Tài liệu Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum: ... Ebook Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước cũng như của các chính quyền địa phương là phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho người dân. Muốn phát triển kinh tế và tạo việc làm thì phải huy động được vốn, phát triển hệ thống doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, giữ vai trò quyết định là vốn trong nước, trong đó nguồn vốn quan trọng là từ nhân dân.
Làm thế nào thu hút được vốn đầu tư trong nước từ nhân dân để phát triển kinh tế và tạo việc làm là đề tài đã được nhiều người nghiên cứu. Nhiều chính sách của Nhà nước cũng đã được ban hành để giải quyết hai vấn đề trên, song kết quả còn nhiều hạn chế. Số vốn trong nước huy động được, số doanh nghiệp được thành lập, số việc làm đã được tạo ra tuy ngày càng nhiều nhưng vẫn bất cập so với khả năng tiềm tàng trong dân cư, so với yêu cầu phát triển của đất nước và nhu cầu việc làm ngày càng tăng của người lao động.
Đối với tỉnh Kon Tum, một trong những vấn đề nổi cộm là số doanh nghiệp được thành lập còn ít so với dân số đô thị, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mở rộng quy mô, tăng thêm vốn và lao động cũng chưa nhiều. Hiện nay, đại bộ phận các doanh nghiệp ở tỉnh Kon Tum là doanh nghiệp nhỏ và vừa, là loại hình doanh nghiệp được đánh giá là có quy mô tổ chức kinh doanh thích hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với yêu cầu của thị trường và là phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn đầu tư trong nước và tạo việc làm cho người dân. Việc khuyến khích thành lập và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện về vốn, về công nghệ và trình độ quản lý của tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh trong nhiều năm qua còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn của bản thân doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng; mặt khác tỉnh cũng chưa có các biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là chưa triển khai thực hiện tốt trên thực tế những chính sách, giải pháp đã đề ra.
Để góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh nhằm huy động tối đa tiềm năng về vốn, lao động, tài nguyên, cần thiết phải làm rõ thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh và các biện pháp chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, qua đó đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm hỗ trợ thành lập và phát triển có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum. Vì vậy, tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ với tiêu đề: "Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được nghiên cứu từ lâu và đã được các chính phủ ứng dụng thành công trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước mình. Ở Việt Nam, thời gian gần đây (trong thời kỳ đổi mới) vấn đề này mới được quan tâm đúng mức. Đã có những công trình nghiên cứu về mặt lý luận, về mặt tổng kết và cũng có những công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề này ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Bình Dương... Tuy nhiên trước tình hình phát triển mới của đất nước, trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế quản lý và chính sách phát triển, luôn đòi hỏi phải nghiên cứu cập nhật các vấn đề về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với Kon Tum, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của một địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra được những hạn chế, những nguyên nhân cản trở việc thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Luận chứng, đề xuất những giải pháp chủ yếu và kiến nghị với Trung ương, với tỉnh về cơ chế, chính sách chung và những biện pháp của tỉnh để có thể hỗ trợ một cách có hiệu quả nhất cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các biện pháp chính sách của Nhà nước cấp tỉnh. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và những khó khăn, vướng mắc của nó trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian, khảo sát các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Kon Tum.
+ Về thời gian, nghiên cứu các số liệu, văn bản hỗ trợ thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian 5 năm (2001-2005)
+ Đề xuất các giải pháp chính nhằm thúc đẩy việc ra đời và phát triển nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút mạnh vốn đầu tư trong nước và tạo ra nhiều việc làm cho người dân của tỉnh phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Trước hết, tiến hành tham khảo các giáo trình, tài liệu, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để làm cơ sở lý luận và rút ra các kinh nghiệm cần thiết. Tiếp đến, sẽ nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cấp Trung ương, cấp tỉnh thông qua các văn kiện, văn bản pháp luật, tài liệu có liên quan đến đề tài nhằm củng cố các tiền đề, làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo.
- Các phương pháp cụ thể: Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê. Trong đó, đặc biệt sử dụng nhiều các phương pháp thống kê: sẽ sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề, phát hiện các mối quan hệ có tính quy luật của quá trình phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
6. Đóng góp của đề tài
Các vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được hệ thống, đánh giá, phân tích chi tiết lần đầu tiên trên địa bàn Tỉnh Kon Tum, đưa ra dự báo một cách khoa học, giúp cho địa phương điều hành có hiệu quả trong việc ban hành, thực hiện các biện pháp hỗ trợ thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn nhằm phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người dân trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa - sự cần thiết hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.
Chương 1
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - SỰ CẦN THIẾT HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một hoạt động hợp pháp nào trong sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là của một cá nhân, một hộ gia đình, đều có thể được coi là một doanh nghiệp (DN). Cùng cách hiểu này, Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa: "DN là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để bán" [2]. Ở nước ta, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã nêu rõ: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” [17]. Tiếp theo đó, Luật cũng đã định nghĩa kinh doanh như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [17]. Như vậy, chính trong văn bản luật cũng đã để một khoảng trống, rằng có hoạt động kinh doanh nhưng chưa hẳn đã là doanh nghiệp. Bởi vì, muốn trở thành doanh nghiệp thì phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và tất yếu phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể nếu không có đăng ký kinh doanh, không được gọi là DN, mặc dù số hộ này vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp pháp, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự giống như DN. Do đó, ở nước ta, quan niệm về DN có hai phạm vi rõ rệt: phạm vi hẹp chỉ bao gồm các DN chính thức đã đăng ký với tư cách tên gọi là DN; phạm vi rộng bao gồm cả các hộ gia đình kinh doanh hợp pháp và các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh dưới danh nghĩa các tổ chức sự nghiệp có thu...
Trong một nền kinh tế, tùy theo các tiêu chí khác nhau mà người ta phân ra các loại DN khác nhau. Theo ngành kinh tế có thể chia ra DN công nghiêp, DN nông nghiệp, DN thương mại dịch vụ; theo tính chất hoạt động thì có DN hoạt động công ích (phi lợi nhuận) và DN kinh doanh (vị lợi); theo hình thức sở hữu thì có DNNN, DNDD và DN có vốn đầu tư nước ngoài; theo quy mô, mà chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có DN lớn, DNNVV.
Các DNNVV là loại hình DN có số lượng áp đảo ở hầu hết các nước. Có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có những điểm giống nhau và khác nhau, vì vậy khó mà tìm được một định nghĩa thống nhất, mặc dù ai cũng thống nhất rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là kinh doanh ở các DN lớn.
Hiện nay, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định. Bảng 1.1 dưới đây cho thấy tình hình này.
Bảng 1.1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước:
Lĩnh vực
Các nước
Công nghiệp
Thương mại - Dịch vụ
DN vừa
DN nhỏ
DN vừa
DN nhỏ
Mỹ
Dưới 3,5 triệu USD
Dưới 500 lao động
Dưới 3,5 triệu USD
Dưới 500 lao động
Nhật bản
Dưới 100 triệu Yên
Dưới 300 lao động
Dưới 20 lao động
10-30 triệu Yên
Dưới 100 lao động
Dưới 5 lao động
CHLB Đức
1đến<100triệu DM
10-<500 lao động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
1-100 triệu DM
10-<500 lao động
Dưới 1 triệu DM
Dưới 9 lao động
Philippin
15-60 triệu Peso
Không quy định lđ
< 15 triệu Peso
Không q/định lđ
15-60 triệu Peso
Không quy định lđ
< 15 triệu Peso
Không q/định lđ
Đài Loan
1,6 triệu USD
4-10 lao động
1,6 triệu USD
4-10 lao động
Nguồn: [8].
Ngoài ra, còn có định nghĩa chung của EU, có hiệu lực áp dụng từ tháng 6/1996:
DNNVV là các DN tư nhân và độc lập, trong khu vực phi sơ cấp, không bao gồm các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, sử dụng dưới 200 công nhân. Trong khu vực DNNVV có sự phân loại như sau theo quy mô:
DN siêu nhỏ: sử dụng dưới 10 công nhân;
DN nhỏ: sử dụng từ 10 đến 49 nhân công và có doanh thu hàng năm dưới 7 triệu ECU;
DN vừa: sử dụng từ 50 đến 249 nhân công và có doanh thu hàng năm dưới 40 triệu ECU [8].
Về tiêu chí DNNVV ở Việt Nam:
Từ nhiều năm trước, khi Chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí quy định DNNVV, một số cơ quan và nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra các cách phân loại tiêu biểu sau:
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2 tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt:
+ Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5 - 10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng và có số lao động nhỏ hơn 200 người.
+ Trong ngành thương mại- dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số lao động từ 50-100 người.
- Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000 người, DN nhỏ là DN có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người [23];
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng, lao động từ 50-250 người là DN vừa…
Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí về vốn đăng ký và số lao động thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được 2 tiêu chí này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do nhiều yếu tố và cũng khó xác định.
Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định các DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm thời này chỉ tồn tại khoảng 3 năm và ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, theo quy định tại Nghị định này,
DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên [7].
Với tiêu thức phân loại mới này, DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng khoảng 90% trong tổng số DN hiện nay, trong đó phần lớn là các DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta vốn là nền kinh tế sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế quốc dân
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, đóng một vai trò rất quan trọng. Điều này cũng đúng với tình hình của Việt Nam, được thể hiện qua tám vai trò sau:
Thứ nhất, DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động:
Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển các loại hình DN này. Ưu điểm của các DNNVV trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là: các DN này có số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, nên mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt khác, các DN loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hóa sản phẩm, kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất. Sự lớn mạnh của các DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
DNNVV không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho số lao động làm việc thường xuyên ở các DN, mà còn tạo điều kiện để lao động ngoài DN có được việc làm thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra và phục vụ sản xuất - kinh doanh. Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì DNNVV luôn đóng vai trò quan trọng hơn các DN lớn, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng như ở Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy rằng: khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được. Do đó, các DNNVV không những không giảm lao động mà còn có thể thu hút thêm lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN nhỏ thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái [2]; [9].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định, sức ép dân số, lao động, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động từ các DNNN dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản DN hiện đang được triển khai.
Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi người dân có thể là một ông chủ, mỗi gia đình có thể là một doanh nghiệp. Thu nhập bình quân của người Việt Nam còn khá thấp do kinh tế chậm phát triển. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước.
Thứ hai, các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương:
Với đặc điểm phân bố nhỏ lẻ, dễ phân tán, yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNNVV có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư.
