Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ nuôi chăn cá tra - Basa tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG 1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG 1.1.1 Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường, cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vậy Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sin

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ nuôi chăn cá tra - Basa tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng là con nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.1.2 Phân loại Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau : Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro danh mục Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Rủi ro bảo đảm Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro lựa chọn - Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. + Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay. + Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo. + Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. + Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn. + Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. 1.1.3 Đánh giá Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là : Dư nợ quá hạn Tổng Dư nợ cho vay x 100% 1.1.3.1 Tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại không được vượt quá 3%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 3 đồng. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành 03 nhóm : - Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý. - Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn. - Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ. - Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn. Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như vậy, nên những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. 1.1.3.2 Tỷ trọng nợ xấu / Tổng dư nợ cho vay Nợ xấu : là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày mà không đòi được và không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không được Chính Phủ xử lý rủi ro. Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là những khoản nợ mang các đặc trưng : - Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã hết hạn. - Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi. - Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trãi nợ gốc và lãi. - Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày. Theo Quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia thành 03 nhóm : ● Nhóm 1 : Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có : Nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; Nợ ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360 ngày. ● Nhóm 2 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu, gồm có : Nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn hạch toán nội bảng; nợ khoanh doanh nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do thiên tai của hộ sản xuất… ● Nhóm 3 : Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại, đang hoạt động, gồm có : Nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn có khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày. ● Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000, là những khoản nợ không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xóa. Cũng từ cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian như vậy nên phần lớn nợ quá hạn ở nước ta đều là nợ xấu. Các khoản nợ xấu tồn tại hiện nay ở các NHTM bao gồm : + Nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên. + Nợ liên quan đến các vụ án, nợ đã khởi kiện nhưng chưa thể thu hồi chờ xử lý, nợ có tài sản đảm bảo nhưng không hợp lệ. + Những khoản nợ quá hạn, nợ trả thay không còn đối tượng để thu. Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau : ● Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm : + Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2; + Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; + Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3. ● Nợ nghi ngờ bao gồm : + Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; + Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4. ● Nợ có khả năng mất vốn bao gồm : + Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; + Các khoản nợ khoanh, nợ chời xử lý; + Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5. 1.1.3.3 Hệ số rủi ro tín dụng Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 03 nhóm : - Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. - Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. - Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình : là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng nên ta có công thức sau : Tổng dư nợ cho vay Tổng tài sản có x 100% Hệ số rủi ro tín dụng = 1.2 NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG 1.2.1.1 Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định P Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới : Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,…vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Điển hình như ngành Dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng của ngân hàng nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành Thuỷ sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua,... P Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các những khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. P Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành : Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các Hiệp hội và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia. 1.2.1.2 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi P Sự kém hiệu quả của các cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về cưỡng chế thu hồi nợ. Những Văn bản này đều có quy định : Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý TSĐB nợ vay để thu hồi nợ. