Những giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên

Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học Nông nghiệp hà nội ---------------  Trần hồng minh Những giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên luận văn thạc sĩ kinh tế Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: ts. Chu thị kim loan   Hà nội – 2008 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tác

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giả luận văn Trần Hồng Minh Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Tôi vô cùng cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo bộ môn Marketing khoa Kế toán và quản trị kinh doanh, khoa sau đại học, Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội đã đóng góp những ý kiến quý báu và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm tạ sự đóng góp quý báu và tận tình của Tiến sĩ Chu Thị Kim Loan, người đã không ngừng hướng dẫn, động viên và khuyến khích tôi từ những bước đi đầu tiên cho tới lúc hoàn chỉnh bản luận văn này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí lãnh đạo và toàn thể cán bộ phòng Nông nghiệp, phòng thống kê, phòng kinh tế huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên cùng các hộ nông dân, những người buôn bán đã nhiệt tình giúp đỡ và tham gia vào việc phân tích tình hình và đề xuất giải pháp tiêu thụ sản phẩm trong những đợt đi thực tế của tôi. Mục lục Danh mục các chữ viết tắt TT CN NTTS TCLN TTHH GO IC VA MI LĐ SL CC QMDT LĐGĐ Th.Xuyên Th.Vụ Tr.đ ĐVT SX HH SP TW V.V LHTT LLLĐ NV HT Trang trại Chăn nuôi Nuôi trồng thuỷ sản Trồng cây lâu năm Trang trại hỗn hợp Giá trị sản xuất Chi phí trung gian Giá trị gia tăng Thu nhập hốn hợp Lao động Số lượng Cơ cấu Qui mô diện tích Lao động gia đình Thường xuyên Thời vụ Triệu đồng Đơn vị tính Sản xuất Hàng hoá Sản phẩm Trung Ương Vân vân Loại hình trang trại Lực lượng lao động Nguồn vốn Hình thức Danh mục các bảng STT Tên bảng Trang 3.1. Tình hình sử dụng đất đai của huyện Tiên Lữ trong 3 năm (2005 – 2007) 38 3.2. Tình hình dân số và lao động của huỵên Tiên Lữ trong 3 năm (2005 – 2007) 40 3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Tiên Lữ năm 2007 42 3.4. Tình hình phát triển kinh tế của huyện Tiên Lữ trong 3 năm (2005 – 2007) 44 4.1. Cơ cấu loại hình trang trại huyên Tiên Lữ năm 2007 49 4.2. Một số thông tin về chủ trang trại ở huyện Tiên Lữ 51 4.3. Quy mô diện tích của các trang trại năm 2007 52 4.4. Tình hình sử dụng đất đai của các trang trại năm 2007 53 4.5. Lao động bình quân của các trang trại 54 4.6. Tình hình huy động và sử dụng vốn của trang trại 55 4.7. Khối lượng sản phẩm sản xuất của các trang trại 56 4.8. Kết quả và hiệu quả kinh tế của các chủ trang trại 58 4.9. Lượng sản phẩm được tiêu thụ 60 4.10. Tình hình tiêu thụ 1 số sản phẩm chủ yếu của các trang trại ở thị trường trong tỉnh 62 4.11. Khối lượng 1 số sản phẩm chủ yếu của các trang trại tiêu thụ ở thị trường ngoài tỉnh 65 4.12. Tình hình tiêu thụ 1 số sảm phẩm chủ yếu theo các tháng trong năm 67 4.13. Giá bán 1 số sản phẩm hàng hoá chủ yếu của các trang trại 69 4.14. ý kiến đánh giá của khách hàng 81 Danh mục sơ đồ STT Tên sơ đồ Trang 1. Mối quan hệ giữa giá cả với lượng cầu sản phẩm 15 2. Các loại kênh phân phối 19 3. Kênh tiêu thụ hàng hoá của các trang trại trên địa bàn huyện Tiên Lữ 77 4. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các trang trại huyện Tiên Lữ trong những năm tới 88 1. mở đầu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trang trại – hình thức tổ chức kinh tế cơ sở tất yếu của sản xuất nông nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta trong những năm gần đây, gắn liền với sự phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi sướng và lãnh đạo. Sự phát triển trang trại đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tập trung chuyên canh, sản xuất hàng hoá, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao. Sự chuyển dịch đó không những đem lại hiệu quả về mặt kinh tế mà còn mang lại hiệu quả về mặt xã hội, môi sinh, môi trường góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, giải quyết việc làm ổn định cho một bộ phận lớn lao động và góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. ở nước ta, trang trại đã có những bước phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc đổi mới kinh tế nông thôn, bên cạnh đó còn nhiều vấn đề phức tạp cần được giải quyết như: Khai thác đất quá mức, sản xuất khó tiêu thụ ... Ngoài ra còn nhiều bất cập về chính sách cơ chế của Nhà nước đối với trang trại. Từ đó cần có những nghiên cứu cụ thể về thực trạng trang trại cho phù hợp với kinh tế thị trường và điều kiện tự nhiên xã hội của địa phương nhằm khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực sẵn có, hình thành nên một loại hình kinh tế đặc trưng trong kinh tế đất nước. Tiên Lữ là huyện đồng bằng có địa hình tương đối thấp, trong những năm qua việc sử dụng đất đai còn manh mún, chủ yếu là độc canh cây lúa, việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước huyện đã tiến hành dồn điền đổi thửa khuyến khích phát triển các mô hình trang trại nhằm khai thác tốt các tiềm năng dồi dào của địa phương mang lại hiệu quả kinh tế cao góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, tạo việc làm giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, tăng thêm thu nhập cho một số các bộ phân dân cư. Tuy nhiên hiện nay tiêu thụ sản phẩm là vấn đề gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đối với các chủ trang trại. Nguyên nhân của vấn đề này là do thị trường nông thôn còn hạn chế, các chủ trang trại chưa quen với kinh tế thị trường, chưa biết và nắm bắt nhu cầu của thị trường cho nên sản xuất chưa gắn với tiêu thụ chế biến, các chủ trang trại vẫn sản xuất những sản phẩm quen làm mà chưa chú ý đến sản phẩm người tiêu dùng cần. Sản phẩm chủ yếu bán tươi chưa qua chế biến, do vậy lợi nhuận thấp. Trong thực tế nhiều khi vào chính vụ thu hoạch tiêu thụ kém, trong khi đó hàng nông sản dễ hư hỏng do vậy phải bán với giá thấp gây thiệt hại cho các chủ trang trại, các chủ trang trại đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, có thể nói tiêu thụ sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của các trang trại. Song tình hình tiêu thụ sản phẩm của từng loại hình trang trại ở đây đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào trả lời một cách cụ thể.Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Những giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Phân tích, đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm của các trang trại trên địa bàn huyện Tiên Lữ và những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình đó, từ đó đề ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của trang trại. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hoá lý luận và tìm hiểu về tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của các trang trại. - Phân tích, đánh giá thực trạng tiêu thụ và một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ. - Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở địa bàn nghiên cứu. 1.3. Đối tượng và phạm vI nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở địa bàn huyện Tiên Lữ. - Đối tượng trực tiếp là các chủ trang trại, người bán lẻ, bán buôn và tiêu dùng trực tiếp các sản phẩm của trang trại. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu các khía cạnh kinh tế, xã hội liên quan đến tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các trang trại ở huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu các trang trại thuộc huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên. - Về thời gian: + Số liệu của huyện giai đoạn 2005 – 2007 + Số liệu điều tra 2007 2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số lý luận cơ bản về trang trại 2.1.1.1. Khái niệm về trang trại Theo từ điển tiếng Việt năm 1998 của nhà suất bản Đà Nẵng thì trang trại được hiểu một cách khái quát là: “Trại lớn sản xuất nông nghiệp”. [1] Theo Nguyễn Thuý Nhã: “Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thuỷ sản có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”. [2] Nguyễn Phượng Vĩ lại cho rằng: “ Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hoá”. [3] Trong nghị quyết TW số 06/NQ-TW ngày 10/11/1998 cũng đã xác định: “…trang trại gia đình thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả”. [4] 2.1.1.2. Vai trò của trang trại Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất quan trọng trong nền nông nghiệp thế giới. ở nước ta, kinh tế trang trại (mà chủ yếu là trang trại gia đình) mặc dù mới phát triển mạnh trong những năm gần đây. Song với vai trò tích cực và tầm quan trọng của nó đã thể hiện rõ nét cả về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội và môi trường. - Về mặt kinh tế: Các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, manh mún, tạo nên những vùng chuyên môn hoá, tập trung hàng hoá vào thâm canh. Mặt khác qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. Thực tế cho thấy việc phát triển kinh tế trang trại ở những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc khai thác và sử dụng một cách đầy đủ, hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn so với kinh tế hộ. Do vậy, phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Về mặt xã hội: Phát triển kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong việc làm tăng số hộ giầu trong nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Điều này rất có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề lao động và việc làm là một trong những vấn đề bức xúc của nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. Mặt khác phát kinh tế trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn và tạo tấm gương cho các hộ nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh … Do đó, phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội và đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn nước ta. - Về mặt môi trường: Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái trang trại và trong phạm vi từng vùng. Các trang trại ở trung du miền núi đã góp phần quan trọng vào việc trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất. Những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo bảo vệ môi trường sinh thái trên các vùng của đất nước. 2.1.1.3. Xu hướng phát triển của trang trại Các trang trại đã được hình thành và sẽ phát triển theo những xu hướng chủ yếu sau: - Tích tụ và tập trung sản xuất Sau khi hình thành, nhìn chung các trang trại vẫn diễn ra quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tuy nhiên tính chất tích tụ và tập trung này không hoàn toàn giống như tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất của hộ để hình thành trang trại. Tích tụ và tập trung trong phát triển trang trại lúc này là nhằm mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Tích tụ và tập trung trong các trang trại chủ yếu là tích tụ vốn và ở những nơi có điều kiện bao gồm cả việc tập trung ruộng đất. Tích tụ vốn thực chất là làm tăng vốn tự có của trang trại để đầu tư mở rộng sản xuất, chủ yếu đầu tư cho chiều sâu tức là đầu tư cho thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. - Chuyên môn hoá sản xuất Sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá là xu hướng tất yếu trong phát triển trang trại vì muốn sản xuất hàng hoá phải đi vào chuyên môn hoá sản xuất. Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mà sản xuất chuyên môn hoá trong các trang trại phải kết hợp với sản xuất đa dạng một cách hợp lý để có thể khai thác có hiệu quả các nguồn lực đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, đồng thời hạn chế rủi ro về thiên tai và biến động của thị trường. Xu hướng sản xuất chuyên môn hoá của trang trại thể hiện ở chỗ: + Trên cơ sở phân vùng quy hoạch của cả nước, của từng vùng và địa phương, các trang trại bố trí sản xuất một số sản phẩm hàng hoá chính có giá trị phù hợp với yêu cầu của thị trường và với điều kiện sản xuất của mình. + Dựa vào một số sản phẩm chính mà kết hợp sản xuất một số sản phẩm bổ sung để hỗ chợ cho sản phẩm chính, đồng thời để sử dụng đầy đủ các điều kiện đất đai, lao động và tư liệu sản xuất của trang trại. Phát triển theo hướng trên sẽ xuất hiện nhiều trang trại chuyên môn hoá sản xuất có hiệu quả cao như các trang trại chuyên môn hoá cà phê, cây ăn quả, chè, thuỷ sản, chăn nuôi bò sữa, gia cầm, lợn … - Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất Xu hướng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất trong các trang trại là xu hướng tất yếu và gắn liền với việc nâng cao năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi. Để thực hiện điều đó các trang trại phải đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho từng trang trại phù hợp với sự phát triển khoa học của vùng dựa trên sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước trong vấn đề xây dựng công trình nông thôn, nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật thâm canh. - Hợp tác và cạnh tranh Các trang trại muốn sản xuất hàng hoá phải hợp tác và liên kết với nhau và với những đơn vị, tổ chức khác. Hợp tác để giúp nhau giải quyết tốt hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh như thuỷ nông, bảo vệ thực vật, thương mại dịch vụ. Đi đôi với việc hợp tác, các trang trại phải cạnh tranh với các tổ chức và đơn vị khác để tiêu thụ sản phẩm, tái sản xuất mở rộng. 2.1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển trang trại - Yếu tố tự nhiên: Điều kiện khí hậu, đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất trang trại nói riêng. Với đặc điểm của khí hậu, địa lý nước ta đã tạo ra sự đa dạng của các loại cây trồng, vật nuôi, ở các vùng trung du và miền núi, khả năng phát triển các trang trại cây ăn quả, trang trại chăn nuôi đàn gia súc lớn, vùng đồng bằng khả năng tích tụ ruộng đất rất hạn chế nên chỉ có thể phát triển các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi lợn, gia cầm và các loại cây đặc sản. Việc phát triển kinh tế trang trại chú ý khai thác các yếu tố tự nhiên một cách hợp lý để vừa tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. - Các yếu tố kỹ thuật: Trong giai đoạn hiện nay khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, công nghệ sinh học đã tạo cho nền nông nghiệp những giống cây trồng mới, con gia súc cho năng suất cao, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu và là nguồn lực để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Vốn: Mỗi trang trại đều cần phải có một lượng vốn nhất định, từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi chủ trang trại lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh nhằm bảo toàn vốn và đạt lợi nhuận cao nhất. Hiện nay, hầu hết các trang trại ở nước ta đã và đang hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn tự có của mình và thu hút vốn của người thân. Mặc dù nhà nước đã có những chính sách ưu đãi vốn với các lĩnh vực phát triển kinh tế, nhưng yếu tố vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh là một bài toán cho các chủ trang trại. - Thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra: Để trang trại tồn tại và phát triển đòi hỏi chủ trang trại phải nắm được quy luật của thị trường để từ đó đầu tư các yếu tố đầu vào phù hợp, giá rẻ nhằm tạo ra sản phẩm có giá thành thấp, bán giá cao, lãi nhiều. - Kết cấu hạ tầng cơ sở: Cơ sở hạ tầng là một yếu tố rất quan trọng, nếu hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi mà tốt và thuận lợi làm động lực cho phát triển kinh tế trang trại, lưu thông hàng hoá tốt và ngược lại. - Lao động: ở nước ta nguồn lao động rất dồi dào, các trang trại thường thuê lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh trang trại với giá rẻ, tuy nhiên lao động trình độ kỹ thuật cao đang làm cho các trang trại không nhiều, hầu hết là lao động phổ thông. Do vậy, muốn trang trại phát triển mạnh cần đào tạo, bồi dưỡng tập huấn cho lao động của trang trại. - Chính sách của Nhà nước: Các chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển trang trại ở nước ta. Thực tế khẳng định nếu Đảng và Nhà nước không kịp thời ban hành chỉ thị 100, nghị quyết 10 của Bộ chính trị, luật đất đai thì đến nay việc phát triển kinh tế trang trại ở nước ta vẫn không thể phát triển được như ngày nay. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa tới việc đầu tư vốn, tích tụ ruộng đất, khoa học kỹ thuật ... cho trang trại để kịp phát triển trang trại với khu vực và trên thế giới. 2.1.1.5. Các tiêu chí nhận dạng trang trại Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải được cải thiện hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân một năm phải đạt từ 100 triều đồng trở lên. * Đối với trang trại trồng trọt + TT trồng cây hàng năm: Từ 2ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. + TT trồng cây lâu năm: Từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung; từ 5ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên; trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5ha trở lên. + TT lâm nghiệp: Từ 10ha trở lên đối với các vùng trong cả nước. * Đối với trang trại chăn nuôi + Chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò,.v.v…): Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên; chăn nuôi thịt có thường xuyên 50 con trở lên. + Chăn nuôi gia súc (lợn, dê,.v.v…): Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên; chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa) dê thịt từ 200 con trở lên. + Chăn nuôi gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng,.v..v): Có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi). * Trang trại nuôi trồng thuỷ sản Diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1ha trở lên). * Đối với hộ sản xuất trong thời kỳ đầu xây dựng cơ bản thì tiêu chí xác định kinh tế trang trại chỉ cần bảo đảm quy mô sản xuất. Những hộ sản xuất, kinh doanh tổng hợp chỉ cần bảo đảm tiêu chí giá trị sản lượng hàng hoá bình quân trên 100 triệu đồng/năm. [5] 2.1.2. Những vấn đề về tiêu thụ 2.1.2.1. Khái niệm, quan điểm, mục đích và vai trò của tiêu thụ sản phẩm 2.1.2.1.1. Khái niệm Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của các nhà sản xuất. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện, giữa hai khâu này có sự khác nhau, quyết định đến bản chất hoạt động thương mại đầu vào và hoạt động thương mại đầu ra. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được cấu thành từ các yếu tố sau: - Chủ thể kinh tế tham gia: Người bán và người mua - Đối tượng tiêu thụ: Hàng hoá, dịch vụ và tiền tệ - Thị trường: Có thể hiểu rằng thị trường là nơi diễn ra các mối quan hệ kinh tế, là nơi chứa đựng tổng số cung – cầu, là nơi tập hợp nhu cầu các loại sản phẩm hàng hoá. [6] 2.1.2.1.2. Quan điểm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm Ngày nay, trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường các nhà sản xuất buộc phải năng động, sáng tạo tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Một trong những khâu quan trọng đó là hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Thực tế trong kinh doanh cho ta thấy không thiếu những sản phẩm được sản xuất ra rất tốt nhưng lại tiêu thụ chậm, thậm chí không tiêu thụ được do không biết cách tổ chức tiêu thụ sản phẩm, không đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng của xã hội. Do vậy tiêu thụ sản phẩm là công việc vô cùng khó khăn mà đòi hỏi các nhà sản xuất phải trăn trở suy nghĩ. Muốn nâng cao hiệu quả trong hoạt động tiêu thụ đòi hỏi phải nghiên cứu thường xuyên, có kế hoạch, chiến lược thị trường phù hợp về mẫu mã, giá cả, chất lượng. Hoạt động tiêu thụ thường tuân theo một số quan điểm sau: * Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ sản phẩm hàng hoá sang tiền tệ. Quá trình này phải đảm bảo: Tổng doanh thu lớn hơn tổng chi phí. Để thực hiện được quan điểm này, đòi hỏi nhà sản xuất phải có chiến lược, sách lược sản phẩm là sử dụng phương thức kinh doanh như thế nào để có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường và thị hiếu của khách hàng. Một chiến lược sản phẩm được coi là tối ưu trước hết phải hội tụ đủ khả năng vượt qua những trở ngại trên con đường đi tới mục tiêu của nhà sản xuất đã định ra. Hơn nữa phải đảm bảo công tác tạo nguồn trong sản xuất, liên doanh, liên kết ổn định, thường xuyên mở rộng thị trường, tăng cường mở rộng các hoạt động marketing tinh đồng thời phải linh hoạt, nhạy bén thích ứng kịp thời với những thay đổi nhanh chóng của thị trường và các đối tượng khách hàng khác nhau. Khi xây dựng chiến lược sản phẩm cần chú ý tới 2 nguyên tắc cơ bản sau: Chỉ quyết định sản xuất sản phẩm mới khi trải qua đầy đủ 4 bước: Nghiên cứu - thiết kế – chế thử – chuẩn bị điều kiện. - Chỉ lựa chọn sản phẩm khi đáp ứng được 2 mặt: Tiến bộ kỹ thuật và lợi ích kinh tế. * Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm để rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh. Sản xuất là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, nó có thể biểu hiện dưới dạng sau: T H T1 LN1 = T - T1 Vòng quay 1 T1 H1 T2 LN2 = T2 - T1 Vòng quay 2 T: Lượng đầu vào cho sản sản xuất H: Lượng hàng hoá sản xuất vòng 1 H1: Lượng hàng hoá sản xuất vòng 2 T1: Lượng tiền thu được sau khi bán hàng ở vòng quay 1 T2: Lượng tiền thu được sau khi bán hàng ở vòng 2 Trong nền kinh tế thị trường khi mà cạnh tranh ngày càng gay gắt muốn đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa thì phải rút ngắn được chu kỳ sản xuất kinh doanh nhằm tăng vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Muốn làm được điều đó đòi hỏi quá trình tiêu thụ sản phẩm phải được tiêu thụ nhanh chóng. Điều này được thể hiện bởi số vòng quay của vốn lưu động. L = M/V L: Số vòng quay của vốn lưu động trong một năm M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch V: Vốn lưu động bình quân 1 năm Vậy muốn tăng tổng lợi nhuận thì hoặc tăng LN1 hay tăng số vòng quay L. Từ đó rút ngắn được chu kỳ sản xuất kinh doanh, làm thúc đẩy sản xuất phát triển, sử dụng tối đa nguồn lực đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, dẫn đến hạ giá thành sản phẩm thị trường, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Ngược lại sẽ làm cho hàng hoá khó tiêu thụ, dẫn đến sản xuất bị trì trệ, khó mở rộng quy mô sản xuất. * Tiêu thụ sản phẩm tác động đến khâu sản xuất Quá trình sản xuất kinh doanh gồm nhiều công đoạn, giữa các khâu có mối quan hệ với nhau như một chuỗi mắt xích, các mắt xích kéo dài từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và có sự tác động qua lại với nhau. Tiêu thụ sản phẩm luôn gắn với thị trường và thị hiếu người tiêu dùng. Những thông tin phản ánh đúng nhu cầu thị trường và thị hiếu người tiêu dùng sẽ là kim chỉ nam cho định hướng phát triến sản xuất và ngược lại nếu thông tin sai hay định hướng không tốt sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất như: Sản xuất ra sản phẩm không phù hợp với cái mà thị trường cần, hàng hoá không tiêu thụ được, dẫn đến thua lỗ. 2.1.2.1.3. Mục đích của công tác tiêu thụ sản phẩm Quá trình tiêu thụ nhằm vào 3 mục đích chính: - Bảo đảm việc tiêu thụ sản phẩm theo đúng kế hoạch, đúng hợp đồng đã ký trên quan điểm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng. - Bảo đảm uy tín doanh nghiệp, tăng cường sự tin tưởng và gắn bó lâu dài của khách hàng với doanh nghiệp. - Đảm bảo ngày càng có nhiều khách hàng mới cho doanh nghiệp thông qua công tác giao dịch, phương thức phân phối, tiêu thụ, thủ tục giao nhận và thanh toán đối với khách hàng trên quan điểm coi khách hàng là thượng đế của doanh nghiệp. Đấy chính là động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. 