Sự phát triển có hiệu quả của các DNNVV đã dẫn đến quá trình tích lũy của cải không ngừng của nhân dân. Trước đây, tiết kiệm của dân chúng không đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, tiết kiệm của dân chúng đã đủ để sản xuất. Nguồn vốn quay vòng nhanh của các DNNVV không những đã nâng cao tích lũy tài sản trong nước, mà nguồn ngoại hối tích lũy do các DNNVV xuất khẩu hàng hóa cũng tăng đều qua các năm.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp các địa phương, các khu vực, nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn, nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn.
Thứ ba, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các cơ sở SX-KD và ngày càng gia tăng mạnh, tạo hiệu quả trong sản xuất thầu phụ.
Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, nếu chỉ tính các DN chính thức, mỗi năm các DNNVV đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc khai thác những tiềm năng phong phú trong dân… Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã được xuất khẩu, được nước ngoài đánh giá cao. Nhiều ngành nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển trong từng hộ gia đình, từng dòng họ, hình thành tập trung trong các làng nghề, phát huy truyền thống dòng họ, làng xã đặc trưng của nông thôn nước ta.
Thứ năm, các DNNVV là nhân tố tạo sự năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, đóng góp quan trọng trong việc làm tăng lưu thông và xuất khẩu hàng hóa:
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh, sự kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa mếm dẻo, hòa nhịp với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ.
Các DNNVV luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa công việc sản xuất và chiến lược thị trường phù hợp. Trong thời gian qua, các loại hình DN này đa phần lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước làm chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hóa mặt hàng sản xuất. DNNVV còn có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn cho các DN lớn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất cho DN lớn.
Thứ sáu, các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đặc biệt đối với khu vực nông thôn, sự phát triển của các DNNVV sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ. Sự phát triển của DNNVV ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNNVV còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hóa cơ cấu công nghiệp.
Thứ bảy, các DNNVV góp phần dân chủ hóa nền kinh tế, duy trì sự tự do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy.
DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động được nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công lao động xã hội.
Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất để phát huy tiềm lực. Một quốc gia muốn tạo nên các DNNVV đều phải có môi trường tự do cạnh tranh. Các DN lớn thường cần những thị trường lớn, thường đòi hỏi phải có sự bảo hộ của chính phủ và có xu hướng độc quyền. Còn ở DNNVV, tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các DN lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự trợ cấp, bảo hộ của Nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển.
Thứ tám, các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp.
Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà DN sẽ trưởng thành lên thành những nhà DN lớn, tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa (những ưu thế và hạn chế)
Những ưu thế:
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình DN có những ưu thế và hạn chế riêng. Có thể thấy các DNNVV có những ưu thế chủ yếu sau đây:
- Năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường: Đây là một ưu thế nổi trội của DNNVV. Do có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ nên DNNVV có thể phản ứng nhanh nhạy với những biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn, DNNVV dễ dàng chuyển đổi sản xuất, chuyển hướng kinh doanh, tăng giảm lao động hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội.
- Dễ dàng khởi sự và năng động, nhậy bén với thị trường. DNNVV chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Do qui mô nhỏ nên năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường, đặc biệt là nhu cầu nhỏ lẻ, có tính địa phương.
- Dễ phát huy các mối quan hệ hợp tác. DNNVV thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các DN phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải.
- Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố đinh thấp. Các DNNVV, do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường sử dụng lao động thay thế cho vốn, thiết bị, đặc biệt đối với các nước có nguồn lao động dồi dào với giá rẻ như ở nước ta.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động. Do quy mô vừa và nhỏ, quan hệ giữa những người lao động và người sử dụng lao động trong các DNNVV khá chặt chẽ, khoảng cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn. Do vậy, nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết.
- Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh. Các DNNVV thường không có tình trạng độc quyền, họ dễ dàng và sẳn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh.
- Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong nước. Do DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào khoảng trống và thiếu vắng của các DN lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
- DNNVV gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
- DNNVV chỉ cần số vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh.
- Hệ thống tổ chức SX và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp. Qua đó góp phần tiết kiệm chi phí quản lý DN.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế-xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền [9]; [14].
Những hạn chế của DNNVV:
Bên cạnh những ưu thế quan trọng, các DNNVV cũng có những hạn chế so với DN lớn:
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng SX kinh doanh. Các DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn trên thị trường.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hậu. Nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa phần của các DNNVV rất chật hẹp.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNVV bị hạn chế rất nhiều.
- Trình độ quản lý ở các DNNVV hạn chế. Đa số các chủ DN chưa được đào tạo cơ bản, đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu.
- Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và tiêu thụ sản phẩm. Do quy mô không lớn, khả năng tài chính có hạn nên các DN nhỏ thường mua hàng với số lượng nhỏ, do đó các DNNVV thường không được hưởng các khoản chiết khấu giảm giá. Khi phải nhập máy móc, thiết bị từ nước ngoài, DNNVV thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà phải qua đại lý trong nước nên giá cả đắt hơn.
- Các DNNVV có năng suất lao động và sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với các DN lớn.
- Hoạt động của DNNVV thiếu vững chắc. Mặc dù có ưu thế linh hoạt, nhưng do khả năng tài chính hạn chế, khi có biến động lớn trên thị trường, các DNNVV dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Cùng với những hạn chế nêu trên, trong quá trình hoạt động, các DNNVV còn thể hiện một số mặt tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế – xã hội. Đó là các hiện tượng trốn, lậu thuế, mua bán hàng nhái, hàng giả, mua bán hóa đơn, gây ô nhiễm môi trường,..
Chính những hạn chế và tiêu cực nảy sinh trong quá trình hoạt động của DNNVV đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, điều chỉnh và hỗ trợ của nhà nước đối loại DN này [14].
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC
1.2.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ
DNNVV, với những ưu thế và hạn chế đã nêu, nên khó có thể phát triển nhanh và bền vững nếu thiếu sự hỗ trợ từ chính quyền và các tổ chức hỗ trợ khác. Vì thế, để phát huy vai trò tích cực của các DNNVV nhất thiết phải có sự hỗ trợ các DN này trong quá trình hình thành và phát triển
1.2.2. Vai trò và nội dung chính sách hỗ trợ hiện hành của Nhà nước Việt Nam đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1988) đã đánh dấu sự chuyển hướng trong chính sách của Đảng và Nhà nước-đó chính là sự thừa nhận kinh tế tư nhân; thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần được tồn tại lâu dài, được phép kinh doanh các hàng hoá dịch vụ mà Nhà nước không cấm. Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện ra đời như: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27,28,29/HĐBT năm 1988 về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình. Nghị định 66/HĐBT và gần đây là Nghị định 02/CP về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, các bộ luật như: Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và gần đây là Luật Doanh nghiệp 2005. Tất cả các văn bản pháp lý đó đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển SX-KD và các DNNVV được quan tâm khuyến khích phát triển.
Nhà nước có chức năng làm tốt các công việc sau đây:
- Xây dựng định hướng chiến lược phát triển các loại DNNVV ở Việt Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể về phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành, từng lãnh vực, từng lãnh thổ nói riêng.
- Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ, phát triển các DNNVV phù hợp với định hướng mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn và phù hợp với dặc điểm của từng doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ của từng ngành, từng lãnh vực và ở từng địa bàn lãnh thổ. Đặc biệt chú ý khuyến khích phát triển các DNNVV trong khu vực nông nghiệp nông thôn, đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình DNNVV trong một số ngành nghề truyền thống, có khả năng sản xuất các chi tiết của từng bộ phận thuộc các loại thiết bị, máy móc tiên tiến hiện đại …Kể cả việc phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp,thương mại và các ngành dịch vụ…
- Xây dựng và ban hành các quy chế về các lãnh vực hoạt động hỗ trợ DNNVV của các cơ quan nhà nước, các hiệp hội các trung tâm tư vấn, các tổ chức nước ngoài (phù hợp với thông lệ quốc tế)…Phải có những bi._.ện pháp tổ chức tiếp nhận và phân phối các quỹ hỗ trợ đó một cách trung thực công bằng, đúng định hướng, và tổ chức chỉ đạo việc sử dụng các nguồn, các quỹ hỗ trợ đạt hiệu quả thiết thực trong quá trình phát triển DNNVV.
- Xây dựng, ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy chế về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý DNNVV; tổ chức cung cấp thông tin về kinh tế, thị trường trong và ngoài nước, về chọn đối tác, tìm bạn hàng ở trong nước và ngoài nước.
- Hoàn thiện một số chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn hiện nay của DNNVV như thị trường thông qua hợp đồng phụ, tăng sức mua của dân cư, khuyến khích xuất khẩu, chính sách đất đai với đầy đủ quyền sử dụng để yên tâm đầu tư lâu dài, hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng để khắc phục tình trạng thế chấp cầm cố, ưu đãi về thuế đối với DNNVV mới khởi sự hoặc hoạt động ở vùng khó khăn.
- Hướng dẫn xây dựng những điều lệ mẫu về việc tổ chức các hiệp hội ngành nghề của DNNVV đối với từng ngành từng lãnh vực, từng loại sản phẩm. Khuyến khích việc hình thành các trung tâm hỗ trợ DNNVV lập nghiệp chuyển giao công nghệ,vay vốn, hỗ trợ xã hội.
- Xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy chế về liên kết, hợp tác giữa các DN lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh với các DNNVV cùng ngành nghề, kinh doanh cùng loại sản phẩm. Qua mối quan hệ hai chiều đó mà nâng cao tính cộng đồng, bảo vệ được lợi ích quốc gia cũng như của từng DN lớn và nhỏ trong hoạt động thị trường ở trong và ngoài nước, không xâm phạm lợi ích của nhau.
- Xây dựng, ban hành quy chế về sự phối hợp với các ngành quản lý liên quan, với các cơ quan chức năng về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNVV trong từng ngành, từng lĩnh vực cũng như các quy chế về thưởng, phạt một cách công bằng, nghiêm minh đối với quá trình hoạt động của DNNVV theo hướng đơn giản hoá dăng ký kinh doanh ngành nghề, nghiêm túc hậu kiểm.
- Theo dõi nắm tình hình, tổng hợp tình hình hoạt động của các DNNVV trong phạm vi cả nước, từng ngành hoặc từng vùng lãnh thổ để chỉ đạo và báo cáo lên cấp trên theo định kỳ những thuận kợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, phát hiện những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung cũng như những tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV.
Hiện nay, các chính sách khuyến khích DNNVV của Chính phủ tập trung vào hai vấn đề:
Một là, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để cho các DNNVV hoạt động.