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao TSĐB cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển TSĐB nợ vay để Toà án xử lý qua con đường tố tụng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. P Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo cách xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ró rất lớn, có nguy cơ đe doạ sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn. P Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin của các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. 1.2.1.3 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay P Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác P Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khách hàng nào dám mạnh dạng đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kết toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. P Tình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé là đặc điểm chung của hầu hết các khách hàng vay vốn Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các khách hàng tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các khách hàng cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. 1.2.2 Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan : P Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian ví nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới. P Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. P Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các khách hàng quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. P Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thật sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể trách khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do yêu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. 1.3 PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG 1.3.1 Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay; xem xét và quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng không để nợ xấu gia tăng. 1.3.2 Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế. 1.3.3 Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ. 1.3.4 Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, các tài sản đảm bảo, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng. 1.3.5 Thực hiện các quy định đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín dụng. a) Xây dựng và thực hiện đồng bộ một hệ thống quy chế, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu. b) Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời hạn cho vay đối với thời hạn của nguồn vốn huy động. c) Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh. 1.3.6 Đối với các trường hợp chây ỳ nhận nợ và trả nợ vay, cần áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý TSTC, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án. 1.3.7 Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ. 1.3.8 Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp. 1.3.9 Phải có một chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro. Kết luận chương I : Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biệp pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Trong tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của cán bộ tín dụng trong việc phát triển và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG 2.1 VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH AN GIANG 2.1.1 Về điều kiện tự nhiên An Giang là một tỉnh thuộc ĐBSCL, Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp; Phía Tây Bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài gần 96,6 km; Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang; Phía Đông Nam giáp Thành phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.536,8 km2. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm : TP Long Xuyên, Thị xã Châu Đốc và 09 huyện là Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu, An Phú với 150 phường, xã, thị trấn. Dân số năm 2006 khoản 2.210.000 người tương ứng với mật độ dân số là 625 người/km2. An Giang có hai nhánh sông chảy qua là sông Tiền và sông Hậu, sông Tiền chảy qua An Giang không liên tục, là ranh giới chung của hai tỉnh An Giang – Đồng Tháp (ở Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới). Sông Hậu đi qua tỉnh An Giang chia tỉnh thành hai phần : các huyện cù lao An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; Các huyện còn lại nằm ở khu vực tứ giác Long Xuyên, ngoài ra An Giang còn rất nhiều nhánh sông, kênh rạch,… Nghề nuôi cá bè truyền thống của tỉnh An Giang tập trung chủ yếu trên sông Hậu, ngoài ra các mô hình nuôi cá ao cũng tập trung chủ yếu hai bên tả ngạn và hữu ngạn của sông Hậu. Do sông Hậu có tốc độ dòng chảy thấp, thấp hơn so với sông Tiền, độ sâu của lòng sông thấp, địa hình đáy sông Hậu thoai thoải, chiều rộng lòng sông lớn rất thích hợp cho nghề nuôi cá bè. Mặt khác cộng đồng dân cư của tỉnh An Giang sống tập trung vùng lưu vực sông Hậu nhiều hơn phía sông Tiền, cơ sở hạ tầng tốt hơn như : đường giao thông bộ, bệnh viện, trường học, chợ, bưu chính viễn thông,…Đất dùng cho nuôi trồng thủy sản vùng lưu vực sông Hậu tỉnh An Giang rất nhiều tiềm năng (về diện tích), chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp. Với những lợi thế trên nghề nuôi trồng thủy sản mà nhiều nhất là nghề chăn nuôi cá tra-basa phát triển rất mạnh và là một trong những ngành kinh tế chủ lực của tỉnh. 2.1.2 Về tình hình kinh tế - xã hội Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh tăng 13,73%, cao nhất trong vòng 17 năm qua kể từ năm 1990, tăng 4,68% so với năm 2006, đứng hàng thứ 5 trong các tỉnh ĐBSCL. Từ đó làm cho thu nhập của người dân trong tỉnh tăng lên từ 9,6 triệu đồng/người (năm 2006) tăng lên 11,8 triệu đồng/người (năm 2007). Về cơ cấu GDP theo từng lĩnh vực : Nông, Lâm, Thủy sản là 35,47%; Công nghiệp – xây dựng là 12,14% và Dịch vụ là 52,39%. Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 540 triệu USD, tăng 21,5% so với năm 2006 và vượt kế hoạch 20% (trong đó : gạo xuất khẩu đạt 502.000 tấn tương đương 148 triệu USD bằng 91,6% về sản lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với năm 2006, Thủy sản đông lạnh xuất khẩu đạt 125.000 tấn tương đương 335 triệu USD tăng 20,2% về lượng và 31,2% về kim ngạch so với năm 2006). Tỷ lệ hộ nghèo là 8,93% giảm 1,86% so với năm 2006. Cụ thể : Khu vực I (Nông lâm Thủy sản) : có mức tăng trưởng vượt bậc, người dân trúng mùa, các mặt hàng nông sản được giá, xuất khẩu ổn định, đời sống được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 9,36% cao nhất trong những năm gần đây. Ngành nông nghiệp có diện tích gieo trồng tăng 20.916 ha so năm 2006, sản lượng thu hoạch trên 3,1 triệu tấn, tăng 219 ngàn tấn so với năm 2006. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao nhất khu vực, đạt 26,97% so năm 2006, do nhu cầu tiêu thụ tăng, giá cả nguyên liệu ổn định ở mức cao, lợi nhuận nhiều làm cho diện tích nuôi trồng ngày càng mở rộng thêm, sản lượng thủy sản đạt 264.000 tấn, tăng 44,8% so năm 2006. Khu vực II (Công nghiệp – xây dựng) : sản xuất công nghiệp ổn định và đạt ở mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng năm 2007 tăng 15,55% so năm 2006, trong đó công nghiệp chế biến tăng mạnh 17,81%; những ngành nghề hoạt động có hiệu quả như : chế biến thủy sản, quần áo may sẵn, gạch xây dựng, xay xát gạo, nước máy thương phẩm, thức ăn gia súc, thủy sản,…Xây dựng tăng 10,5% so năm 2006. Khu vực III (Dịch vụ) : Hoạt động kinh doanh tiếp tục phát triển; khu vực Nông Lâm Thủy sản tăng về lượng, với các mặt hàng chủ lực là lúa, cá tạo điều kiện cho khu vực công nghiệp phát triển sản xuất, giá lúa, cá ở mức cao làm tăng sức mua và khả năng thanh toán của người dân nông thôn, tăng sức mua của xã hội. Thương mại phát triển đã bảo vệ được lợi ích của người sản xuất và kích thích sản xuất phát triển. Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 15,80%, tăng 1,2% so năm 2006. 2.2 GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM VÀ GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG 2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (tên viết tắt là Vietinbank) 2.2.1.1 Lịch sử hình thành - Giai đoạn thứ nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990) : trong giai đoạn này Ngân hàng Công thương Trung ương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt, các Chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập. - Giai đoạn thứ hai (từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996) : sau khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), Ngân hàng Công thương Việt Nam mới thực sự trở thành một ngân hàng thương mại có chức năng kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được định rõ : Ngân hàng Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. - Giai đoạn thứ ba (từ tháng 09/1996 đến nay) : theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội đồng Quản trị, điều hành bởi Tổng Giám đốc, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc (Chi nhánh cấp I). 2.2.1.2 Quá trình phát triển Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng Thương mại Nhà nước lớn của Việt Nam. Ngày nay, Ngân hàng Công thương Việt Nam có hệ thống mạng lưới rộng khắp bao phủ các tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngoài ra, Ngân hàng Công thương Việt Nam còn có các đơn vị trực thuộc như : Văn phòng đại diện Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, Trung tâm Công nghệ Thông tin, Công ty cho thuê Tài chính, Công ty trách nhiệm hữu hạn Chứng khoán, Công ty Quản lý và Khai thác tài sản; tham gia cùng với các Tổ chức tín dụng nước ngoài lập hai đơn vị liên doanh đầu tiên thuộc hệ thống tín dụng Việt Nam là Indovina Bank và Công ty cho thuê Tài chính Quốc tế Việt Nam và góp vốn một số liên doanh như Sài Gòn Công thương, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam đã và đang vươn xa ra thế giới thông qua mạng lưới hơn 600 Ngân hàng đại lý trên khắp Châu Lục. Khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch, dịch vụ,…và các khách hàng cá nhân tại các khu tập trung đông dân cư. Với phương châm “Nâng giá trị cuộc sống” Ngân hàng Công thương Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước và sự thành đạt của các doanh nghiệp. 2.2.2 Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang 2.2.2.1 Mạng lưới tổ chức NHCT Chi nhánh An Giang chính thức được thành lập theo Quyết định số 54/NH-TCCB ngày 14/07/1988 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). NHCT Chi nhánh An Giang có trụ sở chính tại số 270 đường Lý Thái Tổ, Phường Mỹ Long, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang là một trong 130 Chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực hiện hạch toán nội bộ, là một Ngân hàng Thương mại Nhà nước. Từ khi thành lập đến nay, NHCT Chi nhánh An Giang phát triển không ngừng và đã tận dụng tốt những điểm mạnh để phát huy lợi thế của một NHTMNN có uy tín trong hệ thống ngân hàng, với chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ, nên chi nhánh hoạt động khá hiệu quả, lợi nhuận tăng trưởng qua các năm, ngoài ra NHCT Chi nhánh An Giang còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh An ._.Giang. Chi nhánh luôn đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn của khách hàng, tạo được vị thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của mình. Với những thành tích đạt được Chi nhánh đã góp phần phát triển kinh tế của địa phương trong đó có 03 chương trình kinh tế lớn của tỉnh đề ra là : khuyến công, khuyến nông và khuyến ngư. Khi mới thành lập (tháng 7/1988), NHCT Chi nhánh An Giang ngoài trụ sở chính chỉ có một Chi nhánh trực thuộc (Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc) nhưng vào tháng 06 năm 2007 Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc đã tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang để nâng lên Chi nhánh cấp 1 ngang bằng với NHCT Chi nhánh An Giang. Hiện nay, NHCT Chi nhánh An Giang gồm có 1 Hội sở chính và 03 Phòng Giao dịch đặt tại: TP. Long Xuyên, huyện Thoại Sơn và huyện Chợ Mới. 2.2.2.