Mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động XNK và đặc điểm của buôn bán biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Những vấn đề lý luận cơ bản.
1. Tầm quan trọng của công tác XNK hàng hoá
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo- nền tảng của hoạt động xuất nhập khẩu
3. Các khâu kinh doanh XNK
4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác XNK
Sự hình thành tất yếu của buôn bán biên giới Việt - Trung
1. Khái quát mậu dịch biên giới trước khi bình thường h
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh Hoạt động xuất nhập khẩu của CEMACO với thị trường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oá
2. Sự cần thiết phải mở cửa biên giới Việt - Trung và nối lại quan hệ buôn bán biên giới
3. Chủ trương của Chính phủ hai nước trong mậu dịch biên giới
4. Buôn bán biên giới Việt - Trung sau khi bình thường hoá
Đặc điểm buôn bán biên giới Việt - Trung
1. Các hình thức buôn bán biên giới Việt - Trung
2. Lực lượng tham gia buôn bán biên giới Việt - Trung
3. Các phương thức thanh toán
Chương II: Tình hình XNK hàng hoá của CEMACO với thị trường Trung Quốc
Giới thiệu về Công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển
2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động
Tình hình XNK hàng hoá của CEMACO với thị trường Trung Quốc
1.Tình hình XNK
2. Hình thức buôn bán
3. Phương thức thanh toán
4. Thuế XNK hàng hoá qua biên giới
5. Quản lý Nhà nước
6. Đánh giá hiệu quả hoạt động XNK qua biên giới Việt - Trung
7. Những kết luận chung về tình hình XNK của Công ty qua biên giới Việt - Trung
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động XNK của CEMACO với thị trường Trung Quốc
Phương hướng và nhiệm vụ của Công ty trong những năm tới
1. Phương hướng, mục tiêu kinh doanh
2. Các quan điểm cơ bản khi xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty
II. Phương hướng và triển vọng phát triển buôn bán biên giới Việt - Trung trong thời gian tới
1. Phương hướng phát triển
2. Triển vọng phát triển
Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động XNK của CEMACO với thị trường Trung Quốc
Những kiến nghị đối với Nhà nước
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Trung Quốc là một thị trường lớn không chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước trên thế giới. Sau công cuộc cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển với tốc độ nhanh, tiềm lực khoa học và công nghệ có bước phát triển đáng kể, nhiều hàng hoá Trung Quốc đã xâm nhập vào thị trường thế giới. Hiện nay, khi đã thu hồi được Hồng Kông (1.7.2000) sắp tới vào năm 2002 sát nhập thêm Ma Cao, Trung quốc sẽ tạo thêm thế và lực mới trên quốc tế, đặc biệt Trung Quốc đã tích luỹ được lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn (hàng trăm tỷ đô la). Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng sang thế kỷ 21 Trung quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giơí có thể đối trọng với Việt Nam. Vì vậy chính sách của Việt nam ta nói chung và của Công ty Hóa chất- Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật nói riêng là tăng cường quan hệ mua bán với Trung Quốc theo hiệp định thương mại, trong đó quan trọng thiết lập quan hệ lâu dài với các Công ty, tập đoàn lớn thuộc bộ ngành trung ương hay các địa phương có tiềm lực mạnh về sản xuất công nghiệp như Bắc kinh, Thượng hải, Thiên tân.. .để có thể nhập được vật tư, thiết bị công nghệ có chất lượng cao, điều đáng lưu ý là phải tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của ta vào thị trường có hơn 1,2 tỷ dân này.
Là doanh ngiệp nhà nước chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu và mới bắt đầu chính thức hoạt động từ 1.1.1999, thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật qua biên giới Việt -Trung đã gặp phải một số vấn đề tồn tại cả về lý luận và thực tiễn làm hạn chế hiệu quả kinh doanh. Nhận thấy điều này đồng thời xuất phát từ chủ trương, chính sách của Công ty, đề tài “Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Công ty Hoá chất -Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật với thị trường Trung quốc” được chọn để nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm kết hợp lý thuyết với thực tế của kinh doanh để phân tích đánh giá tình hình xuật nhập khẩu với thị trường Trung Quốc của Công ty, đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu, nâng cao hiệu quả công tác nhập khẩu các ngành hàng chính, thúc đẩy sự phát triển của Công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu ba ngành hàng chính của Công ty qua biên giới Việt -Trung là hoá chất, vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật.
Phương pháp nghiên cứu: Đó là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích thống kê, phương pháp tổng hợp, so sánh... đi từ lý luận đến thực tiễn.
Luận văn gồm 3 chương:
.Chương I:Những vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động xuất nhập khẩu và đặc điểm của buôn bán biên giới Việt nam -Trung quốc.
.Chương II:Tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Hoá chất- Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật thị trường Trung quốc .
.Chương III:Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty với thị trường Trung quốc.
Chương I:
Những vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động xuất nhập khẩu và đặc điểm của hoạt động buôn bán biên giới Việt Nam-Trung Quốc.
I. Những vấn đề lý luận cơ bản.
1. Tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu (XNK) hàng hoá.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán thương mại ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Vì phải đương đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể tham gia XNK không dễ dàng khống chế được nên XNK là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại hiệu quả đột biến cao hoặc cũng có thể gây thiệt hại rất lớn.
1.1. Vai trò của xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho việc phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại quốc tế.
Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Để phục vụ công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn dùng nhập khẩu máy móc. Thiết bị kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Trong các nguồn hình thành vốn nhập khẩu như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, xuất khẩu hàng hoá, sức lao động...thì xuất khẩu là nguồn quan trọng nhất. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng nhập khẩu. Thực tế Việt Nam, thời kỳ 1986-1993 cho thấy nguồn thu từ xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ. Nguồn thu về xuất khẩu năm 1997 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm1999.
Xuất khẩu còn đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Có hai cách nhìn nhận vấn đề này:
Thứ nhất, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn nhiều lạc hậu, chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản vẫn chưa đáp ứng đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì sản xuất vẫn cứ nhỏ bé, tăng trưởng kém và tất nhiên là sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
Thứ hai, coi thị trường mà đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nghĩa là, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có thêm nhiều cơ hội thuận lợi để mở rộng thị trường tiêu thụ, ổn định sản xuất, mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, tạo ra những tiền đề kinh tế kĩ thuật, nâng cao năng lực sản xuất. Ngoài ra xuất khẩu còn có tác dụng làm cho doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất luôn đổi mới lại sản phẩm, hoàn thiện công tác quản lý...đảm bảo cung cấp đúng sản phẩm mà thị trường đòi hỏi.
Xuất khẩu còn có tác động tích cực trong vấn đề giải quyết công ăn việc làm, thu hút lao động vào một số ngành sản xuất, tạo thu nhập cho nhân dân, cải thiện đời sống xã hội. Xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta.
1.2. Vai trò của nhập khẩu:
Nhập khẩu là một hoạt động song song tồn tại với hoạt động xuất khẩu, nó tác động một cách trực tiếp và có tính chất quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, tức là nhập những hang hoá mà nếu sản xuất ở trong nước không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố sản xuất (vốn, công cụ lao động, lao động) đóng vai trò quan trọng nhất.
Cụ thể là nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng bước theo hướng công nghiệp hoá đất nước, bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phát triển ổn định. Nhập khẩu còn góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nó vừa thoả mãn nhu cầu hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, vừa tạo việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn có tác động tích cực thúc đẩy xuất khẩu, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài.
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo- nền tảng của hoạt động xuất nhập khẩu
Từ xưa, con người đã ý thức được lợi ích của hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các nước, thấy được những lợi ích thực tế của thương mại quốc tế và đó chính là khởi nguồn cho các lý thuyết về thương mại quốc tế ra đời. Tuy nhiên, các lý thuyết về thương mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện vào thế kỷ XV và được liên tục phát triển cho đến nay. Các lý thuyết khác nhau về thương mại quốc tế phản ánh những thang bậc vận động khác nhau của tư duy loài người về buôn bán quốc tế.
Trong các lý thuyết về thương mại quốc tế, lý thuyết lợi thế so sánh được coi là nguyên lý cốt lõi của thương mại quốc tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Nó có sự phát triển gắn với lịch sử thương mại quốc tế. Nổi bật trong lịch sử tư tưởng lợi thế so sánh là học thuyết của nhà kinh tế học nổi tiếng ngươì Anh- David Ricacdo (1772-1823)- “Lý thuyết lợi thế so sánh” từ đầu thế kỷ XIX. Đã gần hai thế kỷ qua, học thuyết của David Ricacdo vẫn đứng vững và được các nhà kinh tế học ngày nay hoàn toàn thừa nhận. Nó là nền tảng để phát triển các lý thuyết về lợi thế so sánh của Jhon Stuart Mull, Hecksher Ohlin ... sau này, hoàn thiện hơn lý thuyết về lợi thế so sánh.
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về mọi hàng hoá thì lợi ích của thương mại quốc tế là rất rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu nước Việt Nam có thể sản xuất hiệu quả hơn nước Anh cả về lúa mỳ lẫn vải vóc?
Theo quy luật lợi thế tương đối, nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với nước khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, ở đó vẫn có cơ sở cho việc tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho dân tộc mình.
D.Ricacdo đưa ra nguyên tắc: Các nước cần phải lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá theo công thức “Chi phí để sản xuất ra sản phẩm A của nước đó so với chi phí của thế giới (hoặc của nước khác) nhỏ hơn chi phí để sản xuất ra sản phẩm B của nước đó so với thế giới (hoặc so với nước khác)”:
Chi phí để sản xuất sf A của nước X Chi phí để sản xuất sf B của nước X
-------------------------------------------- < -------------------------------------------
Chi phí để sản xuất sf A của thế giới Chi phí để sản xuất sf B của thế giới
Trong trường hợp này, nước X nên chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm A, còn thế giới nên chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm B. Để làm rõ điều này, ta xét mô hình giản đơn của D.Ricacdo với những giả thiết:
* Thế giới chỉ có hai quốc gia sản xuất hai mặt hàng
* Yếu tố sản xuất duy nhất là lao động có thể di chuyển tự do ở trong nước nhưng không di chuyển ra nước ngoài
* Công nghệ ở hai nước là cố định
* Chi phí sản xuất không đổi, chi phí vận tải không đáng kể
* Thương mại được tự do hoàn toàn
Sản phẩm
Yêu cầu lao động cho sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
ở Việt Nam
ở Hàn Quốc
1 đơn vị lương thực
1 giờ lao động
3 giờ lao động
1 đơn vị quần áo
2 giờ lao động
4 giờ lao động
Ta thấy, do năng suất lao động khác nhau nên Việt Nam có chi phí về sản xuất lương thực và quần áo thấp hơn ở Hàn Quốc. Nếu áp dụng nguyên tắc của D.Ricacdo để chuyên môn hoá sản xuất thì cả Việt Nam và Hàn Quốc đều cùng có lợi.