Hai là, hình thành và phát triển cơ chế hỗ trợ thống nhất từ Trung ương đến địa phương nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ DNNVV phát triển.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mà khởi điểm từ Thái Lan đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khu vực kinh tế châu Á. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để tiếp tục giữ vững sự ổn định của kinh tế trong nước, bắt đầu là sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sửa đổi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực từ 1/1/2000 theo hướng mở rộng thị trường, cho phép thành lập các doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn, thời gian được rút ngắn hơn. Cơ cấu thành phần kinh tế từ đó đã có sự thay đổi, tỷ trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên.
Từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành cho đến nay, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành hơn 100 văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, trong đó có các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp, việc thực hiện khuyến khích đầu tư trong nước cũng tạo điều kiện giúp các DNNVV phát triển mạnh trong thời gian qua.
Một văn bản pháp luật quan trọng thể hiên sự khuyến khích DNNVV ở Việt Nam thời gian qua là Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Đây là văn bản chính thức của Nhà nước khẳng định vai trò quan trọng của DNNVV trong nền kinh tế và các chính sách trợ giúp DNNVVphát triển. Văn bản này cũng đưa ra định nghĩa rõ ràng về DNNVV và thể hiện rõ Chính phủ sẽ trợ giúp DNNVV phát triển thông qua các chương trình khác nhau. Nghị định này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong chính sách của Chính phủ trong việc khuyến khích sự phát triển của DNNVV. Chính sách này thể hiện trên mấy khía cạnh sau đây [12].
- Khẳng định phương thức mới trong cơ chế khuyến khích DNNVV. Cụ thể là cho các DNNVV được hưởng tất cả chính sách ưu đãi hiện hành đối với các doanh nghiệp đầu tư SXKD theo đúng ngành nghề, kể cả ngành nghề truyền thống, đồng thời được hưởng thêm các chính sách ưu đãi khác.
- Nhà nước đã đề cao chức năng của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc trợ giúp các DNNVV. Hiệp hội doanh nghiệp có vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước trong việc tham gia soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nghị định này cũng đề cập đến việc thành lập “vườn ươm doanh nghiệp” hình thức trợ giúp DNNVV trong bước khởi đầu, đây là nơi cung cấp các kiến thức ban đầu về thành lập doanh nghiệp, tư vấn lựa chọn phương án SXKD, công nghệ máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, đào tạo vào một số trang bị ban đầu để doanh nhân thực hiện ý tưởng của mình trước khi kinh doanh.
Nghị định này cũng quy định việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng để bảo lãnh cho các DNNVV khi họ không đủ tài sản thế chấp, giúp doanh nghiệp tháo gỡ một phần khó khăn về vốn. Đây là loại quỹ do cộng đồng ngân hàng và DNVVN cùng góp vốn lập nên nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng khi cho vay vốn tín dụng và giúp doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh doanh có hiệu quả.
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 về viêc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động các quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 hướng dẫn một số điểm để thực hiện Quyết định 193. Tuy nhiên, do một số quy định trong văn bản trên chưa phù hợp với thực tế và khó khả thi nên việc thành lập quỹ Bảo lãnh tín dụng không triển khai được. Để khắc phục vướng mắc này, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 115/QĐ-TTg ngày 25/6/2004 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 193/2001/TTg và theo quyết định này thì vốn điều lệ và điều hành quỹ đã được quy định phù hợp hơn với thực tế.
- Bộ kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển DNNVV, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư quản lý nhà nước về xúc tiến phát triển DNNVV, là đầu mối phối hợp các bộ ngành Trung ương và địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp nhằm trợ giúp DNNVV
- Để trợ giúp về công nghệ cho DNNVV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định số 290/QĐ-BKH ngày 12/5/2003, thành lập 3 trung tâm hỗ trợ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các trung tâm là đầu mối tư vấn về công nghệ kỹ thuật, cải tiến trang bị, hướng dẫn quản lý, bảo dưỡng trang bị, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận trang bị mới.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV giai đoạn 2004-2008, triển khai xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010, tạo lập các mối quan hệ hợp tác với các tổ chức, hiệp hội trong nước và ngoài nước.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 về chức năng nhiệm vụ của Hội đồng và thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV. Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV thực hiện chức năng tư vấn, giúp Thủ Tướng chính phủ về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển DNNVV.
- Thủ tướng ban hành Chỉ thị 27/2003/CT-TTg về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển DNNVV.
Ngoài ra, hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đã được ban hành nhằm khuyến khích sự phát triển DNNVV ở Việt Nam. Đó là:
- Luật Lao động cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền tuyển lao động trực tiếp thay cho việc phải thông qua các tổ chức trung gian.
- Các văn bản pháp luật liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá, cải tiến thủ tục hải quan.
- Luật và các điều khoản liên quan đất đai và thủ tục cấp quyền sử dụng đất, quy hoạch đô thị.
- Luật và các điều khoản liên quan đến các thủ tục chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Các quy định hướng dẫn Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
- Các quy định khuyến khích xuất khẩu hàng hoá.
- Các quy định và các điều khoản liên quan đến việc miễn giảm thuế và hàng loạt các quy định khác được ban hành bởi các bộ có liên quan.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn tạo điều kiện cho các tổ chức có khả năng triển khai các hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV như trung tâm hỗ trợ DNNVV của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trung tâm hỗ trợ khoa học công nghệ của Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung tâm hỗ trợ phát triển DN ngoài quốc doanh của Liên minh các Hợp Tác xã Việt Nam và nhiều tổ chức khác ở địa phương [2]; [24]; [15].
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.3.1. Kinh nghiệm của nước ngoài
+ Kinh nghiệm của Philippine
DNNVV chiếm hơn 99% tổng số DN ở Philippine, thu hút hơn 55% lực lượng lao động của cả nước và đóng góp khoảng 28,1% tổng sản phẩm xã hội. Khoảng 60% các công ty xuất khẩu của Philippine là DNNVV. Những con số trên cho thấy tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế Philippine.
Chính phủ Philippine cũng nhận thức rằng, DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển những ngành mới và tạo công ăn việc làm cho người lao động ở những khu vực ngoại ô. Do đó, hỗ trợ DNNVV trở thành một chiến lược đối với Philippine trong việc đem lại sự cân bằng cho các ngành công- nông nghiệp và tạo sự công bằng trong thu nhập.
Cơ cấu hệ thống tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV:
Hệ thống tài chính của Philippine được coi là khá tự do và hoạt động của hệ thống tài chính hầu như hoàn toàn do khu vực tư nhân kiểm soát. Trong quá trình tư nhân hóa, Philippine cũng đang khuyến khích sự có mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài. Cả hai chính sách tư nhân hóa và tự do hóa đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho DNNVV.
Hệ thống tài chính Philippine được chia thành hai bộ phận: một là hệ thống các ngân hàng; hai là các tổ chức phi ngân hàng. Hệ thống ngân hàng được chia thành 4 loại. Căn cứ vào tên gọi của chúng, người ta có thể biết được mức độ dịch vụ và khả năng cho vay của ngân hàng đó. Đó là các ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng nông thôn và ngân hàng nhà nước.
Ba loại ngân hàng đầu tiên đều do tư nhân làm chủ và điều hành. Ngân hàng Nhà nước – như ngân hàng nhà đất và ngân hàng phát triển của Philippine – thường cho các dự án nông nghiệp và phi nông nghiệp vay; đó là các dự án mà các ngân hàng tư nhân thường không cho vay vì mức độ rủi ro cao.
Khu vực phi ngân hàng bao gồm các công ty bảo hiểm, các tổ chức đầu tư, các hoạt động ủy thác và các tổ chức tài chính trung gian khác, trong số đó có cả các nhà đầu tư dưới dạng cho vay và các cửa hàng cầm đồ. Cũng giống như đối với khu vực ngân hàng, chính phủ chỉ trực tiếp tham gia vào các nghiệp vụ đặc biệt như dành các hạn ngạch tín dụng cho các hoạt động tín dụng qui mô nhỏ của các tổ chức tư nhân hay các tổ chức phi chính phủ.
Khu vực tài chính ở Philippine trong những năm thập kỷ 90 nắm giữ khoảng 1,3 ngàn tỷ pêso (tương đương khoảng 38 tỷ USD), trong đó có một ngàn tỷ nằm trong hệ thống ngân hàng, phần còn lại nằm trong các tổ chức phi tài chính.
Khảo sát của các tổ chức nghiên cứu Philippine cho thấy, có khoảng 20% trong tổng số mà khu vực này nắm giữ là dành cho các DNNVV. Con số này chưa tính đến số vốn khá lớn do các nhà cho vay không chính thức đầu tư vào các hộ kinh doanh.
Trong thập kỷ trước, nguồn vốn dành cho các DNNVV rất hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn ngân hàng. Philippine đạt được con số như vậy có lẽ là do chính phủ Philippine đã đưa ra hàng loạt chính sách qui định các tổ chức tài chính, đặc biệt NH phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn đầu tư cho các DNNVV vay.
Trọng tâm đưa ra của các chính sách này là Luật Magna Carta. Theo Luật này, các NH phải dành 10% trong tổng số các khoản cho vay cho DNNVV.
Một biện pháp khác của Chính phủ Philippine nhằm đóng góp vào việc tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ DNNVV là việc triển khai các chương trình tín dụng đặc biệt dành cho DNNVV.
Tổng số tiền cho các chương trình trên lên tới hơn 30 tỷ pêso. Nguồn vốn để thực hiện các chương trình này được cấp từ ngân sách quốc gia, hoặc từ các nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tài chính nhà nước như hệ thống an sinh xã hội, hệ thống bảo hiểm và các nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số vốn này được dành cho các ngành nghề cụ thể thuộc khu vực tư nhân, chủ yếu là các DNVVN [2]; [14].
Một quyết định khác của Chính phủ đã giúp nâng cao khả năng tiếp cận của DNNVV đến các nguồn vốn là cho phép thành lập chi nhánh ngân hàng. Không giống như trong thập kỷ trước, khi mà các ngân hàng bị hạn chế lập thêm chi nhánh thì ngày nay các ngân hàng thương mại và tiết kiệm có thể thành lập chi nhánh ở bất cứ nơi nào họ muốn. Chính sách này đã khuyến khích một số ngân hàng mở chi nhánh ở các vùng nông thôn, nơi có lượng khách hàng lớn.
Khả năng tiếp cận với các nguồn vốn trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên đã hình thành sự cạnh tranh do có quá nhiều ngân hàng ở cùng một địa phương.
Các chương trình tài trợ cho DNNVV:
Ở Philippine, nhiều kế hoạch tài chính cho DNNVV đã được đưa ra. Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine thống kê được 156 chương trình tín dụng cho DN nhỏ. Những chương trình tín dụng này thuộc các tổ chức của cả Chính phủ và tư nhân, trong đó có cả các tổ chức phi Chính phủ.
