Lời nói đầu
Vốn là điều kiện kiên quyết cho mọi loại hình sản xuất kinh doanh, và vấn đề đặt ra là phải tìm những biện pháp huy động vốn một cách thích hợp và có hiệu quả nhất.
Trong số các kênh huy động vốn, huy động vốn qua ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Công tác huy động vốn không chỉ mang ý nghĩa quyết định tới thắng lợi trong hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mà còn tác động và chi phối sự phát triển về mặt kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Đứng trước yêu cầu của
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp đẩy mạnh huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công cuộc đổi mới, những thách thức của thời đại và yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý và điều hành trong hệ thống Ngân hàng công tác huy động vốn qua Ngân hàng và đặc biệt là Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội phải được tiếp tục và không ngừng cải tiến và hoàn thiện.
Bài toán về giải pháp huy động vốn qua Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội nhằm bù đắp thiếu hụt nguồn vốn đầu tư là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động của Ngân hàng. Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi đã chọn đề tài “Những giải pháp đẩy mạnh huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội". Với mục đích góp thêm một số sáng kiến cải tiến và những ý kiến thiết thực vào việc giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề quan trọng mà thực tiễn đặt ra hết sức cấp bách.
Từ đó tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện cơ chế huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm những phần sau:
Chương I: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội .
Do thời gian có hạn và sự hạn chế về kiến thức nên bài viết không thể tránh được những sai sót cũng như hạn chế trong bí mật kinh doanh nên số liệu đưa ra trong chuyên đề cũng chỉ có tính tương đối.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội và đặc biệt là cô Phan Thị Hà người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành bài viết này.
Chương I:
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1. Định nghĩa Ngân hàng thương mại:
Để đưa ra một định nghĩa về Ngân hàng thương mại người ta phải dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên Thị trường tài chính và đôi khi ta còn phải kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Theo luật các tổ chức tín dụng ban hành tháng 12/1997 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật được phép hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Theo tính chất và mục đích hoạt động các loại hình ngân hàng gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác (điều 20).
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên Thị trương tài chính ngày càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt Ngân hàng thương mại với các tổ chức tài chính môi giới khác ở chỗ Ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, hoạt động đó đã tạo cơ hội cho Ngân hàng thương mại có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt Ngân hàng thương mại với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
1.1. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ, đó là những tổ chức môi giới tài chính, các tổ chức này chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu câù chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa các tổ chức lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ nguyên nhân về lịch sử và chế độ kinh tế và ngày nay các tổ chức tài chính đều là sản phẩm của thể chế tài chính của mỗi nước.
Ngân hàng thương mại với hoạt động chính là kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ các Ngân hàng làm dịch vụ tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền cho chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay sang người đi vay, các Ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán trong đó quan trọng nhất là khoản tiền không kỳ hạn thanh toán bằng séc, đây là một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua Ngân hàng và quá trình đó đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua Ngân hàng. Do đó hoạt động của Ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi.
Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại:
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng chuyên sâu.
Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại :
- Nhận tiền gửi của khách hàng.
- Thực hiện cho vay, đầu tư.
1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.1. Cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế, vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân. Để tăng thu nhập quốc dân tức là để mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Qua hoạt động huy động vốn Ngân hàng thương mại huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Với nguồn vốn huy động được trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn một cách kịp thời trong quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện sản xuất,cải tiến trang thiết bị, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật gía cả, sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng được nhu cầu của thị trường về giá cả, chất lượng, số lượng, chủng loại hàng hoá, bên cạnh đó nó còn phải thoả mãn đòi hỏi về thời gian và địa điểm.Do vậy, để đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu đó của thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng lao động, hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư vốn để mua trang thiết bị, công nghệ hiện đại. Muốn làm tốt các công tác này thì doanh nghiệp cần có một khối lượng vốn rất lớn mà nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp thì sẽ không đủ. Chính vì vậy, giải quyết vấn đề khó khăn về vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất của mình thì vay vốn ngân hàng là một việc cấp thiết. Thông qua tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn mà ngân hàng cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư vào sản xuất, từ đó tạo cho doanh nghiệp có một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.2.2. Cùng với nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng thương mại hoạt động một cách hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “Nhà nước điều tiết ngân hàng ,ngân hàng dẫn dắt thị trường “.
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò quan trọng trong sự hoà nhập này.
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, do đó nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt động của Ngân hàng thương mại với các chức năng, vai trò của nó. Thông qua việc thực hiện các chức năng và vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đã trở thành một đòn bẩy trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại:
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại:
Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần đến một điều kiện không thể thiếu được đó là vốn. ở Việt Nam hiện nay, vốn đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đang là những vấn đề được chính phủ và ngành Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường, do chu kỳ sản xuất và tính chất thời vụ khác nhau của các đơn vị kinh tế, mỗi ngành kinh tế nên tại một thời điểm luôn có:
- Một nhóm đơn vị kinh tế thừa vốn tạm thời (vốn tạm thời chưa sử dụng)
- Một nhóm đơn vị kinh tế thiếu vốn tạm thời (có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời)
Xét trên phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tái sản xuất là một quá trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác lao động. Việc thừa hay thiếu vốn tạm thời trong toàn bộ quá trình sản xuất của nền kinh tế là liên tục xảy ra. Nó tồn tại mang tính khách quan của quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời là mâu thuẫn của quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn. Chính vì vậy, tín dụng phải đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa nơi thừa vốn với nơi thiếu vốn. Nói một cách khác, cơ chế vận động của tín dụng chuyển tiết kiệm thành đầu tư, chuyển dịch vốn từ chủ thể thừa vốn đến chủ thể thiếu vốn nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của từng cá nhân, từng tổ chức kinh tế cũng như toàn xã hội trên cơ sở tối ưu hoá việc khai thác sử dụng nguồn vốn, đem lại lợi ích cho các chủ thể tham gia vào thị trường.
*Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại:
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là những gía trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Các loại nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
-Vốn tự có
-Vốn huy động
-Vốn đi vay
-Vốn khác
Mỗi loại nguồn vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng thương mại. ở đây ta xem xét cụ thể loại hình vốn huy động của ngân hàng.
Khái niệm vốn huy động: Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không kỳ hạn). Do đó vốn huy động luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỉ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
Vốn huy động bao gồm:
*Tiền gửi: Tiền gửi tại ngân hàng thương mại bao gồm tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn.
+Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi bao gồm hai loại sau:
-Tiền gửi thanh toán: đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích “đảm bảo thế năng” và sử dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên khoản tồn mà ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
-Tiền gửi không kỳ hạn khác: là khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến Ngân hàng rút tiền để chi tiêu. Cũng giống như trường hợp trên, Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng khoản tồn khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
+Nhóm tiền gửi thứ hai là nhóm tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi có thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Các Ngân hàng thương mại nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (tức khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản các khoản tiền gửi có kỳ hạn không đựơc sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định. Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại luôn tìm mọi cách đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng .
*Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào Ngân hàng với mục đích an toàn và hưởng lãi.
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình thức sau:
-Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào và có thể gửi vào nhiều lần song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng về thời hạn gửi tiền và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
2.2. Tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Trên thực tế mọi đơn vị sản xuất kinh doanh muốn sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó cần thiết phải có tư liệu sản xuất và đối tượng lao động. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, do vậy một yêu cầu kiên quyết là ngân hàng phải huy động vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại có vai trò quyết định đến quy mô hoạt động, khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế của Ngân hàng thương mại. Mặt khác nguồn vốn của Ngân hàng đảm bảo uy tín của Ngân hàng trên Thị trường tài chính. Vì vậy để kinh doanh có hiệu quả, khẳng định vị trí của mình Ngân hàng phải có một nguồn vốn dồi dào, phong phú .
So với vốn tự có (hầu như không được sử dụng kinh doanh), vốn huy động của Ngân hàng chiếm một tỷ trọng lớn. Do vậy, huy động vốn là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng. Nó là quá trình thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để tái đầu tư.
Để thực hiện tốt các nghiệp vụ khác của Ngân hàng thì huy động vốn phải được đặt lên hàng đầu. Nó giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, chi phối toàn bộ hoạt động của Ngân hàng và giúp các Ngân hàng thực hiện đầy đủ các chức năng nhiệm vụ của mình.
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng luôn phải tiến hành kế hoạch hoá nguồn vốn nhằm nắm được tình hình biến động của từng loại nguồn vốn giữa các ngành, các tổ chức, các thành phần kinh tế. Từ đó, Ngân hàng có biện pháp điều hoà vốn theo mục tiêu hoạt động của Ngân hàng, khai thác tối đa nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn qua Ngân hàng, tập trung được nguồn tiền nhàn rỗi biến thành vốn hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho cả Ngân hàng và người sở hữu tiền thúc đẩy phát triển kinh tế .
Xét trên quan điểm mở rộng tín dụng nếu Ngân hàng huy động vốn tốt sẽ làm tăng khối lượng khách hàng giao dịch bao gồm cả khách hàng gửi tiền, thanh toán và xin vay. Mặt khác thông qua công tác này, quy mô giao dịch tín dụng của mỗi khách hàng cũng tăng lên giúp cho Ngân hàng có thể mở rộng đầu tư, tăng cường cho vay đối với nhiều hoạt động, nhiều thành phần kinh tế tăng lợi nhuận từ đó phát triển các nghiệp vụ, tăng uy tín thêm vào đó huy động vốn còn giúp cho Ngân hàng có thêm nhiều khách hàng mới.
-Huy động vốn phục vụ công cuộc CNH-HĐH đất nước.
Thực hiện công cuộc CNH-HĐH nền kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của đất nước ta từ nay đến năm 2010 và trong những thập kỷ tiếp theo. Công tác huy động vốn có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc CNH-HĐH.
Đảm bảo huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, kể cả vốn tiền mặt nhàn rỗi và vốn dưới dạng tài sản tích luỹ,... phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân .
Huy động vốn thực hiện chức năng tập chung và phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội, góp phần thúc đẩy tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi toàn xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính của Nhà nước, của các khu vực và các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ... để phục vụ các mục tiêu đầu tư phát triển .
Xét trong phạm vi đơn vị kinh tế cơ sở –các doanh nghiệp, công tác huy động vốn góp phần đa dạng hoá các nguồn vốn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay vốn đầu tư vừa là xuất phát điểm vừa là yếu tố kiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, công tác huy động vốn được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với công tác quản trị kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp và công tác quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Huy động vốn gắn liền với nghĩa vụ hoàn trả vốn vay cả gốc lẫn lãi, do đó nó còn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong phạm vi doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.
-Huy động vốn góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với hầu hết các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển. Để góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Trong đó giải pháp quan trọng đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng có hiệu quả là tăng cường công tác huy động vốn. Vai trò của công tác huy động vốn được thể hiện qua các mặt như sau:
Huy động vốn là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần điều hoà khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Thông qua phát hành các loại công cụ huy động vốn như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng ... sẽ góp phần rút bớt khối luợng tiền mặt trong lưu thông và ngược lại việc mua lại, chiết khấu và tái chiết khấu các công cụ nói trên là một kênh phát hành thêm tiền mặt vào lưu thông. Tuỳ theo tình hình thị trường, Nhà nước sẽ sử dụng linh hoạt các công cụ huy động vốn để “ bơm tiền” hoặc “ rút tiền” từ lưu thông để đảm bảo điều hoà lưu thông tiền tệ .
Huy động vốn là một trong những giải pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. Lạm phát là hiện tượng mất cân bằng quan hệ cung cầu về thị trường tiền tệ, thừa tiền trong lưu thông làm hàng hoá tăng giá gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế xã hội. Vai trò chống lạm phát của công tác huy động vốn góp phần làm giảm và đi đến chấm dứt phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt thu chi Ngân sách là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát.
-Việc ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát còn chịu ảnh hưởng lớn của chính sách tiền tệ quốc gia. Công tác huy động vốn thể hiện vai trò quan trọng của mình trên lĩnh vực này thông qua tác động tích cực của nó đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng góp phần hình thành và phát triển các thị trường tiền tệ, thị trường vốn .
Trong những năm gần đây cơ chế huy động vốn ở nước ta đã từng bước được cải tiến và hoàn thiện. Các hình thức huy động vốn ngày càng hoàn thiện phong phú và đa dạng bao gồm: trái phiếu Chính phủ; trái phiếu, cổ phiếu DNNN; trái phiếu, cổ phiếu công ty; kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng ....Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng cũng từng bước đẩy mạnh, bên cạnh hệ thống các quỹ tiết kiệm các Ngân hàng thương mại đã phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với bộ tài chính thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Những giải pháp đó đã góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH nền kinh tế, góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát ở nước ta.
-Huy động vốn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường vốn, thị trường chúng khoán.
Phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán là một trong những yếu tố quyết định tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia trong điều kiện kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán sẽ tạo ra cơ chế giao lưu thông thoáng giữa ngừơi có vốn nhàn rỗi và người có nhu cầu sử dụng vốn, góp phần huy động tới mức tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho công cuộc đầu tư và phát triển đất nước.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc hình thành và phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng đối với việc phân phối và tái tạo các nguồn vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của nền sản xuất xã hội. Vai trò của công tác huy động vốn đối với sự hình thành và phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán thể hiện qua các mặt như sau:
-Tạo ra các loại chứng khoán ban đầu (các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp, trái phiếu cổ phiếu công ty....)cho thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm phát triển thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển trên thế giới cho thấy trái phiếu Chính phủ và các loại trái phiếu, cổ phiếu công ty sẽ là những hàng hoá chủ yếu của thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu.
Bước đầu tạo ra cơ chế giao lưu hàng hoá trên thị trường: thúc đẩy sự hình thành và phát triển các công ty chứng khoán, môi giới đầu tư ....tạo thói quen đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán cho các tầng lớp dân cư.
Góp phần tăng cường chức năng định hướng phát triển và điều tiết thị trường của nhà nước thông qua việc sử dụng các công cụ lãi suất huy động vốn đối với trái phiếu Chính phủ, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, hoạt động của các công ty tài chính Nhà nước ....Nhà nước có thể định hướng phát triển và điều tiết hoạt động của thị trường theo những mục tiêu đã định. Hoạt động của thị trường tài chính lại có tác động quan trọng đến hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, xét trên phạm vi rộng các công cụ huy động vốn là những công cụ quan trọng trong tay Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò này của các công cụ huy động vốn được thể hiện rõ trong việc điều hành thị trường tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung của Chính phủ các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật,....và các nước đang phát triển như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,....trong những năm gần đây.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn:
Trong tình hình kinh tế xã hội đang phát triển mạnh mẽ như ở nước ta hiện nay, lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng số tiền đã phát hành và đưa vào lưu thông. Tiền nhàn rỗi luôn mang tính vận động chuyển hoá giữa tiêu dùng và sản xuất, giữa tích luỹ và đầu tư. Nhằm khai thác tối đa nguồn vốn để đầu tư và phát triển kinh tế mà trước hết là đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng, mỗi Ngân hàng cần thiết phải đặt ra cho mình một chiến lược huy động vốn tích cực với các hình thức huy động đa dạng, phong phú , hấp dẫn và các dịch vụ ngân hàng hoàn hảo. Muốn vậy, Ngân hàng cần xác định được các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới quy mô, chất lượng, cơ cấu của nguồn vốn huy động.
Các nhân tố tác động đến người gửi tiền, người có vốn muốn đầu tư vào Ngân hàng có thể kể đến là:
2.3.1. Tâm lý, tập quán:
ảnh hưởng của nhân tố này rất lớn, phải kể đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất:Nước ta là một nước đang phát triển, cuộc sống đang ngày được nâng cao nhưng chưa đáng kể, người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền mặt, chưa quen sử dụng các phương tiện thanh toán khác thay cho tiền mặt. Người dân thường cất giữ tiền mặt trong nhà để chi tiêu hàng ngày cũng như dự phòng các trường hợp cần thiết phải chi tiêu.
Thứ hai: Người dân vẫn có tư tưởng ăn chắc, sợ mạo hiểm. Do vậy, đa phần dân chúng thường tích luỹ tài sản dưới dạng vàng, đá quý hay đầu tư tiền vào việc mua đất, mua nhà. Mặt khác có nhiều người kín đáo họ không muốn người khác biết về thu nhập cũng như chi tiêu của mình.
Thứ ba:Người dân chưa tiếp cận và chưa có nhiều hiểu biết về hoạt động ngân hàng. Họ chưa tin tưởng vào ngân hàng cũng như chưa quen sử dụng những tiện ích mà ngân hàng đem lại.
2.3.2. Mức độ an toàn tiền gửi:
Người dân hay các tổ chức kinh tế chỉ thực sự muốn gửi tiền vào Ngân hàng khi biết rằng khoản tiền đó sẽ được an toàn, tránh được các rủi ro có thể xảy ra khi họ tự cất giữ (dưới dạng tiền mặt, vàng bạc hay ngoại tệ). Chính vì vậy, khi quyết định gửi tiền vào ngân hàng thì yêu cầu đầu tiên của khách hàng đối với Ngân hàng đó là món tiền, tài sản mà khách hàng gửi vào sẽ được bảo quản tốt cả về số lượng lẫn giá trị và khi khách hàng có nhu cầu thì số tiền đó sẽ được rút ra đầy đủ. Với tác động của nhân tố này đến lòng tin của khách hàng đòi hỏi Ngân hàng phải tạo được uy tín, sự tin tưởng cho khách hàng đối với Ngân hàng.
2.3.3. Thu nhập dân cư:
Muốn có tiền gửi vào Ngân hàng, trước tiên người gửi phải có thu nhập, mức thu nhập này phải đủ lớn để người gửi có được một khoản tiền dư thừa, dự trữ hoặc có tài sản tích luỹ. Khi người dân chưa có thói quen thanh toán qua Ngân hàng thì nếu thu nhập của người dân hay tổ chức kinh tế mà thấp họ sẽ có rất ít phần tiết kiệm và sẽ giữ lại hầu như toàn bộ thu nhập của mình để chi tiêu, còn nếu thu nhập của dân cư hay tổ chức kinh tế mà cao, họ sẽ có phần tiết kiệm lớn hơn và lúc này có thể có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng (nếu như họ không muốn dùng khoản thu nhập này vào đầu tư hoặc sản xuất kinh doanh dưới dạng khác). Có thể nói, mức tiền gửi vào Ngân hàng tỷ lệ thuận với thu nhập của dân cư. Điều này cũng có thể thấy rõ bằng cách xem xét nguồn vốn mà ngân hàng huy động được trong các thời kỳ kinh tế khác nhau. Khi nền kinh tế hưng thịnh các hãng kinh doanh sẽ hình thành nhiều khoản ký thác tại Ngân hàng để tiến hành trao đổi với các bên đối tác, tuy nhiên khi nền kinh tế suy thoái, qui mô cũng như tốc độ giao dịch kinh tế giảm đi, do đó nguồn tiền gửi thanh toán cũng giảm đi.
2.3.4. Mức lãi suất huy động:
Lãi suất luôn là mối quan tâm hàng đầu khi một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này là hoàn toàn hợp lý, vì trong cơ chế thị trường, lĩnh vực nào đem lại nhuận cao cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư. Tuy nhiên, không phải cứ đưa ra mức lãi suất cao mà ngân hàng sẽ huy động được nhiều tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, bởi vì ngoài mức lãi suất cao người gửi tiền bao giờ cũng quan tâm đến mức độ rủi ro đối với khoản tiền mình gửi vào, hình thức huy động mà ngân hàng đưa ra, kỳ hạn gửi, điều kiện thanh toán. Do vậy, lãi suất không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng tới khối lượng vốn ngân hàng huy động được nhưng phải nói rằng lãi suất cũng đóng vai trò quan trọng. Chính vì thế các Ngân hàng thương mại bao giờ cũng chú trọng tới việc làm sao để có thể đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt, vừa đáp ứng được nhu cầu người gưỉ tiền đồng thời cũng đảm bảo hiệu quả kinh doanh của ngân hàng .
