GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới…
Với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của Công ty TNHH thương mại kĩ thuật điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hà Nội thì với vị trí là một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xây lắp điện và cung ứng các thiết bị ngành điện thì đó là một vấn đề rất quan trọng. Vì công ty mới được thành lập và đi vào hoạt động được bảy năm nên công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động như thị trường của công ty còn khá nhỏ bé, trong công ty các kế hoạch sản xuất, kế hoạch chung cho cả công ty còn chưa có hay đơn thuần đó chỉ là những bản kế hoạch được xây dựng trong ngắn hạn chưa có được sự nghiên cứu tỷ mỉ… Hay vấn đề nhân sự trong công ty khi mà công ty chưa có được đội ngũ nhân viên có trình độ đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh… Nhưng đó chưa phải là vấn đề khó khăn nhất của công ty khi mà vấn đề khó khăn nhất của công ty chính là khả năng huy động vốn cho các hoạt động của mình. Vì nguồn vốn của công ty còn eo hẹp do vậy mà khả năng mở rộng thị trường bị hạn chế, khả năng trang bị máy móc thiết bị cũng bị giới hạn, chưa có được nguồn kinh phí cho công tác xây dựng kế hoạch… Sở dĩ công ty gặp nhiều khó khăn như vậy là do những nguyên nhân sau.
Vì công ty mới đi vào hoạt động lại là công ty có quy mô nhỏ do vậy mà doanh thu và lợi nhuận của công ty còn nhỏ điều này đã hạn chế khả năng tích luỹ vốn của công ty. Vì công ty muốn tích luỹ vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì cần phải có được lợi nhuận lớn để có thể tích luỹ vốn. Trong khi đó thì lợi nhuận của công ty không phải chỉ được dùng vào việc tích luỹ vốn mà còn được dùng để chia cổ tức cho các cổ đông, lập các quỹ dự phòng… do vậy mà khả năng tích luỹ vốn từ phần lợi nhuận để lại của công ty là bị hạn chế.
Mặc dù công ty cũng có các kênh huy động vốn khác như đi vay tín dụng thương mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động vốn hiệu quả nhưng nó lại bị hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công ty nên phần vốn mà công ty có thể huy động được từ đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Một kênh huy động vốn khác mà công ty đã tiếp cận là vay tín dụng ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng vốn vay từ đây có thể có số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi mà muốn vay được tiền từ ngân hàng hay các tổ chức tài chính thì phải đáp ứng được các điều kiện rằng buộc như có tài sản thế chấp hay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải ổn định và có hiệu quả. Do vậy mà kênh huy động vốn này công ty tuy đã tiếp cận nhưng vẫn còn có nhiều rào cản.
Đó là những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang tiếp cận. Mặc dù từ những kênh huy động vốn này mà công ty đã huy động được một số lượng vốn nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho các hoạt động trong công ty.
Qua tìm hiểu tại công ty và các công ty khác em thấy rằng công ty còn có thể tiếp cận được với nhiều kênh huy động vốn khác hay là mở rộng kênh huy động vốn hiện tại. Do vậy mà đề tài đi vào nghiên cứu các kênh huy động vốn khác mà công ty còn chưa tiếp cận nhằm tìm ra được kênh huy động vốn phù hợp với công ty.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Vì đề tài này là nghiên cứu về các kênh khai thác huy động vốn mà công ty hiện đang tiếp cận cũng như những kênh huy động mà công ty vẫn còn bỏ ngỏ chưa tiếp cận vì vậy mà mục đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu làm rõ những kênh huy động vốn mà công ty hiện đang tiếp cận. Để từ đó đi sâu phân tích những thuận lợi của các kênh huy động vốn này. Vai trò của từng kênh trong hoạt hoạt động khai thác vốn của công ty nói chung, xem trong các kênh huy động vốn đó thì kênh nào là quan trọng nhất, huy động được nhiều vốn nhất để từ đó sẽ tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ kênh huy động vốn đó và thêm vào đó còn tìm hiểu những khó khăn, nhược điểm của những kênh huy động hiện tại, xem các kênh huy động vốn hiện nay có những khó khăn gì trong việc huy động để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để từ đó mà nâng cao được hiệu quả huy động vốn của các kênh huy động vốn cũng như là của hoạt động huy động huy động vốn nói chung của công ty. Thêm vào đó ngoài việc tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn mà công ty đang áp dụng thì đề tài còn đi vào tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn khác mà công ty vẫn còn chưa áp dụng tìm hiểu những ưu điểm và nhược điểm của từng kênh huy động vốn cũng như là tìm hiểu kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác trong việc áp dụng những kênh huy động vốn mà doanh nghiệp chưa áp dụng từ đó phân tích xem với điều kiện hiện tại của công ty thì nên áp dụng kênh huy động vốn nào là hợp lý nhất, phù hợp với công ty nhất. Có như vậy thì sau khi nghiên cứu xong đề tài mới có thể đề xuất với công ty phương án huy động vốn từ kênh mới là hiệu quả nhất, phù hợp nhất với công ty.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này là nó có những ý nghĩa sau đây. Thứ nhất là mong tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ việc khai thác, huy động vốn của các công ty vừa và nhỏ để từ đó mà có thể tìm cách áp dụng những bài học kinh nghiệm đó vào công ty, xem kinh nghiệm nào là phù hợp với công ty nhất, là khả thi với công ty nhất, tránh thực trạng là cứ thấy một hoặc một số công ty khác áp dụng thành công một kênh huy động vốn mới, tạo ra được nhiều vốn cho công ty thì các công ty khác theo sau thấy thế mà áp dụng khi không có sự tìm hiểu nghiên cứu. Điều này là rất nguy hiểm vì điều kiện của các công ty là khác nhau, hoạt động trong những điều kiện khác nhau, trình độ của mỗi công ty là khác nhau cả về trình độ con người cũng như là trình độ công nghệ. Từ đó sẽ dẫn đến thất bại gây thiệt hại cho công ty. Vì vậy mà cần phải có những nghiên cứu tìm hiểu phân tích trước khi áp dụng. Thứ hai là tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của các kênh huy động vốn hiện tại mà công ty đang áp dụng đề từ đó có những giải pháp để khác phục hay phát huy những điểm yếu điểm mạnh đó. Vì nhiều khi việc mở ra một kênh huy động vốn mới đối với công ty là chưa cần thiết khi mà ta chưa khai thác hết tiềm năng các kênh huy động vốn hiện tại điều đó sẽ gây lãng phí cho công ty vì vậy mà ta phải xem xét kỹ càng các kênh huy động vốn hiện tại của công ty đang áp dụng xem xét tìm hiểu những kênh huy động vốn này liệu đã thực sự khai thác hết tiềm năng hay chưa. Nếu thấy tiềm năng của kênh huy động vốn vẫn còn thì tại sao không tiếp tục khai thác, hoặc tìm hiểu xem tại sao ta chưa khai thác hết tiềm năng để từ đó đề ra những giải pháp để khai thác hết tiềm năng của những kênh huy động vốn này. Còn nếu sau khi xem xét thấy rằng các kênh huy động vốn hiện tại ta đã khai thác hết tiềm năng