 200 tỷ đồng một năm. Riêng năm 2000 đã giải quyết cho khoảng trên 1 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau với số tiền trên 76 tỷ đồng và 118.914 người được hưởng chế độ thai sản với số tiền trên 200 tỷ đồng. 3. Tình hình thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn. Về chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng bao gồm: - Lương hưu - Trợ cấp mất sức lao động - Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (mức suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên). - Trợ cấp tử tuất - Trợ cấp người nuôi dưỡng. Việc chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng do BHXH quận, huyện trực tiếp thực hiện theo địa bàn dân cư phường, xã; cụm, xóm, tổ dân phố… Danh sách đối tượng được hưởng do BHXH tỉnh, thành phố chuyển về cùng với nguồn kinh phí chi trả hàng tháng do điều chỉnh tăng, giảm theo danh sách quận, huyện đã báo lên. Mỗi xã phường lập ra một ban chi trả có nhiệm vụ chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH. BHXH quận, huyện cử cán bộ trực tiếp cùng với ban chi trả của xã, phường thực hiện việc chi trả đến từng đối tượng hưởng trên cơ sở đó theo dõi tăng giảm hàng tháng. Ban chi trả xã, phường căn cứ vào danh sách đã được lập theo địa bàn dân cư để thực hiện chi trả trực tiếp cho từng đối tượng được hưởng, trường hợp lĩnh thay phải có giấy uỷ quyền do UBND xã phường xác nhận. Trường hợp thôi việc trợ cấp một lần, trợ cấp hưu trí lần đầu, trợ cấp tuất thì công nhân viên chức BHXH tỉnh, thành phố trực tiếp giải quyết. Trong 5 năm (1995 - 1999), BHXH Việt Nam đã tiếp nhận và giải quyết cho 161.888 người hưởng chế độ BHXH dài hạn và 347.943 người hưởng trợ cấp một lần. Năm 2000 BHXH Việt Nam giải quyết chế độ cho 58.335 người hưởng BHXH hàng tháng tăng 17% so với năm 1999. Tính đến tháng 6 năm 2001 cả nước có khoảng 1,8 triệu đối tượng hưởng BHXH hàng tháng. Ta có thể theo dõi số người hưởng các chế độ BHXH dài hạn qua bảng sau: Đơn vị: Người. Năm Chế độ 1994 1995 1996 Hưu CNVC 1.020.384 1.030.057 1.042.765 Hưu quân nhân 163.414 165.000 167.104 Mất sức lao động 404.929 401.081 400.081 Tuất 161.981 171.327 187.843 Tổng 1.750.707 1.767.465 1.797.793 (Nguồn: Bộ Lao động thương binh - xã ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35194.doc
Tài liệu liên quan