Việc duy trì mức lãi suất mang tính cạnh tranh và có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thu hút thêm các khoản tiền gửi mới cũng như duy trì các khoản tiền hiện có. Điều này càng đặc biệt đúng khi nền kinh tế cần một khối lượng._. vốn lớn mà việc thu hút vốn không chỉ gây cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và còn với các tổ chức khác cũng phát sinh công cụ vay nợ. Sự biến động về lãi suất sẽ khiến người gửi tiền hay nhà đầu tư chuyển vốn từ dạng hiện đang nắm giữ sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế này sang một tổ chức tín dụng, một tổ chức kinh tế khác .
2.3.5. Hình thức huy động :
Một trong những nhân tố ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động phải kể đến đó là việc các Ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp. Để có thể huy động được nhiều vốn trong xã hội thì Ngân hàng phải đưa ra nhiều hình thức huy động vốn khác nhau để người gửi tiền lựa chọn hình thức nào phù hợp với mình nhất. Họ có thể chọn một hoặc nhiều hình thức với mục tiêu bảo toàn được vốn và tăng thên thu nhập đồng thời hạn chế rủi ro. Khi Ngân hàng có nhiều hình thức huy động vốn đa dạng hơn, hấp dẫn hơn thì sẽ lôi cuốn được số lượng lớn các khách hàng. Điều này sẽ làm cho nguồn vốn của Ngân hàng tăng lên. Khi đưa ra hình thức huy động mới ngân hàng phải chú ý đến các điều kiện như: kỳ hạn, lãi suất, hình thức chuyển gốc và lãi, điều kiện chuyển đổi thành tiền mặt, khả năng chuyển nhượng và mua bán của các công cụ huy động vốn trên thị trường.
2.3.6. Các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng:
Một số Ngân hàng có nhiều dịch vụ chất lượng tốt sẽ có khả năng thu hút khách hàng nhiều hơn các ngân hàng khác. Số lượng khách hàng ở đây bao gồm cả khách hàng sử dụng dịch vụ và khách hàng gửi tiền. Các dịch vụ mà Ngân hàng có thể khai thác để cung ứng cho khách hàng là: hệ thống rút tiền tự động, quầy thu ngân cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, giao dịch ngoài giờ làm việc chính thức, dịch vụ tư vấn kinh doanh (về các vấn đề tài chính, sản xuất), dịch vụ ký thác nhanh gọn, tiện lợi. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi khách hàng bắt đầu làm quen với việc sử dụng tiện ích mà Ngân hàng mang lại.
2.3.7. Môi trường pháp lý ;
Hai pháp lệnh ngân hàng ra đời năm 1990 đã tạo ra một môi trường pháp lý chung cho hệ thống Ngân hàng. Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng năm 1997 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng.
Luật Ngân hàng đã kế thừa những nội dung tích cực của hai pháp lệnh Ngân hàng, trên cơ sở đó bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế nhằm tạo môi trường pháp lý đảm bảo hoạt động an toàn, năng động và sự phát triển bền vững của cả ngành Ngân hàng.
Luật Ngân hàng Nhà nước được xây dựng trên những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xây dựngmột môi trường pháp lý ổn định, thúc đẩy các nguồn lực trong nước phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước. Nội dung luật thể hiện sự tăng cường quản lý của Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, lành mạnh và có hiệu quả. Thực hiện chức năng quản lý này là NHNN thông qua các chính sách và công cụ kinh tế vĩ mô gắn liền với thị trường tiền tệ thông qua cơ chế tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác.
Trong điều kiện phát triển kinh tế như hiện nay, hệ thống ngân hàng phát triển với các mô hình, hình thức sở hữu khác nhau, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cổ phần với quy mô, trình độ quản lý còn hạn chế đã gây nên tâm lý lo lắng cho người gửi tiền. Với chức năng là một trung gian tài chính, bản thân các tổ chức tín dụng hiện nay chỉ có thể tạo được thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn ). Vền bản chất các quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các pháp nhân và các thể nhân là quan hệ tín dụng tạm thời trong nền kinh tế, đó chính là việc thực hiện chức năng “trung gian tài chính”, nên chưa thể tạo ra cơ sở thực tiễn để ngành ngân hàng có thể huy động vốn trung và dài hạn có hiệu quả. Vì vậy, môi trường pháp lý cần phải thay đổi để có thể đảm bảo cho quyền lợi của người gửi tiền, tránh tình trạng người gửi tiền gây áp lực đòi thanh toán với ngân hàng. Như vậy, việc hình thành một quỹ bảo hiểm tiền gửi là một yêu cầu khách quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng, duy trì trật tự xã hội .
Môi trường pháp lý có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh tế nói chung và với hoạt động Ngân hàng nói riêng. Hệ thống Ngân hàng phát triển đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý ổn định, luôn luôn đảm bảo quyền lợi về mặt pháp lý và kinh tế cho các bên có liên quan.
2.3.8. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng:
Cạnh tranh luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường, qua cạnh tranh các thành viên tham gia sẽ khẳng định được vị trí và khả năng của mình trên thương trường từ đó từng bước hoàn thiện hơn. Trong lĩnh vực Ngân hàng thì sự cạnh tranh cũng rất sôi động. Trên địa bàn Hà Nội có hơn 70 Ngân hàng khác nhau gồm cả quốc doanh, ngoài quốc doanh và cả hệ thống các Ngân hàng nước ngoài cho thấy sự cạnh tranh là vô cùng gay gắt. Các Ngân hàng luôn ở trong tình trạng cạnh tranh để tồn tại .
Trong điều kiện đó các nhà quản lý phải nhận thức rõ xem Ngân hàng mình phải làm gì và đưa ra các phương pháp gì để có thể làm nổi bật các ưu thế của mình trong cuộc cạnh tranh với các Ngân hàng khác như: ưu thế về địa điểm, bề dày hoạt động, phong cách phục vụ, các dịch vụ cung ứng của ngân hàng cho khách hàng, lãi suất...có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đứng vững trong cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh của Ngân hàng lớn tới đâu quy mô của Ngân hàng cũng lớn tói đó. Mỗi Ngân hàng đều phải đề ra cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý để đạt được mục tiêu của Ngân hàng và góp phần vào sự phát triển của xã hội và đất nước.