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức, bộ máy hoạt động NHCT Chi nhánh An Giang hiện nay có cơ cấu bộ máy tổ chức bao gồm : Giám đốc lãnh đạo điều hành mọi hoạt động của các Phòng và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc NHCT Việt Nam. Giúp việc cho Giám đốc NHCT Chi nhánh An Giang có 02 Phó Giám đốc : 01 Phó Giám đốc phụ trách nguồn vốn và kinh doanh; 01 Phó Giám đốc phụ trách kho quỹ, tài chính, thanh toán XNK cùng với 08 Phòng nghiệp vụ giúp việc cho Ban Giám đốc là : Phòng Khách hàng Doanh nghiệp, Phòng Khách hàng Cá nhân, Phòng Kế toán giao dịch, Phòng Tiền tệ Kho quỹ, Phòng Quản lý rủi ro và Nợ có vấn đề và Phòng Tổ chức Hành chính. 2.3 KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI VÀ XUẤT KHẨU CÁ TRA-BASA 2.3.1 Khái quát về tình hình chăn nuôi và xuất khẩu cá tra-basa ở Việt Nam - Nuôi trồng thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực, phát triển rộng khắp, có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các vùng sản xuất tập trung. Một đối tượng có giá trị cao, có khả năng xuất khẩu đã được tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và nông dân, đồng thời góp phần hết sức quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp cũng như trong xóa đói giảm nghèo. Chế biến xuất khẩu là mặt hàng phát triển rất nhanh, đã tiếp cận được với trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới. - Theo số liệu Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thủy sản, trong giai đoạn 1990-2006, tổng sản lượng TSNT của Ngành Thủy sản Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng, từ 1 triệu tấn đã gia tăng lên gần 1,8 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu tương đương từ 205.000 USD đã vượt 3,3 tỷ USD và năm 2007 con số này đã lên tới 3,7 tỷ USD vượt 2,8% so với kế hoạch (3,6 tỷ USD) và tăng 10,5% so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh phải kể đến mặt hàng xuất khẩu cá tra-basa sang thị trường Đông Âu và EU tăng, đạt giá trị xuất khẩu xấp xỉ 974 triệu USD tăng đến 35,5% so với năm 2006 (719 triệu USD) với sản lượng xuất khẩu là 383.000 tấn. Thị trường xuất khẩu thủy sản đã mở rộng ra 146 nước tăng 09 nước so với năm 2006. Giá trị sản xuất của ngành thủy sản ngày càng có tỷ trọng cao hơn trong khối nông nghiệp và GDP của nền kinh tế, trong đó mặt hàng xuất khẩu cá tra-basa đóng góp ngày càng nhiều vào tỷ trọng kim ngạch của cả ngành, góp phần vào tính chủ động trong sản xuất, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. - Sản phẩm cá tra-basa xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Các cơ sở sản xuất không ngừng được gia tăng, đầu tư, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, đổi mới đa dạng hóa sản phẩm (trên 70 mặt hàng khác nhau), mở rộng thị trường cụ thể như : + Năm 1995, Việt Nam gia nhập các nước ASEAN và ngành Thủy sản Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC). + Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã giúp cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu cá tra-basa nhưng từ sau vụ kiện chống bán phá giá cá tra-basa năm 2002 lại là động lực để các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tìm kiếm thị trường mới (hiện tại xuất khẩu cá tra-basa sang 98 quốc gia trên thế giới tăng thêm 15 thị trường so với năm 2002 với cơ cấu thị trường bao gồm các thị trường chính như : Mỹ 9,8% (trước đó là 90%), EU cao nhất với 46,9%, Nga 11,2%, các nước ASEAN 8,7%, Trung Quốc (kể cả Hồng Kông) 5,1%, Australia 4,1% và 14,2% của các thị trường còn lại. Tất cả các thị trường trên đều tăng nhập sản phẩm cá tra-basa đông lạnh từ VN trong năm vừa qua tạo điều kiện cho ngành chế biến cá tra-basa có chiều hướng phát triển tốt. - Theo dự báo của Bộ Công thương, năm 2008 xuất khẩu Thủy sản của Việt Nam sẽ tiếp tục có mức tăng trưởng cao, tăng khoảng 13,3% so với năm 2007, đạt giá trị khoảng 4,25 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu cá tra-basa chủ yếu của Việt Nam trong năm 2008 vẫn là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong thời gian tới, ngành sẽ đẩy mạnh đa dạng hóa các thị trường còn lại ở các nước ASEAN, Trung Quốc và các nước Đông Âu cũ. - Theo đánh giá của các chuyên gia, nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản nói chung và cá tra-basa nói riêng trên thế giới ngày càng tăng cao, tuy nhiên doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chỉ đáp ứng được một phần nhỏ. Đơn cử, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ những năm gần đây khoảng 12 tỷ USD/năm, trong khi xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 6,2% kim ngạch nhập khẩu của Mỹ (tương đương 0,74 tỷ USD); thị trường EU nhập khẩu khoảng 34 tỷ USD/năm trong khi xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 2,8% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này (tương đương 0,95 tỷ USD),…Chính vì vậy, cơ hội xuất khẩu của ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và xuất khẩu cá tra-basa nói riêng là rất lớn. - Đến năm 2007, cả nước có 332 cơ sở chế biến thủy sản. Từ 18 doanh nghiệp năm 1999, đến nay đã có 244 doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu vào EU và mới đây ngày 17/01/2008 Uỷ ban liên minh Châu Âu (EU) đã ban hành thông báo D4/RM/agm D(2007)441851 công nhận thêm 25 Doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam đủ điều kiện sản xuất an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất khẩu vào EU, nâng tổng số doanh nghiệp Việt Nam được công nhận đến nay là 269 và những doanh nghiệp mới được công nhận có thể xuất hàng vào EU từ 31/01/2008, 222 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Hàn Quốc. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng đầu, một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên dưới 100 triệu USD mỗi năm. - ĐBSCL là khu vực có lợi thế nổi trội hơn trong cả nước để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Khu vực có chiều dài bờ biển hơn 750 km, mạng lưới sông ngòi dày đặc với 15 cửa sông lớn đổ ra biển và nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng, lực lượng lao động dồi dào, lại tiếp giáp với TPHCM – trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Chính vì những thuận lợi đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL liên tục gia tăng từ 780.000 tấn năm 2005 (trong đó cá tra-basa là 380.000 tấn, chiếm 49%), lên 1.225.000 tấn năm 2006 (trong đó cá tra-basa là 825.000 tấn, chiếm 67%) và năm 2007 là 1.500.000 tấn (trong đó cá tra-basa là 1.000.000 tấn, chiếm 67%). Đặc biệt ngành nuôi trồng và chế biến cá tra-basa xuất khẩu phát triển rất mạnh ở ĐBSCL, trong giai đoạn 1997 – 2007, sản lượng xuất khẩu loài này đã có bước nhảy thần kỳ từ 7.000 tấn, trị giá 19,7 triệu USD tăng lên 380.000 tấn, trị giá 1.000 triệu USD. Như vậy, tăng đến trên 53 lần về khối lượng và gần 50 lần về giá trị. Có thể nói chưa có một ngành hàng xuất khẩu nào đạt được tốc độ tăng trưởng phi mã như vậy. - Đứng thứ hai sau thế mạnh về gạo của ĐBSCL đó là ngành Thủy sản, tuy nhiên từ thực tế phát triển của ngành Thủy sản cho thấy tuy thủy sản là ngành phát triển sau ngành gạo nhưng đã có những thành tựu phát triển vượt bậc. Tính đến thời điểm cuối năm 2007 toàn vùng ĐBSCL có 103 Nhà máy chế biến đông lạnh thuỷ sản, riêng đối với ngành sản xuất cá tra-basa đã chiếm tới 70 Nhà máy chế biến với công suất 1.500.000 tấn/năm và theo quy hoạch từ nay đến năm 2010 các tỉnh ĐBSCL xây dựng thêm 32 nhà máy chế biến cá tra-basa, nâng tổng số nhà máy lên 102 NMCB với tổng công suất gần 2.200.000 tấn/năm. Nếu như năm 2005 kim ngạch xuất khẩu là 303 triệu USD thì đến năm 2007 là 1.000 triệu USD tăng gần gấp ba lần chỉ sau ba năm. - Với nhu cầu của thị trường ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp chế biến đã tiến đến xây dựng cho mình vùng nguyên liệu thông qua việc lựa chọn và ký kết hợp đồng dài hạn với người nông dân. Mối liên kết này đã mang lại lợi ích cho cả hai bên đồng thời cũng hướng thị trường phát triển theo hướng hiệu quả hơn, giảm chi phí giao dịch và gia tăng lợi nhuận cho cả hai bên. Đến nay cả vùng ĐBSCL đã có 70 Nhà máy chế biến cá tra-basa với công suất khoảng 1.500.000 tấn/năm trong khi đó năm 2007 sản lượng cá tra-basa nuôi trồng của khu vực này mới đạt khoảng 1.000.000 tấn/năm đã dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu đầu vào cung cấp cho các NMCB cá tra-basa xuất khẩu nên Việt Nam vẫn còn nhập khẩu cá tra-basa nguyên liệu từ những nước lân cận để có đủ nguyên liệu đầu vào phục vụ cho chế biến xuất khẩu. 2.3.2 Về tình hình chăn nuôi và xuất khẩu cá tra-basa ở An Giang Trong năm 2007, ngành thủy sản An Giang mà trong đó là ngành chăn nuôi cá tra-basa tiếp tục khẳng định vị thế, mũi nhọn then chốt trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh với mức tăng trưởng 24,60% so với mức 2,33% năm 2006, một mức tăng trưởng rất cao. Cơ cấu ngành thủy sản so với GDP toàn tỉnh năm 2007 là 5,36% (năm 2006 là 4,67%). Các chỉ tiêu chủ yếu của ngành luôn tăng trưởng nhanh, mạnh và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh. Tổng diện tích NTTS là 2.400 ha, trong đó diện tích nuôi cá tra-basa là 1.379 ha, chiếm tỷ trọng 57% trong tổng diện tích NTTS. Trong khi tổng diện tích NTTS đều tăng qua các năm thì diện tích nuôi cá tra-basa lại giảm vào năm 2006 rồi tăng đột biến vào năm 2007. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do vào năm 2005 thủy sản An Giang vẫn chịu những thử thách gay gắt về hàng rào kỹ thuật của thị trường quốc tế, cả người nuôi và nhà chế biến đều lận đận lao đao nhất là chất lượng cá tra-basa xuất khẩu không đạt yêu cầu của các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự phát triển quá nhanh về sản lượng mà ít chú ý đến chất lượng đầu ra của sản phẩm cộng với thiếu sự kết hợp đồng bộ của các doanh nghiệp và người nuôi; cạnh tranh lẫn nhau bán giá thấp, trả đũa nhau làm cho tình hình xuất khẩu thủy sản không ổn định; giá cá nguyên liệu giảm mạnh trong thời gian dài dẫn đến người nuôi thua lỗ nặng thậm chí phá sản. Kết quả đã làm giảm số hộ nuôi cá tra-basa trong năm 2006 kéo theo diện tích nuôi cá tra-basa cũng giảm theo. Bảng 1 : Diện tích chăn nuôi cá tra-basa Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng diện tích NTTS 1,836 ha 1,918 ha 2,400 ha Trong đó : + Nuôi cá tra-basa 815 ha 807 ha 1,379 ha + Tỷ trọng 44% 42% 57% (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng diện tích NTTS 82 ha 4.5% 564 ha 31% 482 ha 25% Trong đó : + Nuôi cá tra-basa -8 ha -1.0% 564 ha 69% 572 ha 71% Bảng 2 : Số hộ chăn nuôi cá tra-basa Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng số hộ NTTS 13,464 hộ 11,755 hộ 14,938 hộ Trong đó : + Nuôi cá tra-basa 10,539 