Chi phí để sản xuất 1 đơn vị lương thực ở Việt Nam 1
A= ----------------------------------------------------------------- = ------
Chi phí để sản xuất 1 đơn vị lương thực ở Hàn Quốc 3
Chi phí để sản xuất 1 đơn vị quần áo ở Việt Nam 2 1
B = ------------------------------------------------------------ = ------ = ------
Chi phí để sản xuất 1 đơn vị quần áo ở Hàn Quốc 4 2
Lợi ích thương mại quốc tế sẽ là :
Nếu chưa có thương mại quốc tế, tiền lương thực tế 1 giờ công lao động ở Việt Nam là 1 đơn vị lương thực hay 1/2 đơn vị quần áo. Còn tiền lương thực tế ở Hàn Quốc là 1/3 đơn vị lương thực hay 1/4 đơn vị quần áo. Song do điều kiện cạnh tranh ở mỗi nước khác nhau, ở Việt Nam giá lương thực bằng 1/2 giá quần áo còn ở Hàn Quốc giá lương thực bằng 3/4 giá quần áo.
Nếu Việt Nam chuyên sản xuất lương thực, còn Hàn Quốc chuyên sản xuất quần áo rồi đem trao đổi cho nhau thì Việt Nam có lợi hơn trong việc mua quần áo của Hàn Quốc còn Hàn Quốc có lợi hơn trong việc mua lương thực của Việt Nam. Tiền lương thực tế 1 giờ công lao động sẽ thay đổi.
Thật vậy, do thương mại tự do nên giá cả trở nên ngang nhau. Lúc này, 1 giờ lao động ở Việt Nam mua được 1 đơn vị lương thực hay 3/4 đơn vị quần áo (trước đây là 1/2 đơn vị quần áo). 1 giờ công lao động ở Hàn Quốc mua được 1/4 đơn vị quần áo và 1/2 đơn vị lương thực (trước đây là 1/3). Ta thấy tiền lương thực tế của 1 giờ lao động ở cả 2 nước đều tăng lên : mỗi giờ ở Việt Nam lợi được 1/4 đơn vị quần áo, Hàn Quốc lợi được 1/6 đơn vị quần áo.
Giả sử Việt Nam và Hàn Quốc mỗi bên đều có 600 giờ lao động. Ta có đường giới hạn khả năng sản xuất ở 2 nước như sau :
quần
áo 450
300
150
200 300 600
Hàn Quốc Việt Nam
Trước khi có thương mại quốc tế, đường giới hạn khả năng sản xuất (1) của Việt Nam và (2) của Hàn Quốc cũng là đường giới hạn khả năng tiêu dùng. Khi có chuyên môn hóa và trao đổi quốc tế thì Việt Nam có thể tiêu dùng thêm tối đa là 1/4 x 600 = 150 đơn vị quần áo.
Hàn Quốc có thể tiêu dùng thêm 1/6 x 600 = 100 đơn vị lương thực. Nhờ có thương mại quốc tế mà cả 2 nước đều có lợi, đều có khả năng tiêu dùng ngoài khả năng sản xuất và việc quyết định nên chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm nào dựa trên nguyên tắc của D. Ricacdo.
3. Các khâu kinh doanh xuất nhập khẩu:
3.1 Nghiên cứu thị trường hàng hoá:
Đây là bước chuẩn bị, làm tiền đề cho nghiên cứu thị trường hàng hoá để phát hiện ra cơ hội kinh doanh của từng loại hàng hoá và lựa chọn mặt hàng kinh doanh chủ yếu của đơn vị.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá cần phải xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thế giới. Phải hiểu rõ giá trị, công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã của hàng hoá; nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, mức giá cho từng điều kiện mua bán, phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu, các Công ty cạnh tranh, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất hàng hoá (bảo hành, cung cấp phụ tùng, hướng dấn sử dụng...) để lựa chọn mặt hàng kinh doanh. Một nhân tố cần lưu ý là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Trong xuất nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ là tỷ số giữa số tiền bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu ( xuất khẩu ). Nếu tỷ suất ngoại tệ lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng đó xuất khẩu là có hiệu quả.
Việc lựa chọn mặt hàng xuất nhập khẩu không chỉ dựa vào tính toán, ước tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến động của giá cả trên thị trường, trong và ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
Để hiểu rõ thị trường, cần nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường, cần xác định nhu cầu thực sự của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các vùng, các khu vực trên từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm cả việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chịn mua bán. Một số vấn đề cũng cần được quan tâm, nắm bắt trong khâu này là tính thời vụ của sản xuất (cung) và tiêu dùng (cầu) hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có những biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn, đảm bảo cho việc xuất nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình, tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có thể kể đến như:
Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường bao gồm những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của nhà nước, các tập đoàn Công ty lớn, thị hiếu tập quán người tiêu thụ, ảnh hưởng của khả năng sản xuất các hàng hoá thay thế hoặc bổ xung.
Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ gây đột biến về cung, cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, hạn hán, động đất, ... các yếu tố chính trị, xã hội như đình công, chiến tranh...
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố, cần thấy được nhóm các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ kể cả trước kia, hiện nay và xu hướng tiếp theo.
Nắm được dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó giúp cho nhà kinh doanh cân nhắc để ra các quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp thời cơ giao dịch nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, nhà kinh doanh phải nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh và các dấu hiệu về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế để hoà nhập nhanh chóng với thị trường, tránh những sơ xuất trong giao dịch, buôn bán.
3.2. Lựa chọn bạn hàng giao dịch:
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng (khách hàng) nói chung là những người hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với Công ty, nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay dịch vụ, các hợp đồng hợp tác kinh tế hay hợp tác khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Khách hàng trong thương mại quốc tế có thể chia thành ba loại: các hãng hay Công ty, các liên đoàn kinh tế, các cơ quan nhà nước.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu dung lượng thị trường, giá cả để lựa chọn nước giao dịch.
Khi chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng, chất lượng hàng nhập khẩu, chính sách, tập quán thương mại của nước đó. Điều kiện địa lý cũng là vấn đề cần quan tâm vì nó cho phép ta đánh giá được khả năng sử dụng ưu thế về địa lý là người mua, để tăng khả năng cạnh tranh và giảm chi phí về vận tải, bảo hiểm..
Khi chọn nước để xuất khẩu cần nghiên cứu dung lượng thị trường nước đó, yêu cầu của nước đó đối với hàng hoá (dịch vụ) là gì, chế độ, chính sách, tập quán thương mại ra sao và ta có thể sử dụng ưu thế nào trong vận chuyển hàng để giảm chi phí đến mức tối thiểu.
Việc lựa chọn hàng hoá giao dịch cần dựa trên cơ sở nghiên cứu về :
Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và khả năng kinh doanh để khả năng cung cấp (đối với nhập khẩu ) lâu dài thường xuyên, khả năng liên kết kinh doanh, khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để ta được ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán.
Thái độ, quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh, giá cả. Tìm hiểu uy tínvà quan hệ thương nhân trong kinh doanh cũng là điều kiện quan trọng cho phép đi đến các quyết định nhanh chóng, có hiệu quả.
Khi lựa chọn thương nhân giao dịch, tốt nhất nên chọn những người xuất khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian. Song trong một vài trường hợp như muốn xâm nhập một thị trường mới với mặt hàng mới thì việc sử dụng trung gian với tư cách là đại lý môi giới lại rất hiệu quả, hoặc trung gian để nắm bắt kịp thời các thông tin về hàng hoá, thị trường.
Ngoài việc căn cứ vào các yếu tố mang tính khoa học trên, việc lựa chọn đối tượng giao dịch còn tuỳ thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình. Người ta sử dụng nhiều biện pháp để nghiên cứu thị trường hàng hoá, lựa chọn bạn hàng.. qua sử dụng các loại báo chí, ấn phẩm hay nghiên cứu trực tiếp.
3.3. Nghiên cứu giá cả và lựa chọn giá xuất nhập khẩu :
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá (đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp ). Giá cả luôn gắn liền với thị trường, là yếu tố cấu thành thị trường. Giá cả thị trường luôn biến động và chịu tác động của nhiều nhân tố như cung cầu về hàng hoá, cạnh tranh giữa những người bán, cạnh tranh giữa những người mua, sự độc quyền trong mua bán, lạm phát, tỷ giá hối đoái...Ngoài ra, trong mua bán Quốc tế, người ta còn tính chi phí bảo hiểm, vận chuyển vào giá hàng hoá và sử dụng Inconterm90 để xác định cụ thể loại giá này.
Do điều kiện ký hợp đồng, tính chất hàng hoá trong từng hợp đồng khác nhau, để cho giá cả linh hoạt, đáp ứng khả năng về tài chính của bên mua và đảm bảo lợi ích cho bên bán, người ta đưa ra một số cách tính giá trong hợp đồng thương mại quốc tế như sau:
Giá cố định: là giá được quy định vào lúc ký hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận khác, (thường áp dụng cho các hàng hoá bách hoá, hàng hoá có thời hạn chế tạo ngắn ngày).
Giá quy định sau: là giá không được xác định ngay khi ký kết hợp đồng mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng tại một trời điểm nào đó với những nguyên tắc nào đó do hai bên quy định trước (có thể căn cứ vào bảng yết giá tại sở giao dịch hoặc giá thị trường).
Giá linh hoạt: là giá xác định trong lúc ký kết hợp đồng nhưng có thể xem xét lại nếu sau này vào lúc giao hàng giá thị trường của hàng hoá đó có sự biến động lớn tới một mức nhất định (thường áp dụng đối với các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp).
Giá di động:là giá được tính dứt khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá quy định ban đầu, có đề cập tới những biến động về chi phí sản suất trong thời gian thực hiện hợp đồng (áp dụng đôí với những hàng hoá có thời gian chế tạo dài). Trong hợp đồng có quy định giá cơ sở khi ký kết hợp đồng, quy định cơ cấu giá và phương pháp tính giá di động.
Bên cạnh việc căn cứ vào chi phí sản suất, cung cầu...để xác định giá hàng xuất nhập khẩu, còn phải căn cứ vào biến động giá cả tại những nước xuất (nhập) chủ yếu mặt hàng đó vì sự thay đổi giá cả tại nước này có ảnh hưởng đến mặt bằng giá chung của cả thế giới.
3.4. Giao dịch, đàm phán trong công tác mua bán quốc tế:
Sau khi có sự nghiên cứu thị trường hàng hoá nhà kinh doanh tiến hành giao dịch để lựa chọn bạn hàng đàm phán để đi đến thoả thuận những điều khoản cụ thể trong mua bán quốc tế ký kết hợp đồng.