2.3.9. Sự phát triển của thị trường tài chính:
Đây là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến công tác huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng. Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự mua bán trao đổi các loại giấy tờ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu của các công ty, trái phiếu và kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại, trái phiếu và tín phiếu của Chính phủ….có thể phận biệt hai bộ phận của thị trường tài chính: Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ không phải là nơi để người mua và người bán đến gặp nhau và thực hiện các giao dịch, mà chỉ là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa hai yếu tố cơ bản của thị trường là cung và cầu để hình thành nên các hoạt động và giá cả (lãi suất). Đối tượng của thị trường tiền tệ là các chứng khoán ngắn hạn (dưới một năm). Thị trường vốn là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán các chứng khoán và giấy tờ ghi nợ trung hoặc dài hạn.
Thị trường tài chính ra đời thúc đẩy hoạt động kinh tế có hiệu quả hơn thông qua việc góp phần tạo ra vốn khả dụng. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa những người có vốn nhàn rỗi và những người cần vốn. Đa số các dự án đầu tư có hiệu quả cần phải sử dụng vốn dài hạn, trong khi những nhà đầu tư ít khi muốn mất quyền kiểm soát tài khoản của mình trong một thời gian dài. Thị trường tài chính hoạt động trôi chảy sẽ cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động trên thị trường ít rủi ro hơn vì người có vốn có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi bán lại một cách nhanh chóng để chuyển sang một hình thức đầu tư khác. Các công ty qua phát hành chứng khoán đã tạo được một nền vốn ổn định cho mình. Như vậy sự phát triển của thi trường tài chính sẽ khuyến khích đầu tư nói chung và hoạt động huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống Ngân hàng nói riêng.
Thị trường tài chính ở Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển còn mang đặc điểm là một thị trường chưa hoàn hảo vì thị trường vốn còn rất sơ khai và chủ yếu là thị trường tiền tệ .
Các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản và thuần tuý. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động huy động vốn. Thị trường chứng khoán là vấn đề vừa mới mẻ với một nền kinh tế mới chuyển đổi ở nước ta. Trong hoạt động tài chính tiền tệ khi các Ngân hàng thực hiện chức năng “trung gian tài chính “ với đầy đủ ý nghĩa của nó tất yếu phải tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán, là nơi để huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư nhất.
Như vậy ta có thể thấy được công tác huy động vốn trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay trên thị rường tiền tệ, các hoạt động chủ yếu diễn ra trên thị trường tiền gửi, thị trường tín phiếu kho bạc Nhà nước, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên Ngân hàng. Hoạt động của thị trường này thời gian qua đã đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế và phần nào đóng góp vào việc ổn định tiền tệ. Bên cạnh đó thị trường vốn còn rất mỏng manh, có khả năng chứa đựng nhiều rủi ro, các hình thức giao lưu vốn còn ít và chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ. Nguồn vốn trung và dài hạn thu hút được còn hạn chế trên thị trường này là một phần do người dân còn chưa hiểu hết các loại hàng hoá đó. Hàng hoá chuẩn bị cho ra đời của thị trường chứng khoán chưa nhiều ,mới có trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, trái phiếu, kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại, cổ phiếu, trái phiếu của các công ty cổ phần. Việc tạo ra một tập hợp đa dạng các loại chứng khoán sẽ là công tác quan trọng để hướng tới phát triển thị trường chứng khoán đang được hình thành ở Việt Nam.
2.3.10. Công tác tuyên truyền quảng cáo:
Ngày nay, với sự phát triển của hệ thống thông tin trên khắp thế giới không ai trong chúng ta có thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo. Trong kinh doanh Ngân hàng, hoạt động quảng cáo luôn được đề cao và nó có tác dụng to lớn trong việc phô trương thanh thế cho Ngân hàng.
2.3.11. Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh bao hàm điều kiện kinh tế xã hội tại địa bàn mà Ngân hàng hoạt động và sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại hoạt động trên cùng địa bàn. Mỗi Ngân hàng phải linh hoạt trước tình hình thực tế của vùng và địa bàn Ngân hàng hoạt động trong từng thời kỳ, phải năng động sáng tạo và quyết đoán trong công việc. Ngân hàng nên áp dụng một cách linh hoạt các hình thức huy động vốn nhằm thu hút tối đa khối lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Ngân hàng cũng là một loại hình kinh doanh mang tính cạnh tranh bởi vì khách hàng có quyền lựa chọn gửi tiền vào bất cứ Ngân hàng nào mà khách hàng ưa thích và cảm thấy thuận tiện.
Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý: khách hàng gửi tiền tiết kiệm phần lớn là các khách hàng với món tiền vừa và nhỏ. Nếu Ngân hàng nằm ở khu vực dân cư đông đúc thì chắcb chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền.
2.3.12. Các nhân tố khác:
Ngoài các nhân tố kể trên, công tác huy động vốn của Ngân hàng còn chịu tác động của các nhân tố sau:
-Thâm niên của Ngân hàng :
Mặc dù không phải bao giờ một ngân hàng lâu đời cũng có lợi thế hơn so với một Ngân hàng mới thành lập nhưng điều đặc biệt đúng tại những nơi không có sự tham gia nhanh chóng về hoạt động kinh tế và tiền tệ.
Đối với kinh tế thị trường khi cần giao dịch, bao giờ họ cũng tin tưởng vào một Ngân hàng có thâm niên hơn là một Ngân hàng mới giao dịch vì họ cho rằng nó có uy tín, thế lực trên thị trường, có nguồn vốn lớn, khả năng thanh toán cao, ít rủi ro. ở đây, thâm niên của Ngân hàng ít nhiều ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng với Ngân hàng.
Yếu tố địa điểm thường tác động đến tâm lý của khách hàng. Vì khi một Ngân hàng nằm ở một vị trí thuận lợi như trung tâm thành phố, nằm ở mặt phố lớn, điều kiện đi lại thuận tiện, có bãi đỗ xe, khu vực xung quan an toàn cho việc giao dịch thì sẽ gây được sự chú ý và thu hút được khách hàng về phía mình.
Mặt khác, không giống như các nhà kinh doanh, người dân với lượng tiền không lớn sẽ chú ý đến địa điểm nhiều hơn, họ sẽ chú ý đến các Ngân hàng gần nhà, thuận tiện cho việc đi lại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì hầu hết lượng tiền nhàn rỗi nằm trong tay dân cư, tuy lượng tiền của mỗi người không nhiều nhưng do số lượng lớn nên khả năng huy động vốn trong dân chúng là rất cao. Một Ngân hàng nằm giữa khu vực dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, sẽ có lợi thế trong việc thu hút khách hàng và lượng tiền gửi.