hộ 9,007 hộ 13,334 hộ + Tỷ trọng 78% 77% 89% (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng số hộ NTTS -1,709 hộ -12.7% 1,474 hộ 11% 3,183 hộ 27% Trong đó : + Nuôi cá tra-basa -1,532 hộ -14.5% 2,795 hộ 27% 4,327 hộ 48% Mặc dù diện tích và số hộ chăn nuôi cá tra-basa không tăng mà còn giảm nhưng từ bảng 3 cho thấy sản lượng chăn nuôi vẫn tăng qua 3 năm do quy mô diện tích bình quân trên một hộ nuôi tăng cao. Tuy năm 2006 có tăng so với năm 2005 nhưng tăng không nhiều (tăng 25.000 tấn tương đương tăng 21%) trong khi năm 2007 tăng 72.000 tấn tương đương tăng 50% so với năm 2006. Không chỉ có sản lượng chăn nuôi cá tra-basa tăng qua các năm mà tỷ trọng sản lượng chăn nuôi cá tra-basa chiếm trong tổng sản lượng NTTS của tỉnh cũng tăng qua các năm (năm 2005 chiếm 66%/Tổng sản lượng TSNT, năm 2006 tăng lên 80%/Tổng sản lượng TSNT và năm 2007 tiếp tục tăng lên 82%/Tổng sản lượng TSNT). Điều này cho thấy dù tình hình thị trường có biến động như thế nào thì ngành chăn nuôi cá tra-basa vẫn là ngành thế mạnh đầy tiềm năng của tỉnh. Bảng 3 : Sản lượng chăn nuôi cá tra-basa Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng sản lượng TSNT. 180,809 tấn 182,000 tấn 264,000 tấn Trong đó : + Nuôi cá tra-basa 120,000 tấn 145,000 tấn 217,000 tấn + Tỷ trọng 66% 80% 82% (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng sản lượng TSNT. 1,191 tấn 64.9% 83,191 tấn 46% 82,000 tấn 45% Trong đó : + Nuôi cá tra-basa 25,000 tấn 21% 97,000 tấn 81% 72,000 tấn 50% Bảng 4 : Sản lượng chế biến, xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 + Sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa 54,900 tấn 104.000 tấn 125,000 tấn + Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa 123 triệu USD 255 triệu USD 335 triệu USD (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % + Sản lượng cá tra-basa chế biến và xuất khẩu 49,100 tấn 89% 70,100 tấn 128% 21,000 tấn 20% + Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa 132 triệuUSD 107% 212 triệuUSD 172% 80 triệuUSD 31% (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Trong năm 2007, tỉnh tiếp tục quy hoạch lại các vùng sản xuất nguyên liệu chủ yếu, chủ động trong khâu sản xuất con giống, mở rộng thị trường xuất khẩu, sản phẩm chế biến đa dạng và được khách hàng nhiều nước ưa chuộng. Sản xuất ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu được cải thiện đáng kể dần dần khắc phục được những rào cản kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các thành tựu kỹ thuật vào sản xuất, quan tâm đầu tư con giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ môi trường đã phần nào tạo được nguồn nguyên liệu sạch, không sử dụng hóa chất giúp cho uy tín của thương hiệu cá tra-basa Việt Nam ngày càng được nâng lên. Từ đó ngày càng mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu với các sản phẩm cá tra-basa đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được tiêu thụ tốt ở tất cả các thị trường quốc tế đã làm nên thắng lợi của ngành chăn nuôi cá tra-basa trong năm 2007. Cụ thể là sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa giai đoạn 2005 – 2007 tăng 128% về sản lượng (70.100 tấn) và 172% về giá trị (212 triệu USD) (bảng 4). Qua việc phân tích những số liệu trên cùng với thực tế phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa từ năm 2005 đến năm 2007 cho thấy ngành chăn nuôi cá tra-basa đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, tuy nhiên cũng gặp không ít những khó khăn như : - Thị trường xuất khẩu chưa thật ổn định do gặp khó khăn trong việc đối phó với những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu thủy sản. - Thời tiết diễn ra bất thường : nắng nóng, khô hạn, thời tiết lạnh, nguồn nước bị ô nhiễm,…làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng, gây thiệt hại không nhỏ cho đời sống nông – ngư dân. - Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành, tỉnh,... Những khó khăn trên xảy ra đối với người chăn nuôi cá tra-basa là do nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, từ đó cũng gây ra không ít khó khăn và rủi ro trong hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa. 2.4 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG 2.4.1 Một số đặc điểm chủ yếu của hộ chăn nuôi cá tra-basa Hộ chăn nuôi cá tra-basa có những đặc điểm chủ yếu sau : - Chăn nuôi tập trung thành vùng : Vùng chăn nuôi cá tra-basa tập trung ở những vùng đất ven sông Hậu và sông Tiền hoặc trên các tuyến sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng tháp, Cần thơ, Bến tre,…của khu vực ĐBSCL. - Chăn nuôi theo tính chất cha truyền con nối : Nghề chăn nuôi cá tra-basa xuất phát từ làng bè Thị xã Châu Đốc, được truyền từ đời này sang đời khác nên thường chỉ nuôi theo những kinh nghiệm có được mà ít áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hoặc tìm hiểu thêm những thông tin hoặc những kinh nghiệm bên ngoài. - Chăn nuôi phát triển rất tự phát : Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành và của tỉnh. - Hộ chăn nuôi thường thiếu những kinh nghiệm khoa học : Đây là đặc điểm phổ biến nhất của những người chăn nuôi cá tra-basa. Hầu hết những người chăn nuôi cá tra-basa là những người nông dân, bên cạnh những ngư dân chăn nuôi cá tra-basa truyền thống như ở Làng bè Châu Đốc, Phú Tân là những ngư dân có tính chất “cha truyền con nối” thì còn lại là những nông dân chuyển đổi từ các ngành nghề khác hoặc những người có vốn thậm chí không có vốn và ít có am hiểu về con cá tra-basa cũng đào ao nuôi cá vì thấy việc nuôi cá tra-basa đã làm cho không ít người trở thành những tỷ phú nghề cá. Chính những nguyên nhân đó mà nhiều người dù thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết khoa học thậm chí không có