Giao dịch là sự gặp gỡ, thoả thuận giữa các bên trong quá trình tìm kiếm đối tác. Có nhiều phương thức giao dịch khác nhau. Mỗi phương thức có ưu nhược điểm riêng, đòi hỏi nhà kinh doanh phải vận dụng khéo léo từng phương pháp sao cho đạt kết quả cao nhất. Các phương thức đó có thể kể đến như:
Giao dịch thông thường: là phương thức mà hai bên (xuất khẩu và nhập khẩu) gặp nhau trực tiếp để trao đổi bàn bạc về các vấn đề có liên quan (thương áp dụng đối với các bạn hàng quen biết, hàng hoá đã từng có mặt trên thị trường).
Giao dịch qua hội chợ triển lãm : tham gia hội trợ triển lãm sẽ là cơ hội để tìm kiếm bạn hàng mới và ký hợp đồng ngoại thương.
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá. Cách thức này thường được áp dụng khi mua bán hàng hoá có khối lượng lớn, đồng loạt, đảm bảo tránh rủi ro về giá cả, tiền tệ..
Giao dịch qua khâu trung gian, tức là qua các đại lý nước ngoài nhằm có những thông tin chính xác về thị trường, giảm bớt chi phí nhiên cứu trong việc tìm kiếm thị trường mới, đối tác mới.
Ngoài ra có thể sử dụng phương pháp đối lưu hàng hoá nhằm tiết kiệm việc luân chuyển tiền tệ, giao dịch gia công quốc tế hay tái xuất khẩu..
Đàm phán là quá trình nhằm đạt được những điều kiện về giao dịch trong hoạt động mua bán ngoại thương như điều kiện tên hàng, chất lượng, khối lượng, bao bì, cơ sở giao hàng, giá cả, điều kiện và thời gian thanh toán..
Do đặc điểm của mua bán ngoại thương là đối tác ở các quốc gia khác nhau, cách xa về điều kiện địa lý, cho nên có thể đàm phán qua thư từ, điện tín (Fax, telex, điện thoại, thư ) nhưng cần lưu ý là nội dung chuyền tải bằng thư, điện thường ngắn nên khó thoát ý, dễ gây hiểu lầm trong câu, chữ. Trong một số trường hợp cần thiết, hai bên có thể gặp gỡ trực tiếp để thoả thuận cụ thể. Nhưng phải lưu ý khi dùng phương pháp này, hai bên tham gia đàm phán phải có kinh nghiệm đàm phán, tránh bị hớ trong quá trình đàm phán.
3.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá:
3.5.1. ý nghĩa của hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá:
Hợp đồng xuất nhập khẩu ( XNK ) là sự thoả thuận của những đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, còn bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
Nội dung của hợp đồng XNK phải thể hiện đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết. Đối với Việt Nam, hợp đồng XNK phải thể hiện dưới hình thức văn bản, bởi đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Nó xác định rõ ràng trách nhiệm của bên mua, bên bán, tránh những biểu hiện không thống nhất trong ngôn từ hay quan niệm. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng theo quy định chung của quản lý Nhà nước.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hợp đồng XNK với hợp đồng mua bán trong nước là chủ thể của hợp đồng XNK là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau, hàng hoá di chuyển từ nước này sang nước khác, đồng tiền thanh toán có nguồn gốc ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên ký hợp đồng .
3.5.2 Nội dung của hợp đồng XNK :
Nội dung của hợp đồng XNK gồm các điều khoản chính sau:
Tên hàng : Gồm cả tên hàng, nhãn hiệu, đặc tính sản phẩm gồm cả tên khoa học và tên thông thường.
Số lượng và cách xác định: Có thể đưa ra khối lượng, số lượng chính xác hoặc quy định dung sai .
Quy cách phẩm chất và cách xác định : Đưa ra chủng loại, tiêu chuẩn, mẫu và phương pháp thời gian đối chiếu mẫu.
Giá trị, giá cả.
Bao bì, đóng gói, ký hiệu hàng hoá : Hình dạng, kích thước, chất liệu, tiêu chuẩn của bao bì, ký mã hiệu hàng hoá trên bao bì.
Thời gian, địa điểm, phương tiện giao thông.
Kiểm tra, giám định hàng hoá xuất nhập khẩu .
Điều kiện xếp dỡ hàng hoá .
Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán .
Trách nhiệm của các bên vi phạm hợp đồng .
Thủ tục giải quyết tranh chấp .
Các điều kiện khác: Tuỳ theo đặc tính của hàng hoá hoặc điều kiện giao hàng và tuỳ từng trường hợp để có những điều kiện khác cho phù hợp nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng .
3.5.3. Phương pháp ký kết hợp đồng:
Tuỳ từng điều kiện cụ thể của hợp đồng XNK có thể thực hiện ký kết bằng các hình thức sau:
Hai bên ký vào một bản hợp đồng XNK (một văn bản)
Người bán xác nhận(bằng một văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết .
Người bán xác nhận (bằng một văn bản ) đơn đặt hàng của người mua .
Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những thoả thuận bằng đơn đặt hàng trước đây của hai bên.
Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký vì khi ký rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó là rất khó khăn và bất lợi. Văn bản hợp đồng do một bên dự thảo, trước khi ký, bên kia phải xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh trường hợp có thể thay vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận mà bỏ qua những điểm đã thoả thuận.
Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thoả thuận, tránh mập mờ dễ suy luận ra nhiều cách. Những điều khoản của hợp đồng phải xuất phát từ những đặc điểm của hàng hoá định mức bán, từ điều kiện của hoàn cảnh tự nhiên, xã hội và quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng, không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành của các nứơc mua bán. Người đứng ra ký kết phải là người có thẩm quyền. Ngôn ngữ xây dựng hợp đồng phải là ngôn ngữ mà cả hai bên đều thông thạo .
3.5.4 Tổ chức thực hiện hợp đồng:
Sau khi hợp đồng mua bán xuất nhập khẩu đã được ký kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác nhập, các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng, tiến hành sắp xếp những phần việc phải làm, ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại các diễn biến văn bản phát đi và nhận được để xử lý giải quyết cụ thể. Đây là công việc rất phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc gia, luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế. Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và uy tín kinh doanh của đơn vị, cố gắng không để xảy ra sai sót, dẫn đến khiếu nại tiết kiệm chi phí lưu thông nâng cao doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch .
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá gồm các khâu công việc sau đây(đối với đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu):
+ Mở L/C (Letter of Credit)
Đối với nhà xuất khẩu, phải kiểm tra L/C có đúng nội dung hợp đồng đã ký haykhông.
Đối với nhà nhập khẩu : Mở L/C khi bên bán báo đã có hàng ; gửi đơn yêu cầu mở L/C tại ngân hàng được chỉ định mở L/C
+ Chuẩn bị hàng để giao:
Đối với nhà xuất khẩu: Thu gom hàng hoá, đóng gói hàng hoá vào bao bì đầy đủ, ghi đúng địa chỉ bằng mực không phai. Lưu ý các ký hiệu cần thiết như “tránh ẩm”, “dễ vỡ”, ..
Đối với nhà nhập khẩu : Đôn đốc, hướng dẫn người bán giao hàng kịp thời, đúng quy định.
+ Kiểm tra ở cửa khẩu :
Kiểm tra ở cửa khẩu do chi nhánh hoặc các trung tâm thuộc cơ quan trung ương tiến hành. Thông thường là chậm nhất bẩy ngày trước khi ._.bốc hàng lên tầu, chủ hàng phải báo cho cơ quan liên quan, sắp xếp hàng hoá thuận tiện và trung thực để kiểm tra.
Đối với hàng nhập khẩu, căn cứ nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 chức năng của cơ quan nào thì cơ quan ấy kiểm tra. Ví dụ nếu trở hàng bằng tàu biển thì cơ quan giao thông cùng với hãng tàu phối hợp kiểm tra.
Đối với hàng xuất nhập khẩu, khi thấy có hoặc nghi ngờ có tổn thất hàng hoá, phải có kiến nghị bằng văn bản đối với phía bên kia. Khi dỡ hàng, nếu có tổn thất, phải mời các cơ quan hữu quan lập biên bản xác nhận.
+ Thuê tàu chở hàng (hoặc uỷ thác thuê tàu).
Trong trường hợp bán CIP hoặc mua FOB thì ta phải thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu.
Đối với hàng có khối lượng ít, không cồng kềnh thì thường thuê tàu chợ để chở, gồm 4 bước:
Chủ hàng điện để đăng ký thuê tàu.
Hãng tàu xác nhận đồng ý.
Khi bốc lên tàu, lấy vận đơn.(B/L) .
Thanh toán cước phí.
Đối với hàng khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến gồm 6 bước:
Chủ hàng phải nghiên cứu thị trường thuê tàu.
Chủ tàu phát giá cước.
Hai bên hoàn giá (mặc cả)
Ký hợp đồng thuê tàu.
Sau khi tàu đến đúng thời gian thì bốc hàng lên tàu và lấy vận đơn(B/L)
Thanh toán tiền cước (cả tiền thưởng phạt, phí bốc dỡ nếu có).
+ Mua bảo hiểm (Nếu bán giá CIF, mua gía FOB )
Điều kiện mua bảo hiểm phải trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hàng hoá và tiết kiệm chi phí bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm cần cân nhắc các yếu tố: tính chất hàng hoá, tình trạng bao bì, vị trí sắp xếp hàng trên tàu, tình hình chính trị xã hội. Tuỳ theo kế hoạch chuyên chở hàng mà mua loại bảo hiểm năm, bảo hiểm chuyến và tiến hành trả tiền, lấy giấy bảo hiểm cho phù hợp.
+ Làm thủ tục hải quan:
Chủ hàng xuất nhập khẩu làm giấy hải quan gồm : Bản chính giấy phép xuất nhập khẩu(Quota), bản sao hợp đồng hoặc L/C, hoá đơn tính thuế, bảng kê chi tiết hàng hoá.
Kiểm tra hàng hoá tại cửa khẩu: Chủ hàng phải sắp xếp lại hàng hoá thuận tiện cho kiểm tra, cung cấp công nhân và dụng cụ đóng mở hàng hoá. Hải quan kiểm tra đối chiếu hàng hoá khai trên giấy tờ và thực tế, sau đó đưa ra quyết định xử lý: có thể là cho hàng đi và xác nhận đã làm xong thủ tục hải quan, hoặc cho hàng hoá đi nhưng phải nộp thuế (nếu hàng thuộc diện nộp thuế) hoặc cho hàng đi nhưng phải bổ xung giấy tờ, thủ tục hoặc không cho hàng đi.