rồi không còn có thể mở rộng hơn được nữa thì từ đó ta mới có phương án cân nhắc xem xét đến việc mở ra một kênh huy động vốn mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Trong đề tài này thì đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở đây sẽ là các phương pháp huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội và các công ty vừa và nhỏ khác để học hỏi và tham khảo. Bao gồm các kênh huy động vốn mà họ áp dụng, giải pháp để họ có thể thực hiện đối với từng kênh huy động vốn… Thêm vào đó cũng có thể tìm hiểu phương pháp huy động vốn của một số công ty lớn. Vì khi nghiên cứu phương pháp huy động vốn của các công ty vừa và nhỏ có cùng điều kiện về quy mô như của công ty mình thì từ đó sẽ dễ dàng hơn cho việc áp dụng các kinh nghiệm của những công ty này vào cho công ty mình, nó sẽ phù hợp hơn nhiều so với việc áp dụng kinh nghiệm từ các công ty lớn. Còn việc nghiên cứu những kênh huy động vốn của các công ty lớn cũng như những giải pháp mà họ áp dụng để thực hiện ở đây chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với công ty.
Phạm vi nghiên cứu ở đây là các công ty vừa và nhỏ trong khu vực thành phố Hà Nội. Vì hiện nay công ty đang hoạt động chủ yếu ở thị trường Hà Nội và một số tỉnh thành phía bắc, thêm vào đó thì do khó khăn trong quá trình nghiên cứu mà đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các công ty vừa và nhỏ trong phạm vi thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Ở đây do đề tài nghiên cứu là tìm hiểu về những phương thức huy động vốn, các kênh huy động vốn mà các công ty vừa và nhỏ áp dụng do vậy mà phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là.
Phân tích những kênh huy động vốn mà công ty hiện nay đang áp dụng để từ đó tìm ra những thuận lợi khó khăn của những kênh huy động vốn này. Và còn phân tích những kênh huy động vốn khác mà công ty chưa áp dụng tìm ra những khó khăn thuận lợi của những kênh huy động vốn này.
Từ những phân tích đó mà có những đánh giá về những kênh huy động huy động vốn này xem các kênh huy động vốn này có ưu điểm và nhược điểm gì để từ đó có thể áp dụng vào công ty hay không.
Thêm vào đó còn sử dụng phương pháp điều tra thống kê những kinh nghiệm của các công ty vừa và nhỏ khác.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được.
Với đề tài nghiên cứu này kết quả dự kiến đạt được sẽ là tìm ra được một, một số kênh huy động vốn mới phù hợp với công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội. Và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để có thể áp dụng thành công các kênh huy động vốn mới này.
6. Bố cục đề tài.
Bài viết được chia thành ba phần.
Phần một: Giới thiệu chung về đề tài.
Phần hai: Nội dung đề tài
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt động của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp.
Chương III: Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội.
Phần ba: Kết luận và kiến nghị.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và phân loại vốn.
Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm cả vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn ở đay còn có thể bao gồm cả vốn con người theo đó thì vai trò của con người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi chúng ta sắp bước vào nền kinh tế tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo đó chất xám con người là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và quý giá nhiều khi vốn bằng tiền tệ cũng chưa sánh được so với nguồn vốn con người, vốn tri thức.
Nhưng trong đề tài này thì chỉ đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản nhất thì vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá trình tiếp theo để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn vật chất và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao gồm hai loại vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể phân thành vốn cố định và vốn lưu động.
Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm.
Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình hình thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu này được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bản thân bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại như khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ dự phòng…
Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ đi chi phí và các khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là phần lợi nhuận dùng để chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp giữ lại dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh doanh trong chu kỳ tiếp theo của quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây cũng là một phần vốn rất quan trọng của doanh nghiệp.
Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ… phần khấu hao này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại của doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp đặc biệt như khi có sự sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự phòng này được dùng để bù đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá gây ra.
Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể hoạt động với 100% lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có những khoản vốn đi vay để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay này bao gồm rất nhiều nguồn khác nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước và phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay tín dụng thương mại là lượng vốn mà doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh như là mua nguyên vật liệu chịu mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn thanh toán sau có thể là sau mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng… Hay là vốn vay từ phát hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác của doanh nghiệp nhưng đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ phiếu vì vậy ở đây doanh nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài chính mà còn vay của các đối tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng khoán. Vì khi phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ không chỉ được nhân dân mua, những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn có thể được các tổ chức tài chính hay là các đối tác mua. Vốn có được từ việc phát hành trái phiếu theo đó thì lượng vốn mà doanh nghiệp có được là thông qua việc phát hành trái phiếu vay nợ ra thị trường vốn để thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư. Hay là vốn có được từ liên doanh, liên kết theo đó thì doanh nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành liên doanh liên kết với bên ngoài. Với hình thức liên doanh liên kết này thì vừa có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham gia được vào thị trường mới hay là giảm thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất bại sẽ không phải chịu tất cả thua lỗ mà có doanh nghiệp khác cùng chia sẻ.
Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định như nhà xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được khấu hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản lưu thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình thường.
2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Có thể nói vốn đối với từng doanh nghiệp là rất quan trọng nó quyết định đến sự hoạt động suôn sẻ của doanh nghiệp.Mặc dù để có thể để doanh nghiệp hoạt động một cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó vốn là quan trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi doanh nghiệp, vì chỉ khi có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được. Có vốn doanh nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các hợp đồng kinh doanh liên kết, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm trang thiết bị, thay thế các trang thiết bị cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả lương cho công nhân… Theo đó thì vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động sau.
2.1. Đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu tư vào một dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến nuôi cơ thể vậy. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp, làm tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ có hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể lớn mạnh, có thể tham gia được vào nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Nhưng quyết định đầu tư còn phụ thuộc vào vốn mà doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có những vai trò sau.
Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định đến khả năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy mô của dự án kinh doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết định đầu tư vào một hoạt động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu đầu tiên mà doanh nghiệp cần cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư vào dự án, quy mô của vốn sẽ quyết định đến quy mô của dự án vì ta không thể đầu tư vào một dự án lớn khi mà ta không có đủ vốn cần thiết, nếu như ta cố tình đầu tư thì trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra tình trạng thiếu vốn từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ, ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh nghiệp. Vì vậy khi quyết định đầu tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới yếu tố vốn. Thêm vào đó quy mô vốn cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn càng lớn thì dự án đầu tư sẽ có phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy mô vốn nhỏ thì phạm vi hoạt động của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng tới sự thành công của dự án đầu tư. Vì khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có thể thu được doanh thu và lợi nhuận lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hơn, tiềm lực của doanh nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng ngược lại khi quy mô vốn nhỏ dẫn đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị trường nó sẽ hạn chế khả năng của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp. Quy mô vốn cũng sẽ quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có nhiều dự án đầu tư không thể chỉ có đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có thể được đầu tư qua nhiều kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự án càng lâu thì lượng vốn yêu cầu cần có để đầu tư càng lớn. Nói tóm lại thì quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động có vai trò quyết định đến các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn càng lớn thì dự án đầu tư càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại.
Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của doanh nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là mở rộng thị trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới thì doanh nghiệp cần phải tiến hành nhiều công việc như là mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng nhân công hay là tiến hành khảo sát thị trường nhưng để có thể làm được những việc đó thì doanh nghiệp cần có vốn để mua sắm máy móc thiết bị hay thuê nhân công… Đấy là trường hợp doanh nghiệp muốn tự mình tham gia thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị trường mới, nhưng cho dù là doanh nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường khác thì khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có vốn đối ứng để tham gia vào liên doanh, vì nếu không có vốn đối ứng chúng ta sẽ không thể tiến hành liên doanh được, quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ quyết định đến vai trò của doanh nghiệp trong liên doanh này, doanh nghiệp có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò quyết định, vai trò lớn. Vì vậy mà tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến khả năng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới của doanh nghiệp. Thêm vào đó thì khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì luôn muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô của doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh nghiệp càng được củng cố… nhưng để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải có đầu tư vào hoạt động xúc tiến thị trường, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh. Vì vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường nhờ có vốn mà doanh nghiệp có thể đi trước đầu tư vào công nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường.
Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư vào dự án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc mở rộng thị trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại của hoạt động đầu tư.
2.2. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có vai trò quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra thì cần phải có máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có vốn để đầu tư vào những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả vì vòng quay của vốn ở đây chính là nói lên vòng quay của sản phẩm khi mà vốn được thu hồi càng nhanh chứng tỏ rằng sản phẩm được sản xuất ra không bị tồn kho mà được tiêu thụ trên thị trường nhờ đó mà vốn không bị ứ đọng mà luôn được luân chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm thì nó sẽ phần nào nói lên thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho không tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn dài hay ngắn cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc tính của sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực hoạt động mà cần có đầu tư lớn mà vốn thu hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh doanh như ngành xây dựng… thì cần phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn ra dài ngày lên vòng quay vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà trong một chu kỳ sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao. Nhưng nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì càng có hiệu quả.
Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì nếu có quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện để trang bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm nhờ đó sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước các doanh nghiệp khác. Nhờ có vốn mà doanh nghiệp cũng có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn trên thị trường… Vì khi mà có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hấp dẫn rồi thì vẫn chưa đủ mà thêm vào đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành công của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi người biết về sản phẩm để có thể mua sản phẩm. Nhưng để làm được những việc như tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, xúc tiến thị trường thì cần phải có vốn.
Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết định đến hiệu quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
2.3. Đối với việc tăng tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở đây tài sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà doanh nghiệp có cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô của doanh nghiệp và trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mà việc tăng tài sản của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến hành qua các kỳ sản xuất kinh doanh, nó được tiến hành thường xuyên liên tục trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài sản của mỗi doanh nghiệp cũng cần phải có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy móc nhà xưởng… đều cần có vốn.
Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty. Việc mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để có thể mua được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp một khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì điều đầu tiên là phải cân nhắc tới số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có thể huy động để mua sắm, việc mua sắm tài sản mới này cũng như là một dự án đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò quyết định đến việc đầu tư mua sắm tài sản mới.
Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được nữa cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh hưởng tới nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế này cũng cần có vốn để tiến hành.
Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để hoạt động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động được suôn sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp từ hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mới cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi nhất định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh nghiệp có thể được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố sau.
3.1. Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vì thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn đến việc lợi nhuận để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tíchluỹ qua các năm sẽ lớn hơn trái lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có được một mức doanh thu và lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa vào đầu tư được. Từ đó mà khả năng huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của những doanh nghiệp lớn luon có ưu thế so với các doanh nghiệp nhỏ khác. Mặt khác là doanh nghiệp có quy mô lớn điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có sẽ lớn hơn so với các công ty vừa và nhỏ đây là một thuận lợi lớn cho các công ty lớn khi đi vay tín dụng ngân hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng căn cứ vào giá trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta không thể vay vốn với số lượng lớn khi mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ bé. Vì vậy mỗi khi đi vay tín dụng ngân hàng các công ty lớn với giá trị tài sản lớn của mình có thể đem ra thế chấp để vay được số lượng vốn lớn cần thiết để cung cấp vốn cho những hoạt động đầu tư của mình nhưng trái lại với các công ty vừa và nhỏ thì việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn lớn là không dễ dàng khi mà giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo được lòng tin đối với ngân hàng để cho vay. Một điểm mạnh nữa của những doanh nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực, hoạt động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của khách hàng và các đối tác nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ các đối tác cũng trở lên dễ dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên cung cấp và bên phân phối cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một cách dễ dàng hơn điều đó sẽ tạo lợi thế cho họ trong việc huy động vốn. Một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có thuận lợi hơn các công ty vừa và nhỏ khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị trường thì điều đầu tiên cần phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải đủ lớn để có thể phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối với những nhà đâầutư khi mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ ràng khi phải lựa chọn giữa hai loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa và nhỏ và một bên là của một công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng chọn trái phiếu của doanh nghiệp có quy mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như là uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp… Với doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ dự phòng mà công ty có chắc chắn cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh nghiệp khi muốn huy động vốn từ nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ có thể tạm thời dùng nguồn vốn của quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào.
3.2. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn. Đúng vậy khi mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh vực hoạt động sẽ quyết định đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp rõ ràng là công ty nào đang hoạt động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành hấp dẫn thì sẽ thu hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu hút các nhà đầu tư thường là khó khăn hơn. Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh mới là một ưu thế lớn cho các doanh nghiệ._.p khi thu hút đầu tư, vì khi một ngành mới xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị trường còn rất lớn do vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếmlĩnh thị trường từ đó mà có được doanh thu và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến khi các công ty khác bắt đầu quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã nắm chắc được thị trường từ đó tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh, dễ dàng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay tiến hành liên doanh góp vốn với doanh nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng liên quan đến thị trường hoạt động và những nhà cung ứng đối tác cho doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà một lĩnh vực hoạt động có thị trường rộng lớn, tiềm năng thì khả năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất nhiều khi mà ta hoạt động trong một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn việc các nhà cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín dụng thương mại của doanh nghiệp.
3.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi mà doanh nghiệp đang hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều đối với những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi mà doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với việc vòng quay của vốn được rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục được đầu tư tiếp tục làm tăng giá trị đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận để lại của công ty lớn thì sẽ tạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tao lên số lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì uy tín của doanh nghiệp càng lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, chú ý từ đó sẽ dễ dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, khi mà hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng thương mại cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao tạo được lòng tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy động vốn vào để đầu tư vào những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi mà sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông được thì doanh nghiệp khó có khả năng huy động vốn lớn vì không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo được niềm tin về khả năng thanh toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn khi đi vay.
3.4. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy tín trên thị trường tạo được niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu tư thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của doanh nghiệp nhiều khi còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay quy mô của doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là sự biểu hiện tại những thời điểm nhất định, không doanh nghiệp nào là có thể hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong suốt thời gian dài cả, nhưng uy tín của doanh nghiệp thì khác nó được xây dựng qua nhiều giai đoạn, phải được tạo dựng rất lâu vì vậy mà uy tín của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp huy động vốn. Khi mà doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu ra thị trường tài chính thì sẽ được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư trước những doanh nghiệp khác chưa có uy tín, hay uy tín còn chưa nhiều. Uy tín của doanh nghiệp như là một tài sản vô hình, nó được xây dựng qua thời gian, qua quá trình hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường, nó như là thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
3.5. Tình hình thị trường.
Rõ ràng khi mà thị trường ổn định không có biến động, khủng hoảng thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ tốt hơn nhiều khi mà tình hình thị trường biến động hay trở lên xấu đi. Khi mà tình hình thị trường phát triển ổn định thì các nhà đầu tư sẽ mở rộng đầu tư quan tâm nhiều đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp cũng như bản thân doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp sẽ dễ dàng huy động vốn từ các nhà đầu tư, kêu gọi vốn từ thị trường, vay vốn của các đối tác, nhưng mà khi thị trường diễn biến xấu đi, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp từ đó các nhà đầu tư sẽ thu hẹp đầu tư dẫn đến việc huy động vốn của doanh nghiệp sẽ không thể được diễn ra một cách dễ dàng khi mà doanh nghiệp cũng sẽ phải thu hẹp hoạt động, doanh thu và lợi nhuận giảm xuống là cho nguồn vốn nội bộ cũng sẽ giảm theo khiến cho khả năng huy động vốn bị ảnh hưởng.