-Chất lượng đội ngũ cán bộ và cơ sở hạ tầng:
Nói chung người ta mong muốn tiến hành các giao dịch tại các ngân hàng có trụ sở kiên cố, sang trọng, trang thiết bị hiện đại cùng với đội ngũ cán bộ niềm nở nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao. Điều này buộc các ngân hàng phải chú ý đến việc nâng cấp trang thiết bị cơ sở hạ tầng của mình cũng như bồi dưỡng nghiệp vụ và thái độ ứng xử của nhân viên ngân hàng với khách hàng.
Chương II:
Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội
1. Khái quát hoạt động của Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội
1.1. Điều kiện hình thành Ngân hàng liên doanh Lào -Việt chi nhánh Hà Nội
Sự ra đời của Ngân hàng liên doanh Lào -Việt dựa trên sự đoàn kết, tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai quốc gia và mối quan hệ rất chặt chẽ về chính trị cũng như các mặt khác: kinh tế -văn hoá -xã hội ...để cải thiện tốt hơn nữa mối quan hệ đã có thì chính phủ, nhà nước của hai bên đã chỉ định thành lập một Ngân hàng liên doanh có tên gọi là Ngân hàng liên doanh Lào –Việt. Đó là sự kết hợp giữa Ngân hàng Ngoại thương Lào với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Sự ra đời của Ngân hàng liên doanh Lào –Việt cho thấy hoạt động kinh tế của hai nước Lào và Việt Nam đã có thêm một bước thuận lợi và là cầu nối giúp các doanh nghiệp có nhu cầu xuất nhập khẩu thanh toán giữa hai nước nhanh chóng hơn, an toàn và chính xác, tạo lập uy tín với khách hàng nhất là khách hàng có quan hệ kinh tế với nước Lào và Việt Nam.
Với phương châm hoạt động kinh doanh hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng, ở Hội sở chính cũng như là ở các chi nhánh đã cung cấp cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng tốt nhất. Vì vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội của hai nước, hoạt động cơ bản ban đầu của ngân hàng là huy động vốn và cho vay, việc huy động vốn chủ yếu là nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, vay vốn của các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế. Phần lớn về thanh toán Ngân hàng dùng tiền LAK, VND, USD và các loại ngoại tệ khác.
Qua thời gian hoạt động nhờ có sự tâm huyết nhiệt tình, năng động và sáng tạo của Ban lãnh đạo Ngân hàng ngày càng phát triển, vững mạnh nên hiệu quả hoạt động của ngân hàng không chỉ dần vào thế ổn định mà ngày càng không ngừng mở rộng được các mặt hoạt động cơ bản của ngân hàng như: hoạt động huy động vốn, huy động tín dụng, hoạt động đồng tài trợ, dịch vụ thanh toán ....
Chi nhánh ngân hàng liên doanh Lào – Việt Hà Nội, được thành lập và khai trương hoạt động vào ngày 27/3/2000 trong hoàn cảnh có những thuận lợi và khó khăn như sau:
Thuận lợi:
Được sự đồng tình, giúp đỡ của chính phủ hai nước: Việt Nam và Lào, sự ủng hộ của ngân hàng hai nước Việt – Lào, sự quan tâm giúp đỡ của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và ngân hàng ngoại thương Lào, sự chỉ đạo của Lào Việt Bank hội sở Viêng Chăn, đã tạo điều kiện để chi nhánh sớm ổn định và có đủ các cơ sở pháp lý để đi vào hoạt động .
Việc ra đời ngân hàng liên doanh Lào Việt tại Hà Nội, với những tiện ích riêng có trong quan hệ thanh toán chuyển tiền theo phương thức: chủ tài khoản ở tại Việt Nam vẫn có thể điều hành tài khoản tại Viêng Chăn hoặc ngược lại, thay cho việc thanh toán tiền qua biên giới như trước đây, với việc triển khai nhanh các mặt nghiệp vụ kinh doanh của Lào Việt Bank Hà Nội, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của nhiều doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động kinh doanh có quan hệ tại nước bạn Lào.
Lực lượng cán bộ công nhân viên của chi nhánh Lào Việt Bank Hà Nội, được hình thành từ việc điều động cán bộ của Ngân hàng ngoại thương Lào và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy khác nhau phong tục tập quán, chưa quen với điều kiện sống và làm việc ở môi trường mới, nhưng hầu hết các cán bộ của chi nhánh được đào tạo cơ bản, có nhận thức tốt và đã qua thực tế một số năm. Sau một thời gian làm việc tại chi nhánh, hầu hết các cán bộ công nhân viên đã thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt và có tinh thần đoàn kết vì mục tiêu chung.
Khó khăn:
Do mới thành lập, quy chế quy trình và các văn bản pháp lý về hoạt động kinh doanh cho chi nhánh Lào Việt Bank Hà Nội còn vừa làm vừa hoàn thiện nên gặp nhiều khó khăn.
Sau một thời gian hoạt động và qua thực tế sử lý các nghiệp vụ cụ thể, hoạt động kinh doanh của Lào Việt Bank cũng gặp phải không ít khó khăn trong việc triển khai nghiêp vụ thanh toán và quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có quan hệ kinh tế với nước bạn Lào, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu gỗ. Việc thanh toán chuyển đổi giữa đồng VND với đồng LAK cũng có khó khăn, nguồn vốn VND của chi nhánh chủ yếu từ nguồn vay tại BIDV khi thực hiện mua lại đồng LAK cho các doanh nghiệp nhưng không có khách hàng có nhu cầu sử dụng đồng LAK làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Lào Việt Bank.
Là chi nhánh của ngân hàng liên doanh với nước bạn Lào, Lào Việt Bank Hà Nội thuộc diện chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam do vậy đối với các cơ quan như: bưu điện, điện lực, cấp nước và các báo đài trung ương, địa phương khi Lào Việt Bank Hà Nội có nhu cầu sử dụng các dịch vụ naỳ đều bị áp dụng các mức thu phí rất cao. Trên thực tế kinh doanh của Lào Việt Bank Hà Nội chịu sự cạnh tranh rất khắc nghiệt của các tổ chức tín dụng trên cùng địa bàn, nguồn chênh lệch lãi và phí trong kinh doanh của Lào Việt Bank Hà Nội là rất thấp.
Tuy gặp phải những khó khăn nêu trên, nhưng tập thể ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên Lào Việt Bank Hà Nội, do quán triệt tốt mục tiêu hoạt động kinh doanh, nhận thức đúng và biết tận dụng những mặt thuận lợi sẵn có, với tinh thần đoàn kết khắc phục khó khăn, Lào Việt Bank Hà Nội đã đề ra phương châm hoạt động và triển khai thực hiện nhanh các mặt hoạt động nghiệp vụ, phục vụ nhu cầu khách hàng.