+ Giao nhận hàng hoá với tàu:
Giao hàng xuất khẩu: Nắm vững chi tiết hàng hoá, nộp bản đăng ký hàng chuyên chở (gồm tên hàng, ký mã hiệu, số lượng, trọng lượng, kích thước, bao bì, tên,địa chỉ người nhập) và trao đăng ký đó cho hãng tàu (đại lý), lấy sơ đồ xếp theo dõi điều độ để biết ngày, giờ đến lượt tàu mình vào cảng, tiến hành đưa hàng vào cảng, bốc hàng lên tàu dưới sự giám sát của hải quan và kiểm kiện, rồi lấy vận đơn hoàn hảo(B/L).
Nhận hàng nhập khẩu : Căn cứ theo nghị định 200/CP, mọi việc giao nhận hàng nhập khẩu đều phải thực hiện đúng tiến độ đã ghi trong hợp đồng. Khi hàng về cảng, chủ hàng phải báo ngay cho người nhập khẩu để đến nhận hàng.
+ Làm thủ tục thanh toán:
Nếu hợp đồng thanh toán bằng L/C, đối với người nhập khẩu, khi người mua đã mở L/C thì mới giao hàng. Khi có L/C phải kiểm tra xem ngân hàng mở L/C là ngân hàng nào? có chắc không? Số tiền L/C có đủ không? Thời hạn hiệu lực của L/C, những yêu cầu về chứng từ của L/C.
Đối với bên nhập khẩu, sau khi nhận được bộ chứng từ của ngân hàng thông báo (đại diện cho người xuất khẩu ), nếu so sánh thấy khớp L/C thì ngân hàng mở sẽ thanh toán cho người xuất khẩu qua tài khoản của người nhập khẩu tại ngân hàng.
+ Khiếu nại (nếu có):
Nên giải quyết khiếu nại thận trọng, kịp thời tỷ mỷ và rất khẩn trương. Trọng tài giải quyết là trọng tài đã được quy định trong hợp đồng ngoại thương.
4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác xuất nhập khẩu:
4.1. Chỉ tiêu về lợi nhuận :
Đây là chỉ tiêu cơ bản, quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh ở Công ty. Lợi nhuận là mục đích kinh doanh và nó phải được hoàn thành từ các người chính đáng
.
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Tổng doanh thu là toàn bộ số tiền thu được qua việc bán hàng hoá, dịch vụ, lãi tiền gửi ngân hàng, thu do bồi thường.. .trong một năm.
Tổng chi phí gồm chi phí lưu thông, chi phí cho hoạt động dịch vụ, tiền bị phạt, các chi phí khác ...trong một năm.
Lợi nhuận xuất nhập khẩu:
LN = ồpqt - ồf
p: đơn giá hàng xuất (nhập) khẩu.
q: khối lượng hàng hoá xuất (nhập) khẩu.
t: tỷ giá hối đoái ở thời điểm thanh toán.
f: chi phí xuất nhập khẩu.
Mức doanh lợi:
Pxnk = Pxk*Pnk
Mức doanh lợi cho biết một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh (H)
Chỉ tiêu cho biết 1 đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu lợi nhuận
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chi phí (F)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tiền chi phí đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua chỉ tiêu này, cho thấy cái lợi của vấn đề giảm chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận.
4.2. Chỉ tiêu về kinh doanh xuất nhập khẩu:
Chỉ tiêu so sánh doanh thu xuất khẩu (VNĐ) với giá thành xuất khẩu trong nước:
Chỉ tiêu so sánh doanh thu bán hàng nhập khẩu trong nước với chi phí nhập khẩu tính ra đồng Việt Nam :
4.3. Các chỉ tiêu về vốn lưu đông:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty là rất cần thiết, nó có ý nghĩa quan trọng, xác định 1 đồng vốn bỏ ra sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi và sao cho sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động thể hiện ở các chi tiết sau:
Tốc độ chu chuyển vốn lưu động: là số vòng quay của vốn được thực hiện trong một thời gian nhất định cần thiết để thực hiện tuần hoàn quá trình vốn lưu động từ khi mua hàng đến khi bán.
Số vòng lưu chuyển vốn lưu động là số vòng quay được thực hiện trong một thời gian nhất định.
Mức lưu chuyển vốn lưu động (doanh số)
K= -------------------------------------------------------
Vốn lưu động bình quân
Việc nâng cao vòng quay vốn lưu động là rất cần thiết do xu thế chung là tốc độ tăng của vốn lưu động là tốc độ tăng của lợi nhuận.
II. Sự hình thành tất yếu của buôn bán biên giới Việt Nam -Trung Quốc:
1. Khái quát mậu dịch biên giới trước khi bình thường hoá:
Ngay từ trước công nguyên, Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ lịch sử, chính trị, giao lưu kinh tế và văn hoá với nhau. Trao đổi hàng hoá qua biên giới, do đó, đã có từ rất lâu đời, nhưng lại phải trải qua những bước thăng trầm do biến động lịch sử trong mối quan hệ giữa hai nước cũng như những biến động trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam và của Trung Quốc gây nên.
a.Dưới thời phong kiến:
Thời Lý-Trần : Hàng hoá trao đổi giữa hai nước nhiều nhưng chủ yếu là nông lâm hải sản (cá, tôm, gạo, trầm hương ngà voi, đường, muối, đồ gốm..) và mua từ phía Trung Quốc các thứ hải vải, lụa, gấm, giấy bút. Phương thức buôn bán khá phong phú và đa dạng từ loại buôn bán nhỏ hàng ngày của dân biên giới cho tới loại buôn bán lớn của của phú thương, của Nhà nước và chúng có thể diễn ra tại chợ, phố hay cảng phố (trên sông, trên biển). Tuy nhiên, quan hệ đó nhìn chung không phát triển được vì cả hai bên Việy-Trung đều thực hiện chính sách ngoại thương cấm biển đóng cửa đối với nhau hoặc nếu có thông thương thì quy định ngặt nghèo.
Thế kỷ XV-XVI, lệnh cấm của nhà nước, chính sách phong toả khắt khe về ngoại thương của vương triều Lê cũng không ngăn nổi dòng buôn bán bất hợp pháp trên thực tế vẫn diễn ra. Nhưng ở chừng mực nhất định, nhà nước cấp trung ương và cấp tỉnh đã có chính sách khá cụ thể cho phép người Hoa được sang lập phố, mở cửa hiệu, đem sản phẩm sang bán. Nhà nước chỉ một lần đúng mức, có tính toán tương quan cân đối với các ngạch thuế khác.
Nửa đầu thế kỷ XIX (dưới các thời vua Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức), buôn bán biên giới Việt-Trung thời kỳ này được khuyến khích. Do đó, nó diễn ra thường xuyên cả trên đất liền và trên biển. Nhiều quy định được đưa ra nhằm quản lý buôn bán như: Quy định một khoản tiền lưu lại buôn bán với mức thu tuỳ theo thời gian các thương nhân lưu lại buôn bán là bao lâu; Quy định về ngạch thuế phải nộp tại các cửa thành của các tỉnh lúc bấy giờ; Các quy định về thể lệ đánh thuế (đánh thuế có ưu đãi đối với người Trung Quốc, đánh thuế theo từng vùng hay lúc đầu đánh thuế đồng loạt cho lương hàng hoá sau chuyển sang căn cứ theo chiều rộng của hàng thuyền ).. Tuy nhiên nhìn chung triều Nguyễn vẫn chủ trương “bế quan, toả cảng” do không đủ mạnh và tự tin thực hiện các biện pháp tích cực để tham gia buôn bán với nước khác.
b. Dưới thời Pháp thuộc:
Buôn bán biên giới không phát triển được do nhiều nguyên nhân. Pháp thoả thuận với nhà Thanh đóng cửa biên giới để chống đối lại phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra, do chính sách thực dân cũ kìm hãm sự phát triển cộng với chính sách thuế khoá nặng nề nên sản phẩm, nguyên liệu khoáng sản khai thác được chủ yếu phục vụ chính quốc.
c.Từ khi hai nước dành độc lập:
Ngày 17/01/1950 Việt Nam và TrungQuốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nói chung và quan hệ buôn bán nói riêng. Trong thời gian thời gian này, để khuyến khích buôn bán biên giới, chính phủ hai nước đã ký “ Nghị định thư buôn bán tiểu ngạch biên giới Việt-Trung” năm 1950; “Nghị định thư trao đổi hàng hoá biên giới Việt-Trung “ năm 1957. Buôn bán biên giới giai đoạn 1959-1979 được thực hiện chủ yếu thông qua các nghị định thư được ký kết hàng năm giữa hai chính phủ. Hàng Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam mang nặng dáng dấp viện trợ chính phủ nếu có thông qua buôn bán thì cũng được hưởng những ưu đãi kinh tế, do lúc đó Việt Nam đang có chiến tranh, còn Trung Quốc vừa ra khỏi thời kỳ khôi phục hậu quả của “đại nhẩy vọt” và đang tiến hành cuộc “cách mạng văn hoá” “long trời nở đất”. Ngoài ra, hai nước đều cùng thi hành chính sách không khuyến khích trao đổi hàng hoá, nền kinh tế đi theo chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hiện vật, khép kín. Tới năm 1979 chiến tranh biên giới nổ ra khiến buôn bán bị gián đoạn.
Như vậy, tính đến thời điểm trước khi bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc buôn bán biên giới giữa hai nước đã có một lịch sử lâu đời, dù không phát triển cực kỳ thịnh vượng nhưng không ai có thể phủ nhận được sự tồn tại cũng như vai trò của nó trong từng thời kỳ.
2. Sự cần thiết phải mở biên giới Việt-Trung và nối lại quan hệ buôn bán biên giới giữa hai nước:
Giai đoạn từ 1978 đến 1987, do những căng thẳng về chính trị, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc bị đóng cửa, mọi hoạt động buôn bán bị gián đoạn. Nhưng đến năm 1988, việc mở cửa biên giới là tất yếu. Tại sao lại như vậy?
a. Những nguyên nhân khách quan:
Xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá đang diễn ra trên tất cả các lục địa, sự hợp tác kinh tế trên thế giới hiện nay phát triển hơn bao giờ hết. Việt Nam và Trung Quốc nằm trong khu vực ổn định nhất và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Quanh khu vực, nhiều tam giác tăng trưởng-một hình thức hợp tác kinh tế phát triển mới ở Châu á-Thái Bình Dương- đã hình thành như tam giác Singapo-Malaixia-Indonexia hay tam giác biển vàng nối Đài Loan- Hàn Quốc với miền Đông Nam Trung Quốc... Nhiều vùng tăng trưởng tiểu khu vực cũng bắt đầu định hình như tiểu vùng sông Mêkông, tiểu vùng sông Tumen (Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Nga, Nhật, Mông Cổ..).. Mối quan hệ Việt-Trung cũng không thể tránh khỏi xu thế này. Tình hình căng thẳng không bình thường sau chiến tranh biên giới không còn thích hợp cho sự phát triển kinh tế của cả hai quốc gia trong thời đại mà những mâu thuẫn đang dần được giải quyết bằng thương lượng.