kinh nghiệm cũng đã kéo nhau đào ao nuôi cá mong kiếm được lợi ích từ nghề này mà không lường trước được những rủi ro tiềm ẩn trong tương lai. - Chỉ thấy lợi ích trước mắt : Trên lý thuyết người chăn nuôi cá tra-basa và các nhà máy chế biến thủy sản phải luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng để phát triển, cùng nhau chia sẻ lợi ích đôi bên cùng có lợi nhưng thực tế không phải như vậy mà họ luôn “rình rập” nhau. Nếu thị trường có khuynh hướng có lợi cho ai thì người đó sẽ cố gắng khai thác tối đa lợi ích về phía mình sao cho thu về lợi nhuận cao nhất. Đơn cử như khi giá cá nguyên liệu tăng thì người chăn nuôi ghim hàng không chịu bán cho các nhà máy chế biến để mong chờ giá sẽ tăng hơn nữa, còn khi giá cá giảm thì các nhà máy chế biến viện đủ lý do để không thu mua hoặc có mua nhưng không thu mua theo giá đã ký trong hợp đồng mà mua với mức giá thấp hơn. Cả người nuôi và người thu mua đều vi phạm hợp đồng chỉ vì lợi ích trước mắt. - Vốn tự có ít so với tổng nhu cầu vốn : Nhu cầu vốn cho việc chăn nuôi cá tra-basa rất lớn, nhất là các chi phí cho việc mua thức ăn (chiếm khoản 70% đến 80% nhu cầu vốn). Các loại chi phí đó rất lớn mà không phải riêng một cá nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Vì vậy, phần lớn người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho 1 chu kỳ nuôi nên phải vay vốn ngân hàng và vay thêm bên ngoài. Trường hợp nếu không bán được cá tiếp tục nuôi thì chí phí lại càng tăng thêm nhất là chi phí thức ăn để tiếp tục nuôi cá. Từ đó phải vay thêm tiền, nợ càng tăng (nợ ngân hàng, nợ vay bên ngoài, nợ tiền mua thức ăn – xăng – dầu,…) nhưng cá lại càng khó bán hơn do vượt tiêu chuẩn mà những NMCB cần. - Lợi nhuận từ ngành chăn nuôi cá tra-basa thường cao hơn những ngành khác nhưng bấp bênh : Lợi nhuận từ hoạt động chăn nuôi thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng là rất cao so với các ngành nghề khác hiện nay. Trong khoảng thời gian 6 tháng chăn nuôi có người trở thành tỷ phú và cũng trong khoảng thời gian này có người từ tỷ phú mất hết vốn, nợ nầng “bao vây”. Vì vậy, nghề chăn nuôi cá tra basa chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đặc điểm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đào ao nuôi cá hàng loạt, một số người giàu lên nhanh chóng và cũng không ít người bị phá sản. Trên đây là một số đặc điểm chủ yếu của những hộ chăn nuôi cá tra-basa, những đặc điểm trên đã gây ra không ít khó khăn cho ngành chăn nuôi cá tra-basa. Từ đó làm cho hoạt động cho vay đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa cũng gặp không ít rủi ro. 2.4.2 Thực trạng rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Với tình hình kinh tế xã hội của tỉnh năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 17 năm qua kể từ năm 1990 do nhu cầu và sức mua của người dân tăng đã kích thích sản xuất phát triển, kéo theo nhu cầu vốn của nền kinh tế cũng tăng theo nên trong năm 2007 dư nợ tín dụng trong hạn của Chi nhánh cũng đạt ở mức cao (cao nhất từ trước tới nay). Cụ thể nhìn vào bảng số liệu 5 cho thấy : Bảng 5 : Dư nợ trong hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ trong hạn 723,268 659,782 839,723 1. Dư nợ ngắn hạn. Trong đó : 636,206 551,668 669,059 DNNN 46,826 37,716 57,043 Thành phần kinh tế khác : 589,380 513,952 612,016 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 57,148 45,801 83,552 + Các ngành khác 532,232 468,151 528,464 2. Dư nợ trung-dài hạn. Trong đó : 90,040 110,863 173,187 DNNN 40,914 60,702 82,346 Thành phần kinh tế khác 49,126 50,161 90,841 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 12,847 4,582 6,728 + Các ngành khác 36,279 45,579 84,113 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Dư nợ tín dụng trong hạn năm 2007 tăng cao so với năm 2005 và năm 2006, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân giai đoạn 2005 – 2007 đạt 16%: dư nợ cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 63.486 triệu đồng. Nguyên nhân là do vào tháng 06 năm 2006 Chi nhánh NHCT Thị xã Châu Đốc nâng lên thành Chi nhánh cấp I trực thuộc NHCT Việt Nam tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang nên Chi nhánh giảm dư nợ trong hạn là 136.421 triệu đồng (dư nợ trong hạn cuối năm 2005 là 723.268 triệu đồng trong khi dư nợ đầu năm 2006 chỉ còn 586.847 triệu đồng) . Nếu loại trừ phần dư nợ của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NHCT Chi nhánh An Giang cũng có bước tăng trưởng tín dụng là 72.935 triệu đồng (dư nợ trong hạn đầu năm 2006 là 586.847 triệu đồng, dư nợ trong hạn cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng trưởng tín dụng là trên 12%. Bảng 6 : Dư nợ quá hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn 2,975 2,749 1,977 Ngắn hạn 2,671 2,546 1,977 DNNN 0 0 0 Thành phần kinh tế khác : 2,671 2,546 1,977 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 259 197 + Các ngành khác 487 2,287 1,780 Trung-dài hạn. 304 203 0 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Dư nợ quá hạn đến 31/12/2006 là 2.749 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 226 triệu đồng do trong năm 2005, thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam, NHCT chi nhánh An Giang đã chủ trương không tăng trưởng tín dụng nóng mà tập trung sàn lọc khách hàng để cho vay, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ đạo về cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giảm dư nợ cho vay DNNN, đẩy mạnh thu hồi nợ và kiềm chế không để nợ quá hạn phát sinh. Từ đó đã làm giảm NQH của năm 2006 so với năm 2005. Cũng do trong năm 2006 Chi nhánh NHCT Châu Đốc đã tách ra khỏi NHCT chi nhánh An Giang nên NQH của Chi nhánh năm 2007 giảm 2.503 triệu đồng. Nếu loại trừ phần dư nợ quá