3.6. Cơ chế chính sách của nhà nước.
Khi mà nhà nước có chính sách thông thoáng, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường vốn. Vì rõ ràng dù doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào… thì đều hoạt động trong khuôn khổ cơ chế chính sách của nhà nước vì vậy mà cơ chế chính sách của nhà nước là yếu tố rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển được hay không. Mỗi một cơ chế chính sách mà nhà nước đưa ra đều có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp. Khi mà chính sách đó đưa ra hợp lý, phù hợp với thị trường, phù hợp với tiến trình phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, khuyến khích được các doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt là những chính sách về thị trường tài chính và tiền tệ, chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp… nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới doanh nghiệp, khi mà chính sách này phù hợp nó sẽ khuyến khích được doanh nghiệp phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Nhưng khi mà những chính sách này đưa ra không phù hợp, hạn chế thị trường, hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp thì nó sẽ làm cho doanh nghiệp không thể phát triển được khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bị hạn chế, doanh nghiệp không thể phát triển được.
Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Nó có thể là nhân tố khách quan hay chủ quan nhưng cho dù nó là từ phía nào thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà có tác động khác nhau tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, có thể nó tạo thuận lợi trong lúc này nhưng lại gây khó khăn trong lúc khác vấn đề là doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với từng điều kiện nhất định, tận dụng những thuận lợi mà các nhân tố này mang lại vào doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà có giải pháp huy động vốn cho hiệu quả.
4. Các tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp.
Có rất nhiều tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp nhưng trong đề tài này xin nêu ra hai tiêu chí để đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp đó là.
Khả năng thanh toán hiện hành là mối quan hệ giữa tài sản lưu động doanh nghiệp đối với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của công ty. Những biện pháp cơ bản nhằm cải thiện chỉ tiêu này phải nhằm vào việc gia tăng nguồn vốn ổn định (vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn) thay cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và mang tính chất hình thức. Bởi vì, một khi tài sản của công ty lớn hơn nợ ngắn hạn cũng chưa chắc tài sản lưu động của công ty đủ đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngăn hạn nếu như tài sản này luân chuyên chậm, chăng hạn như tồn kho ứ đọng không tiêu thụ được, các khoản phải thu ứ đọng không thu tiền được. Vì vậy khi phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo của tài sản lưu động ta cần phân tích chất lượng của các yếu tố tài sản lưu động của công ty qua các chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, vòng quay hàng tồn kho.
Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Giá trị khả năng thanh toán hiện hành phải ≥ 1, nếu không thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, hệ số này phụ thuộc vào đặc tính của mỗi ngành. Giá trị tối ưu của tỷ số khả năng thanh toán hiện hành theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế là từ 2 – 2,5.
Khả năng thanh toán nhanh là tỷ lệ được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho tổng nợ ngắn hạn. Nó cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Tồn kho
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng doanh nghiệp có thể thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, căn cứ vào những tài sản lưu động có khả năng chuyển thành tiền một cách nhanh chóng. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu này phải lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến hạn ngay thì mới có nhu cầu thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn chưa có nhu cầu thanh toán ngay.
5. Các kênh huy động vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận.
5.1. Kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp.
Có rất nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp nó có thể là từ nội bộ doanh nghiệp hay là đi vay bên ngoài nhưng cho dù nó có nguồn gốc ở đâu thì doanh nghiệp đều phải có những giải pháp để huy động sao cho hiệu quả. Trong đó kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp là một kênh huy động vốn mà được các doanh nghiệp thường xuyên áp dụng. Trong kênh huy động vốn này nó bao gồm các nguồn sau đây.
5.1.1. Lợi nhuận để lại của công ty.
Lợi nhuận để lại chính là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ sản xuất, sau khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp, phần chia cổ tức… Đây là một trong các nguồn vốn nội bộ quan trọng nhất. Lợi nhuận để lại dùng để tái đầu tư vào việc thay thế và đầu tư mới vào máy móc thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên để có nguồn vốn này các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận để lại của doanh nghiệp có thể là lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế và lợi nhuận để lại.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận để lại là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận để lại sẽ làm giảm bớt tiền lãi cổ phần (cổ tức) của các cổ đông nhưng bù lại họ có quyền sở hữu cổ phần tăng lên của công ty.
Chính vì vậy mà việc huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của công ty có những ưu điểm sau đây.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ lợi nhuận để lại của công ty là việc huy động vốn từ phần lợi nhuận để lại của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn lợi nhuận để lại này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn lợi nhuận để lại này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì phần vốn từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp này là thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nên khi doanh nghiệp quyết định đưa nó vào đầu tư cho quá trình sản xuất có sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, tăng tài sản cho doanh nghiệp nhờ đó sẽ làm tăng quyền sở hữu cổ phần của công ty với những công ty là công ty cổ phần.
Nhưng bên cạnh những ưu điểm đó thì nguồn vốn được huy động từ lợi nhuận để lại cũng có những nhược điểm nhất định đó là.
Thứ nhất là do phần lợi nhuận để lại này hay là nguồn vốn huy động từ nguồn này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do vậy mà khi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không tốt thì nguồn vốn huy động sẽ không nhiều. Bên cạnh đó nó còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì doanh thu và lợi nhuận sẽ lớn vì vậy nguồn vốn huy động được sẽ lớn còn ngược lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì nguồn vốn huy động từ nguồn này là không nhiều.
Thứ hai là nó sẽ làm giảm lãi cổ phần chia cho các cổ đông. Vì khi mà ta quyết định dùng phần lợi nhuận để lại này để tái đầu tư vào quá trình tiếp theo nó sẽ ảnh hưởng tới lãi cổ phần của các cổ đông, phần lợi nhuận này càng được huy động nhiều vào đầu tư sẽ càng làm giảm lãi cổ phần của các cổ đông nên có thể sẽ gặp phải sự phản đối của các cổ đông.
5.1.2. Vốn dự phòng.
Đây là phần vốn chủ sở hữu được tích luỹ từ lợi nhuận để chi trả các khoản thua lỗ có thể của doanh nghiệp hoặc dự phòng giảm giá tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi…
Việc huy động vốn từ nguồn quỹ dự phòng này có những ưu điểm sau.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ quỹ dự phòng của công ty là việc huy động vốn từ phần quỹ dự phòng của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn quỹ dự phòng này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm như là khối lượng huy động được từ nguồn này phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì quỹ dự phòng sẽ nhiều trong khi với những doanh nghiệp nhỏ thì nguồn vốn này có thể không nhiều.