Hơn nữa, một trong những ưu tiên trong chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là xây dựng vành đai mở, tạo ra các thị trường chung trên tuyến biên giới đất liền, đẩy mạnh mậu dịch biên giới. Vì vậy, khu vực biên giới được hưởng nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt. Các vùng ven biên giới với Việt Nam đời sống trở nên nhộn nhịp. Thêm vào đó, hàng hoá của các xí nghiệp hương trấn bắt đầu có xu hướng bão hoà trên thị trường Trung Quốc. Trong thời kỳ này tại Việt Nam, đời sống kinh tế vô cùng khó khăn, mặc dù đã tiến hành mở cửa nhưng hậu quả nặng nề của thời bao cấp không dễ gì khắc phục được. Ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hàng hoá tiêu dùng cũng thiếu thốn, các ngành sản xuất quen thói làm ăn trì trệ trong thời bao cấp, mặc dù đã chuyển sang cơ chế thị trường, nhưng chúng cần thời gian để thích ứng, do đó sản xuất đã không đáp ứng được nhu cầu. Tình hình này còn trầm trọng hơn ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Vì vậy, một điều tất yếu là hàng hoá từ phía Trung Quốc sẽ tràn sang Việt Nam hoặc theo con đường hợp pháp hoặc lén lút nếu không được cho phép.
Như đã trình bầy ở phần trước, buôn bán biên giới Việt-Trung đã có từ lâu đời. Do vậy, nhân dân hai vùng biên giới đã có mối quan hệ rất mật thiết về các mặt ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo, tín ngưỡng, tập quán sinh hoạt..., điều kiện này là một yếu tố để mở ra mậu dịch giữa hai nước. Vì vậy khi chiến tranh biên giới nổ ra mối quan hệ tình cảm này cũng bị gián đoạn, do đó nhân dân hai vùng biên giới luôn mong mỏi mở cửa biên giới để có thể qua lại thăm thân nhân.
Một nguyên nhân nữa không thể bỏ qua được là lợi ích của việc mở cửa và tiến hành mậu dịch biên giới. Khi mở cửa khu vực biên giới, hàng hoá từ Trung Quốc sẽ sang Việt Nam và trước mắt giảiquyết tình trạng thiếu thốn của nhân dân khu vực này. Hơn nữa, ai cũng biết rằng một trong những ưu thế của hàng Trung Quốc trên thị trường đó là lợi thế giá rẻ, hình thức đẹp mặc dù chất lượng không cao vì chủ yếu do các xí nghiệp hương trấn sản xuất, thế nhưng những lợi thế này lại phù hợp với khả năng chi tiêu không chỉ của dân cư vùng biên mà cả dân nông thôn và thành thị có thu nhập thấp.
b. Những nguyên nhân chủ quan
Đó là chính sách của Đảng và Nhà nước kiên trì thực hiện đường lối mở cửa và hội nhập với thế giới. Việt Nam chủ trương làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau và hai bên cùng có lợi. Vì vậy, nếu quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn căng thẳng thì không thể thực hiện được chính sách kinh tế đối ngoại của mình. Mở cửa biên giới được coi là bước đi đầu tiên để tiến tới bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Ngoài ra, để đảm bảo an ninh quốc phòng, vùng biên giới phải là khu vực ổn định về kinh tế và chính trị, muốn vậy đời sống của nhân dân phải no đủ. Nhận thức điều này, ta quyết định mở cửa biên giới cho phép nhân dân vùng biên được qua lại thăm hỏi thân nhân đồng thời mua sắm hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất tạo điều kiện nâng cao mức sống của nhân dân. Hơn nữa, mở cửa biên giới sẽ giúp cho nhân dân vùng biên giới hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam muốn chung sống hoà bình và cùng nhau phát triển kinh tế, xoá bỏ những nghi ngờ thù địch do không hiểu nhau gây ra, xây dựng mối quan hệ hữu nghị truyền thống nhân dân hai nước nói chung và nhân dân vùng biên nói riêng.
Với những lý do này, không chỉ việc mở cửa biên giới mà cả việc nối lại buôn bán biên giới là điều tất yếu khách quan. Và thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của nó.
3. Chủ trương của chính phủ hai nước trong mậu dịch biên giới :
Bước vào thập kỷ 90, nhờ thực hiện chính sách đổi mới do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra nên tình hình nước ta đã có một số chuyển biến tích cực. Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, nước ta từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận, vượt qua nhiều khó khăn thách thức mới để mở rộng các mối quan hệ hợp tác với bên ngoài. Chủ trương chung của nước ta là đổi mới cơ chế chính sách kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, củng cố thị trường đã có, khôi phục dần thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới, xây dựng đồng bộ chính sách khuyến khích xuất khẩu, bao gồm chính sách về vốn, công nghệ, thị trường và ưu đãi thuế.
Chủ trương của chính phủ Việt Nam đối với mậu dịch biên giới cũng không nằm ngoài chính sách chung mà Đảng đã đề ra. Nó cũng phải tuân thủ những chỉ thị từ Trung ương, sau đó các vùng biên giới sẽ vận dụng tuỳ theo điều kiện của từng địa phương. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng mậu dịch biên giới Việt Nam-Trung Quốc có những đặc điểm khác biệt so với khái niệm về mậu dịch biên giới thông thường, nó không bị giới hạn trong khu vực cư dân hai vùng biên giới, hàng hoá trao đổi chủ yếu chỉ sản xuất ra tại các địa phương.
Về phía Trung Quốc, mậu dịch biên giới được coi là bước đi đầu tiên mang tính chất mở đường cho chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền của Trung Quốc. Năm 1978, sau Hội nghị Trung ương III khoá 11 của Đảng cộng sản, Trung Quốc bắt đầu mở cửa từ từ từng khu vực hình thành “thế mở cửa đối ngoại ra mọi hướng, theo phương trâm mở cửa từ cửa tới tuyến, từ tuyến tới diện ”, cụ thể là “mở cửa toàn phương diện, nhiều hình thức nhiều tầng:từ đặc khu kinh tế- đến thành phố mở cửa ven biển- khu mở cửa kinh tế ven biển- mở cửa nội địa và mở cửa ven biên giới, đất liền”. Phương trâm của Trung Quốc trong chiến lược mở cửa ven biên giới được xác định chung là: lấy mậu dịch biên giới dẫn đường, coi hợp tác kinh tế-kỹ thuật làm trọng điểm, lấy khu vực lục đại làm chỗ dựa, coi việc khai thác thị trường các nước xung quanh làm mục tiêu..
Vì vậy, ngay từ khi cư dân hai biên giới Việt-Trung bắt đầu qua lại với nhau sau nhiều năm bị gián đoạn, ngày 19/11/1988 Ban bí thư trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra thông báo số 118 cho phép các xã biên giới được qua lại thăm thân nhân và trao đổi hàng hoá thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Ngày 12/6/1989 Hội đồng bộ trưởng ra chỉ thị 65 cho phép các tỉnh miền núi phía Bắc được xuất nhập khẩu tiểu ngạch để giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh tế và xã hội. Tiếp theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị nhằm quản lý buôn bán qua biên giới với Trung Quốc, như chỉ thị số 405/CP ngày 19/11/1993 của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng về việc chấn chỉnh quản lý việc trao đổi hàng hoá qua biên giới Việt-Trung; Chỉ thụ số 382/CT ngày 19/11/1994 của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng về việc triển khai một số công việc liên quan đến công việc giữa ta và các tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc...
Nhưng nếu chỉ đơn phương phía Việt Nam muốn ổn định quan hệ buôn bán biên giới thì rất khó thực hiện. Để có được sự thống nhất giữa chính phủ hai nước, chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc đã ký kết một số hiệp định nằm nền tảng pháp lý, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và buôn bán biên giới ngày càng phát triển, trong đó những hiệp định có tính chất mở đầu phải nói đến: Hiệp định tạm thời giải quyết các công việc biên giới giữa hai nước ký ngày 6/11/1994 quy định việc tiến hành mậu dịch biên giới và mậu dịch địa phương tại vùng biên giới; Hiệp định thương mại ngày 7/11/1994 đánh dấu việc chính thức bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Cho đến nay, hơn 20 hiệp định về kinh tế hay có liên quan đến kinh tế đã được ký, chẳng hạn như Hiệp định quá cảnh về hàng hoá, Hiệp định vận tải đường bộ, Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu..
Hội Đồng Bộ Trưởng cũng ra chỉ thị số 98/CP ngày 27/3/1995 về mở cửa khẩu tuyến biên giới Việt-Trung; Chỉ thị số 94/CT ngày 25/3/ 1995 về tổ chức và quản lý thị trường biên giới Việt-Trung trong tình hình kinh tế mới; Quyết định số 115/HĐBT ngày 9/4/1995 về thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch...
Tư tưởng chỉ đạo của các văn bản này là tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá giữa hai nước trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, đi đôi với yêu cầu thiết lập trật tự thị trường, chấm dứt tình trạng buôn bánlộn sộn, thiếu pháp luật, ngăn chặn và bài trừ tệ buôn lậu qua biên giới trên bộ, góp phần bảo đảm an ninh trật tự quốc phòng và xã hội.
4. Buôn bán biên giới Việt-Trung từ sau khi bình thường hoá:
Ngày 19/11/1988, Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 6 ra thông báo số 118 cho phép nhân dân vùng biên giới được phép qua lại thăm thân nhân và trao đổi hàng hoá thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Đây là một văn bản quan trọng đánh dấu bước đi khởi đầu cho việc bình thường hoá quan hệ Việt-Trung đồng thời mở ra một thời kỳ mới cho mậu dịch biên giới giữa hai nước.
Tiếp sau đó, ngày 12/9/1989, Hội Đồng Bộ Trưởng nay là Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 65/HĐBT cho phép các tỉnh miền núi phía Bắc được xuất nhập khẩu tiểu ngạch để giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh tế và xã hội. Văn bản này đã khiến cho mậu dịch biên giới thời kỳ này trở nên sôi động. Tham gia mậu dịch biên giới không chỉ có nhân dân các vùng biên, các tư thương, các công ty thương nghiệp của các tỉnh, huyện, thị xã vùng biên mà còn có cả các đoàn thể, chính quyền, tổ chức Đảng. Đến năm 1993, hoạt động mậu dịch biên giới Việt-Trung đã dần dần tuột khỏi tay cư dân địa phương vùng biên giới và rơi vào tay tư thương và tổ chức tập thể các tỉnh, thành vùng nội địa phía sau trong khắp cả nước, thậm chí cả Thành phố Hồ Chí Minh và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Từ sau khi bình thường hoá ngày 7/1/1994 khi mà Hiệp định thương mại được ký kết thì biên giới Việt-Trung là một thương trường nhộn nhịp và sôi động với đủ các hình thức buôn bán như chính ngạch, tiểu ngạch, dân gian, chợ đường biên, chuyển khẩu, quá cảnh và với đủ các đối tượng tham gia bao gồm các đơn vị quốc doanh, đơn vị kinh tế tập thể, tư nhân (thậm chí có cả các thương gia nước ngoài ) không chỉ của các tỉnh biên giới mà từ khắp tỉnh thành trong cả nước. Hàng hoá được vận chuyển qua biên giới bằng nhiều cách và bằng những phương tiện khác nhau tuỳ theo khối lượng và tính hợp pháp của lô hàng. Ta có thể thấy đội quân “cửu vạn” đông đúc, những chiếc xe đạp thô sơ, xe tải, những chuyến tàu hoả, tất cả đều tham gia vận chuyển hàng hoá qua cửa khẩu hay trên các đường mòn qua biên giới không ngừng nghỉ. Giao lưu qua biên giới ngày càng nhộn nhịp và sôi động, buôn bán hai chiều mỗi năm đều tăng kể cả về quy mô và số lượng đồng thời luôn chiếm tỷ trọng lớn trong dòng kim ngạch buôn bán hai chiều Việt Nam-Trung Quốc.