Nhìn chung, các chương trình ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định của các DNNVV. Số lượng đông đảo các chương trình như vậy đã chỉ ra mức độ quan tâm của các tổ chức Chính phủ và tư nhân.
Dịch vụ của các chương trình này gồm cả các dự án cho vay trực tiếp đến bảo lãnh tín dụng. Có những chương trình dành cho tất cả DNNVV; có những chương trình chỉ dành cho doanh nghiệp nhỏ hoặc hộ kinh doanh, hoặc tổ hợp kinh doanh...
Khả năng tiếp cận của DNNVV đến các nguồn tài chính:
Hiện nay mức độ sẵn có của các nguồn vốn cho các DNNVV không còn là vấn đề ở Philippine nữa. Điều cần quan tâm là xem xét khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng này của DNNVV.
Khi khách hàng là các công ty lớn thì rủi ro cũng ít hơn. Các công ty lớn dễ đáp ứng các yêu cầu thế chấp và bảo lãnh, trong khi hầu hết DNNVV ít có khả năng đáp ứng được các yêu cầu thế chấp.
Thậm chí ngay cả các tổ chức không phải là ngân hàng, như các tổ chức phi Chính phủ cũng có chung vấn đề như vậy. Nguồn vốn của các tổ chức này thường giới hạn ở một số khách hàng nhất định để họ có thể chịu ít chi phí giao dịch và chịu ít rủi ro [12].
Để giải quyết những vấn đề trên, nhiều chương trình tài chính đã buộc phải đưa ra các điều khoản nhằm giúp các DN nhỏ nâng cao mức độ tín nhiệm tín dụng của mình. Bên cạnh các tổ chức Chính phủ, các tổ chức tư nhân cũng đã triển khai các chương trình trọn gói nhằm giúp cho doanh nhân nâng cao tín nhiệm tín dụng bằng cách cung cấp cho họ các loại dịch vụ nhằm giải quyết các vấn đề cần thiết giúp cho DN phát triển. Cụ thể là các dịch vụ: hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát triển sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề công nhân, đào tạo quản lý vốn và cả các chương trình phát triển quản trị doanh nghiệp.
Thực chất của các chương trình hỗ trợ DNNVV là giúp các DN này nâng cao khả năng tín chấp của mình đối với các ngân hàng.
Vai trò của Phòng Thương mại và Công nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch tài chính:
Vai trò của Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine (PCCI) không chỉ giới hạn trong việc thực hiện các chương trình hỗ trợ PCCI không chỉ tham gia vào quá trình thực hiện mà còn tham gia vào quá trình hoạch định các đường lối, cũng như tiến hành các biện pháp tư vấn trong suốt quá trình thực hiện các chương trình nói trên.
Cách thức tổ chức là để cho các đại diện của DN tham gia vào các tổ chức do Chính phủ lập ra nhằm hoạch định và đảm bảo việc thực hiện các chương trình nói trên. Cho nên, ở hầu hết các chương trình từ cấp quốc gia đến cấp địa phương, nơi có đại diện, thì Phòng Thương mại và Công nghiệp đều tham gia.
Trong việc thực hiện các chương trình tài chính, Phòng Thương mại khi thì đóng vai trò như một cơ quan hướng dẫn các cơ quan Chính phủ, khi thì trực tiếp cho vay hay chỉ giúp các DNNVV tiếp cận các nguồn vốn của các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Một vấn đề khác mà Phòng Thương mại đã làm là giúp các DN nhỏ nâng cao khả năng tín chấp thông qua các chương trình, nhằm tạo điều kiện để các DNNVV tiếp cận được thị trường và các nguồn công nghệ.
Phòng Thương mại và Công nghiệp ở thành phố Butuan - một Phòng Thương mại cấp địa phương ở Philippine là một ví dụ điển hình. Butuan là một thành phố nằm trên hòn đảo phía nam Mindanao. Butuan có khoảng 10.000 DNNVV. Được thành lập năm 1986, Phòng Thương mại và Công nghiệp Butuan tập trung được 20 hội viên tiên phong và đã vượt được thử thách để trở thành một diễn đàn chung trong cộng đồng DN ở địa phương. Thoạt đầu mọi nỗ lực thông qua hình thức tư vấn đã tỏ ra không thích hợp đối với thực trạng hoạt động của các DN ở địa phương nên Phòng Thương mại đã triển khai một chương trình rộng rãi với nội dung hoạt động là mở rộng tín dụng quy mô nhỏ. Hoạt động này đã trở thành điểm mốc thành công đầu tiên trong lịch sử của Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine.
Việc hình thành Chương trình tín dụng quy mô nhỏ chính là sự đáp ứng nhu cầu của DNNVV. Cuối những năm 1980 là một thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng ở Butuan, ngành công nghiệp chính của thành phố – ngành vận chuyển gỗ – đã suy thoái trong thời kỳ đó do nguồn cung cấp gỗ ít đi. Cùng với sự sụp đổ của ngành vận chuyển gỗ, nhiều DN phục vụ nhu cầu của các DN vận chuyển gỗ cũng bị đóng cửa. Lúc này cũng là lúc nhiều doanh nghiệp ở địa phương cần thêm vốn mới.
Để bắt đầu chương trình tín dụng nhỏ, 20 thành viên của chương trình của Phòng Thương mại Butuan đã tung ra một số lượng tiền trị giá 200.000 pêso. Họ chỉ cấp vốn cho các thành viên. Sau vài tháng, họ xin vay vốn từ chương trình Tulong Tatao của Chính phủ. Đây là một chương trình dẫn vốn đến các DN thành viên. Sở Thương mại và Công nghiệp, đóng vai trò quản lý quỹ, đã cho Phòng Thương mại Butuan vay 500.000 pêso năm 1990. Chương trình cho vay thuộc chương trình của Sở Thương mại và Công nghiệp là số tiền được cấp cho các hộ kinh doanh vay. Quỹ này đã thực sự đem lại sự hỗ trợ quý báu cho nhiều hộ kinh doanh, những người đi vay chương trình mới này [13].
Kết quả này đã khuyến khích Phòng Thương mại Butuan xem xét dự án này một cách nghiêm túc. Phòng Thương mại Butuan đã xem xét và tiến hành xác định chương trình hoạt động chính của tổ chức mình. Phòng Thương mại Butuan đã xin thêm được vốn và do đó quỹ này càng lớn hơn. Vấn đề về hoạt động quỹ, cụ thể là các chi phí giao dịch và rủi ro khi người vay ngày càng nhiều hơn, đã trở thành một thách thức đối với chương trình này. Phòng Thương mại Butuan đã biết trước rằng, để duy trì các dịch vụ tín dụng nhỏ, Phòng phải kết hợp với các dịch vụ khác như phát triển quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển marketing, hỗ trợ công nghệ và các hình thức hỗ trợ khác.
Với kết quả tích cực trong hoạt động cho vay lại, Phòng Thương mại Butuan đã tiến hành mở rộng hoạt động đầu tư thông qua việc sử dụng các nguồn khác của các cơ quan Chính phủ. Quỹ cho vay của chương trình tín dụng của Phòng Thương mại Butuan ngày càng lớn, con số khách hàng của quỹ tăng lên đến hơn 400 doanh nghiệp nhỏ trong năm 1995. Trong số những doanh nghiệp đó, có hơn 100 doanh nghiệp đã đáp ứng được các yêu cầu ngân hàng và bắt đầu trực tiếp giao dịch với ngân hàng về nhu cầu vay vốn của mình. Cùng với sự lớn mạnh của chương trình tín dụng thì các dịch vụ cho hội viên và cộng đồng doanh nghiệp cũng tăng theo. Với số hội viên ban đầu là 20, đến nay Phòng Thương mại Butuan có hơn 200 hội viên. Xét về mặt ảnh hưởng thì Phòng Thương mại Butuan gần như là đại diện cho các cơ quan Chính phủ ở địa phương.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine – Phòng Thương mại quốc gia, nhận thấy sự thành công của Phòng Thương mại Butuan như là Phòng Thương mại tự quản tốt nhất, coi Phòng Thương mại Butuan là tấm gương để mọi người học tập.
Nhưng điều quan trọng nhất mà Phòng Thương mại Butuan đạt được trong thập niên 90 về mặt tài chính là hơn 4.000 người đã được vay tiền của quỹ, trong đó hơn 100 doanh nghiệp đã được ngân hàng tín nhiệm.
Tóm lại, Philippine có các quỹ dành riêng cho DN nhỏ. Hệ thống cho vay vẫn đang được hoàn thiện; một DN có thể tiếp cận được rất nhiều các ngân hàng ở các tỉnh và các thành phố.
+ Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những quốc gia dành sự quan tâm rất lớn cho việc phát triển DNNVV. Trước thập niên 1970, việc hình thành và phát triển DNNVV chưa được chú trọng. Năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc mới bắt đầu chú ý xây dựng các thể chế và biện pháp hỗ trợ DNNVV. Năm 1986, Hàn Quốc đã ban hành Luật “Tăng cường hình thành DNNVV" làm cơ sở pháp lý để phát triển khu vực này [2].
Kế hoạch dài hạn về phát triển công nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu thực hiện từ năm 1982 nhằm nâng cao giá trị gia tăng và sử dụng lao động của khu vực này. Liên đoàn Xúc tiến công nghiệp vừa và nhỏ (Small and Medium Industry Promotion Corporation- SMIPC) là một tổ chức giữ vai trò trung tâm điều phối và triển khai các họat động hỗ trợ cho khu vực DNVVN. Chính phủ cũng đã thành lập một quỹ xúc tiến công nghiệp vừa và nhỏ (Small and Medium Industries Promotion Fund) để cung cấp những khoản tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. Ngân hàng thương mại quốc gia phải dành một tỷ lệ nhất định là 25% tín dụng để đầu tư cho các DNNVV.
Có thể khái quát toàn bộ quá trình hình thành các chính sách và biện pháp hỗ trợ DNNVV của Hàn Quốc như sau: Chính phủ tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Phát triển thầu phụ công nghiệp: Trước hết ban hành đạo luật khuyến khích hệ thống hợp đồng thầu phụ để bảo vệ cho các DNNVV trong mối quan hệ với các DN lớn. Chính phủ qui định bắt buộc các bên ký hợp đồng sản xuất và mua sản phẩm của DNNVV phải thanh toán bằng tiền mặt ngay sau khi được giao hàng. Đối với DN tiêu thụ sản phẩm của các DN nhỏ, sẽ được vay 50% vốn. Những DN giao hợp đồng phụ cho các DNNVV sẽ được giảm thuế 10% nếu đầu tư vào các dự án thử nghiệm hoặc đầu tư vào nâng cao kỹ thuật của DN thực hiện hợp đồng phụ.