Một nhược điểm nữa là khi dùng quỹ dự phòng vào làm vốn kinh doanh khi xảy ra giảm giá hoặc kinh doanh thua lỗ ta sẽ không có nguồn để bù đắp.
5.1.3. Khấu hao.
Khấu hao là việc sử dụng tài sản cố định vào quá trình sản xuất, việc tính khấu hao tuỳ thuộc vào từng công ty. Trong đó có nhiều cách tính khấu hao như.
Khấu hao đều là hình thức khấu hao bằng cách phân bổ chi phí mua sắm theo thời gian sử dụng tài sản cố định. Chi phí khấu hao được xác định bằng cách chia giá trị sổ sách của tài sản cho thời gian sử dụng tài sản cố định. Cách khấu hao này tạo ra chi phí khấu hao cố định và bình quân theo thời gian.
Khấu hao nhanh có thể giúp cho doanh nghiệp sớm khôi phục tài sản cố định. Theo phương pháp này, doanh nghiệp sẽ trích khấu hao nhiều vào các năm đầu sử dụng tài sản, sau đó chi phí khấu hao giảm dần cho những năm kế tiếp.
Với đặc tính đó thì việc huy động vốn từ nguồn khấu hao có những ưu điểm sau.
Thứ nhất việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sớm thu hồi được tài sản cố định. Vì khi doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nhanh thì giá trị tài sản cố định trong những năm đầu của quá trình sản xuất nhờ vậy mà trong thời gian ngắn thì doanh nghiệp có thể thu hồi được lượng vốn đã bỏ ra để mua sắm tài sản cố định, mặt khác khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được những thiệt hại do hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra. Nhất là đối với máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất khi mà hiện nay khoa học công nghệ thay đổi diễn ra từng ngày thì máy móc thiết bị rất nhanh bị lạc hậu, lỗi thời và mất giá trị do vậy mà việc tính khấu hao nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp không những thu hồi được tài sản cố định sớm mà còn tránh được những rủi ro từ việc thay đổi công nghệ gây ra.
Một ưu điểm nữa của phương thức huy động vốn từ nguồn khấu hao này là tiết kiệm đầu tư thay thế tài sản hao mòn và đầu tư mới khác. Vì khi tài sản để lâu thì không thể tránh được những hao mòn do cả vô hình và hao mòn hữu hình gây ra vì vậy mà khi ta huy động vốn từ nguồn khấu hao tức là khấu hao nhanh sẽ giúp rút ngắn thời gian thu hồi vốn, giảm được những hao mòn vô ích do thời gian gây ra nhờ vậy mà tiết kiệm được khoản tiền đầu tư bù đắp những hao mòn.
Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương thức huy động vốn này cũng có những nhược điểm nhất định. Đó là việc tính khấu hao quá nhanh sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì khi tính khấu hao quá nhanh tức là phần giá trị của tài sản cố định khi chuyển hoá vào giá thành sản phẩm sẽ tăng lên do vậy mà làm tăng giá thành sản phẩm từ đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó mà sẽ ảnh hưởng tới thì trường và doanh thu của doanh nghiệp.
5.1.4. Tăng vốn.
Tăng vốn là việc tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng cách huy động vốn từ các cổ đông cũ và mới. Việc tăng vốn này của doanh nghiệp không thể diễn ra thường xuyên được vì ta không thể lúc nào cũng kêu gọi các cổ đông đóng góp thêm vốn như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông trong công ty. Mặt khác khi huy động thêm vốn mới từ các cổ đông mới cũng sẽ gặp phải khó khăn khi mà thêm cổ đông điều đó đồng nghĩa với việc làm giảm cổ tức của các cổ đông cũ.
Tuy nhiên việc huy động vốn từ việc huy đông vốn góp của các cổ đông có những ưu điểm sau.
Ưu điểm thứ nhất của nguồn vốn từ việc huy động vốn của các cổ đông cũ và mới của công ty là việc huy động vốn từ nguồn này của công ty sẽ làm giảm chi phí cho công ty khi bớt được chi phí trả lãi khi phải đi vay bên ngoài. Nhờ có phần vốn từ nguồn huy động thêm này mà công ty không phải đi vay phần vốn tương ứng từ các nguồn khác nhờ đó sẽ làm giảm được các khoản nợ mà công ty phải chịu khi phải đi vay, và nhờ đó sẽ không phải chịu chi phí đi vay là trả lãi và còn các chi phí khác như là chi phí cho việc phát hành trái phiếu khi muốn vay vốn từ phát hành trái phiếu hay là chi phí cho phát hành cổ phiếu…
Ưu điểm thứ hai của nó là sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài vì khi mà có phần vốn từ nguồn huy động sự góp vốn của các cổ đông này sẽ làm giảm tương ứng phần vốn phải đi vay từ bên ngoài từ đó làm giảm sự phụ thuộc. Vì khi đi vay từ bên ngoài dù nó là nguồn nào như vay tín dụng ngân hàng ta phải chịu những điều kiện rằng buộc về thế chấp, những rằng buộc về lãi suất, thời gian trả lãi, thời hạn trả nợ… nó là một sự rằng buộc đối với doanh nghiệp, hay là đi vay tín dụng thương mại thì ta cũng phải chịu những điều kiện rằng buộc như thời hạn trả nợ…
Ưu điểm thứ ba của nguồn vốn này là nó làm tăng vốn chủ sở của doanh nghiệp vì phần vốn từ tăng vốn này là vốn của doanh nghiệp do vậy mà nó làm tăng vốn chủ sở hữu.
Tuy nhiên nó có những nhược điểm sau.