Từ 01/04/1999, Trung Quốc điều chỉnh chính sách biên mậu, có chính sách giảm 55% thuế để khuyến khích nhập tiểu ngạch biên giới nên phần lớn các loại hàng nông lâm hải sản của ta trước xuất khẩu theo đường chính ngạch nay đều xuất khẩu qua đường tiểu ngạch, khó thống kê được hoặc thống kê không đầy đủ.
Nhìn chung, cơ cấu xuất nhập khẩu của ta giống cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc, mặt mạnh và mặt yếu tương tự nhau, cái gì ta thừa thì Trung Quốc cũng có, cái gì ta thiếu thì Trung Quốc cũng cần. Điều này làm hạn chế mối quan hệ song phương giữa hai nước, khả năng khai thác thị trường của nhau bị giới hạn, tăng tính cạnh tranh trong quan hệ buôn bán. Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của ta là hàng sơ cấp, nguyên liệu,có một số loại hàng chế tạo nhưng chủ yếu là hàng chuyển khẩu và tạm nhập tái suất, hàng công nghiệp chế suất chiếm tỷ trọng không đáng kể; hàng nhập khẩu chủ yếu là thành phẩm. Trong khi đó, có nhiều trường hợp, Trung Quốc chỉ mua nguyên liệu của ta để về chế biến tái suất mà hạn chế hợp tác giao thông với ta.
Tuy nhiên, buôn bán biên giới đã góp một phần không nhỏ trong tổng kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc, trung bình chiếm 18% và có xu hướnh gia tăng. Tỷ trọng bắt đầu tăng trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Xu hướng này cần tiếp tục duy trì.
III. Đặc điểm buôn bán biên giới Việt-Trung :
1. Các hình thức buôn bán biên giới Việt-Trung :
Ngay từ những ngày mở cửa biên giới cho đến nay, buôn bán biên giới Việt-Trung được tiến hành dưới ba hình thức phổ biến là chính ngạch, tiểu ngạch và buôn bán dân gian.
Bộ thương mại trong thông tư số 05/TMDL_QLTT ngày 07/05/1995 hướng dẫn thực hiện chỉ thị 94/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng về tổ chức quản lý thị trường vùng biên đã quy định “đối tượng làm xuất nhập khẩu tiểu ngạch là người buôn bán có hộ khẩu thường trú tại các xã giáp biên giới ” và “ trị giá hàng hoá của mỗi lần xuất hoặc nhập không vượt quá 500.000VNĐ, tương đương trị giá của 200kg gạo tẻ theo thời giá ”.
Còn hình thức buôn bán chính ngạch phải tuân thủ Hiệp định thương mại được ký kết giữa hai chính phủ ngày 07/01/1994. Theo thông tư 11/TMDL của bộ thương mại ngày 07/12/1994 hướng dẫn thi hành hiệp định thì buôn bán biên giới theo hình thức này được “ thực hiện thông qua các hợp đồng ký kết giữa các Công ty ngoại thương và các thực thể kinh tế khác có quyền kinh doanh ngoại thương của Việt Nam và Trung Quốc theo quy định của hiệp định thương mại, theo pháp luật của mỗi nước và theo tập quán thương mại Quốc tế ”. Đối tượng tham gia hình thức này về phía Việt Nam là “các Công ty và các thực thể kinh tế được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, về phía Trung Quốc là các Công ty và các thực thể kinh tế được Bộ kinh tế và mậu dịch Trung Quốc cấp giấy phép xuất nhập khẩu ”. Tất cả hình thức và nội dung hợp đồng, phương thức và đồng tiền thanh toán đều phải theo thông lệ và tập quán Quốc tế. Cũng giống như mọi hợp đồng xuất nhập khẩu, nó chỉ có hiệu lực khi được bộ thương mại phê chuẩn và cấp giấy phép xuất nhập khẩu.
Hình thức thứ ba là buôn bán dân gian, còn gọi là trao đổi cư dân biên giới do nhân dân ven hai vùng biên giới thực hiện. Hàng hoá đem trao đổi thường do họ tự sản xuất, không có tính chất mua đi bán lại. Hình thức này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân vùng biên giới. Do điều kiện địa hình không thuận lợi, hàng hoá khó có thể chuyển từ miền xuôI lên được, hoặc nếu có được thì chi phí rất cao trong khi việc qua lại biên giới để mua hàng rất dễ dàng ( nhân dân ở đây vẫn gọi là đi chợ), hàng hoá tại các chợ biên sẵn có và giá rẻ. Tuy nhiên trên thực tế khối lượng trao đổi hàng theo hình thức này không lớn.
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu theo đường chính ngạch luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tiểu ngạch trong kim ngạch buôn bán qua biên giới.
Ngoài ba hình thức chủ yếu trên, do đòi hỏi của thị trường còn tồn tại các hoạt động kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất (TNTX), chuyển khẩu, quá cảnh và hoạt động của các chợ biên giới. Từ năm 1993, Bộ Thương mại đã mở ra phương thức tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hoá từ nước thứ ba vào Trung Quốc. Nhất là sau tháng 4/1997 khi Hiệp định quá cảnh hàng hoá được hai chính phủ ký kết, nhiều đơn vì trong cả nước đã tham gia kinh doanh theo các phương thức nói trên. Hoạt động theo phương thức này có hiệu quả đối với cả doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc. Năm 1997 Bộ Thương mại đã ban hành quy chế 1064 TM/PC ngày 18-8-1997 về kinh doanh theo hình thức chuyển khẩu và quy chế tạm nhập để tái xuất và quyết định số 80 TM/ XNK ngày 25-6-1997 về hàng hoá của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quá cảnh lãnh thổ Việt Nam. Hai quy chế đã tạo điều kiện cho các doạnh nghiệp Việt Nam hoạt động theo phương thức này đi vào nền nếp.
Tóm lại, hình thức trong buôn bán biên giới rất đa dạng. Mỗi hình thức lại có một đặc đIểm riêng mang tính đặc thù của quan hệ buôn bán biên giới Việt-Trung.
2. Lực lượng tham gia buôn bán biên giới Việt Trung:
Từ năm 1994, số doanh nghiệp tham gia buôn bán với Trung Quốc tăng lên. Đến nay có hàng ngàn đơn vị và hộ tư nhân bao gồm nhiều loại hình: doanh nghiệp quốc doanh có giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp của Bộ Thương mại, các Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty tư nhân và các hộ buôn bán lớn nhỏ, có cả các thương gia nước ngoài từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan.. Các đối tượng này không còn giới hạn trong địa bàn vùng và các tỉnh biên giới mà đã mở rộng ra tất cả các tỉnh, thành trong cả nước .
Hoạt động của tư thương rất đa dạng. Đối với những người có vốn lớn, họ sẽ không trực tiếp tham gia quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới mà chỉ mua hàng lại từ các thương nhân, sau đó khi gặp khách buôn ăn giá là bán ngay, thu hồi vốn về rồi tiếp tục quay vòng vốn, lãi ra bạc triệu, lãi mẹ đẻ lãi con. Để lẩn tránh sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước, các nhóm buôn bán này đã móc nối với một số tổ chức kinh tế Nhà nước để cùng phối hợp kinh doanh. Sự liên kết này được mang cái tên ”uỷ thác xuất- nhập khẩu “, về thực chất chính là tư thương khoác vỏ nhà nước để làm ăn được dễ dàng. Số tư thương này mặc dù buôn bán quy mô lớn về khối lượng, chủng loại hàng hoá nhưng nhờ vào các giấy tờ hợp lệ của các tổ chức kinh tế Nhà nước nên khi qua các trạm kiểm soát, họ chỉ phải nộp một khoản tiền thuế rất thấp cùng một số tiền ”làm luật” cho cán bộ nhân viên kiểm soát.
Ngay cả các doanh nghiệp Nhà nước cũng tự tìm đến tư thương nhờ làm mối trung gian. Do là các đơn vị kinh tế Nhà nước nên quá trình hoạt đông kinh doanh phải theo đúng trật tự, thủ tục hành chính rườm rà, qua các khâu, các cấp tổ chức, quản lý khác nhau nên thường mất thời gian, kém năng động nhạy bén với tình hình thị trường. Mặt khác, do là các đơn vị của Nhà nước nên không thể làm ăn phi pháp, trốn lậu thuế, đIều đó dẫn đến giá cả hàng hoá thường cao hơn của tư thương rất nhiều. Chính vì vậy, một số doanh nghiệp Nhà nước đã ”năng động” sử dụng tư thương trong hoạt động kinh doanh của mình nhất là trong khâu đầu mối giao dịch. Phương thức này đem lại lợi ích cho cả đôi bên, tuy nhiên nhiều trường hợp không tránh được bị tư thương lợi dụng, lừa đảo, làm ăn phi pháp.
Những người có vốn nhỏ-ngoài tư thương chuyên nghiệp còn có nông dân, cán bộ công nhân viên chức Nhà nước tranh thủ thời gian để buôn bán tăng thu nhập gia đình-phải chấp nhận vất vả hơn, sang bên kia biên giới mua hàng hoá, thuê cửu vạn mang về nước để bán lại tại các chợ đường biên.