- Hỗ trợ phát triển, thương mại hóa sản phẩm mới và công nghệ mới: Chính phủ hỗ trợ tài chính cho các DNVVN sử dụng kỹ thuật hiện đại. Thành lập 3 tổ chức tài chính khuyến khích phát minh và sáng chế công nghệ là “Tổ chức hợp tác phát triển công nghệ Hàn Quốc", “Tổ chức hợp tác đầu tư phát triển" và Tổ chức hợp tác tài chính công nghệ”, bảo đảm cho các tổ chức này nhận được 70% vốn vay của ngân hàng để làm dịch vụ hỗ trợ.
- Hỗ trợ phát triển thị trường: Nhà nước hỗ trợ thị trường bằng cách công bố những mặt hàng độc quyền sản xuất dành riêng cho DNNVV. Số lượng các mặt hàng này tăng dần từ 103 lên đến 205 vào tháng 12/1984.
- Các biện pháp hỗ trợ vốn, tín dụng, thuế: Thông qua chính sách cho vay, ngân hàng phải dành 35% toàn bộ vốn vay của mình cho các DNNVV; đối với ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính bảo hiểm là 25% và 75% đối với các ngân hàng địa phương.
- Thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng, tạo điều kiện cho DNNVV vay với lãi suất ưu đãi là 1%, so với 1,5 % của các DN lớn trong hạn mức 1 tỷ Won.
+ Kinh nghiệm của Cộng Hòa Liên Bang Đức:
Kinh nghiệm các chương trình khuyến khích phát triển DNNVV của Đức gồm 3 lĩnh vực chính sau đây:
* Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển các DNNVV:
- Miễn giảm thuế thúc đẩy đầu tư:
Ở Đức, từ tháng 01/1990, các DN nhỏ không phải nộp thuế doanh thu (nếu doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm không vượt quá 25.000 DM, và nếu thu nhập hàng năm của DN dưới 2 triệu DM thì DN được giảm 50% số thuế phải nộp.
- Cho phép khấu hao nhanh tài sản cố định:
Để giúp cho các DNNVV tăng khả năng tài chính và tạo điều kiện cho các DN này nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, các quốc gia thành viên EU, trong đó có Đức thực hiện chính sách hoãn thuế cho DNNVV bằng cách cho phép DN thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định.
- Thực hiện tín dụng ưu đãi:
Với tiềm lực tài chính mạnh, Chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức đã thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi và trợ cấp cho các DNNVV. Chính sách của Chính phủ hỗ trợ cho các DNNVV trước hết nhằm đảm bảo cho các DN này có đủ tiềm lực về tài chính. Chính phủ Đức có nhiều chương trình tín dụng ưu đãi cho các DNNVV. Ngân hàng tái thiết nước Đức có chương trình tín dụng ưu đãi cho các DNNVV thuộc lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Các DNNVV thuộc các ngành này có doanh số dưới 1 tỷ DM/năm được vay tối đa 10 triệu DM trong thời hạn 10 năm với lãi suất 5,25%/năm với 2 năm đầu không phải trả lãi. Ngân hàng cân đối Đức có chương trình tín dụng ưu đãi dành cho các DNNVV mới thành lập.
- Bảo đảm và bảo lãnh tín dụng:
Việc thiếu các khoản thế chấp là một trong những lý do chính làm cho khả năng vay tín dụng của các DNNVV bị hạn chế, do vậy các Ngân hàng bảo đảm tín dụng cho DNNVV đã được thành lập với các khoản cho vay công cộng. Các tổ chức bảo đảm tín dụng của Đức đã và đang hoạt động khá thành công bởi vì hệ thống này không gây khó khăn và nguy hiểm cho chức năng hoạt động của các thị trường vốn tư nhân. Việc bảo đảm, một hình thức thay thế cho việc thiếu các khoản thế chấp, chỉ có thể bù đắp cho một số những bất lợi nhất định của DNNVV. Việc bảo đảm các khoản vay sẽ giúp cho các tổ chức tài chính tránh được mức độ rủi ro cao khi họ cho các DN nhỏ vay tiền. Việc đảm bảo món vay chính là tỷ lệ phần trăm của món vay được bảo đảm bởi một tổ chức bảo đảm. Như vậy, trong trường hợp xảy ra sai phạm, phần mất mát mà Ngân hàng phải gánh chịu chỉ là một phần trong tổng số tiền cho vay. Tuy nhiên, đổi lại thì mức lãi suất của các món vay này áp dụng đối với bên đi vay là cao hơn nhiều so với mức lãi suất bình thường. Sự hiện hữu của việc đảm bảo món vay có thể thuyết phục ngân hàng cung cấp các khoản vay với mức lãi suất thấp hơn, do đó có thể bù đắp được phần nào hay toàn bộ những rủi ro. Mục tiêu là tăng nguồn tài trợ cho các DN nhỏ để họ có thể tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong nền kinh tế.
Các phòng Thương mại và Công nghiệp của Đức có những chuyên gia tư vấn cho các chương trình bảo đảm món vay. Những phòng này tiến hành xem xét và đánh giá các đơn xin vay của các doanh nghiệp chủ trước khi đưa ra một khoản đảm bảo món vay.
- Vốn vay trợ cấp:
Một chính sách khá ưu đãi trong việc hỗ trợ tài chính là các món vay với các khoản lãi suất được Nhà nước cấp bù. Những món vay với mức lãi suất thấp như thế được cung cấp tại Đức với sự hỗ trợ của hai Ngân hàng. Nhiệm vụ của 2 Ngân hàng này là thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Từ các ngân hàng như Kreditanstalt Fuer Wiederaufbau, KFW, Deutsche Ausgleichbank, DA, các DNNVV có nhiều triển vọng tăng trưởng tốt có thể được vay với mức lãi suất thấp từ 10 triệu DM trở lên trong khoảng thời gian trên 6 năm. Đối với các dự án đầu tư, các món vay trên 10 triệu DM, với mức lãi suất thấp và thời hạn thanh toán trên 10 năm cũng có thể được cấp; trên 75% tổng số vốn đầu tư của một dự án đầu tư có thể được tài trợ bằng các nguồn vốn nói trên.
Các Phòng Thương mại tổ chức các khóa đào tạo về tài trợ cho các nghiệp chủ và tư vấn trong quá trình lập các kế hoạch kinh doanh. Thêm vào đó, các Phòng Thương mại này có thể được các ngân hàng tư vấn để có thể tiến hành xem xét và đánh giá chuyên môn về các đơn xin vay của các nghiệp chủ.
- Hỗ trợ tài chính nhằm thúc đẩy đổi mới thiết bị và công nghệ:
Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức sử dụng biện pháp tài trợ cho các chương trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng và đổi mới công nghệ của các DNNVV. Trong 2 năm từ 1989 đến 1990, Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức đã chi ra 2.159,3 triệu DM tài trợ cho các chương trình này.
* Các dịch vụ tư vấn hỗ trợ phát triển DNNVV:
Các phòng Thương mại giúp cho DNNVV tại CHLB Đức thuê các chuyên gia tư vấn, những người này chủ yếu là do Chính phủ CHLB Đức trả lương. Ngoài ra, các DNNVV có quyền yêu cầu sự trợ giúp về tài chính đối với nghiệp vụ tư vấn mà các Phòng này không thể đáp ứng nổi. Hầu hết các cuộc tư vấn như vậy do Chính phủ Liên bang tài trợ lên tới hơn 40 triệu DM.
* Đào tạo, khuyến khích tổ chức hội chợ:
Chính phủ Đức tài trợ tới một phần ba chi phí của các khóa học diễn ra tại cơ sở đào tạo của các Phòng Thương mại dành cho DNNVV. Các Phòng này cũng nhận được sự giúp đỡ của Chính phủ và của các Bang để xây dựng và chi phí cho hoạt động của các trung tâm đào tạo. Vào năm 1997, sự trợ giúp này lên tới khoảng 200 triệu DM.
Trong số khoảng 80 quốc gia mà các công ty của Đức có quan tâm đặc biệt, Phòng Thương mại quốc tế Đức đã đưa ra rất nhiều loại hình dịch vụ bao gồm thông tin, chuẩn bị các nghiên cứu thị trường, trợ giúp thành lập công ty, giải quyết tranh chấp, tham gia hội chợ thương mại và các cuộc triển lãm.
Văn phòng Liên bang phụ trách thông tin Thương mại Quốc tế sẽ cung cấp các thông tin đầy đủ bằng một mạng lưới bao gồm 45 phóng viên nước ngoài [23].
- Đối với Tổ chức xúc tiến Hội chợ Thương mại Quốc tế, một năm chính phủ CHLB Đức dành khoảng 50 triệu DM để thúc đẩy sự hiện diện của nền kinh tế Đức tại các hội chợ thương mại và triển lãm ở nước ngoài.
+ Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Nhà nước cung cấp tín dụng cho DN tư nhân nhỏ và tiến hành bảo trợ tiền vay thông qua một cơ quan đặc biệt. Từ năm 1953, ở Mỹ đã lập ra Ủy ban Những vấn đề kinh doanh nhỏ (APSB-Agency for Promotion of Small Buisiness) với các chi nhánh ở tất cả các bang và các thành phố lớn. Việc trợ giúp cho kinh doanh ở Mỹ được thực hiện thông qua các chương trình tín dụng có mục tiêu, mỗi năm có 15 chương trình tương tự.
Khả năng tín dụng và bảo lãnh của APSB tại Mỹ phụ thuộc vào các khoản bố trí phân bố hàng năm của Quốc hội. Sau khi được phê duyệt, các khoản kinh phí được cấp về, APSB tiến hành trợ giúp tài chính cho các chủ thể có khả năng chi trả bằng cách cho vay trực tiếp hoặc cung cấp bảo lãnh theo các hướng ưu tiên mà Quốc hội đ._.hường xuyên của chính quyền
-Nhiều ràng buột bởi hợp đồng lao động
-Chịu sự chú ý của chính quyền địa phương nhiều hơn
-Lượng thuế đóng có thể tăng lên(chuyển từ thuế khoán sang cách tính theo chuẩn mực kế toán)
Nguồn: [13].
Ngoài ra, theo “ Báo cáo của CIEM cho biết thực tế hộ kinh doanh có lợi thế về thuế hơn so vớí các công ty [1]; [15] và “báo cáo của UNIDO viết: Một khó khăn khác đối với việc hình thành và phát triển DNTN vì chính quyền địa phương không khuyến khích hộ kinh doanh thành lập DN vì như thế họ sẽ mất đi nhiều khoản thu để lại địa phương… [15, tr.49].