2.1.2.1.4. Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển. Khi sản phẩm được tiêu thụ tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu thị trường, nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng. Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nghĩa là sản xuất diễn ra một cách bình thường và trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp cho các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng xã hội nói chung và của từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục hiệu quả thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải được tổ chức tốt. Việc quản lý hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp được tiến hành dựa trên cơ sở các chứng từ nhập kho, xuất kho theo mẫu đã quy định. 2.1.2.2. Nội dung nghiên cứu tiêu thụ sản phẩm 2.1.2.2.1. Nghiên cứu thị trường Trong cơ chế thị trường hiện nay có thể nói rằng, thị trường là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Cho nên khi nghiên cứu nhu cầu thị trường phải được coi là hoạt động có tính chất tiền đề, có tầm quan trọng để đảm bảo xác định đúng đắn phương hướng phát triển sản kinh doanh. Để nắm được nhu cầu của thị trường, việc nghiên cứu phải được tiến hành qua ba bước sau: Bước một: Tổ chức thu thập hợp lý các nguồn thông tin về nhu cầu, thị hiếu của thị trường đối với loại sản phẩm hàng hoá mà các nhà sản xuất đã, đang và có thể sản xuất. Các thông tin gồm: địa điểm, sức mua, sức bán, giá cả chấp nhận, mức độ ổn định của thị trường … nắm được các thông tin nhanh, kịp thời, chính xác để xác định phương hướng kinh doanh mới pháp huy được lợi thế vốn có. Bước hai: Phân tích sử lý đúng đắn các loại thông tin đã thu thập từ đó phân ra các loại thị trường. Phân tích lựa chọn những thông tin có ích để tránh sai lầm khi ra quyết định. Bước ba: Xác định khả năng đáp ứng của doanh nghiệp đối với thị trường. 2.1.2.2.2. Nghiên cứu giá cả Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Trong nền kinh tế của thị trường giá cả ẩn chứa nhiều mối quan hệ, nó liên quan tới sự cạnh tranh, sự tồn tại và phát triển sản phẩm hàng hoá đó trên thị trường. Nó thể hiện mối quan hệ tổng cung và tổng cầu về sản phẩm cũng như giữa người mua với người bán. Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa giá cả với lượng cầu sản phẩm S D P B P1 A P0 z C P2 Q Q2 Q0 Q1 0 Giả sử: A là điểm cân bằng thị trường D: Cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp S: Khả năng cung sản phẩm của doanh nghiệp P: Giá cả Q: Lượng sản phẩm hàng hoá Mục tiêu của nhà kinh doanh là đưa hai điểm B và C tiến gần tới điểm A. Muốn vậy đòi hỏi nhà kinh doanh phải có phương pháp định giá sản phẩm hàng hoá cho phù hợp. Giá cả còn phản ánh tình hình biến động của thị trường, chất lượng và uy tín của sản phẩm. Vì vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh thì việc xác định giá cả hợp lý cho sản phẩm là vô cùng quan trọng, giúp nhà kinh doanh tối đa hoá hiệu quả kinh tế. Việc xác định giá cả tiêu thị sản phẩm phải đảm bảo cho nhà sản xuất bảo tồn được vốn để phục vụ sản xuất và có lãi. Giá tiêu thụ sản phẩm của nhà kinh doanh được quết định bởi tổng chi phí sản xuất và chi phí lưu thông sản phẩm. Tuỳ vào tính chất hoạt động của nhà kinh doanh, dựa vào thị trường cạnh tranh hay dựa theo chu kỳ sống của sản phẩm. Thường có một số phương pháp định giá sau: - Định giá dựa vào chi phí bình quân P = AFC + AVC + Lợi nhuận Trong đó: P: Giá bán sản phẩm AFC: Chi phí cố định bình quân AVC: Chi phí biến đổi bình quân Phương pháp này sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có lãi. - Định giá dựa vào cơ sở phân tích điểm hoà vốn Phv = FC/Qhv + AVC Trong đó: FC: Tổng chi phí cố định Qhv: Sản lượng hoà vốn Phv: Giá tại điểm hoà vốn Phương pháp này giúp doanh nghiệp biết được mức giá cần đặt ra để khi tiêu thụ hết lượng Qhv sản phẩm thì nhà kinh doanh sẽ hoà vốn. 2.1.2.2.3. Nghiên cứu khách hàng Với phương châm “khách hàng là thượng đế ” nên nhà sản xuất phải biết được sở thích, nhu cầu của “thượng đế” thì mới làm thoả mãn nhu cầu và tăng cường mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng được. Nhà sản xuất cần nắm được các thông tin như: người tiêu dùng hay mua loại sản phẩm hàng hoá gì? mua ở đâu? số lượng bao nhiêu? mua khi nào? trong năm. Trên cơ sở đó nhà sản xuất có thể định hướng được chính sách phân phối đúng đắn, nắm bắt được thời cơ để đưa hàng hoá ra thị trường nhằm đạt hiệu quả tiêu thụ cao nhất. Ngoài ra nhà sản xuất còn phải nắm được tập tính, thị hiếu của người tiêu dùng để từ đó có chiến lược tiêu thụ cho phù hợp. Nhìn chung: - Người tiêu dùng thường muốn thuận tiện khi mua hàng, nhanh gọn. - Người tiêu dùng muốn mua hàng hoá có chất lượng cao. - Người._. tiêu dùng muốn mua hàng hoá mới kèm theo dịch vụ hỗ trợ. - Người tiêu dùng muốn mua hàng hoá với giá phải chăng, phương thức thuận tiện. 2.1.2.2.4. Nghiên cứu cạnh tranh Nghiên cứu cạnh tranh là nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh và đề ra định hướng, biện pháp giải quyết phù hợp với doanh nghiệp mình. Nhìn chung mọi doanh nghiệp đều phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh khác nhau. Xét quan điểm cạnh tranh trên 4 cấp độ: - Cạnh tranh mong muốn tức là với cùng một lượng thu nhập người ta có thể dùng vào các mục đích khác nhau: Mua sắm các trang thiết bị trong gia đình, đi du lịch...khi dùng mục đích này có thể thôi không dùng mục đích khác, dùng cho mục đích này nhiều sẽ hạn chế mục đích khác. Cơ cấu chi tiết có thể phản ánh một xu hướng tiêu dùng, do đó tạo ra cơ hội hay đe dọa hoạt động tiêu thụ. - Cạnh tranh giữa các loại sản phẩm khác nhau để cùng thoả mãn một mong muốn. Mong muốn về phương tiện đi lại hoặc mong muốn về giống có thể gây ra sự cạnh tranh. - Cạnh tranh cùng loại sản phẩm - Cạnh tranh giữa các nhãn hiệu Trong 4 loại cạnh tranh trên mức độ gay gắt dần từ 1 đến 4. Khi xem xét cạnh tranh doanh nghiệp phải tính tới cả 4 cấp độ để quyết định các phương án cho hoạt động tiêu thụ của mình, nghĩa là phải xác định và dự đoán trước vấn đề gì sẽ xẩy ra trong thời gian cạnh tranh thì doanh nghiệp phải tìm khoảng thời gian cạnh tranh. Nếu tiềm lực của doanh nghiệp còn thấp kém, không đủ sức cạnh tranh thì doanh nghiệp phải tìm khoảng trống thị trường để lé tránh, tức là tìm những sản phẩm mà đối thủ bỏ qua để sản xuất và tìm thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. 2.1.2.2.5. Nghiên cứu kênh phân phối Theo quan điểm tổng quát kênh phân phối là một loại hoạt động tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Nói cách khác, đây là một nhóm tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ sẵn sàng cho người tiêu dùng hoặc người sử dụng công nghệ, để họ có thể mua và sử dụng. Các kênh phân phối tạo nên dòng chảy hàng hoá từ người sản xuất qua hoặc không qua các trung gian tới người mua cuối cùng. Phân phối góp phần không nhỏ trong quá trình cung cấp cho khách hàng đúng sản phẩm, đúng thời gian, đúng vị trí trên cơ sở kênh hay luồng hàng. Các yếu tố cấu thành hệ thống kênh phân phối bao gồm: - Người cung ứng: Nhà sản xuất, công ty thương mại - Người trung gian: Đại lý, người bán buôn, người bán lẻ, người môi giới - Người tiêu dùng cuối cùng: Khách hàng Tuỳ từng điều kiện khác nhau mà doanh nghiệp áp dụng các kênh khác nhau sao cho vừa giảm được chi phí marketing, vừa tăng cường được lượng bán sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả tiêu thụ. Các loại kênh phân phối: có hai loại kênh phân phối đó là kênh trực tiếp và kênh gián tiếp, kênh gián tiếp lại có nhiều mức độ trung gian khác nhau.Ta có thể thấy qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2: các loại kênh phân phối Người tiêu dùng Người sản xuất, cung ứng (2) (1) Người bán lẻ Người bán lẻ Người bán buôn (3) (4) Đại lý Người bán lẻ Người bán buôn Kênh (1): kênh trực tiếp Kênh (2,3,4): kênh gián tiếp Tuỳ từng điều kiện khác nhau mà có thể áp dụng các kênh khác nhau sao cho vừa giảm được chi phí marketing, vừa tăng cường được lượng bán sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả tiêu thụ. 2.1.2.2.6. Nghiên cứu các hoạt động yểm trợ đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá * Thông tin quảng cáo Là hình thức truyền thông trực tiếp được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin như truyền hình, phát thanh, áp phích, báo chí … qua đó đưa các thông tin cần thiết nhằm kích thích thị hiếu của người tiêu dùng đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Quảng cáo được thực hiện trên một phạm vi không gian, thời gian và một khoảng chi phí nhất định. * Khuyến mại Khuyến mại là hình thức khuyến khích khách hàng mua nhiều sản phẩm bằng các ưu đãi có điều kiện. Ví dụ khi mua khối lượng hàng hoá lớn sẽ được giảm giá hay chiết khấu tỷ lệ cho khách hàng. Một số doanh nghiệp còn có hình thức khuyến mại đặc biệt dành cho khách hàng mua được sản phẩm có phiếu trúng thưởng. Từ đó kích thích tâm lý tới người tiêu dùng sẽ mua nhiều lần, nhiều lượng sản phẩm của doanh nghiệp hơn. Thường thì việc khuyến mại chỉ diễn ra trong một giai đoạn cần thiết nào đó, nhằm nâng cao thông tin và uy tín của doanh nghiệp nhất là khi có sản phẩm mới, thị trường cũ hay sản phẩm cũ thị trường mới. 2.1.2.2.7. Xây dựng, lựa chọn chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường Sản phẩm hàng hoá, nhu cầu và thị hiếu của thị trường có nhiều loại. Do đó cần phối hợp chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường để tìm ra được sự kết hợp có hiệu quả nhất. * Nội dung của chiến lược sản phẩm cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau: - Loại sản phẩm mà doanh nghiệp đã và đang sản xuất kinh doanh còn được thị trường và người tiêu dùng chấp nhận không? Nếu như sản phẩm đã và đang sản xuất kinh doanh không được thị trường chấp nhận nữa thì phải tiến hành đa dạng hoá sản phẩm như thế nào cho có hiệu quả. - Việc thay đổi cải tiến sản phẩm cũ bằng các sản phẩm mới như thế nào để được thị trường chấp nhận? - Thời điểm thay đổi sản phẩm cũ được tiến hành vào lúc nào là thích hợp trên cơ sở nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm? * Nội dung của chiến lược thị trường - Nghiên cứu khái quát thị trường: Đánh giá đặc điểm chủ yếu của thị trường, xác định được những thuận lợi, khó khăn của mỗi thị trường, từ đó chọn được thị trường mục tiêu tương lai phù hợp với tiềm năng của doanh nghiệp. - Nghiên cứu chi tiết thị trường: tìm hiểu kỹ lưỡng về khách hàng làm cơ sở cho việc lựa chọn xác định thị trường, tức là nghiên cứu trực tiếp người tiêu dùng, để có biện pháp phù hợp 2.