Ngoài các đối tượng đã nêu trên còn có các thương nhân Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Kông, Đài Loan... tham gia hoạt động kinh doanh. Họ liên doanh, liên kết với phía Việt Nam trong buôn bán, trao đổi hàng hoá qua biên giới. Một số Công ty của Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan- với chức năng dịch vụ chuyển khẩu hàng hoá- đã là cầu nối trực tiếp giữa các đơn vị kinh tế Việt Nam với 3 tỉnh phía Nam Trung Quốc (Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông) trong các hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh những hiệu quả kinh doanh các dịch vụ kinh tế này đem lại, nó còn tạo nên sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau trong quan hệ liên kết liên doanh giữa các bên góp phần tích cực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu chính ngạch của các tỉnh biên giới ._.iới trong thời gian tới, ta nhận thấy quan hệ buôn bán biên giới ngoài những điều kiện khách quan thuận lợi còn có sự quan tâm của Chính phủ, trong tương lai sẽ phát triển nhanh, mạnh mẽ và lành mạnh. Nó không chỉ còn đơn thuần là hoạt động thương mại thuần tuý mà từng bước tiến tới hợp tác kinh tế kỹ thuật và đầu tư tại khu vực biên giới. Có thể nói: quan hệ buôn bán biên giới Việt -Trung có một triển vọng sáng sủa và tốt đẹp ở phía trước.
II. Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của CEMACO với thị trường Trung Quốc .
Làm thế nào để thực hiện các phương hướng mục tiêu mà Ban lãnh đạo Công ty đề ra cũng như để hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc, Công ty cần phải quán triệt quan điểm kinh tế, xã hội, con người ... đồng thời phải khẳng định vị trí hiện tại của mình, đánh giá những đIểm mạnh điểm yếu, tận dụng thời cơ để thực hiện kinh doanh thắng lợi. Tuy nhiên, việc nâng cao hiệu quả ấy chịu tác động của nhiều yếu tố ( cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan ). Đứng về mặt Công ty, cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả của từng khâu mua vào, bán ra, tổ chức các kênh bán hàng hợp lý, mở rộng thị trường và làm sao để kinh doanh có lãi.
Sau đây tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản mà Công ty cần thực hiện:
1.Chủ động nắm bắt cung cầu trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi Công ty phải xuất phát từ nhu cầu trên thị trường, nghĩa là nghiên cứu tốt hay không sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Công ty.
Công ty phải làm chủ được thị trường và dự báo được sự biến động của thị trường, thị trường ở đây là cả thị trường mua và thị trường bán, cả thị trường trong nước và thị trường Trung Quốc. Có như vậy Công ty mới có khả năng hoàn thành được nhiệm vụ của mình, kinh doanh bù đắp được chi phí và có lãi, góp phần cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách Nhà nước. Mặt khác, Công ty cần thấy được mình đang nằm trong khâu lưu thông phân phối của quá trình tái sản xuất xã hội, do đó nếu không làm chủ được thị trường, dự báo được thị trường thì sẽ không đáp ứng được kịp thời nhu cầu và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh thuận lợi.
Thực tế, thời gian qua, thị trường Trung Quốc chưa có vị trí tương xứng với quy mô của nó trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, hoạt động mua - bán tiến hành một cách thụ động. Nguyên nhân chính là do Công ty chưa có sự nghiên cứu thực sự về thị trường Trung Quốc cho từng mặt hàng, nhóm hàng nên không có một chiến lược rõ rệt trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Để tạo thế chủ động hơn đối với việc nắm bắt và thâm nhập thị trường, Công ty cần thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:
1.1. Tổ chức nghiên cứu thị trường, cung cấp và xử lý thông tin chính xác, kịp thời.
Công ty cần có một bộ phận chuyên viên Marketing có trình độ, am hiểu thị trường Trung Quốc, có kinh nghiệm và đầu óc phán đoán chính xác. Thông tin thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau ( sách- báo, phương tiện truyền thanh, hội chợ, triển lãm... ) sẽ được xử lý một cách khoa học, kịp thời đề xuất phương án kinh doanh, chớp lấy thời cơ kinh doanh. Đồng thời, phát hiện và khai thác nhu cầu của thị trường, phát hiện nguồn hàng... để tổ chức đưa hàng từ nơi này đến nơi khác cho hợp lý. Muốn vậy, Công ty cần đưa ra lời giải đáp hữu hiệu cho một số câu hỏi sau:
Ai có nhu cầu về mặt hàng đó?
Họ cần quy cách và chất lượng như thế nào?
Tại sao họ cần?
Họ dùng mặt hàng đó cho mục đích gì?
Họ có thể mua ( bán ) ở đâu?
Khi nào họ cần mua ( bán )?
Họ có thể mua ( bán ) ở mức giá nào?
Sự nghiên cứu hệ thống câu hỏi trên chắc chắn sẽ giúp Công ty đáp ứng được yêu cầu của bạn hàng và đảm bảo có lãi.
1.2. Thiết lập kênh phân phối một cách hợp lý.
Để thực hiện tốt nghiên cứu thị trường, Công ty nên xây dựng một hệ thống phân phối hoàn chỉnh phù hợp với khả năng của Công ty, vừa là đầu mối giao dịch mua bán hàng hoá, sản phẩm vừa là nơi cung cấp truyền tin thị trường một cách chính xác nhất, làm giảm đáng kể nhưng rủi ro thị trường có thể gây ra.
Tổ chức tốt hệ thống kênh phân phối hợp lý tại Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu.
Công ty nên thành lập văn phòng đại diện ở Trung Quốc. Đây là hình thức tương đối tốn kém nhưng mang lại nhiều cái lợi cho Công ty, đặc biệt trong khai thác thị trường đảm bảo cho Công ty kinh doanh an toàn và có lãi. Ngoài ra đó còn là nơi giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với doanh nghiệp Trung Quốc, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại có thể xảy ra cũng như bảo vệ quyền lợi của Công ty
Công ty cũng có thể chọn đại lý phân phối của mình ở Trung Quốc. Đây là giải pháp ít tốn kém hơn, đảm bảo cho Công ty có thể bán hàng tới tận tay người có nhu cầu, giảm bớt chi phí trung gian qua người nhập khẩu.
Tuy nhiên, thời gian này, khi Công ty chưa đủ mạnh để tự tìm bạn hàng, đưa sản phẩm qua biên giới thì cũng cần phải tham gia kinh doanh để từng bước làm quen với thị trường và đưa sản phẩm vào thị trường.
* Tổ chức hệ thống tiêu thụ hàng nhập khẩu từ Trung Quốc một cách nhanh nhất và có hiệu quả.
Từ trước tới nay Công ty chủ yếu tiêu thụ hàng nhập khẩu qua hệ thống cửa hàng của Công ty. Trong điều kiện hiện nay, Công ty cần tổ chức một hệ thống phân phối mới bằng cách thiết lập quan hệ với các nhà sản xuất sử dụng hoá chất, vật liệu, máy móc, thiết bị thuộc lĩnh vực hoạt động của mình làm đầu vào, thiết lập quan hệ với hệ thống các cửa hàng tư nhân làm đầu mối tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty.
2. Đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu.
Đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu góp phần khai thác tối đa nhu cầu trong nước và nhu cầu trên thị trường Trung Quốc, tăng khả năng cạnh tranh, tăng khả năng kinh doanh và mở rộng thị trường.
Nhu cầu về các mặt hàng ở các vùng là rất cao và phong phú. Mỗi nơi có tập quán và thị hiếu khác nhau. Khai thác điều đó sẽ tạo thêm hướng kinh doanh mới, hướng xuất khẩu có lợi cho Công ty.
Cải tiến mẫu mã sản phẩm tạo tính đa dạng hấp dẫn khách hàng. Tuy nhiên, sự cải tiến nên chỉ thể hiện ở mẫu mã, quy cách, chất liệu hợp lý hơn mà không nên thay đổi đột ngột.
3. Chủ động nắm bắt nguồn hàng kinh doanh.
Để chủ động trong kinh doanh, ngoài việc chủ động nắm bắt tình hình diễn biến trên thị trường, Công ty cần phải chủ động nắm bắt nguồn hàng trong kinh doanh tránh tình trạng lúc tìm được nơi để bán thì không có hàng, lúc có hàng lại không có chỗ bán.
Để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu Công ty nên có quan hệ tốt với những doanh nghiệp có cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh, với những nhà sản xuất, chế biến trong nước để họ hỗ trợ mình khi cần thiết trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Bên cạnh đó, cần có mạng lưới thông tin chính xác, kịp thời về những địa chỉ có khả năng cung cấp mặt hàng mình cần, đảm bảo được quy cách, chất lượng thoả mãn nhu cầu của phía đối tác. Đồng thời Công ty cũng cần một hệ thống tập trung hàng có hiệu quả, góp phần đưa nguồn hàng về đúng nơi tập kết và đúng thời gian yêu cầu. Công ty có thể ký kết hợp đồng dài hạn với những nơi cung cấp có uy tín về những mặt hàng có nhu câù ổn định thường xuyên để khi cần thiết có thể đáp ứng ngay, tạo lòng tin cho khách hàng.
Công ty cần đề ra các tiêu chuẩn nhất định về các mặt hàng xuất nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại lâu dài. Đây là biện pháp rất quan trọng đối với cả mặt hàng hoá chất lẫn mặt hàng vật liệu điện - hai ngành hàng nhập khẩu quan trọng đòi hỏi độ chính xác và chất lượng cao.
Ngoài ra, trong việc nắm bắt nguồn hàng kinh doanh, Công ty cần tiết kiệm các chi phí trung gian, chi phí giao dịch kinh doanh. Tổ chức tìm nguồn hàng xuất nhập khẩu không qua khâu trung gian - tức là thực kinh doanh theo phương châm “ mua tận gốc, bán tận ngọn “ - giúp Công ty giảm những chi phí trung gian không cần thiết, mà giá cả là theo thị trường nên có thể làm tăng lợi nhuận. Triệt để tiết kiệm các chi phí khác nhau như chi phí lưu kho, chi phí vận chuyển bốc dỡ, hạn chế tối đa những khoản bị phạt hợp đồng, giảm chi phí trả lãi tiền vay, chi phí điện tín... hạ thấp giá thành xuất khẩu, nhập khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Trong công tác xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, càng tiết kiệm chi phí trung gian thì càng hạ giá bán, càng có điều kiện bán được hàng và thu ngoại tệ.
4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau.
Công ty có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách ưu tiên cấp vốn cho những mặt hàng kinh doanh đem lại lợi nhuận cao như một số mặt hàng hoá chất ( xút, xôđa, PVC bột, PELD+HD, PP... ).
Tăng vòng quay vốn lưu động cũng là giải pháp cần được chú trọng. Với số vốn lưu động hạn chế, Công ty càng đẩy mạnh vòng quay vốn lưu động thì càng có nhiều cơ hội thu lợi nhuận. Muốn vậy phải tổ chức tốt quá trình kinh doanh từ khai thác nguồn hàng, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ hàng nhanh chóng, thu hồi vốn ngay... để chuẩn bị cho những vụ kinh doanh tiếp theo.