Đối với tỉnh Kon Tum, với số hộ kinh doanh hiện có là 11.188 hộ, dự kiến đến 2010 sẽ là 15.288 hộ, có sản phẩm làm ra chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP của tỉnh thì việc thúc đẩy quá trình chính thức hoá có ý nghĩa rất lớn.
Để thúc đẩy quá trình chính thức hoá UBND tỉnh Kon Tum phải làm các công việc sau:
- Phải đối xử một cách khách quan và bình đẳng với tất cả các loại hình kinh doanh. Cần hạn chế các quy định có tính chủ quan cho rằng loại hình kinh doanh này cần được chính thức hoá, còn loại hình kia không cần.Các quy định không rõ ràng không những làm cho giới kinh doanh lo lắng, không khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh mà còn làm giảm năng lực của chính quyền địa phương.
- Phải loại bỏ sự phân biệt mang tính chủ quan trong cách tính thuế đối với các loại hình kinh doanh của cơ quan thuế cấp địa phương. Hiện có tới trên một nửa số hộ kinh doanh được thu theo thuế khoán,thiếu minh bạch, mang nặng tính chủ quan,không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh, nhà nước thất thu thuế. Tổng cục Thuế đã có chủ trương hạn chế thu thuế khoán nhưng chưa ban hành các giải pháp có hiệu quả và lộ trình thực hiện mà chỉ mang tính chất động viên. UBND Tỉnh cần yêu cầu cục thuế xây dựng chỉ tiêu, lộ trình và các giải pháp thực hiện để thực hiện chủ trương của Tổng cục Thuế.
- Ngoài kinh phí hỗ trợ hàng năm của Trung ương, UBND Tỉnh phải bổ sung thêm kinh phí của địa phương để đào tạo cho các hộ kinh doanh cá thể về chương trình khởi sự DN và chương trình nâng cao năng lực quản lý của DN do VNCI tài trợ.
- Hình thành các trung tâm, các DN dịch vụ tư vấn kế toán và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác để hỗ trợ dịch vụ kế toán cho các DNVVN. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (BDS) như thông tin, đào tạo, thiết kế mẫu mã, thương hiệu, marketing... phải được phát triển.
3.2.4. Các giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
3.2.4.1. Các giải pháp về vốn
Trong một điều tra về thực trạng DNVVN do Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch Đầu tư) công bố mới đây cho thấy chỉ có 32,38% số DN cho biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các ngân hàng thương mại), 35,24% DN khó tiếp cận và 32,38% số DN không tiếp cận được [12].
DNNVV tìm vốn ở đâu? Có rất nhiều nguồn như từ bạn bè, người thân, tổ chức tín dụng, công ty thuê mua tài chính, quỹ đầu tư, cơ quan nhà nước, tổ chức xúc tiến phát triển DN, cơ quan quản lý tài nguyên - môi trường và cả bạn hàng. Nhiều là vậy nhưng DNNVV vẫn thiếu vốn, vì sao?
Không chỉ ở Việt Nam, DNNVV thiếu vốn là chuyện xảy ra tại nhiều nước trên thế giới và mỗi nước có cách thức giải quyết, hỗ trợ DN khác nhau. Có những mô hình hỗ trợ thành công, có những mô hình hỗ trợ kém hiệu quả, nếu không muốn nói là thất bại. Điều này phụ thuộc vào chính sách hỗ trợ DNNVV của Nhà nước nói chung và của tỉnh nói riêng, khả năng đáp ứng yêu cầu vay vốn của ngân hàng và trình độ của DN.
Ở Việt Nam, nó còn liên quan đến chính sách đất đai, một loại tài sản thế chấp phổ biến, nhưng đa số DN lại thiếu một quyển “sổ đỏ” chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp.
Điều tra của VCCI cho thấy, có rất ít DNNVV thành công trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Đa số DNNVV dựa vào sự giúp vốn của bạn bè, người thân. Một số không nhỏ các DN đã tiếp cận thành công nguồn vốn của những cá nhân chuyên cho vay. Tình hình như vậy phổ biến ở Kon Tum.
Những đòi hỏi như DN phải có uy tín với ngân hàng (điều này không thể có đối với DN lần đầu đi vay) hay điều kiện tiên quyết là DN phải có tài sản thế chấp, đã khiến họ bỏ cuộc. Một mặt, DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp tài sản vì ở nước ta thị trường bất động sản kém phát triển. Mặt khác, việc xác định trị giá tài sản thế chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ngân hàng, không có cơ quan trung gian định giá tài sản tham gia. Do đó, giá trị tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp đã bị hạ thấp so với thực giá trên thị trường.
Nghị định 90 NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV thừa nhận vai trò của DNNVV trong nền kinh tế. Nghị định đưa ra các biện pháp hỗ trợ về tài chính và phi tài chính cho khu vực này. Ngay sau đó, một dự án hỗ trợ tài chính cho DNNVV (SMEFP) hai bước đã được triển khai thông qua Ngân hàng Nhà nước và bốn ngân hàng thương mại, với sự tài trợ của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật (JBIC). Sau gần hai năm thực hiện, đã có 87 tiểu dự án được vay với tổng số vốn 185,8 tỉ đồng.
Những nguyên nhân khiến các dự án hỗ trợ tài chính cho DNNVV giải ngân chậm tựu trung vẫn là những khó khăn đã nêu trên và quay trở lại nguyên nhân cơ bản nhất là thiếu tài sản thế chấp. Để tháo gỡ vướng mắc này, ngày 20/12/2001, Chính phủ đã ban hành Quy chế hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV bằng Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg. Tiếp theo là các văn bản hướng dẫn và sửa đổi quy chế được liên tục ban hành. Song, gần ba năm trôi qua, bảo lãnh vẫn dẫm chân tại chỗ.
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, bảo lãnh của Kon Tum cần đưa ra nhiều giải pháp để tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN.
Chẳng hạn cách chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn.
Trong thời gian tới, Trung ương nên thành lập riêng hệ thống ngân hàng để phục vụ cho các DNNVV như nghị quyết số 08 hội nghị trung ương lần thư 4 thuộc đại hội X của trung ương đã đề ra.
Ngoài ra, hỗ trợ phát triển hình thức thuê mua tài chính (Leasing) cho các DNNVV. Đây là một giảp pháp giải quyết vấn đề thiếu vốn của DNNVV.
Khái niệm cho thuê tài chính tuy vẫn còn khá mới mẻ đối với nhiều DN, đặc biệt là các DNNVV, nhưng đây sẽ là câu trả lời cho bài toán về vốn cho DNNVV trong thời kỳ hậu hội nhập.
Khác với việc khi vay vốn của ngân hàng phải có các thủ tục về thế chấp tài sản, đặc trưng của phương thức cho thuê tài chính là đơn vị cho thuê sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ những tài sản đó trong một thời gian nhất định. Ưu điểm rõ nhất của phương thức cho thuê tài chính chính là việc không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Chính vì thế, loại hình cho thuê tài chính rất thích hợp với các DNNVV.
3.2.4.2. Các giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đổi mới công nghệ
Ðối với khu vực DNNVV, đổi mới công nghệ đã trở thành nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự tăng trưởng. Bởi vậy, muốn thúc đẩy phát triển khu vực này, cần phải hiểu rõ nội dung của quá trình đổi mới công nghệ và các yếu tố có tác động tới quá trình này để đề ra chính sách và giải pháp thích hợp.
Theo cách hiểu truyền thống, người ta thường mô tả quá trình đổi mới công nghệ theo mô hình tuyến tính, nghĩa là nó diễn ra theo trình tự từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai, thiết kế, sản xuất thử nghiệm và thương mại hóa.
Trên thực tế, quá trình này có tác động qua lại với nhau và có phần phức tạp hơn. Quá trình đổi mới công nghệ là sự kết hợp giữa "sức đẩy" của công nghệ mới và "sức kéo" của thị trường. Tùy theo ngành kinh tế mà vai trò của hai yếu tố này có thể khác nhau [14]. Tuy nhiên, ở đây cần lưu ý một số yếu tố quan trọng sau:
- Cần coi trọng yếu tố "sức kéo" của thị trường. Nói cách khác, quá trình chuyển một sáng chế thành một đổi mới công nghệ trong thực tiễn bị chi phối chủ yếu bởi sức kéo của thị trường. Cũng có trường hợp một đổi mới công nghệ có thể khởi đầu bằng "lực đẩy" của công nghệ nhưng điều đó chỉ thành công khi nó đáp ứng được nhu cầu rõ ràng của thị trường hoặc giải quyết một số vấn đề kỹ thuật quan trọng.
- Đổi mới công nghệ là một quá trình tác động qua lại. Việc thiết kế thử nghiệm phải gắn kết chặt chẽ với khâu nghiên cứu thiết kế công nghiệp và sản xuất. Sự phản hồi giữa các khâu này là rất quan trọng.
- Điều quan trọng đối với quá trình đổi mới công nghệ là tinh thần kinh doanh. Toàn bộ quá trình đổi mới công nghệ sẽ thực hiện có kết quả nếu được lôi kéo bởi động lực kinh doanh và sự hứng thú.
Ở nhiều nước, để giúp các DNNVV, người ta đã tuyển chọn và hình thành mạng lưới các chuyên gia tư vấn kỹ thuật. Với đội ngũ này, các DNNVV có thể nhận được các lời khuyên cụ thể, cả về công nghệ và kinh doanh để giải quyết những khó khăn của cơ sở. Phần chi phí trả công cho các chuyên gia tư vấn kỹ thuật được lấy từ Quỹ hỗ trợ tư vấn dành riêng cho các DNNVV. Ðội ngũ chuyên gia tư vấn được tuyển chọn khá chặt chẽ theo các ngành nghề chuyên môn nhất định, phù hợp với cơ cấu ngành nghề được xếp vào loại ưu tiên hỗ trợ trong từng giai đoạn của mỗi nước khác nhau. Kon Tum cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp hỗ trợ nêu trên để giúp DNNVV tiếp cận các nguồn lực khoa học - công nghệ.
3.2.4.3. Các giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thực hiện liên kết để tăng sức mạnh.
Trong hoạt động kinh doanh, liên kết, liên doanh vốn đã là một yêu cầu tự nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi DN. Ngày nay, vào WTO, khi phần lớn DN nước ta nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng còn là nhỏ và vừa, thì việc liên kết, liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém để tăng năng lực cạnh tranh lại càng cấp bách. Việc liên kết không chỉ giúp DN giảm giá thành, tăng chất lượng hàng hóa, còn có thể giúp cho DN nhận những đơn hàng lớn mà mỗi DN không thể đáp ứng, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện phát triển DN trong tương lai.