Không phải lúc nào cũng có thể huy động được vì việc huy động vốn từ các cổ đông mới không phải là dễ dàng nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố thứ nhất là cần phải có sự đồng ý của các cổ đông hiên thời của công ty. Rõ ràng khi mà kêu gọi thêm cổ đông mới gia nhập vào công ty thì sẽ có sự tranh chấp về quyền lợi giữa các cổ đông cũ và mới khi mà phải xác định phương thức chia cổ tức cho các cổ đông cũ và mới sao cho hợp lý, bên cạnh đó còn có sự xung đột về quyền lãnh đạo trong công ty giữa các cổ đông vì vậy mà việc kêu gọi thêm các cổ đông mới vào công ty cần có sự nhất trí của các cổ đông cũ. Thêm vào đó là việc muốn kêu gọi cổ đông mới gia nhập vào công ty thì ngoài sự đồng ý của hội đồng cổ đông ra còn có điều kiện nữa là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải tốt. Khi mà công ty có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt thì mới có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, họ mới có thể tham gia vào công ty. Ngược lại khi mà công ty hoạt động không tốt thì không dễ để kêu gọi đầu tư.
Một nhược điểm khác của phương thức này là việc tăng vốn bằng việc kêu gọi cổ đông mới vào sẽ làm giảm lãi cổ tức chia cho các cổ đông. Thêm vào đó là việc kêu gọi các cổ đông cũ đóng góp thêm vốn không phải lúc nào cũng làm được ngay cả khi công ty đang hoạt đông tốt và có nhu cầu mở rộng.
5.2. Kênh huy động vốn từ bên ngoài.
Ngoài kênh huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp thì kênh huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp là rất quan trọng vì khi mà nguồn vốn từ nội bộ đã bị hạn chế, bó hẹp không thể phát triển thêm được nữa thì kênh huy động vốn từ bên ngoài này là lối thoát tốt cho mỗi doanh nghiệp khi mà muốn huy động thêm vốn đầu tư vào các dự án đầu tư của mình theo đó thì kênh huy động vốn bên ngoài này bao gồm các kênh chủ yếu sau đây.
5.2.1. Phát hành cổ phiếu.
Là việc doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Việc phát hành cổ phiếu này có thể là doanh nghiệp mới phát hành lần đầu lên thị trường chứng khoán hoặc là phát hành thêm cổ phiếu.
Khi mà nhu cầu vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng bởi nguồn vốn nội bộ, doanh nghiệp có thể thu hút nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Điều này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Có ba loại cổ phiếu: cổ phiếu có tên, cổ phiếu ưu tiên và cổ phiếu phổ thông. Phát hành cổ phiếu sẽ làm giảm sở hữu của các cổ đông hiện tại của công ty cổ phần, do vậy việc phát hành cổ phiếu phải được sự đồng ý của các cổ đông.
Việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn có những ưu điểm như là.
Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ huy động được lượng vốn lớn. Vì khi mà doanh nghiệp tiến hành phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán sẽ thu hút được các nhà đầu tư quan tâm mua cổ phiếu của công ty do vậy mà lượng vốn thu được từ việc phát hành cổ phiếu là tương đối lớn.
Một ưu điểm nữa của việc phát hành cổ phiếu lá nó sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp. Vì khi mà doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra bên ngoài cũng gần như việc doanh nghiệp kêu gọi thêm các cổ đông mới góp vốn vào công ty chỉ có điều kháclà những người nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty. Nhờ có lượng vốn lớn này mà doanh nghiệp sở hữu thêm được một lượng vốn lớn do vậy mà vốn chủ sở hữu của công ty được tăng lên. Việc phát hành cổ phiếu này vừa làm tăng vốn chủ sở hữu của công ty vừa giúp cho doanh nghiệp có được vốn để đầu tư vào các dự án kinh doanh hay mua sắm tài sản cố định mới… Vừa làm giảm tranh chấp về quyền lãnh đạo khi mà những nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này không nằm trong ban lãnh đạo công ty.
Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm sau.
Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán dù là phát hành mới hay là phát hành thêm thì nó đều gây tốn kém và mất thời gian. Vì khi muốn phát hành cổ phiếu thì công ty phải tiến hành những khâu chuẩn bị nhất định, tiến hành xin giấy phép với nhà chức trách và cũng phải tiến hành khảo sát thị trường, xem phản ứng của các nhà đầu tư với cổ phiếu của công ty. Do vậy mà nó sẽ gây tốn kém cho công ty. Thêm vào đó nó cũng phải tiến hành lâu dài vì ta không thể tiến hành nhanh chóng được.
Một nhược điểm nữa là nó sẽ làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu của công ty với những công ty đã tham gia thị trường chứng khoán thì khi mà phát hành thêm cổ phiếu cũng có nghĩa là làm tăng lượng cung cổ phiếu của công ty nó sẽ rất dễ dẫn đến làm cho các cổ phiếu cũ và những cổ phiếu mới lên sàn bị giảm giá từ đó mà dẫn đến làm cho uy tín của doanh nghiệp bị suy giảm nếu như tình trạng đó kéo dài.
Việc phát hành cổ phiếu dù là mới hay là phát hành thêm cũng làm giảm sở hữu của các cổ đông cũ của công ty. Vì khi phát hành cổ phiếu ở đây cũng chính là phần sở hữu của các cổ đông trong công ty giảm xuống và nhường quyền sở hữu đó cho các cổ đông khác.
Việc phát hành cổ phiếu thì thường có quy định về mặt pháp lý. Vì nhà nước cần có những chế tài quản lý để tránh những tình trạng các công ty phát hành quá nhiều cổ phiếu trong khi lượng vốn chủ sở hữu không đủ nó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp phải rủi ro khi đầu tư. Vì vậy việc phát hành cổ phiếu này không phải lúc nào công ty cũng có thể tiến hành được.