hạn của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng 2.277 triệu đồng (dư nợ quá hạn đầu năm 2006 là 472 triệu đồng, dư nợ quá hạn cuối năm 2006 là 2.749 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng khá cao, trên 5 lần. NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay hộ : như cho vay chăn nuôi, cho vay ngư nghiệp, cho vay trồng lúa,...Trước đây, khi ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa còn chưa phát triển, sản phẩm được chế biến từ cá tra-basa chưa được thế giới biết đến thì cho vay ngư nghiệp chủ yếu là cho vay chăn nuôi một số loại cá như : cá lóc, cá rô phi, cá chim trắng,…cá tra-basa cũng có nhưng rất ít, chủ yếu là cá tra-basa nuôi bè. Nhưng từ khi con cá tra-basa được bạn bè khắp nơi trên thế giới biết đến như một loại thực phẩm bổ dưỡng thay thế cho loài cá nheo ở biển thì ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa ngày càng phát triển rộng khắp, nhất là ở khu vực ĐBSCL với các loại hình chăn nuôi ngày càng đa dạng hơn như : nuôi bè, nuôi ao hầm, nuôi đăng quầng,…trong đó loại hình nuôi cá tra-basa ao hầm phát triển nhất. Khi đó, mọi người lũ lượt kéo nhau đào ao nuôi cá, mọi người nuôi cá, nhà nhà nuôi cá, nông dân từ trồng lúa chuyển sang nuôi cá, những nhà kinh doanh hoặc người làm công ăn lương, cán bộ công nhân viên Nhà nước cũng tranh thủ làm thêm nghề phụ là chăn nuôi cá tra-basa. Ai có đất thì cứ thế mà đào ao nuôi cá, ai không có đất thì mua đất để đào ao nuôi cá. Nhưng không phải ai cũng có vốn để đầu tư cho loại hình chăn nuôi này, không kể những đại gia có sẵn vốn thì hầu hết người chăn nuôi cá tra-basa đều đi vay mượn để đào ao và chi phí thức ăn cho việc nuôi cá. Họ vay vốn dưới nhiều hình thức như : từ gia đình, bạn bè, những người cho vay nặng lãi, từ phía ngân hàng. Trong đó, vay vốn ngân hàng là hình thức được sử dụng nhiều nhất. Bảng 7 : Tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ trong hạn 723,268 659,782 839,723 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 69,995 50,383 90,280 + Các ngành khác 653,273 609,399 749,443 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ trong hạn 723,268 100% 659,782 100% 839,723 100% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 69,995 10% 50,383 8% 90,280 11% + Các ngành khác 653,273 90% 609,399 92% 749,443 89% Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng dư nợ trong hạn -63,486 -9% 116,455 16% 179,941 27% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa -19,612 -28% 20,285 29% 39,897 79% + Các ngành khác -43,874 -7% 96,170 15% 140,044 23% Qua bảng số liệu 7 cho thấy, tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa qua 03 năm đều tăng (năm 2006 giảm là do nguyên nhân đã nêu ở trên): năm 2007 tăng so với năm 2005 là 116.455 triệu đồng với tốc độ tăng là 16%, trong đó cho vay chăn nuôi cá tra-basa cũng tăng 20.285 triệu đồng với tốc độ tăng trưởng 29%. Từ đó cho thấy, tốc độ tăng dư nợ trong hạn của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dư nợ trong hạn chung và trong tất cả các ngành nghề khác thì tỷ trọng dư nợ của nó năm 2007 chiếm tới 11%/Tổng dư nợ trong hạn của NHCT Chi nhánh An Giang (năm 2005 là 10%/Tổng dư nợ trong hạn và năm 2006 là 8%/Tổng dư nợ trong hạn). Điều này là do năm 2007 là năm đạt được nhiều thắng lợi lớn trong ngành chăn nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra-basa. Trong bảng số liệu 5 cho thấy, cơ cấu dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa gồm dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung-dài hạn. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng dần (năm 2005 là 57.148 triệu đồng, năm 2006 là 45.801 triệu đồng và năm 2007 là 83.552 triệu đồng), còn dư nợ cho vay trung – dài hạn thì giảm dần (năm 2005 là 12.847 triệu đồng, năm 2006 là 4.582 triệu đồng và năm 2007 là 6.728 triệu đồng). Nguyên nhân của hiện tượng trên là do thị trường cá tra-basa là thị trường không ổn định, giá cả luôn luôn biến động nên việc cho vay trung – dài hạn đối với loại hình này sẽ mang lại rủi ro cao. Do vậy mà NHCT Chi nhánh An Giang đã hạn chế hình thức cho vay trung – dài hạn ở lĩnh vực này. Ngoài ra, đa số những món vay chăn nuôi cá tra-basa đều là những món vay ngắn hạn vì theo quy định thì “Thời hạn cho vay : là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc, lãi tiền vay và phí (nếu có) đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHCV và khách hàng, được xác định trên cơ sở chu kỳ sản suất kinh doanh của đối tượng vay”. Vì vậy, theo quy định trên thì cho vay chăn nuôi cá tra-basa thường có thời hạn từ 06 đến 09 tháng (do một chu kỳ nuôi cá tra-basa là 06 đến 09 tháng). Theo quy định thì trong 02 nguyên tắc vay vốn ngân hàng có nguyên tắc “sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Tuy nhiên, vì việc hạn chế cho vay trung – dài hạn nên các hộ chăn nuôi cá tra-basa đã vay ngắn hạn để đầu tư vào những máy móc thiết bị dùng cho chăn nuôi như : hệ thống điện bơm thức ăn, bơm nước ra vào hầm; tiền mua đất; chi phí cho việc đào hầm, cải tạo hầm, hệ thống xử lý nước thải,…đã làm phát sinh nợ quá hạn do sử dụng vốn vay không đúng mục đích. Bảng 8 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn 2,975 2,749 1,977 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 259 197 + Các ngành khác 791 2,490 1,780 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ quá hạn 2,975 100% 2,749 100% 1,977 100% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 73% 259 9% 197 10% + Các ngành khác 791 27% 2,490 91% 1,780 90% Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng dư nợ quá hạn -226 -7.6% -998 -34% -772 -28% + Cho vay chăn n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0053.doc
Tài liệu liên quan