Kinh nghiệm cho thấy, có rất nhiều phương thức liên kết, liên doanh hết sức phong phú: giữa các DNNVV với nhau, giữa DNNVV với DN lớn, giữa DN trong nước với DN có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả các tập đoàn lớn, các Công ty xuyên quốc gia,... Liên kết để hỗ trợ nhau trong từng khâu của quá trình kinh doanh; cũng có thể liên kết để tăng quy mô DN, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn đủ sức đưa DN, doanh nhân Việt Nam ra thế giới. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, như giúp nhau đổi mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản trị DN, giúp nhau tiền vốn... song việc liên kết trong cung ứng vật tư, nguyên liệu, trong tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,... cũng rất cần được quan tâm, vì chính những khâu này cũng giúp tăng thêm giá trị của hàng hóa, và đây cũng là những khâu mà lâu nay DN Kon Tum ít chú ý thực hiện.
Trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của các hội, hiệp hội DN, hội ngành nghề càng cần phải khẳng định và phát huy. Đó là những tổ chức xã hội dân sự vừa giúp cho DN tổ chức các quan hệ liên kết, liên doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DN, đồng thời cũng là cầu nối giữa DN với cơ quan nhà nước, giúp cho DN tham gia vào việc hoạch định thể chế, chính sách quản lý kinh tế - đây cũng là một nội dung mà chúng ta đã cam kết trong khi gia nhập WTO, để thể chế, chính sách phản ánh đúng nội dung đổi mới của nước ta và phù hợp các quy định trong WTO.
Trong cuộc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn hiện nay, mỗi DN đều cần liên kết, liên doanh; đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, hợp tác để cạnh tranh tốt hơn, là để tăng thêm sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi DN cũng như của cả nền kinh tế.
Đối với các cơ quan nhà nước, điều quan trọng là nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của các hội, hiệp hội, tôn trọng và lắng nghe ý kiến xây dựng của họ. Luật về Hội cần sớm được ban hành. Các cơ quan chức năng cần tạo thói quen nghe ý kiến của hội, hiệp hội - có thể có những ý kiến “trái tai”, nhưng đó là những ý kiến xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đầy tinh thần xây dựng vì lợi ích chung của nền kinh tế. Các cuộc hội thảo lấy ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được thực hiện có thực chất hơn; những ý kiến chưa nhất trí cần được đối thoại thẳng thắn; những ý kiến đúng đắn cần được tiếp thu nghiêm túc.
Để tạo điều kiện cho DN thực hiện được liên doanh, liên kết thì tỉnh cần có một môi trường đầu tư thuận lợi cũng như thành lập trung tâm để quảng bá về tiềm năng của tỉnh; hỗ trợ tư vấn cho DN trong việc tìm đối tác liên doanh, liên kết, hình thành các hiệp hội để tư vấn cho DN…
3.2.4.4. Các giải pháp về đất đai, mặt bằng
Tỉnh cần tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất phù hợp, quy hoạch dành quỹ đất và thực hiện các chính sách khuyến khích xây dựng các cụm công nghiệp để có mặt bằng sản xuất tập trung tạo sự thuận lợi cho các DN và tránh tình trạng về sau phải di dời đối với những DN gây ô nhiễm ra khỏi thị xã, gây tốn kém và mất ổn định. Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần tạo ra một khung pháp lý hợp lý hơn đối với các DN tư nhân, đặc biệt là DNNVV. Chẳng hạn như, cho phép dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với các tổ chức và cá nhân nước ngoài, giảm phí tiền sử dụng và chuyển mục đích sử dụng đất, giảm phiền hà trong thủ tục thuê đất đai…
3.2.4.5. Các giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Tỉnh cần tiếp tục rà soát bổ sung và hoàn chỉnh qui hoạch vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tập trung có sản lượng lớn, chất lượng đồng đều và an toàn nhằm tổ chức đầu tư sản xuất, ký kết hợp đồng tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu công nghiệp chế biến xuất khẩu. Các DN tiến hành xây dựng phương án đầu tư sản xuất tiêu thụ nông sản một cách cụ thể, trên cơ sở đó, ký kết hợp đồng với người sản xuất và liên kết chặt chẽ với các nhà (khoa học, tín dụng, nhà nông, Nhà nước). Ngoài ra, các DNNN đang cải tiến phương thức hợp đồng, đáp ứng yêu cầu của người sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh trong đầu tư, tiêu thụ nông sản. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh phối hợp đầu tư và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ sau thu hoạch, nhằm nâng cao năng suất và hạ giá thành nông sản. Tỉnh cần hướng dẫn đăng ký nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, thương hiệu sản phẩm.
3.2.4.6. Các giải pháp về đào tạo, tư vấn
Ở Kon Tum thực trạng yếu kém, "ốm yếu" của khu vực DNNVV về cán bộ, nhân lực đã được thừa nhận. Ai cũng cho rằng khu vực này cần được hỗ trợ về nhân lực, nhưng hỗ trợ ra sao, phải bắt đầu từ đâu, bằng cách nào thì còn rất mơ hồ và không hiệu quả. Hay nói cách khác, DN vẫn tự bơi mà không có "phao cứu sinh".
Kết quả khảo sát khu vực DNNVV (toàn quốc) đưa ra một thực trạng rất đáng báo động. Số chủ DN được ví như "các đấu sĩ trên vũ đài thương trường", nhưng trình độ học vấn thì chỉ có 54,5% trong tổng số 33.487 DN trả lời phiếu điều tra có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên [14]. Có nghĩa là 45,5% số chủ DN còn lại có trình độ bậc trung học phổ thông và chưa qua đào tạo đại học. Số chủ DN có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ càng "đếm trên đầu ngón tay" với 3,7% số chủ DN. Tuy nhiên, số có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên, cũng chỉ khoảng trên dưới 30% được đào tạo về quản trị kinh doanh và có kiến thức kinh tế. 70% số chủ DN còn lại chưa được đào tạo [14]. Đáng ngại nhất là các chủ DN tư nhân, chiếm đến 75,4% số chủ DN có trình độ học vấn dưới cấp 3; còn Cty TNHH thì tỉ lệ này là 38%. Kết quả khảo sát cũng phản ánh trung thực tình trạng sử dụng lao động hiện nay tại các DNNVV, khi mà ở những vị trí quan trọng được trả lương cao đều do các lao động nước ngoài đảm trách. Có đến 2/3 (chiếm 62,2%) chủ DN là người nước ngoài, trong đó tập trung chủ yếu ở các ngành công nghiệp sinh lợi nhuận nhanh như dệt may, da giày, ôtô, xe máy; tiếp đến là các ngành dịch vụ (chiếm 31,7%) [14]; [15].
Như vậy, vấn đề hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV là hết sức cấp bách và cần thiết.
Tỉnh cần tăng cường hỗ trợ đào tạo đối với các DNNVV, cung cấp và tạo điều kiện cho họ tiếp cận được các nguồn thông tin, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn…, khuyến khích các DN đầu tư vào những lĩnh vực có đóng góp tích cực cho xã hội, các DN có kim ngạch xuất khẩu cao.
Ngoài ra, tự các DN cần tích cực tự đào tạo, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường hiện có, phát triển thị trường mới, đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng các hệ thống quản lý, xây dựng thương hiệu hàng hoá. Tăng cường nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, văn minh sản xuất, kinh doanh, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 rộng hơn. Đặc biệt, DNNVV cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao và tuyển dụng đội ngũ nhân tài sản xuất kinh doanh tại DN, bổ sung lực lượng kỹ thuật có trình độ tin học, ngoại ngữ và lực lượng cán bộ làm công tác thị trường có trình độ nhằm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập khu vực và quốc tế.
3.3. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ RA
3.3.1. Chính sách của Trung ương phải hệ thống, triệt để và được triển khai đến địa phương
Năm 2005 Luật Doanh nghiệp ra đời, đây là một hành lang pháp lý quan trọng nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng của các DN thuộc các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, để luật này được đưa vào thực tế, chính phủ cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp luật chung phù hợp với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới.
Song song với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, chính phủ cần phân cấp cho các địa phương một số quyền tự chủ để phù hợp với tình hình thực tế của các địa phương.
Cần tách các trung tâm dịch vụ tư vấn công ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan này thực hiện các dịch vụ tư vấn một cách độc lập để tạo điều kiện cho các DN phát triển…
3.3.2. Duy trì sự ổn định về- chính trị, an ninh trật tự trên địa bàn
Để phát triển DNNVV, đồng nghĩa với phát triển kinh tế trên địa bàn, UBND Tỉnh phải đảm bảo được tình hình an ninh chính trị trên địa bàn.
Là một tỉnh miền núi, biên giới có 260km giáp ranh với Lào và Campuchia, là cửa ngõ biên giới nhạy cảm, vì vậy UBND tỉnh Kon Tum phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết trong việc bảo vệ an ninh biên giới, không để xay ra xung đột biên giới, hay sự quấy phá của các tổ chức phản động.
Là một tỉnh có trên 54% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, trước âm mưu của các thế lực thù địch nước ngoài trong việc xây dựng nhà nước “Đề Ga” nhằm ly khai người đồng bào ở Tây Nguyên ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam, do vậy, lãnh đạo Kon Tum phải chú ý tăng cường khối mặt trận đoàn kết các dân tộc, tránh tối đa những sai sót trong việc đền bù, giải toả đất đai để kẻ thù lợi dụng xúi dục, tạo thành những điểm nóng, phải thực hiện tốt các chính sách dân tộc đã ban hành
Ngoài ra, tỉnh cần chú ý đảm bảo an ninh trận tự trên địa bàn. Tỉnh cần chú ý việc củng cố, phát triển sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, tăng cường công tác bám địa bàn, nắm dân, nắm chắc tình hình cơ sở, giải quyết kịp thời dứt điểm những vấn đề phức tạp phát sinh ngay tại cơ sở, thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế gắn với quốc phòng an ninh ở khu vực biên giới. Cuối cùng, cần đẩy mạnh công tác chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
3.3.3. Củng cố cơ quan quản lý nhà nước và đại diện của doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển khu vực DNNVV để lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu UBND tỉnh ban hành, thực hiện các biện pháp hỗ trợ.
- Làm cầu nối giữa các DN với chính quyền địa phương để các DN phản ánh những tâm tư nguyện vọng, đề xuất tháo gỡ các vướng mắc.
- Tổ chức các chương trình đào tạo ngắn hạn cho các DNNVV với sự hỗ trợ và phối hợp tích cực của các tổ chức Việt Nam và quốc tế.