5.2.2. Góp vốn hiện vật.
Là việc tăng vốn cho doanh nghiệp bằng việc tăng lượng vốn bằng hiện vật nhờ sự đóng góp của các cổ đông hoặc đối tác. Đó là việc góp vốn bằng hiện vật như là nhà xưởng, máy móc thiết bị… Nó cho phép doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu sử dụng vốn tức là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp nhưng nó không mang lại phương tiện tiền tệ cho doanh nghiệp.
Việc góp vốn hiện vật này có ưu điểm là làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra mua. Vì khi mà việc góp vốn bằng hiện vật này là nhà góp vốn đem những tài sản của mình góp vào công ty, và công ty sẽ đánh giá xem phần tài sản đó đáng giá bao nhiêu để từ đó ghi nhận cho người góp vốn. Việc góp vốn bằng hiện vật không những làm tăng tài sản cố định của doanh nghiệp mà nó còn làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên cũng có những nhược điểm là việc góp vốn bằng hiện vật này không làm tăng được vốn lưu động cho doanh nghiệp.
5.2.3. Vay tín dụng ngân hàng.
Vay tín dụng ngân hàng chính là việc doanh nghiệp tiến hành đi vay vốn của các tổ chức tài chính tín dụng, mà lượng vốn vay chủ yếu ở đây là vốn lưu động dưới dạng tiền tệ.
Vay ngân hàng chính là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vốn vay ngân hàng có thể là vay ngắn hạn dưới một năm thông qua thị trường tiền tệ và vay dài hạn trên một năm thông qua thị trường vốn.
Việc sử dụng vốn vay ngân hàng có nhiều ưu điểm.
Do các tổ chức tín dụng ngân hàng tài chính là những tổ chức chuyên cho vay tiền tệ nên họ luôn có sẵn những lượng vốn lớn trong công ty do vậy mà họ có thể sẵn sàng cho vay những khoản tiền lớn khi mà doanh nghiệp có nhu cầu chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng được với những điều kiện mà các ngân hàng đưa ra. Do vậy đây là ưu điểm lớn nhất của hình thức này.
Ưu điểm thứ hai là dễ dàng tiếp cận vì hiện nay hệ thống tài chính tín dụng khá là phát triển khi mà có rất nhiều các ngân hàng cổ phần hoạt động trên thị trường thêm vào đó là cơ chế chính sách khá là thông thoáng do vậy mà tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận kênh huy động vốn này. Với việc thủ tục vay vốn ngân hàng hiện nay đã dễ dàng hơn trước và việc thế chấp cũng dễ dàng hơn.
Một ưu điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng được coi như là một đòn bẩy tài chính.
Tuy nhiên nó có nhiều nhược điểm sau đây.
Việc vay tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu trả lãi ngân hàng. Vì các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng cũng là những công ty kinh doanh nhưng có điều khác là họ không phải kinh doanh hàng hoá dịch vụ đơn thuần mà là họ kinh doanh tiền tệ do vậy mà lãi suất cho vay chính là giá của sản phẩm mà họ cung cấp. Từ việc phải trả lãi ngân hàng này mà sẽ làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp lên từ đó sẽ làm cho giá thành sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng sẽ tăng lên. Vì vậy doanh nghiệp càng đi vay nhiều từ các tổ chức tín dụng ngân hàng thì sẽ không những làm tăng các khoản nợ của mình mà còn sẽ chịu thêm phần chi phí trả lãi ngân hàng từ đó làm giảm lợi nhuận của công ty.
Một nhược điểm nữa là việc vay tín dụng ngân hàng này cũng phải chịu những rằng buộc nhất định của các điều kiện cho vay. Vì dù hiên nay cơ chế chính sách cho vay của các ngân hàng đã thông thoáng hơn nhưng các ngân hàng vẫn cần phải có sự đảm bảo do vậy mà khi cho vay các ngân hàng cũng phải đưa ra những điều kiện nhất định trong các khoản vay như là công ty phải trả lãi như thế nào, cơ cấu lại công ty…
Một nhược điểm nữa của hình thức này là công ty khi đi vay cũng sẽ phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng. Vì ngân hàng cần có sự bảo đảm cho khoản vốn vay của mình có thể được thanh toán do vậy mà ngân hàng phải kiểm soát lượng vốn cho vay của mình đảm bảo cho số vốn được dùng hiệu quả.
5.2.4. Vay tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên thông qua việc mua bán máy móc, trang thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Tác động tích cực của nguồn vốn này là.
Nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa. Vì hình thức vay tín dụng thương mại là vay của các đối tác, các nhà cung cấp hay là những nhà phân phối do vậy mà lượng vốn vay này chủ yếu là vay vốn lưu đông như là nguyên nhiên vật liệu hay hàng hoá… Ở đây có thể là mua nguyên vật liệu của nhà cung ứng nhưng chưa thanh toán ngay mà hẹn thanh toán sau đây là việc mượn vốn để kinh doanh do vậy mà nó sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa vì như vậy hàng hoá sẽ không bị tồn kho mà thay vào đó thì hàng hóa luôn được tiêu thụ. Vì vậy nó kích thích tiêu dùng hàng hoá không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả các nhà cung ứng.
Bên cạnh đó nó còn đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và lưu thông. Chính là xuất phát từ ưu điểm ở trên mà nó kéo theo ưu điểm này vì khi mà việc tiêu thụ hàng hóa được đẩy nhanh tức là quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra nhanh hơn, rõ ràng khi mà hàng hoá không tiêu thụ được bị tồn kho quá nhiều (loại trừ yếu tố dự trữ) thì quá trình tái sản xuất sẽ không thể được diễn ra nhanh được vì vốn bị ứ đọng do vậy mà quá trình lưu thông vốn cũng được đẩy nhanh khi mà quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục.
Môt ưu điểm nữa là nó làm gia tăng vòng chu chuyển vốn. Rõ ràng khi ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5282.doc