1.2. Sơ lược kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội trong những năm vừa qua.
Qua 2 năm hoạt động, Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chi nhánh Hà Nội đã có những cố gắng không ngừng để phát triển hoạt động kinh doanh của mình ngày một vững mạnh. Đến ngày 31/12/2001 tổng tài sản của Ngân hàng đã đạt được 195,406 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2000. Sau những kết quả đạt được của năm 2000 Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội tiếp tục đi vào chương trình khai thác nguồn vốn trong nước, góp phần phát huy nội lực để phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh đều tăng lên, đặc biệt là chỉ tiêu vốn huy động của năm 2001 tăng 60.97% so với năm 2000, chỉ tiêu tổng dư nợ tín dụng của năm 2001 tăng 68.897% so với năm 2000, doanh thu của năm 2001 tăng 129.25% so với năm 2000, đặc biệt lợi nhuận của năm 2001 tăng 100% so với năm 2000.
Những thành công trên của Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội trong 2 năm hoạt động phải kể đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, Ngân hàng nhà nước hai nước Việt Nam và Lào, sự quan tâm giúp đỡ về mọi mặt của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và Ngân hàng ngoại thương Lào, sự chỉ đạo và hỗ trợ trực tiếp của Hội sở chính Viêng Chăn đã giúp cho hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển.
Năm 2001 là năm chi nhánh Ngân hàng liên doanh Lào Việt tại Hà Nội thực sự bước vào hoạt động kinh doanh. Để đánh giá đúng, chính xác những nhân tố ảnh hưởng, tác động đến hoạt động kinh doanh của Lào Việt Bank Hà Nội một cách chính xác và khách quan hơn ta phải tiến hành phân tích một số mặt hoạt động chủ yếu của Ngân hàng (tình hình huy động vốn, hoạt động tín dụng, một số hoạt động kinh doanh khác) và từ đó xác định kế hoạch hoạt động kinh doanh năm 2002 đạt hiệu quả cao hơn nhằm góp phần vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Lào.
Có thể nói năm 2001 Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội đã đạt một số chỉ tiêu Hội sở chính giao nhưng vấn đề tăng trưởng dư nợ tín dụng đang là một thách thức lớn đối với chi nhánh. Tăng trưởng khách hàng bình quân tại chi nhánh hiện nay từ 10%-25%. Chi nhánh đang tích cực đề ra những biện pháp thực hiện trong thời gian tới như mở rộng các loại hình cho vay, mở rộng và lựa chọn khách hàng, tìm kiếm các dự án có hiệu quả để khai thác nguồn vốn, vừa cho vay vừa phải đảm bảo chất lượng để đảm bảo cuối năm 2002 đạt 40% dư nợ cho vay trung và dài hạn, 60% dư nợ cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ mà Hội sở chính giao. Chi nhánh cần chú trọng về chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp thu hồi các món nợ quá hạn, giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức cho phép. Đó là mục tiêu chi nhánh đặt lên hàng đầu trong năm 2002.
2. Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội
Khác với các doanh nghiệp thông thường, Ngân hàng không sử dụng vốn tự có của mình làm nguồn vốn chính để tiến hành hoạt động kinh doanh mà ngân hàng sử dụng nhằm mục đích mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu, tạo lòng tin với khách hàng hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn chính được sử dụng trong hoạt động kinh doanh là vốn huy động vì vậy vốn huy động có vai trò rất quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Do vậy muốn có vốn để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận thì Ngân hàng phải tìm ra các giải pháp để thu hút được nhiều nguồn vốn nhất .
Tuy nhiên hoạt động huy động vốn không phải là hoạt động độc lập riêng rẽ mà nghiệp vụ huy động vốn và các nghiệp vụ khác của ngân hàng phải luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có huy động vốn thì ngân hàng mới có vốn để cho vay ra nền kinh tế và ngược lại hoạt động cho vay có hiệu quả, kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động. Nói cách khác, ngân hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp, trong đó nghiệp vụ huy động vốn phải được chú trọng kết hợp cùng hai nghiệp vụ tín dụng và thanh toán để tạo lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Xác định nguồn vốn là vấn đề quan trọng và có vai trò quyết định tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nên trong những năm qua Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội đã tập trung huy động vốn, giữ vững tốc độ tăng trưởng đưa tổng tài sản Nợ, tổng tài sản Có đạt 195,406 tỷ đồng (năm 2001)-đạt 96% so với kế hoạch được giao. Trên cơ sở đó các hoạt động tín dụng cũng tăng lên, nâng doanh số cho vay, đảm bảo an toàn hiệu quả, tăng lợi nhuận và thực hiện nộp nghĩa vụ Ngân sách Nhà nước. Thực hiện phương châm “tăng trưởng an toàn”, hàng năm ngân hàng luôn có kế hoạch phát triển và sử dụng vốn một cách cụ thể, đảm bảo tăng trưởng an toàn hệ thống. Các loại hình huy động vốn của Ngân hàng Lào Việt Bank Hà Nội tuy không phong phú và đa dạng nhưng mang lại hiệu quả rất khả quan cho ngân hàng trong những năm vừa qua.
Dưới đây là những số liệu cụ thể phản ánh tình hình huy động vốn tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội trong những năm gần đây.
Bảng1: Diễn biến nguồn vốn huy động tại Lào Việt Bank Hà Nội.
Đơn vị: Tỷ đồng.
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
Vốn huy động
41
66
So sánh số tuyệt đối
25
So sánh số tương đối
160,97%
Nguồn: Phòng Kinh doanh-Lao Viêt Bank Hà Nội
Biểu đồ:Cơ cấu nguồn vốn huy động qua các năm
Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội nói riêng cũng như các Ngân hàng thương mại nói chung đều hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” do đó giữa hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của Lào Việt Bank có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để có thể mở rộng các hoạt động cho vay và đầu tư Ngân hàng luôn phải quan tâm đến nghiệp vụ huy động vốn. Tuy nhiên số lượng vốn huy động, cơ cấu, loại hình huy động lại phụ thuộc vào phương hướng kinh doanh tức là phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Để mở rộng cho vay và đầu tư nhằm chiếm lĩnh thị trường hay thực hiện mục tiêu điều chuyển vốn, Ngân hàng cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể huy động được số vốn cần thiết. Để đạt được điều đó Ngân hàng cần có sự thay đổi trong cơ cấu huy động, loại vốn huy động ….