- Hỗ trợ DNNVV của tỉnh tiếp cận các nguồn tài chính của các tổ chức ngân hàng, quỹ bảo lãnh tín dụng DN, các quỹ hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
- Cung cấp các thông tin: nghị định, thông tư, tài liệu liên quan khác cần thiết cho hoạt động của DN.
- Duy trì tổ chức tuần lễ DNNVV hàng năm gồm các nội dung: giao lưu giữa lãnh đạo tỉnh với các DN, hội thảo, lớp học, tư vấn, triển lãm, hội chợ. Tìm kiếm đối tác, thị trường cho các DN trong tỉnh.
Bảng 3.3: Phối hợp trách nhiệm của các bên liên quan hỗ trợ DNNVV
Thực hiện
Trách nhiệm
Nguồn lực
Thời gian
- Tổ chức họp mặt hàng năm
- Đi thăm các DN định kỳ và không định kỳ
- Thực hiện một cửa, một đầu mối
- Xây dựng website cung cấp thông tin
- Tổ chức hội thảo
- Thùng thư góp ý
- Cung cấp thông tin
- CLB doanh nghiệp
-UBND tỉnh, huyện
-Lãnh đạo sở, các ngành, huyện
-Phòng KH, văn phòng UBND huyện
-UBND tỉnh
-Các sở ban ngành
-Sở, UBND tỉnh
-TT Xúc tiến thương mại
-VP Câu lạc bộ
- Ngân sách
“
“
“
- Đóng góp của DN
- Hàng năm
-Hàng quí và đột xuất
-Thường xuyên
-Hàng quí và theo nhu cầu
-Thường xuyên,
hàng tháng
3.3.4. Những kiến nghị, đề xuất
3.3.4.1. Kiến nghị Chính phủ và các cơ quan Trung ương
- Cần phân cấp trong hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP và Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg nhằm hỗ trợ các DNNVV phát triển. Nhưng trong thực hiện, kết quả đạt được không nhiều, mới chỉ hình thành được bộ máy và soạn ra được một số chương trình, đề án, trong khi việc triển khai còn chậm, chưa tạo động lực cho DNNVV phát triển. Đến ngày 23/10/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 236/2006/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm (2005-2010).
Để hỗ trợ DNNVV có hiệu quả, cần phân cấp cụ thể hơn giữa Trung ương và địa phương theo hướng:
+ Ở cấp trung ương, nên tập trung vào việc tạo lập môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh và xúc tiến các hoạt động thu hút đầu tư, khai phá thị trường.
+ Ở cấp địa phương, theo thẩm quyền và khả năng, nên tập trung vào việc tạo điều kiện để ngày càng có nhiều DNNVV tham gia thị trường, triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ thiết thực, phù hợp với cam kết hội nhập, thúc đẩy DN nâng cao năng lực như đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, hỗ trợ kỹ thuật, sử dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử, xây dựng thương hiệu và xây dựng lộ trình thực hiện WTO; đồng thời tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận bình đẳng với các nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh...
Ngoài ra, Nhà nước nên ủy quyền cho các hiệp hội (tùy theo khả năng) thực hiện một số dịch vụ công. Đặc biệt, cần có cơ chế để các hiệp hội tham gia từ đầu vào quy trình xây dựng các chương trình, chính sách kinh tế với tư cách người phản biện. Song, về phần các hiệp hội, cần đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực và kỹ năng để tạo niềm tin của các DNNVV.
- Đẩy nhanh việc lập quỹ bảo hành tín dụng và phát triển loại hình ngân hàng thương mại chuyên phục vụ DNVVN như nghị quyết TW đã đề ra
- Có hình thức công nhận chính thức PCI là một công cụ phân tích chính sách có giá trị phục vụ cho công tác rà soát, chẩn đoán hoạt động điều hành kinh tế, và phổ biến trong toàn xã hội, cũng như đưa nó vào chỉ tiêu thi đua giữa các địa phương, có thưởng phạt nghiêm minh.
- Có giải pháp và lộ trình đẩy mạnh quá trình chính thức hoá (chuyển các hộ gia đình thành DN).
3.3.4.2. Kiến nghị với tỉnh
- Mặc dù UBND tỉnh đã xây dựng Định hướng phát triển DNNVV Tỉnh Kon Tum giai đoạn 2006-2910 nhằm triển khai Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV và công văn số 1257/BKH-PTDN ngày 03/3/2005 của bộ kế hoạch và đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV, nhưng Định hướng được xây dựng với chất lượng chưa cao, mang tính đối phó, nhiệm vụ và giải pháp đề ra mang tính chung chung chưa cụ thể nhất là khâu tổ chức thực hiện chưa được triển khai đồng bộ. Do đó, đề nghị Tỉnh uỷ phải có nghị quyết riêng về chương trình hành động phát triển kinh tế ngoài quốc doanh và quán triệt nghị quyết này trong các sở, ban, ngành của tỉnh để các ngành có liên quan trong tỉnh quán triệt đầy đủ về định hướng và các giải pháp phát triển DNNVV.
- Tỉnh cần xây dựng chiến lược và các chính sách phát triển DNNVV về lâu dài để khai thác các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương vừa bổ sung, hoàn thiện cơ cấu kinnh tế theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường để thị trường trong tỉnh năng động hiệu quả hơn,
- UBND tỉnh cần quy định rõ cơ quan đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư có cán bộ chuyên trách đủ năng lực giúp UBND tỉnh quản lý, chỉ đạo một cách có hệ thống, đồng bộ về chính sách đối với DNNVV.
- Tỉnh phải tổ chức hội thảo và chỉ đạo các sở ngành tìm ra nguyên nhân làm chỉ số PCI thấp, đề ra giải pháp và chỉ đạo kiên quyết nhằm khắc phục tình trạng trên, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi trên địa bàn.
KẾT LUẬN
Phát triển DNNVV trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa chiến lược và mang tính lâu dài. Việc thúc đẩy sự phát triển các DNNVV sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo...
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, tỉnh Kon Tum đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Trong sự thành công đó, có sự đóng góp đáng kể của các DNNVV. Các DN này với những lợi thế của mình đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề kinh tế và xã hội của tỉnh.
Nội dung luận văn đã đạt được các kết quả sau:
1. Hệ thống hoá, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về DNNVV, về chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với DNNVV: khái niệm, tiêu chí, phân loại, vai trò, ưu thế, hạn chế của DNNVV trong nền kinh tế thị trường; tác động của nhà nước tới sự phát triển của loại hình DN này. Tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài và các địa phương khác ở trong nước để rút ra bài học kinh nghiệm về phát triển DNNVV ở tỉnh Kon Tum.
2. Đã phân tích làm rõ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum chi phối sự phát triển các loại hình DNNVV; phân tích thực trạng hoạt động của DNNVV trên các khía cạnh; phân tích, đánh giá các biện pháp hỗ trợ DNNVV của tỉnh Kon Tum; rút ra các nhận xét đánh giá về thành công, hạn chế và nguyên nhân.
3. Đề xuất quan điểm và hệ thống các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi nhằm tiếp tục phát triển DNNVV ở Kon Tum trong thời gian tới.
DNNVV chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và việc làm trong nền kinh tế địa phương. Mặc dù DNNVV có mặt ở tất cả ba khu vực: quốc doanh, đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước, nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực tư nhân. Hỗ trợ phát triển DNNVV về thực chất là hỗ trợ các DN dân doanh quy mô nhỏ, nơi có nhiều tiềm năng phát triển về nhiều mặt.
Việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển DNNVV ở Kon Tum cần có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ trước hết của chính quyền tỉnh với chính quyền các cấp thấp hơn là huyện và xã (phường); sau đó là sự phối hợp giữa cơ quan chính quyền với các tổ chức hiệp hội, đoàn thể và chính các DN, doanh nhân.
Tiềm năng của Kon Tum về phát triển kinh tế là không nhỏ. Các giải pháp hỗ trợ phát triển DNNVV chắc chắn sẽ thúc đẩy kinh tế tỉnh Kon Tum phát triển, đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đinh Văn Ân (2006), Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần, Hội thảo của Viện Quản lý kinh tế Trung ương - Phát triển kinh tế nhiều thành phần hiện nay, Hà Nội.
PGS,TS Nguyễn Cúc (1999), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê Hà Nội (2003), Niên giám thống kê 2002, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Cục Thống kê Hà Nội (2004), Niên giám thống kê 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Cục Thống kê Kon Tum (2005), Niêm giám thống kê 2004.
Cục Thống kê Kon Tum (2003, 2004, 2005), Điều tra doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2003, 2004, 2005.
Chính phủ (2001), Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Công báo tháng 11/2001, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Đức Định (2002), Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
GTZ, VCCI, SWISSCONTACT (2002), Dịch vụ phát triển kinh doanh ở Việt Nam, Hà Nội/ Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Henrik Hanserr và đồng sự (2006), Tăng trưởng và tồn tại của doanh nghiệp: Vai trò hỗ trợ của nhà nước, SIDA, Hà Nội.
TS. Phạm Thị Thu Hằng (2002), Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Thị Thu Hằng (2006), Chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp tại Việt Nam, Báo cáo kết quả dự án, Hà Nội.
Nguyễn Đình Hương (2002), Các giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (WB) (2006), Báo cáo phát triển Việt Nam 2006. Doanh nghiệp. Hà Nội.
Chu Tiến Quang (2003), "Tháo gỡ những ách tắc trong chính sách phát triển đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ", Nghiên cứu kinh tế, (297).
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật doanh nghiệp và các văn bản thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bùi Thiên Sơn (8/2003), "Nước Mỹ hỗ trợ tài chính cho phát triển kinh tế tư nhân nhỏ như thế nào?", Tạp chí Quốc tế, (1).
Thời báo Kinh tế Việt Nam (2005), Kinh tế 2003-2004 Việt Nam và thế giới.
Thời báo kinh tế Sài Gòn các số 26/2/2004; 12/2/2004.
Tổng cục Thống kê (2002, 2003, 2005), Điều tra doanh nghiệp năm 2000-2002, năm 2003-2005.
Tỉnh uỷ Kon Tum (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XIII.
VCCI - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh (1998), Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hồ Chí Minh.
VCCI, ILO (2004), Hướng dẫn thành lập, quản lý và phát triển các Hiệp hội doanh nghiệp, Hà Nội.
VCCI, ILO (2004), Tạo môi trường thuận lợi để phát triển doanh nghiệp nhỏ nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.
VCCI (2006), Báo cáo tóm tắt: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2006, đánh giá chất lượng điều hành kinh tế thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2733.doc