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ - Sản xuất Sản xuất là một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho xã hội. Điều hành tốt hệ thống sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trên thị trường. Tổ chức hệ thống sản xuất nhằm biến đổi đầu vào thành các yếu tố đầu ra sau mỗi quá trình biến đổi, tạo ra nguồn thu nhập cho tất cả các tác nhân có tham gia đóng góp vào hoạt động của hệ thống tiêu thụ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của người sản xuất. Để tiêu thụ được thuận lợi thì khâu sản xuất phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo đúng yêu cầu của khách hàng; giảm sản phẩm sản xuất ở mức thấp nhất để tạo ra một đơn vị đầu ra; rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ; xây dựng hệ thống sản xuất của doanh nghiệp có độ linh hoạt cao. - Thị trường Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành khác nhau nên việc tiêu thụ sản phẩm cũng có những nét đặc trưng khác nhau. Ngành công nghiệp thường có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn, ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Ngành nông nghiệp thường có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài do phải phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết. Nắm được đặc điểm của ngành nghề, người sản xuất mới có khả năng nghiên cứu và sử dụng các biện pháp thích hợp để phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ. Thị trường được coi là phạm trù trung tâm, vì qua đó người sản xuất có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống tiêu thụ. - Chất lượng sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén, là một yếu tố góp phần vào việc khẳng định vị trí của người sản xuất trên thị trường. Khi mức sống của hầu hết các bộ phận nhân dân ngày càng cao, nhu cầu của họ ngày càng tăng, thị trường có nhiều sự lựa chọn thì chỉ có những sản phẩm có chất lượng “đủ tốt” mới gây được sự chú ý của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm không những thu hút được nhiều khách hàng, mà còn tạo cho người sản xuất nâng giá bán một cách hợp lý, tăng lợi nhuận. Đồng thời chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho việc kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, góp phần phát triển và mở rộng thị trường, cải thiện tình hình tài chính của người sản xuất. Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng phát triển, các sản phẩm có chất lượng cao, hình thức hấp dẫn luôn được ưa chuộng, nó làm cho hoạt động tiêu thụ cũng ngày càng phụ thuộc vào yếu tố này. - Giá cả sản phẩm tiêu thụ Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán trong quan hệ cung cầu và yếu tố cạnh tranh. Mỗi một doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau. Mỗi mức giá đưa ra phải căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường, mức giá quy định của Nhà nước. Giá cả có ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm bán ra; sự đánh giá của khách hàng về chất lượng sản phẩm, về vị trí của doanh nghiệp; nó quyết định đến việc mua sản phẩm hàng hoá của khách hàng; và là phương thức cạnh tranh của người sản xuất trên thị ttrường. - Mẫu mã bao bì Đây là cảm nhận đầu tiên của khách hàng về sản phẩm hàng hoá. Ngày nay người ta thường đánh giá chất lượng hàng hoá thông qua bao bì, vì vậy nhà sản xuất cũng nên chú ý thiết kế sao cho phù hợp với chất lượng và giá cả sản phẩm đem ra tiêu thụ. - Các hình thức quảng cáo Trong môi trường cạnh tranh, quảng cáo sản phẩm không thể tách rời hoạt động sản xuất kinh doanh, là vấn đề có tính chất chiến lược của sản xuất và tiêu thụ. Quảng cáo sẽ cung cấp thông tin tới người tiêu dùng về sản phẩm và bản thân người sản xuất. Song phải lưu ý quảng cáo mang tính hai mặt. Sử dụng quảng cáo phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản: lượng thông tin cao nhất; nội dung phù hợp; đảm bảo tính pháp lý, tính nghệ thuật và tính trung thực của thông tin đưa ra, phù hợp với khả năng kinh phí của người sản xuất. Quảng cáo gắn liền với chữ tín, nếu quảng cáo sai sự thật thì sản phẩm của nhà sản xuất sẽ bị tẩy chay khỏi thị trường. - Trình độ tổ chức quản lý tiêu thụ + Hình thức bán hàng Người sản xuất có thể áp dụng nhiều hình thức bán hàng thông qua các kênh phân phối. Có thể có các cách bán hàng: Bán hàng có người bán: là hình thức cổ điển truyền thống được thực hiện bởi các nhân viên bán hàng. Người bán và người mua đối diện để tìm hiểu, thoả thuận về các vấn đề liên quan đến hàng hoá và phương thức bán hàng. Bán hàng không có người bán: là phương pháp bán hàng hiện đại trong đó hàng hoá được bày bán trong tầm tay của người mua hàng với giá cả được niêm yết. Người mua được tự do lựa chọn hàng hoá sau đó thanh toán thẳng với người thu tiền. Bán hàng bằng quảng cáo và bằng sự tư vấn nhằm giúp khách hàng hiểu biết về sản phẩm và người sản xuất, qua đó khách hàng có thể tìm thấy nhu cầu này sẽ được thoả mãn bởi các sản phẩm, dịch vụ của người sản xuất. Bán hàng theo khách hàng trọng điểm: việc bán hàng được định hướng theo tư thế của “tỷ lệ vàng”, tức là số khách hàng này có thể tiêu thụ 80 – 85% doanh số bán của người sản xuất. Bán hàng qua cơ sở trung gian: người sản xuất lựa chọn các nhà bán buôn, các nhà bán lẻ, các đại lý hoặc môi giới để tiếp tục thực hiện quá trình chuyển hàng hoá đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra còn hình thức bán hàng qua thư tín, qua điện thoại, qua internet hoạc thông qua hội chợ triển lãm, hội thảo, bán hàng trao tay … + Mạng lưới tiêu thụ Trong nền kinh tế thị trường, người bán buôn, bán lẻ, đại lý, người môi giới … được hình thành một cách khách quan. Để xây dựng được mạng lưới tiêu thụ hợp lý và sử dụng các loại hình trung gian có hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh, thu được lợi nhuận cao các doanh nghiệp phải căn cứ vào tính chất đặc điểm của sản phẩm, cũng như các điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà sử dụng các mạng lưới tiêu thụ khác nhau. + Các hoạt động dịch vụ khác Dịch vụ ở đây có thể được hiểu là tất cả các hoạt động hỗ trợ nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng như vận chuyển miễn phí, bảo hành sản phẩm, quà tặng kèm theo … - Đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh là những người có sản phẩm hàng hoá cùng loại với người sản xuất kinh doanh hay những sản phẩm có thể thay thế lẫn nhau. Lực lượng này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Số lượng đối thủ cạnh tranh càng nhiều việc tiêu thụ càng khó khăn và phức tạp. 2.1.2.4. Đặc điểm của tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Nông nghiệp là một ngành kinh tế đặc biệt, khác với công nghiệp, với các ngành kinh tế khác ở các lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ, đầu tư... trong khi đối tượng sản xuất của công nghiệp phần lớn là các vật vô tri vô giác, thì nông nghiệp có đối tượng sản xuất là sinh vật sống, vì thế trong nông nghiệp quá trình tái sản xuất kinh tế, liên hệ mật thiết với quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật, thời gian lao động không ăn khớp và xen kẽ với sản xuất nên sinh ra tính thời vụ. Hơn nữa, nông nghiệp được phân bố trên phạm vi không gian rộng lớn (đặc điểm này do tính chất đất đai quy định), do đó nó không những ảnh hưởng đến sản xuất mà còn ảnh hưởng đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nhất là đối với các đơn vị chuyên sản xuất kinh doanh cung ứng nông sản thực phẩm. Thật vậy, trong nông nghiệp khối lượng đầu ra không tương ứng về số lượng và chất lượng so với đầu vào. Trong công nghiệp, giữa nguyên liệu và thành phẩm có sự đối ứng khá cao. Ví dụ: Trọng lượng của gang đem đúc gần bằng với trọng lượng của cỗ máy được đúc bằng gang... trái lại, trong nông nghiệp nguyên liệu ban đầu là hạt giống, con giống có thể làm cho thành phẩm tăng lên gấp bội khi được mùa và cũng là con số không nếu mất mùa, vì thế giá cả nông sản phẩm hay biến động trên thị trường trong một năm. Mặt khác, sản phẩm nông nghiệp vừa được tiêu dùng tại chỗ lại vừa trao đổi trên thị trường. Trong công nghiệp, gần như sản phẩm sản xuất ra được đưa toàn bộ vào thị trường. Trái lại, trong nông nghiệp sản phảm sản xuất ra vừa được người sản xuất giữ lại để tiêu dùng nội bộ vừa được bán trên thị trường. Do đó, nông sản phẩm có thể tham gia vào rất nhiều kênh thị trường. Các kênh này đan xen theo mối quan hệ phức tạp, nhiều chiều. Tỷ trọng sản xuất, trình độ phát triển của hệ thống thị trường và thông tin người sản xuất có được. Từ đây cần thấy rõ các luồng đi của sản phẩm nông nghiệp, tác động vào các khâu thị trường trọng yếu để có chiến lược sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. ở mỗi khâu của quá trình sản xuất chế biến, phân phối, bán hàng và tiêu dùng đều phải được coi trọng một cách đúng mức. Đó là yêu cầu tất yếu của một nền nông nghiệp hàng hóa. Do sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên việc cung cấp nông sản hàng hoá cũng mang tính chất thời vụ. Đặc điểm này dẫn đến sự biến động lớn về giá cả nông sản giữa đầu vụ và cuối vụ. Mặt khác, trong khi ở ngành công nghiệp chỉ trong thời gian rất ngắn, người sản xuất có thể đưa ra thị trường sản phẩm mà người tiêu dùng cần thì trong nông nghiệp, người sản xuất phải trải qua hàng vụ, hàng năm thậm trí dài hơn (Ví dụ: 2 năm đến 5 năm với cây ăn quả hoặc cây công nghiệp lâu năm) mới đưa ra sản phẩm cung cấp cho người tiêu dùng cần. Tính muộn màng của cung về nông sản đòi hỏi phải có sự dự tính, dự báo chính xác về giá cả và thị trường của nông sản hàng hoá. Hơn nữa, đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng để dự trữ, bảo quản hàng hoá lúc thời vụ, phải có cơ chế thị trường mềm dẻo, linh hoạt. Đặc biệt, Chính phủ phải có chính sách giá cả ổn định cho cả đầu vào đầu ra một sản phẩm. [7] 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Tình hình phát triển trang trại ở một số nước trên thế giới Trên thế giới hình thức trang trại xuất hiện từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII trải qua ba thế kỷ tồn tại và phát triển, trang trại được khẳng định là mô hình kinh tế phù hợp đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Mỹ là một trong những nước có kinh tế trang trại phát triển sớm nhất trên thế giới, năm 1950 ở nước mỹ có 5648 trang trại, quy mô trang trại ở Mỹ có xu hướng giảm về số lượng nhưng về diện tích bình quân của trang trại lại tăng lên trung bình là 120 ha một trang trại. ở Mỹ loại hình trang trại liên doanh chiếm 10% tổng số trang trại và chiếm 16% diện tích đất của các trang trên trên đất Mỹ. Trang trại hợp doanh theo cổ phần chiếm 2,7% tổng số trang trại, 13,7% diện tích đất đại. Bình quân một cơ sở trang trại ở Mỹ có 800 – 900 ha đất đai. Loại hình này rất ít xuất hiện ở nước khác trên thế giới. Các trang trại gia đình, chủ trang