Qua bảng số liệu trên đã chỉ rõ nguồn vốn huy động của Ngân hàng Lào Việt Bank Hà Nội qua những năm đầu hoạt động đã có nhiều cố gắng không ngừng điều này đã chứng tỏ Ngân hàng đã có những nỗ lực lớn trong công tác huy động vốn, cụ thể là:
Năm 2000 nguồn vốn huy động đạt 41 tỷ đồng, đây là một cố gắng đáng kể của Lào Việt Bank Hà Nội vì là Ngân hàng mới nên còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực huy động vốn.
Năm 2001 nguồn vốn huy động đạt 66 tỷ đồng tăng 25 tỷ đồng so với năm 2000 tăng 60,97%. Đây là một cố gắng lớn của toàn chi nhánh Lào Việt Bank Hà Nội .
Trên đây, là những con số không dễ dàng gì đạt được đối với bất cứ Ngân hàng nào và đặc biệt là đối với Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nôị là một Ngân hàng mới được thành lập vào ngày 27/3/2000 với đầy những khó khăn và thử thách. Điều này cho thấy nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành cũng như việc Ngân hàng đã tự tin từng bước thâm nhập vào thị trường và được khách hàng tín nhiệm, từng bước phát triển trong công tác khai thác nguồn vốn, mở rộng đầu tư.
Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng đã có sự chuyển dịch về cơ cấu, vốn huy động ngày càng tăng trưởng cao. Điều đó khẳng định khả năng đáp ứng vốn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng trong tương lai là ngày càng lớn.
Biểu đồ: Cơ cấu nguồn vốn của Lào Việt Bank qua hai năm hoạt động
Nguồn: Phòng Kinh doanh-Lao Việt Bank Hà Nội
Cơ cấu các nguồn vốn có sự chuyển dịch theo hướng có lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đặc biệt nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng tăng lên nhanh chóng chỉ sau một năm Ngân hàng hoạt động, tăng 11%. Điều này chứng tỏ rằng Lào Việt Bank Hà Nội đã tạo được uy tín cho Ngân hàng trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tạo được sự tin tưởng từ phía các khách hàng.
Bảng 2: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền.
ĐV: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2001/2000
ST
%
ST
%
ST
%
Vốn huyđộng
41
100
66
100
25
161%
Nội tệ
23
56%
36
55%
13
157%
Ngoại tệ
18
44%
30
45%
12
167%
Nguồn: Phòng Kinh doanh-Lao Viêt Bank Hà Nội
Năm 2000 các ngân hàng thương mại lao vào cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động đô la Mỹ để thu hút tiết kiệm ngoại tệ đem gửi nước ngoài kiếm chênh lệch lãi suất thì những tháng đầu năm 2001 các Ngân hàng thương mại lại đồng loạt điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho vay ngoại tệ của mình. Các động thái trên cho thấy thị trường ngoại tệ đang chuyển mình theo chiều hướng tích cực, cung cầu ngoại tệ chắc chắn sẽ giảm căng thẳng .
Sở dĩ có những thay đổi trên là do có các chính sách can thiệp thị trường của Ngân hàng Nhà nuớc đã bắt đầu phát huy tác dụng cùng với những thay đổi khách quan trên thị trường tiền tệ quốc tế. Việc Ngân hàng nhà nước hai lần liên tục điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 7% và lên 12% đã khiến cho các ngân hàng phải đau đầu với bài toán lợi nhuận. Để đảm bảo an toàn và có lãi, việc các ngân hàng giảm lãi suất huy động là một tất yếu khách quan mà các chuyên gia phân tích đều dự đoán được. Hiện nay và trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ phải chú trọng hơn đến việc đẩy mạnh tín dụng chứ không thể trông chờ vào việc hưởng lãi tiền gửi nước ngoài như trước đây dù rằng đây vẫn là nguồn thu lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
Năm 2000 vốn huy động từ nội tệ đạt 23 tỷ đồng chiếm 56% vốn huy động thì sang năm 2001 nguồn nội tệ đã đạt 36 tỷ đồng chiếm 55% vốn huy động, có thể nhận thấy rằng nguồn nội tệ tăng lên 13 tỷ đồng nhưng xét về tỷ trọng thì nguồn tiền này đã giảm 1% so với năm 2000. Điều này cho thấy rằng Ngân hàng vẫn chưa chú trọng nhiều đến nguồn vốn từ trong nước.
Qua bảng trên ta thấy năm 2001 nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ có chiều hướng tăng lên, tăng 12 tỷ đồng, chiếm 45% vốn huy động.
Đối với Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, việc huy động tiền dưới bất cứ hình thức nào, nội tệ hay ngoại tệ cũng rất quan trọng đối với ngân hàng. Vì huy động vốn là cơ sở cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để đánh giá sâu sắc hơn về thực trạng và biến động của từng nguồn huy động của ngân hàng. Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích các nguồn chủ yếu sau:
*Tiền gửi của khách hàng (trong đó tiền gửi tiết kiệm là chủ yếu).
*Tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng.
2.1. Tiền gửi tiết kiệm.
Đây là khoản tiền gửi của khách hàng có mục đích tiết kiệm và sinh lời cho khoản tiền đó. Vì vậy nguồn tiền gửi tiết kiệm có tính chất khá ổn định nếu không có biến cố nào quá lớn ngân hàng có thể yên tâm sử dụng nguồn này vào các mục đích sử dụng nguồn.
Có hai loại hình tiết kiệm đó là:
-Tiết kiệm có kỳ hạn.
-Tiết kiệm không kỳ hạn.
Thông thường tiết kiệm có kỳ hạn mang tính chất ổn định nên có lãi suất cao hơn so với tiết kiệm không kỳ hạn. Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các ngân hàng thương mại. Huy động vốn từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. Chính vì thế, sự biến động của nguồn vốn này ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Bảng 3: Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm.
ĐV: Tỷ đồng
Năm
2000
2001
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Số tiền
%
Nguồn vốn
41
100%
66
100
TGTK
7,739
18,876%
23,282
35,276%
Không kỳ hạn
0,001
0,013%
0,239
1,027%
Có kỳ hạn
7,738
99,987%
23,043
98,973%
Nguồn: Phòng Kinh doanh-Lao Viêt Bank Hà Nội
Biểu đồ :Tiền gửi tiết kiệm so với vốn huy động
Qua hai năm hoạt động công tác huy động bằng tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng liên doanh Lào Việt chi nhánh Hà Nội có nhiều biến động do đây là một ngân hàng mới được thành lập vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, người dân vẫn chưa tín tưởng vào ngân hàng cộng với sự ít hiểu biết về một ngân hàng mới được thành lập. Từ những khó khăn đó thì công tác huy động vốn bằng tiền gửi trong dân chúng gặp rất ít thuận lợi. Tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm trên tổng vốn huy động còn rất thấp chiếm 35% nguồn vốn huy động mặc dù ngân hàng đã có nhiề._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0258.doc