trại hầu hết là nông dân sống ở nông thôn họ là người trực tiếp điều hành cũng như trực tiếp sản xuất, các chủ trang trại sống ở nơi khác nhưng vẫn điều hành được trang trại, loại hình này hiện nay chưa nhiều nhưng có chiều hướng phát triển. ở Mỹ có 40% số trang trại thuê người quản lý. Về nguồn vốn ở Mỹ năm 1960 tổng số vốn vay của các trang trại là 10 tỷ USD, năm 1970 là 54,5 tỷ USD, năm 1985 là 88,4 tỷ USD. Lao động nông nghiệp trong các trang trại ở Mỹ có xu hướng giảm. Số lao động trong các trang trại không còn phụ thuộc vào quy mô sản xuất mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Một trang trại có quy mô 25- 30 ha chỉ sử dụng 1- 2 lao động gia đình và 1- 3 làm thuê theo thời vụ, thậm chí một số nơi ở Mỹ trang trại trên 100 ha chỉ có 2 lao động chính. Đến nay trên 2 triệu trang trại của Mỹ đã sản xuất ra số lượng bắp và đậu tương chiếm 50% sản lượng toàn thế giới, hàng năm xuất khẩu 40- 50 triệu tấn lúa, 50 triệu tấn ngô và đậu tương. Nước Anh năm 1950 có 453 nghìn trang trại nhưng năm 1987 giảm xuống còn 254 nghìn trang trại. Nước Pháp năm 1955 có 2265 trang trại, đến năm 1983 giảm xuống còn 801 trang trại. Nhưng diện tích hàng năm lại có xu hướng tăng, năm 1955 là 14 ha, đến năm 1993 là 31,1 ha. Như vậy, ở các nước Tây Âu và Mỹ số lượng trang trại đều có xu hướng giảm, quy mô trang trại lại tăng lên. ở các nước lãnh thổ Châu á kinh tế trang trại lại có điểm khác với kinh tế trang trại ở các nước Tây Âu và Mỹ. Do đất bình quân đầu người thấp (bình quân 0,15 ha/người), như ở Đoài Loan chỉ có 0,047 ha, Nhật Bản 0,035 ha, Hàn Quốc là 0,053 ha. Các nước này phát triển kinh tế trang trại diễn ra theo quy luật giảm số lượng trang trại và tăng quy mô trang trại. Các nước Châu á khác trong giai đoạn này tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến động theo xu hướng tăng số lượng giảm diện tích bình quân của trang trại. Như Indonexia năm 1963 có 12273 trang trại, năm 1983 tăng lên 18560 trang trại. Philippin năm 1984 có 1639 nghìn trang trại, năm 1980 tăng lên 3420 trang trại. Về sử dụng lao động và máy móc trong sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển, các trang trại gia đình đã tăng cường sử dụng máy móc hiện đại với mức độ cơ giới hoá ngày càng cao từng bước tiến tới tự động hoá, hoá học hoá trong sản xuất. Hình thức sử dụng máy móc do một hiệp hội đứng ra quản lý đang ngày càng phổ biến ở nhiều nước, các nước Châu á có khoảng 1,8% tổ chức sử dụng máy kéo nhỏ và 21% sử dụng chung máy kéo lớn. ở Nhật Bản đến năm 1985 có 67% số trang trại có máy kéo nhỏ và 20% có máy kéo lớn. ở các nước Châu á, các trang trại gia đình phân tán, quy mô không lớn nhưng đã tạo ra tỷ suất nông sản hàng hoá cao và khối lượng hàng hoá nhiều. Hiện nay ở Nhật có 4200 nghìn trang trại gia đình với quy mô nhỏ, nhưng đảm bảo lương thực cho trên 100 triệu người, thịt 81%, Sữa 39%, rau quả 76 - 95%, đường 86%. Malaixia các trang trại cây công nghiệp hàng năm sản xuất 4 triệu tấn dầu cọ chiếm 75% sản lượng thế giới, 1,6 - 1,8 triệu tấn mủ cao su, 274 nghìn tấn cao su, 7,2 nhìn tấn dừa và 23 nghìn tấn hồ tiêu. Về năng suất lao động của các trang trại ở các nước công nghiệp phát triển sản lượng của một lao động công nghiệp ở Nhật nuôi được 20 người, ở ý nuôi được 25 người, ở úc nuôi được 35 người, ở Mỹ nuôi được 80 người, ở bỉ nuôi được 100 người ... ở các nước đang phát triển do công nghiệp hoá còn thấp nên một lao động nông nghiệp mới nuôi được 4 - 5 người. 8 Trong quá trình phát triển kinh tế trang trại gia đình có thể đáp ứng yêu cầu của các hình thức sở hữu khác nhau với quy mô khác nhau, trình độ công nghệ khác nhau thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với xu hướng chuyên môn hoá, tập trung hoá sản xuất. [8] 2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của các trạng trại ở nước ta Trang trại ở nước ta đã phát triển rất nhanh chóng, theo đó trang trại đã tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động, giảm bớt sức ép về thiếu việc làm, hạn chế đội quân thất nghiệp ở nông thôn dồn ra các thị xã, thành phố, khu công nghiệp kiếm việc làm, góp phần hạn chế tệ nạn xã hội… Các trang trại ở các vùng khác nhau có phương thức sản xuất cũng khác nhau tuỳ thuộc vào địa hình cũng như lợi thế của vùng đó. Chẳng hạn như các trang trại ở Yên Bái, theo số liệu điều tra tháng 7/1998 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái, có 86% trang trại kinh doanh tổng hợp nông, lâm nghiệp và 14% trang trại chuyên canh cây trồng vật nuôi như: chuyên canh chè, cà phê, nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây công nghiệp, trồng quế… nhìn chung các trang trại đều phát triển theo phương thức kinh doanh tổng hợp, kết hợp sản xuất nông, lâm nghiệp và chăn nuôi theo phương thức VAC (vườn, ao, chuồng) hoặc RVAC (rừng, vườn, ao, chuồng) với phương châm lấy ngắn nuôi dài. Còn ở Đồng Nai thì cũng có nhiều mô hình sản xuất trang trại khác so với ở Yên Bái: Theo số liệu điều tra năm 2000 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, toàn tỉnh có 163 trang trại, trong đó chuyên trồng rừng có 21 trang trại chiếm 12,88%; nông - lâm kết hợp có 16 trang trại chiếm 9,81%; trồng cao su và cây công nghiệp dài ngày khác có 64 trang trại chiếm 39,26%; trồng mía và cây ngắn ngày khác có 33 trang trại chiếm 20,24%; trồng cây ăn quả có 23 trang trại chiếm 14,11%; nông – lâm – ngư kết hợp có 5 trang trại chiếm 3,06%. Qua trên có thể thấy mỗi vùng có một điều kiện sản xuất khác nhau nhưng nhìn chung là đều khai thác và tận dụng được những lợi thế mà tài nguyên thiên nhiên ở đó mang lại. Tuy nhiên, khó khăn chung của các vùng kinh tế trang trại trong cả nước là thiếu vốn để phát triển sản xuất, do đó điều kiện để chăm sóc cây trồng, vật nuôi, đổi mới công nghệ còn gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó một thực tế đang làm cho các chủ trang trại kém phấn khởi, chưa giám mạnh dạn đầu tư theo hướng chuyên môn hoá để nâng cao tỷ suất hàng hoá, đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chưa được mở rộng, các cơ sở chế biến hiện có công nghệ lạc hậu không dung nạp hết nguyện liệu như gỗ rừng trồng, chè búp tươi, quế vỏ, chế biến hoa quả tươi sau thu hoạch… nên chỉ tiêu dùng tại chỗ khối lượng không lớn, gây thiệt hại lớn cho các chủ trang trại. Do đó, sản phẩm do kinh tế trang trại sản xuất ra khi đem tiêu thụ đều bị ép cấp, ép giá, đôi khi giá bán thấp hợn giá thành nhưng vẫn phải bán để đảm bảo cuộc sống và tái sản xuất. [9] 2.2.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển trang trại * Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển trang trại Hội nghị TW5 khoá VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương khuyến khích xây dựng các nông trại: “khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại giống mới có hiệu quả kinh tế cao; khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt ngoài khơi; xây dựng các nông – lâm – ngư trại với quy mô thích hợp”. [9] ở Hội nghị TW6 (lần 1, khoá VIII) Ban chấp hành TW, Bộ chính trị đã có quan điểm cụ thể về một số loại hình trang trại: “Nhà nước khuyến khích phát triển trang trại gia đình; rêng với trang trại tư nhân (kể cả tư nhân ở nơi khác hoặc thành phố) được khuyến khích phát triển theo quy định của pháp luật để khai thác đất trống, đồi trọc, đất khoang hoá ở trung du, miền núi và vùng ven biển; còn ở vùng đồng bằng chủ yếu chỉ hướng vào việc đầu tư xây dựng các trang trại chăn nuôi hoặc công nghiệp chế biến, khi có đủ điều kiện thì khuyến khích các nhà kinh doanh tư nhân trong nông nghiệp đi vào con đường tư bản Nhà nước”. [9] Như vậy, với các chủ trương trên, định hướng về kinh tế trang trại ở nước ta trong thời gian tới là: - Trước hết cần làm rõ khái niệm, nhận dạng được các loại hình trang trại đang hình thành và phát triển ở các địa phương để áp dụng các chính sách cho phù hợp. Có thể xác định: Trên cả nước có 2 loại hình trang trại đang được quan tâm là trang trại gia đình và trang trại tư nhân, nhưng phổ biến là trang trại gia đình. Trang trại gia đình thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá quy mô lớn hơn so với hộ nông dân. Trang trại tư nhân là trang trại đã đủ điều kiện đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty trách nhiệm hưu hạn, Công ty cổ phần. - Khuyến khích phát triển trang trại gia đình ở các vùng, miền, cán bộ, đảng viên có gia đình làm nông nghiệp được làm trang trại như các hộ nông dân khác. Đối với vùng đồng bằng khuyến khích các trang trại sử dụng ít đất đai như trang trại chăn nuôi, trang trại chế biến nông sản, thực phẩm, thức ăn gia súc… Đối với vùng đất trống, đồi núi chọc, đất hoang hoá ở trung du, miền núi và vùng ven biển, khuyến khích các trang trại tư nhân có nhiều vốn đầu tư khai thác đất đai sản xuất kinh doanh nông – lâm – ngư nghiệp. - Ngoài 2 loại trang trại trên nhà nước còn khuyến khích các trang trại gia đình liên kết, hợp tác hình thành trang trại hợp tác xã theo luật hợp tác xã. * Một số chính sách của Nhà nước đối với phát triển trang trại Những văn bản pháp quy quan trọng đối với sự ra đời và phát triển trang trại bao gồm: - Luật đất đai ra đời năm 1993 và được sửa đổi năm 1998 đã quy định những căn cứ pháp lý cơ bản cho việc quản lý, sử dụng đất đai, đã tạo ra hành lang pháp lý quan trong nhất để hình thành trang trại ở nước ta. - Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 ban hành văn ban quy định cụ thể của Nhà nước về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. - Nghị đinh số 01-CP ngày 04/1/1995, đã ban hành các quy định cụ thể về vấn đề giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Nghị đinh số 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ đã quy định sửa đổi, bổ sung một số điều về giao đất nông nghiệp. Những chính sách quan trọng trên đây đã tạo ra những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho việc hình thành tư liệu sản xuất cơ bản nhất của các trang trại, tạo ra pháp lý về quyền sử dụng đất đai cho các trang trại. Nhờ có các chính sách này, tại các địa phương, nhân dân rất phấn khởi nhận đất, yên tâm canh tác, đầu tư vốn, công sức để phát triển sản xuất trên mảnh đất của mình. Trong quá trình sản xuất đã hình thành hình thức tổ chức sản xuất mới là các trang trại. Do vậy để phát triển trang trại Nhà nước cần có các chính sách riêng về trang trại. - Nghị quyết 03/2000 ngày 02/2/2000 của Chính phủ về trang trại đã nêu rõ quan điểm và các chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích phát triển trang trại. theo nghị quyết này, Nhà nước khuyến khích, bảo hộ và thực hiện nhất quán chính sách khuyến khích phát triển trang trại, đồng thời tăng cường công tác quản lý để các trang trại phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững. Sau nghị quyết 03 của Chính phủ, các bộ, ngành TW đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện trên các mặt sau: -Thông tư liên tịch 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 của bộ NN&PTNT và tổng cục thống kê đã đưa ra những tiêu chí để xác định trang trại. - Thông tư số 61/2000/TT-BNN/KH ngày 06/6/2000 của bộ NN&PTNT đã đưa ra các hướng dẫn về việc lập kế hoạch phát triển trang trại. - Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 04/7/2003 sửa đổi, bổ sung mục III của thông tư liên tịch 69/2000/TTNT/BNN-TCTK. Những chính sách này đã thổi một luồng gió mới vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đã tạo ra một trào lưu mạnh mẽ về phát triển trang trại trên mọi miền của đất nước, đã huy động được đông đảo mọi tầng lớp dân cư đầu tư, bỏ vốn, sức lao động và trí tuệ để phát triển trang trại. 2.3. Một số nghiên cứu có liên quan đến trang trại 2.3.1. Nghiên cứu trong nước Cho đến nay đã có nhiều công trình của nhiều tác giả, nhiều tổ chức trong nước nghiên cứu về trang trại: Trần Đức đã nghiên cứu kinh tế trang trại trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo tác giả, muốn trở thành trang trại có nhất thiết phải tập trung nhiều ruộng đất và thuê mướn lao động hay không? Xuất phát từ quan điểm của LêNin: “ấp trại nhỏ tuy vẫn là nhỏ nếu tính theo diện tích, nhưng hoá thành ấp trại lớn nếu xét quy mô sản xuất”. Tác giả cũng đưa ra ý kiến cho rằng lượng hoá thu nhập là một hướng đi đúng trong việc phân loại các trang trại, nhưng vấn đề đặt ra là thu nhập phải lớn hơn mức bình quân chung của địa phương là bao nhiêu? Trần Ngọc Bút đã nghiên cứu về quá trình hình thành và xu hướng phát triển trang trại gia đình ở Việt Nam. Đồng thời cũng đưa ra ý kiến đề cập đến năm tiêu chí để xem xét một nông hộ có phải là trang trại hay không: Đó là quy mô sử dụng đất đai, lao động, tiền vốn, mức độ ứng dụng khoa học kỹ thuật và tỷ suất hàng hoá. Các tác giả Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng đã công bố công trình nghiên cứu về kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và ở một số nước và khu vực lãnh thổ châu ắ như Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Malaixia, ấn Độ , Trung Quốc. Các tác giả Lê Trọng, Nguyễn Huy ánh, Trần Trác … đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản trong quản lý trang trại trong cơ chế thị trường để từ đó đưa ra kết luận: Việt Nam muốn trở thành một nước nông nghiệp có tỷ suất hàng hoá cao thì phải phát triển mạnh loại hình kinh tế trang trại và từng bước tăng cường tác động của Nhà nước vào loại hình kinh tế này, xây dung một chiến lược thị trường nông thôn đồng bộ, thông thoáng và hoàn chỉnh bao gồm: Thị trường đất đai, lao động, vốn, dịch vụ kỹ thuật … nhằm phát huy những yếu tố nội sinh của loại hình kinh tế trang trại ở Việt Nam. Tập thể tác giả trường đại học Kinh Tế Quốc Dân đã nghiên cứu thực trạng và giải pháp triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam đã điều tra được 3044 trang trại và phỏng vấn 3044 chủ trang trại, 756 cán bộ cấp xã ở 15 tỉnh thành, đại diện cho 7 vùng kinh tế sinh thái trong cả nước. Các tác giả đã đánh giá thực trạng kinh tế trang trại nước ta hiện nay như các yếu tố sản xuất, tổ chức hoạt động sản xuất, kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại và đề xuất các gi._. đóng góp cho Nhà nước theo chế độ hiện hành. 4.4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên Qua sự tổng hợp, phân tích thực trạng tiêu thụ, các nhân tố ảnh hưởng, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tiêu thụ sản phẩm của các trang trại trên địa bàn huyện Tiên Lữ chúng tôi đưa ra một số giải pháp chủ yếu sau nhằm khắc phục những hạn chế yếu kém, lợi dụng phát huy các yếu tố thuận lợi để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các trang trại. 4.4.2.1. Duy trì và mở rộng thị trường Các trang trại cần gắn sản xuất hàng hoá với nhu cầu của thị trường theo phương châm “sản xuất những cái mà thị trường cần chứ không phẩi sản xuất những cái mà mình có”, đi sâu vào chất lượng của sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, nghiên cứu sản xuất những sản phẩm trái vụ có chất lượng cao. Hiện nay thị trường của các trang trại tập trung chủ yếu ở huyện nhà và các huyện lân cận. Trong thời gian tới đây các trang trại cần mở rộng thêm thị trường ở các huyện như: Khoái Châu, Yên Mỹ, Văn Giang, Mỹ Hào, Văn Lâm, đây là những thị trường nhiều tiềm năng mà các trang trại cần khai thác. Muốn chiếm lĩnh các thị trường này các trang trại cần tăng cường công tác thăm dò, tìm kiếm nhu cầu khách hàng ở các thị trường đó bằng cách đến tìm hiểu, khai thác, nắm bắt tình hình về khả năng tiêu thụ, khả năng thanh toán, phương thức vận chuyển cũng như chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng … chỉ có như vậy các trang trại mới có thể chiếm lĩnh được các thị trường ở đó. Đối với thị trường ngoài tỉnh, sản phẩm của trang trại đã xuất hiện ở một số tỉnh như: Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây và đặc biệt là thị trường Hà Nội. Do vậy trong thời gian tới các trang trại cần giữ vững những thị trường này để tận thu và đa dạng hoá sản phẩm. Đây là đoạn thị trường hấp dẫn đòi hỏi khá cao về chất lượng sản phẩm và các dịch vụ. Vì vậy các trang trại phải tổ chức tốt quá trình sản xuất tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động giảm giá thành sản phẩm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. 4.2.2.2. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng Trong những năm tới huyện Tiên Lữ thấy rõ được mức cần thiết của việc tăng cường cơ sở hạ tầng để phục vụ phát triển kinh tế của địa phương, nhất là trong việc lưu thông buôn bán và tiêu thụ nông sản phẩm của địa phương. Vì vậy, các cấp uỷ Đảng cũng như nhân dân trong huyện và các chủ trang trại cần tập trung cải tạo, xây dựng mới cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. * Giao thông Tại vùng ngoài đê sông Luộc cần đầu tư xây dựng các dự án nâng cấp và cải tạo con đường liên xã từ chợ Thuỵ Lôi đến Ba Hàng dài 4,3Km, các con đường liên thôn của các xã Hoàng Hanh, Tân Hưng, Thụy Lôi với chiều dài hơn 20Km, nếu các dự án này được hoàn thành sẽ tạo ra được nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế của vùng. Tại vùng trong đê sông Luộc giao thông liên xã khá thuận lợi, nhưng những con đường liên thôn cũng phải được đầu tư để thuận tiện hơn nữa cho việc thông thương trên địa bàn của vùng. Tóm lại: xây dựng hệ thống giao thông trên địa bàn huyện sẽ làm cho khâu thu mua, vận chuyển các sản phẩm hàng hoá của trang trại được thuận lợi, hạn chế được tình trạng tư thương, lái buôn ép giá. * Đầu tư xây dựng nâng cấp các chợ quan trọng trong địa bàn huyện, bằng việc kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau như: ngân sách của tỉnh, huyện, đóng góp của các chủ trang trại, tiểu thương … Đặc biệt quan tâm đến chợ đầu mối. Trong số các chợ chúng tôi điều tra, chợ Ché ở gần trung tâm huyện có thể quy hoạch về chợ đầu mối; chợ Hải Triều và chợ Hưng đạo cần được nâng cấp, đó là: mở rộng quy mô, xây dựng thêm các khu nhà cho những người tham gia buôn bán, nghiên cứu tổ chức sắp xếp lại giao thông ở khu vực trước cổng các chợ. * Thông tin liên lạc Mạng lưới thông tin liên lạc của huyện khá phát triển, tuy nhiên cần nâng cấp hệ thống tin liên lạc hơn nữa. Hiện nay, tất cả các UBND xã đã có điện thoại, loa phát thanh, nhưng việc tuyên truyền những chủ truơng, chính sách mới của Đảng và Nhà nước tới người dân còn hạn chế, các thông tin thị trường chưa được cập nhật thường xuyên. Chính vì vậy, các chủ trang trại còn rất nhiều lúng túng trong việc tìm kiếm thông tin thị trường cho sản phẩm đầu ra. Huyện cần lập ra bộ phận thu thập thông tin, cập nhập những tin tức về tình hình diễn biến của thị trường để cung cấp cho các chủ trang trại và người dân. Bên cạnh đó cần xây dựng các điểm internet và phổ biến cách truy cập cho các chủ trang trại và người dân. 4.4.2.3. Hoàn thiện mạng lưới dịch vụ tiêu thụ sản phẩm Trong thời gian tới để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các hình thức thương mại nói chung và tiêu thụ nông sản phẩm của các trang trại nói riêng trên địa bàn huyện Tiên Lữ, cần coi trọng một số biện pháp sau: - Các điểm thu gom cần có hợp đồng chính thức với các chủ buôn lớn, các tư thương bao tiêu sản phẩm, để chủ động vấn đề về giá cả. Đồng thời mở rộng hình thức tiêu thụ sản phẩm của các trang trại dưới dạng các đại lý. - Hỗ trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia thị trường để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách huyện, xã có chính sách cho vay ưu đãi để đầu tư các trang thiết bị phục vụ kinh doanh. Giảm thuế hay miễn thuế cho các doanh nghiệp và hộ tư nhân kinh doanh sản phẩm của trang trại, tránh tình trạng tư thương độc quyền như hiện nay, thực tế phần lớn tư thương là người ngoài huyện, người trong huyện rất ít, họ khống chế toàn bộ thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. Tóm lại: Thực hiện tốt các biện pháp nói trên chúng ta sẽ hoàn thiện mạng lưới dịch vụ tiêu thụ sản phẩm với lượng hàng hoá lưu thông của các đối tượng tham gia thị trường như sau: Từ các chủ trang trại bán thông qua người thu gom 55% khối lượng sản phẩm tiêu thụ, người bán lẻ là 20% và bán trực tiếp cho các cơ sở chế biến là 25%. Đây là một mô hình mà chúng tôi đưa ra nhằm đảm bảo sự kiểm soát, hỗ trợ và khuyến khích thị trường của huyện phát triển trong những năm tới, cụ thể thông qua sơ đồ sau: Sơ đồ 4: Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các trang trại huyện Tiên Lữ trong những năm tới 20% Người bán lẻ Người bán lẻ 60% 55% Người tiêu dùng Người bán buôn Người thu gom Người sản xuất 40% Đại lý 25% Cơ sở chế biến 4.4.2.4. Giải pháp liên quan đến sản phẩm * Về chất lượng sản phẩm Nếu như trước đây sự cạnh tranh dựa vào giá cả thì ngày nay trong nền kinh tế thị trường hướng tập trung chủ yếu lại vào chất lượng sản phẩm. Do đó, một trong những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu thụ nói riêng là chiến lược về chất lượng sản phẩm phải đặt nên hàng đầu. Qua tìm hiểu thực tế ở các trang trại tại huyện Tiên Lữ chúng tôi nhận thấy rằng chất lượng sản phẩm của các trang trại chưa được tốt. Để chất lượng ngày một đảm bảo và nâng cao các trang trại cần có biện pháp sau: - Đảm bảo đúng quy trình công nghệ trong sản xuất, đảm bảo kỹ thuật đề ra. - Tăng cường quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu: cục, vụ, viện và trường ĐHNN – Hà Nội để nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống đưa vào sản xuất. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm nghiệm, sàng lọc, bảo quản tốt hơn. - Khẩn trương tiến hành mua sắm bổ sung và thay thế các trang thiết bị bảo quản cũ và hết hạn sử dụng. - Thêm vào đó, các trang trại cần liên kết với một số trung tâm kiểm định chất lượng có uy tín để có một đề can nhỏ có đóng dấu “đã qua kiểm nghiệm”. Điều này sẽ thực sự là lợi thế lớn của trang trại trong việc cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa nó còn có tác động trực tiếp đến tâm lý người tiêu dùng, từ đó sẽ quyết định hành động mua của họ. * Về đa dạng hoá sản phẩm Các trang trại ở Tiên Lữ có quy mô sản xuất còn nhỏ, chủng loại sản phẩm chưa thực sự phong phú. Vì vậy các trang trại nên sản xuất thêm các mặt hàng như: bưởi diễn, cam đường canh, cua, ba ba … Bên cạnh đó vẫn đẩy mạnh các mặt hàng truyền thống có chất lượng cao của các trang trại. Việc định vị sản phẩm như vậy là phù hợp với khả năng của các trang trại và nhu cầu hết sức phong phú, đa dạng về sản phẩm của người tiêu dùng. Để làm được việc này mỗi trang trại cần phải xác định cho mình một cơ cấu danh mục mặt hàng sản xuất hợp lý, nó sẽ đảm bảo cho các trang trại sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các mặt hàng sản xuất, đảm bảo sự đa dạng hoá sản phẩm tránh rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó các chủ trang trại cần kết hợp với các nhà khoa học để tạo ra những sản phẩm trái vụ đối với những sản phẩm trồng trọt, nếu làm được việc này sẽ đem lại lợi nhuận lớn cho các chủ trang trại * Nâng cao tính thẩm mỹ của sản phẩm Trong cơ chế hiện nay mức sống và nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn tăng lên. Do đó họ đòi hỏi ngày một cao về yêu cầu, đặc điểm sản phẩm. Sản phẩm không những phải hợp khẩu vị, tạo cảm giác dễ chịu, khoan khoái khi sử dụng mà còn đòi hỏi sản phẩm phải có tính thẩm mỹ cao, màu sắc sản phẩm phải đẹp và ưa nhìn, mẫu mã bao bì đẹp tạo sự chú ý và thu hút của khách hàng. Với sản phẩm của các trang trại hiện nay mỹ quan chưa đẹp, trong quá trình đóng gói còn quá sơ sài hoặc chưa được đóng gói, mất mỹ quan sản phẩm, bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Do đó các chủ trang trại cần chú ý đến công đoạn đóng gói để tạo ra sự hấp dẫn và tin tưởng đối với người sử dụng. Ngoài ra các trang trại còn phải từng bước cải tiến màu sắc của sản phẩm tạo nên sự hấp dãn đối với khách hàng. Tính thẩm mỹ của sản phẩm cao hay không đó là nhân tố thúc đẩy sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm của các trang trại. 4.4.3.5. áp dụng chính sách giá cả linh hoạt Giá cả là một yếu tố quan trọng, nó phản ánh chất lượng của sản phẩm và quyết định đến thu nhập của các chủ trang trại. Đối với khách hàng trực tiếp của các trang trại chủ yếu là người thu gom và bán lẻ thì giá cả là một yếu tố quan trọng nhất để lựa chọn các nhà cung ứng. Mục đích của họ là kinh doanh tức là họ cần có lợi nhuận mà giá càng rẻ thì đồng nghĩa lợi nhuận của họ càng cao. Vì vậy các chủ trang trại cần sử dụng chính sách phân biệt giá cả đối với mỗi khách hàng, tức là sử dụng chiến lược giá một cách linh hoạt. Với những khách hàng quen thuộc, mua với khối lượng lớn thì có thể tăng mức chiết khấu cho khách hàng, với những khách hàng muốn thu hút thì nên sử dụng các mức giá thấp đối với đối thủ. Sau khi xây dựng mối quan hệ ràng buộc để nâng dần giá lên. Sản phẩm của các trang trại gồm nhiều chủng loại liên quan vì vậy cần sử dụng chế độ gia gộp (có nghĩa là giảm giá một loại sản phẩm xuống thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh để bán theo nhiều loại sản phẩm khác). Mặt khác phải nghiên cứu tìm hiểu về khách hàng của mình, tính xem họ được lợi bao nhiêu khi sử dụng sản phẩm của mình. 4.4.3.6. Đầu tư công nghệ bảo quản chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm *Đầu tư công nghệ bảo quản chế biến Đối với hàng hoá nông sản là sản phẩm của tự nhiên, chứa nhiều nước rất khó để lâu nếu không có công nghệ bảo quản chế biến. Do vậy đầu tư công nghệ bảo quản chế biến giúp cho những lúc sản lượng nhiều cũng như những lúc mất mùa đều có sẵn sản phẩm. Ngoài ra huyện cần đưa vào chương trình tập huấn cả nội dung về bảo quản các sản phẩm tươi sống cho các chủ trang trại. Như vậy đảm bảo giá cả ổn định, sản phẩm nông sản không phải bán chạy do sợ hư hỏng nữa, từ đó việc tiêu thụ được thuận lợi hơn. Kết hợp tốt giữa các tác nhân: Nhà nước, nhà nghiên cứu, nhà doanh nghiệp, các chủ trang trại. Thực hiện chuyển giao công nghệ cho các chủ trang trại, phổ biến và trình diễn kỹ thuật mới, hợp tác đầu tư, sản xuất tiêu thụ và chế biến sản phẩm, áp dụng tốt kỹ thuật trong sản xuất và chế biến. + Đối với các sản phẩm trồng trọt (nhãn, vải chuối) cần xây dựng lò sấy, nghiên cứu chế tạo máy cơ khí tại các công đoạn thủ công như bóc vỏ. + Đối với sản phẩm từ chăn nuôi cần đầu tư công nghệ làm lạnh để bảo quản, kho lạnh phải đảm bảo vận hành ở chế độ lạnh cần thiết, ổn định, có công suất phù hợp với khối lượng hàng cần bảo quản. * Xây dựng thương hiệu sản phẩm Đây là một vấn đề mới trong sản xuất nông nghiệp, cần phải xây dựng được một thương hiệu để người tiêu dùng khi nghe đến thương hiệu là có thể biết ngay được sản phẩm này sản xuất ở đâu và chất lượng như thế nào. Việc xây dựng thương hiệu còn có ý nghĩa trong xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài. Vì vậy các chủ trang trại cần liên kết với nhau để xây dựng thương hiệu, nhãn mác tạo hình ảnh của mình trên thị trường thông qua một số sản phẩm có chất lượng cao. 4.4.3.7. Tăng cường các hoạt động giao tiếp và khuyếch trương Chiến lược giao tiếp và khuyếc trương là chiến lược sử dụng kỹ thuật yểm trợ bán hàng nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động tiêu thụ. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, mục tiêu của người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, do đó phải thu hút khách hàng, thực hiện các hoạt động yểm trợ bán hàng. Vì vậy, vai trò của chiến lược giao tiếp khuyếch trương trở nên cực kỳ quan trọng trong chiến lược tiêu thụ, hơn nữa nó còn là công cụ hữu hiệu cho chiến lược giá cả, sản phẩm và phân phối. Thực tế các trang trại ở Tiên Lữ cho thấy vấn đề này gần như là chưa có. Để thúc đẩy tốc độ tiêu thụ, tăng quy mô sản xuất theo mục tiêu định hướng của các trang trại trong những năm tới theo chúng tôi cần có những biện pháp về vấn đề này như sau: - Thông tin quảng cáo: các chủ trang trại nên chọn hai phương thức quảng cáo sản phẩm có thể đem lại hiệu quả cao là đài phát thanh và vô tuyến truyền hình để thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng, giới thiệu sản phẩm mới. + Với đài phát thanh: Cần hết sức chú ý thời điểm thông tin và thời gian dành cho một thông tin. + Vô tuyến truyền hình: Cần hết sức chú ý đến việc lựa chọn hình ảnh, thời điểm thông tin, thời gian dành cho một thông tin và số lần lặp lại thông tin. - Tham dự hội chợ triển lãm cũng là một hoạt động hỗ trợ tích cực cho công tác tiêu thụ sản phẩm của các trang trại. Thông qua hội chợ triển lãm, các chủ trang trại có thể giới thiệu rõ hơn, trực tiếp hơn về mình và sản phẩm của mình. Đó cũng là cơ hội để trực tiếp bán hàng, tìm bạn hàng, giao dịch đàm phán với khách hàng. Muốn tham gia hội chợ triển lãm đạt hiệu quả các chủ trang trại cần: + Chọn đúng sản phẩm tham gia triển lãm. Với sản phẩm truyền thống có khả năng cạnh tranh thì đem ra bán, với sản phẩm mới thì để quảng cáo, tiếp thị nhằm gợi mở nhu cầu của khách hàng. + Chọn loại hội chợ triển lãm phù hợp để tham gia. Với các sản phẩm của mình các chủ trang trại nên tham gia hội chợ dành cho hàng hoá nông sản. Phải xác định một số thông tin về hội chợ triển lãm đó chẳng hạn như: chuyên đề nào là tổng hợp, toàn quốc hay khu vực, địa điểm của những người tham gia và uy tín của họ. - Cần tổ chức hội thảo đầu bờ trên “điểm nóng” thị trường của các trang trại, các hội thảo này nên thường xuyên tổ chức bằng các việc gửi giấy mời tới các khách hàng lớn hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới các sản phẩm nông sản có cơ hội có mặt ở nhiều nước, nhiều thị trường mới và có thể tham dự các hội chợ tại Châu Âu, ắ, mỹ … đó là thuận lợi và cũng là thách thức cho các chủ trang trại, vì yêu cầu sản phẩm có chất lượng cao hơn, hình thức đẹp hơn. 4.4.3.8. Thực hiện tiết kiệm trong sản xuất nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Trong sản xuất kinh doanh không một nhà sản xuất nào là không hao phí nguyên liệu nhưng tuỳ thuộc vào nhà sản xuất hao phí nhiều hay ít. Đối với nhà sản xuất thì cần đảm bảo chất lượng nguyên liệu từ khi mua về đến khi đưa vào sản xuất bằng các hợp đồng mua nguyên liệu theo kế hoạch nhằm giảm bớt thời gian bảo quản, giảm bớt khối lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm. Tiết kiệm nguyên liệu sẽ là cơ sở cho việc hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên tình trạng hao phí sản phẩm trong các trang trại ở huyện Tiên Lữ vẫn tồn tại. Một trong những nguyên nhân chính là dư thừa nguyên liệu do cách hạch toán định mức sử dụng nguyên liệu chưa phù hợp. Do đó, nên tính lại mức tiêu hao nguyên liệu để giảm giá thành, phải đảm bảo quy trình kỹ thuật, phải kết hợp hài hòa giữa các yếu tố như: phân của gia súc, gia cầm thải ra có thể bón cây hay làm thức ăn cho cá … Trong khi sản xuất và khi vận chuyển thì người sản xuất và người vận chuyển cần phải giảm tỷ lệ hao hụt, đảm bảo chất lượng. Ngoài ra còn cần tránh hao phí về điện, nước sản xuất cũng như phải bảo vệ môi trường sinh thái. 4.4.3.9. Giải pháp liên quan đến chủ trang trại - Hiện nay đội ngũ các chủ trang trại ở Tiên Lữ là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, kém năng động và thiếu kinh nghiệm thực tế về thị trường. Hơn nữa trong môi trường cạnh tranh luôn có sự biến động mạnh mẽ, để tạo được sự thích ứng nhanh nhạy với thị trường, thì việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ, nghiệp vụ thường xuyên là không thể thiếu đối với hoạt động lâu dài của quá trình sản xuất kinh doanh. Để giải quyết vấn đề này huyện cần liên hệ với trường Trung học kinh tế kỹ thuật Tô Hiệu, đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, đại học Nông nghiệp Hà Nội … mở các khoá đào tạo cho các chủ trang trại về kiến thức quản lý, nắm bắt thông tin thị trường…hoặc cú thể mời cỏc chuyờn gia giàu kinh nghiệm về giảng dạy, khuyến khớch các chủ trang trại học tập thực tế… và có các đợt kiểm tra, đỏnh giỏ năng lực, tạo điều kiện để họ tự đỏnh giỏ về mỡnh và phấn đấu vươn lờn. - Các chủ trang trại nên có hoạt động liên kết với nhau trong tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ nhau trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường hiện nay. Hiện nay hoạt động liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa các trang trại hầu như là không có, vì thế hệ thống tiêu thụ sản phẩm qua nhiều cấp trung gian ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của người trực tiếp sản xuất cũng như năng lực cạnh tranh. Mỗi địa phương, tuỳ theo quy mô, nhu cầu mà thành lập các hình thức hợp tác phù hợp nhằm tăng quy mô sản xuất, gắn kết trách nhiệm giữa các chủ trang trại nhằm giảm các chi phí trung gian và tăng lợi ích cho các chủ trang trại. 4.4.3.10. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước - Nhà nước hỗ trợ bao tiêu sản phẩm để các chủ trang trại yên tâm sản xuất. Mở rộng nhiều hình thức, nhiều thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ nông sản phẩm thông qua ưu đãi về thuế, tín dụng. - Tiến hành quy hoạch và xây dựng các hợp tác xã chế biến nông sản với quy mô hợp lý. - Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi: + Hình thành quỹ bảo hiểm về giá: trên cơ sở tự nguyện và chủ yếu do người dân đóng góp. Nhà nước quy định về giá sàn và giá trần. Nếu sản phẩm bán vượt quá giá trần thì người sản xuất phải nộp một tỷ lệ nhất định để xây dựng quỹ, nếu bán thấp hơn giá sàn thì được trợ giá. + Hình thành quỹ bảo hiểm thiên tai: cũng trên cơ sở tự nguyện đóng góp của người tham gia, nhưng đóng thường xuyên theo mùa vụ, theo năm. Nếu thiệt hại do thiên tai gây ra trên mức quy định thì được hưởng trợ cấp từ quỹ này. 5. Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết luận Trong cơ chế thị trường vai trò của công tác tiêu thụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng được khẳng định. Điều này trái ngược với nền kinh tế tập trung trước đây chủ yếu coi trọng khâu sản xuất. Đẩy mạnh công tác tiêu thụ không những làm tăng hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà nó còn khẳng định vị trí của các nhà sản xuất trên thị trường, tức là thị phần của các nhà sản xuất ngày càng được mở rộng. Đặc biệt đối với đặc thù của các trang trại ở nông thôn thì đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cũng đồng nghĩa tăng cường đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả xã hội. Để đáp ứng được điều mong muốn này các nhà sản xuất phải không ngừng nỗ lực, cố gắng tìm cách mở rộng thị trường, tăng khối lượng sản phẩm tiệu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra. Từ thực trạng tiêu thụ sản phẩm của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên chúng tôi có thể rút ra những kết luận sau: - Sản phẩm của các trang trại chủ yếu tiêu thụ ở thị trường huyện Tiên Lữ, thị xã Hưng Yên và ở các huyện lân cận như: Phù Cừ, Ân Thi, Kim Động. Đối với thị trường ngoại tỉnh thì sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường Hà Nội. Tuy nhiên chưa có một đại lý hay cửa hàng giới thiệu sản phẩm nào ở các vùng này. - Trang trại ở Tiên Lữ sản xuất ra sản phẩm hàng hoá đều được bán ra với tỷ lệ giá trị sản lượng trên 90% tổng giá trị sản lượng của các trang trại. - Thị trường tỉêu thụ sản phẩm chủ yếu qua người bán lẻ và người thu gom, một phần nhỏ là bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Các loại hình tiêu thụ này đều không cố định do chưa có nhà máy chế biến hay công ty làm hợp đồng, tiêu thụ cho chủ buôn cũng không có hợp đồng trước. Do vậy mà thị trường tiêu thụ bấp bênh, giá cả phụ thuộc vào người mua, chủ trang trại dễ bị ép giá. -Giá cả các sản phẩm thường chênh lệch nhau rất lớn giữa giá thấp nhất và giá cao nhất, do vậy ảnh hưởng lớn đến doanh thu cũng như lợi nhuận của các chủ trang trại. - Tình trạng vốn bị chiếm dụng nhiều, quan hệ khách hàng của các trang trại chủ yếu là bạn hàng cũ, chưa mạnh dạn trong việc tìm bạn hàng mới, thị trường mới. - Điều kiện sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là thị trường nông thôn và mang tính mùa vụ, nhu cầu thị trường phụ thuộc khá nhiều vào vị trí địa lý của trang trại. - Kết quả và hiệu quả của các trang trại chưa cao so với các khu vực khác và so với tiềm năng cũng như thế mạnh của vùng. - Trình độ của các chủ trang trại còn hạn chế, đặc biệt là các kiến thức về thị trường. - Từ thực trạng đã được nghiên cứu ở trên cho thấy để đạt được mục đích như: Mở rộng sản xuất, nâng cao lợi nhuận, tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ thì việc làm trước tiên trong chiến lược kinh doanh là phải quan tâm đến việc tìm hiểu thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả tiêu thụ. Để làm được điều này đòi hỏi các chủ trang trại phải có sự liên kết với nhau, tìm hiểu nhu cầu của thị trường, từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm cho các trang trại. 5.2. Kiến nghị Qua nghiên cứu đề tài và những vấn đề có liên quan tới hoạt động tiêu thụ của các trang trại ở huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau: 5.2.1. Đối với Nhà nước - Cần có thông tư hướng dẫn thi hành các nghị định chi tiết cụ thể và tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với các cấp chính quyền địa phương. - Tăng hiệu quả và mức cạnh tranh sản phẩm của các trang trại thông qua việc đầu tư hỗ trợ về vốn, công nghệ cho công tác nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới có khả năng thích nghi cao và cho năng suất, chất lượng sản phẩm tốt. 5.2.2. Đối vời tỉnh, huyện - Thực hiện triệt để chủ trương chính sách của Nhà nước trong hướng dẫn chỉ đạo. - Tạo điều kiện cho các chủ trang trại giao lưu để có cơ hội học hỏi và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau với các địa phương khác trong cả nước - Cần tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại có môi trường kinh doanh thuận lợi. - Tăng cường việc nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường giao thông, chợ đầu mối - Chỉ đạo các ban ngành, nhất là các ban ngành thông tin đại chúng phối hợp với các chủ trang trại làm tốt công tác quảng bá sản phẩm đồng thời cung cấp thông tin thị trường kịp thời cho các chủ trang trại. - Tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao chất lượng, số lượng cũng như sản xuất mặt hàng mà xã hội cần. 5.2.3. Đối với các chủ trang trại - Đối với các chủ trang trại trước hết phải tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ vững chắc, ký kết hợp đồng với các nhà máy chế biến. - Bản thân các chủ trang trại phải không ngừng học hỏi những kiến thức mới để áp dụng váo sản xuất và có thể nắm bắt các chính sách của Nhà nước, diễn biến của thị trường, áp dụng các phương thức sản xuất kinh doanh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. -Cần mạnh dạn trong việc chuyển đổi cơ cấu theo hướng sản xuất cái người tiêu dùng cần chứ không sản xuất cái mình có. - Tăng cường công tác thông tin, quảng cáo, marketing nhằm tăng cường sự hiểu biết của khách hàng đối với sản phẩm của các trang trại. Tài liệu tham khảo 1. Từ điển Tiếng Việt (1998), NXB Đà Nẵng. 2. Nguyễn Thế Nhã (1999), Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp – Hội thảo trường đại học Nông nghiệp Hà Nội. 3. Nguyễn Phượng Vỹ (1999), Tổng quan về các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam – Hội thảo trường đại học Nông nghiệp Hà Nội. 4. Trần Đức (1995), Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 5. Ban vật giá Chính phủ, Tư liệu về kinh tế trang trại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh – 2002. 6. Bùi Văn Mạnh “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp”. 7. Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Trung tâm nghiên cứu đào tạo quản trị nông nghiệp và phát triển nông thôn (2004), Quản trị hợp tác xã nông nghiệp. 8. Nguyễn Điền – Trần Đức – Trần Huy Năng (1993), Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu á, NXB Thống kê Hà Nội. 9. Ban vật giá Chính phủ (2002), Tư liệu về kinh tế trang trại, NXB thành phố Hồ Chí Minh. 10. UBND huyện Tiên Lữ (2007), Báo cáo kết quả hoạt động của các trang trại trên địa bàn huyện Tiên Lữ năm 2007. 11. Trương Đình Chiêu (2002), Quản trị Marketing ( kênh phân phối ), NXB Thống kê Hà Nội. 12. Cục thống kê Hưng Yên, Liên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2006. 13. Cục thống kê Hưng Yên, Liên giám thống kê tỉnh Hưng Yên năm 2007. 14. Đại học Nông nghiệp Hà Nội- Bộ môn Quản trị kinh doanh (2004), Bài giảng Marketing Hà Nội. 15. Trần Minh Đạo (2003), Marketing, NXB Thống kê Hà Nội. 16. Phạm Vân Đình - Đỗ Kim Chung (1997), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp Hà Nội. 17. Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH- HĐH ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 18. Nguyễn Cảnh Khâm (1997), Ngiên cứu phát triển kinh tế hộ nông dân ở các vùng sinh thái nước ta, Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội. 19. Trần Trác (2000), Tư liệu về kinh tế trang trại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 20. Vũ Ngọc Trâm (1997), Phát triển kinh tế nông hộ sản xuất hàng hoá ở vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Nông nghiệp Hà Nội. 21. Nguyễn Văn Tiêm (1996), Chính sách giá cả nông sản phẩm và tác động của nó đến sự phát triển nông thôn Việt Nam, NXB Nông ngiệp Hà Nội. 22. Vũ Thị Phương Thụy (1998), Nghiên cứu kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Chuyên đề tiến sỹ chuyên nghành kinh tế quản lý và kế hoạch hoá kinh tế Nhà nước, Đại học Nông nghiệp Hà nội. 23. Đặng Thọ Xương (1996), Kinh tế VAC trong quá trình phát triểnnông nghiệp nông thôn, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 24. Lê Hữu ảnh (2000), Quản lý tài chính và hạch toán trong các trang trại, trường đại học Nông nghiệp Hà Nội. 25. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2003), Báo cáo đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại sau 3 năm thực hiện nghị quyết 03/2000/NQ–CP. 26. Chính phủ nuớc Việt Nam (2000), nghị quyết số 03/2000/NQ – CP về phát triển kinh tế trang trại, Văn phòng Chính phủ. 27. Tô Đức Hạnh – Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hoá trong nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia. 28. Phạm Văn Khánh (2001), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế các mô hình kinh tế trang trại ở Hải Dương, Luận án thạc sỹ kinh tế, Đại học Nông nghiệp Hà Nội. 29. Lê Trang (1994), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị truờng, NXB Nông nghiệp Hàn Nội. Phụ lục Phiếu điều tra trang trại năm 2007 Người phỏng vấn Xã …………………………………huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Thời gian điều tra I. Những thông tin cơ bản về trang trại 1. Họ tên chủ trang trại Tuổi: Giới tính: Nam - Nữ a. Trình độ văn hóa: Cấp 1 - Cấp 2 - Cấp 3 b. Trình độ chuyên môn: Trung cấp - Cao đẳng - Đại học c. Thành phần: - Cán bộ - Nông dân - Hưu trí - Cựu chiến binh 2. Số nhân khẩu……………………………………….(người) 3. Cây trồng, vật nuôi chính 4. Năm thành lập trang trại 5. Dân tộc II. Tình hình vốn Chỉ tiêu Tổng số (1000đ) Lãi suất (%) Ghi chú I. Phân theo đặc điểm vốn 1. Vốn cố định 2. Vốn lưu động II. Phân theo nguồn vốn 1. Vốn tự có 2. Vốn đi vay III. tình hình về lao động Lao động Tổng số công (Ngày công) Đơn giá (1000đ/ngày công) Ghi chú 1. LĐ gia đình 2. LĐ thuê ngoài a. Thuê thường xuyên b. Thuê theo thời vụ c. LĐ kỹ thuật Tổng số (1+2) IV. kết quả sản xuất của trang trại Loại sản phẩm Số lượng (kg) Đơn giá (1000đ/kg) Thành tiền (1000đ) Ghi chú Nhãn Vải Chuối Gà Vịt Ngan Trâu, bò Lợn Cá V. tình hình tiêu thụ sản phẩm Chỉ tiêu Đơn vị tính Loại sản phẩm Gà Vịt …… Cá 1.Lượng bán - % bán tại vườn % - % bán trong tỉnh % - % bán ngoài tỉnh % 2. Giá bán - Trực tiếp cho người tiêu dùng 1000d/kg - Cho người bán lẻ 1000d/kg - Cho người thu gom 1000d/kg 3. Đối tượng mua % người tiêu dùng trực tiếp % % người bán lẻ % % người thu gom % vi. các ý kiến phỏng vấn 1. Giá của sản phẩm Thời gian điều tra Thời gian điều tra Thời gian điều tra a. Cao b. Thấp c. Trung bình 2. Việc tiêu thụ sản phẩm của ông, bà hiện nay gặp những khó khăn gì? 3. Trang trại của ông, bà chủ yếu bán sản phẩm dưới dạng nào? Thời gian điều tra Thời gian điều tra Thời gian điều tra a. Dạng thô b. Sản phẩm qua sơ chế c. Sản phẩm qua tinh chế 4. Ông, bà có nắm được thông tin về giá cả trên thị trường không? Thời gian điều tra Thời gian điều tra a. Có b. Không 5. Trong tương lai ông, bà muốn bán sản phẩm cho đối tượng nào? Thời gian điều tra Thời gian điều tra a. Bán trực tiếp cho người tiêu dùng b. Bán cho người bán lẻ Thời gian điều tra c. Bán cho người thu gom 6. Ông, bà có yêu cầu gì về tiêu thụ sản phẩm không? 7. Theo ông, bà những nguyên nhân nào ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm của các trang trại hiện nay? 8. Ông, bà có được tham dự lớp bồi dưỡng tìm hiểu về thị trường không? Thời gian điều tra Thời gian điều tra a. Có b. Không 9. Theo ông, bà lớp bồi dưỡng tìm hiểu thị trường có tác dụng gì đối với việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại? cần trang bị thêm những gì? 10. Ông, bà có kiến nghị gì với Nhà nước về đâu ra cho sản phẩm của trang trại? ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTRAN HONG MINH (NOP TV).doc
Tài liệu liên quan