Bên cạnh đó, để mở rộng kinh doanh,vốn lưu động lại mới đáp ứng được 60% nhu cầu kinh doanh , rõ ràng Công ty phải vay một số lượng vốn rất lớn, nhất là với những thương vụ kinh doanh có giá trị lớn. Nếu chỉ trông chờ vào các khoản vay ngân hàng thì phải chịu sức ép lớn về lãi xuất tiền vay ảnh hưởng đến lợi nhuận Công ty. Qua nghiên cứu thực tế, một số doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp khai thác các nguồn vốn có hiệu quả mà Công ty này áp dụng, như:
Khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết. Với một số thương vụ lớn, Công ty có thể kêu gọi các doanh nghiệp thương mại, tổ chức khác cùng góp vốn tham gia kinh doanh . Đây là biện pháp tăng vốn rất nhanh. Công ty có thể liên doanh - liên kết với các đối tác trong nước và ngoài nước, với các đơn vị tư nhân hay các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra, Công ty cũng có thể liên kết với các tổ chức xuất nhập khẩu khác thuộc cùng lĩnh vực để tạo thành một tổ chức mang tính chất hiệp hội vừa bảo vệ lợi ích của mình vừa tạo điều kiện cho Công ty tiếp cận thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng một cách hiệu quả nhất.
Huy động nguồn vốn từ đội ngũ công nhân viên trong Công ty. Công ty nên tổ chức vay vốn của cán bộ công nhân viên trong đơn vị với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất tiền gửi ngân hàng và thấp hơn mức lãi suất tiền vay. Khi đó, cả hai phía (Công ty và người cho vay) đều có lợi. Người cho vay được hưởng lãi suất cao hơn, còn Công ty trả lãi ngân hàng ít hơn. Đây là hình thức vay vốn hết sức sáng tạo, linh hoạt: Hai bên có thể thoả thuận mức lãi suất thích hợp, tăng nguồn vốn cho Công ty, giảm chi phí kinh doanh (giảm lãi suất tiền vay), đồng thời gắn trách nhiệm của mỗi cá nhân với cá nhân trong Công ty chặt chẽ hơn.
5.Tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh và các đối pháp cạnh tranh có hiệu quả
Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp có lợi ích đối đầu với lợi ích của Công ty. Những đối thủ này gặp không phải ít trong khi xây dựng mối quan hệ xuất nhập khẩu qua biên giới với thị trường Trung Quốc. Chính vì họ mà kim ngạch xuất khẩu của Công ty vẫn chưa như mong muốn, vì họ mà việc thoả mãn nhu cầu nội địa bị chia xẻ (nhiều doanh nghiệp cũng kinh doanh trên thị trường trong nước), do đó nhu cầu nhập khẩu ít hơn.
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh sẽ giúp Công ty tránh những thất bại trong bán hàng, giúp Công ty đánh giá cân đối được cung cầu trên thị trường nội địa, thị trường Trung Quốc, từ đó có những quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Vì vậy, Công ty cần xác định vũ khí cạnh tranh sắc bén về mọi mặt ( mặt hàng, quy cách, chất lượng, mẫu mã, thời gian, tiến độ thực hiện hợp đồng, cách thức tiến hành phù hợp nhất...). Muốn vậy, cần phải có đầy đủ , chính xác những thông tin về đối thủ cạnh tranh, như:
Khả năng tài chính của đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh những mặt hàng gì, có trùng mặt hàng của mình về chủng loại, thời gian hay không?
Tìm hiểu kế hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chính sách giá cả của họ như thế nào ?
Tìm hiểu mặt hàng của họ có những ưu điểm, nhược đIểm gì?
Phương pháp kinh doanh như thế nào, khuếch trương quảng cáo ra sao?
Phải luôn tìm hiểu những lợi thế yếu điểm của họ để từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó Công ty cũng nên có những quan hệ tốt với đối thủ của mình để khi cần thiết có thể lựa chiều phân chia thị trường, nhằm khai thác triệt để mọi ưu thế của cả hai bên. Vì vậy, để làm ăn tốt, công tác này cần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp của cán bộ công nhân viên trong Công ty với bên ngoài , lấy đó làm xuất phát để kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên trong quá trình kinh doanh.
Để cạnh tranh được với các đối thủ khác Công ty cần tìm hiểu về mọi yêu cầu của đối tác để có thể thoả mãn được chúng nhiều nhất. Nhưng trước đó, Công ty cũng cần xem xét, lựa chọn đối tác một cách phù hợp. Nghiên cứu một cách kỹ càng các mặt lợi mà đối tác đó có thể mang lại cho Công ty như về nguồn hàng, giá cả, phương thức thanh toán...
Trong cạnh tranh, giá cả là một trong những yếu tố mang tính ccạnh tranh nhất, là vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất. Trong nhập khẩu giá hạ hơn thì hàng tiêu thụ cuả Công ty sẽ có khả năng bán với giá thấp hơn đối thủ, tạo khả năng cạnh tranh mạnh hơn. Trong xuất khẩu, thì ngược lại, giá bán ra được cao lại góp phần tăng lợi nhuận. Song giá cả lại chịu sự tác động của nhiều yếu tố như chi phí đầu vào, thuế, chi phí lưu thông, chi phí phân phối...Do đó Công ty phải hết sức chú ý, cẩn thận trong việc xác định giá cả, sao cho giá đó là tói ưu nhất, đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Đồng thời, Công ty cũng cần dự đoán được diễn biến xu hướng của thị trường để từ đó có chính sách nâng giá hay hạ giá một cách phù hợp, tận dụng tối đa mọi khả năng đem lại lợi nhuận cao hơn.
Ngoài giá cả ra cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự lựa chọn bạn hàng như: nguồn hàng, phương thức thanh toán... Nếu nguồn hàng có khả năng được đáp ứng lâu dài thì Công ty cũng có thể làm ăn lâu dài với họ và Công ty cũng có thể yên tâm trong việc tìm kiếm nguồn hàng, đỡ tốn thời gian, và tiền của. Đồng thời, Công ty cũng có sẽ nhận được sự giúp đỡ và ưu đãi của đối tác. Trong nhập khẩu, nếu Công ty thương lượng được với đối tác việc thanh toán chậm thì đó cũng là một lợi thế, càng thanh toán chậm càng có cơ hội sử dụng vốn của họ.
6. Không ngừng nâng cao uy tín của Công ty
Để ngày càng nâng cao uy tín, thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ kinh doanh lâu dài, CEMACO cần thực hiện những biện pháp sau:
6.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Công ty
Mọi hoạt động kinh doanh đều do những cá nhân trong Công ty thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Công ty. Thời gian qua, mặc dù Công ty đã có những bước tiến đáng kể song kết quả vẫn chưa cao. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty, trước hết, Bộ máy quản lý, lãnh đạo Công ty phải thực sự giỏi, có trình độ, có kinh nghiệm và rất linh hoạt trong việc ra quyết định. Với quyền lực của nhà lãnh đạo, Ban giám đốc Công ty cần thực hiện một số công việc tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu, chức năng hoạt động của các phòng ban trong Công ty.
Bên cạnh đó, cần biết các thành tựu của Công ty đạt được là thành quả của những nỗ lực phối hợp giữa từng cá nhân. Công ty để cho cán bộ công nhân viên quyền kiểm soát vận mệnh của họ, tức là nhân viên được tự chủ khi giao cho họ công việc cần đến trách nhiệm, phải giao quyền hạn tương ứng với chức vụ của họ nhưng phải lưu ý rằng mọi công việc được giao phải phù hợp với khả năng của từng người. Để cho từng cá nhân phát huy tốt nhất năng lực của mình, Công ty cần tổ chức bồi dưỡng, đào tạo và sắp xếp lại lao động một cách hợp lý. Việc đào tạo lại đó sẽ nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Công nhân viên trong Công ty. Với hoạt đông buôn bán biên giới Việt-Trung rất phức tạp và đa dạng, các cán bộ xuất nhập khẩu cần am hiểu nghiệp vụ, am hiểu thị trường Trung Quốc , có nhiều kinh nghiệm, cần được bổ sung kiến thức, thông tin một cách cập nhật để tránh rủi ro trong kinh doanh và hiệu quả là cao nhất.
6.2. Tăng cường uy tín của Công ty nhờ hoạt động khuếch trương quảng cáo
Tổ chức quảng cáo sẽ góp phần tao dựng hình ảnh Công ty trên thị trường trong nước và Trung Quốc, cung cấp cho khách hàng địa chỉ đáng tin cậy để họ tìm đối tác. Đối với thị trường trong nước, nên quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền thanh, truyền hình, báo chí. Với thị trường Trung Quốc như vậy sẽ tốn kém, Công ty có thể quảng cáo ngay trên bao bì hàng hoá (bằng cách đề nghị dập tên hay biểu tượng của Công ty lên bao bì).
Ngoài ra, Công ty nên tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đây là cơ hội tốt để Công ty hoà nhập vào môi trường kinh doanh, xác định vị thế của Công ty, tìm kiếm bạn hàng và nâng cao uy tín.
7. Sử dụng linh hoạt các hoạt động xuất nhập khẩu
Mỗi hình thức xuất nhập khẩu có những ưu điểm, nhược đIểm riêng, có những chế độ ưu đãi riêng về phía Nhà nước. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch được Trung Quốc ưu tiên, xuất nhập khẩu chính ngạch Việt Nam lại thúc đẩy và đều thông qua ưu đãi về thuế. Vấn đề là Công ty cần xem xét, đánh giá tình hình thực tế, lựa chọn trong từng tình huống cụ thể hình thức XNK để đem lại lợi ích tối ưu. Ngoài ưu đãi về thuế, XNK tiểu ngạch có ưu điểm là thủ tục đỡ phiền hà còn XNK chính ngạch lại có ưu điểm là an toàn.
Ngoài hai hình thức trên, Công ty cũng nên thúc đẩy, tăng cường các hoạt động tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và trên thực tế các hình thức này đã thu được những kết quả cao, góp phần tăng lợi nhuận của Công ty.
8. Lựa chọn có hiệu quả các phương thức thanh toán .
Việc lựa chọn phương thức thanh toán trong hoạt động XNK là rất quan trọng nhất là trong tình hình phức tạp của vùng biên giới Việt Trung. Lựa chọn phương thức thanh toán phụ thuộc vào điều kiện giao hàng, quan hệ bạn hàng là lâu dài hay chỉ có thời gian ngắn, đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán .
Thanh toán trực tiếp hàng đổi hàng sẽ tiết kiệm được dòng vận động của ngoại tệ, giảm chi phí trung gian,(thanh toán, giao dịch...).Đặc biệt nó có thể giúp Công ty vừa nhận hàng mình cần vừa tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá.
Thanh toán bằng L/C. Đây là phương thức thanh toán rất an toàn đảm bảo quyền lợi cho Công ty cả trong xuất khẩu lẫn nhập khẩu .
Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.Phương thức thanh toán này rất được ưa chuộng trong buôn bán biên giới Việt Trung .Nó rất có lợi trong trường hợp Công ty là người xuất khẩu. Nhưng nó lại rễ xảy ra rủi ro việc vận chuyển trực tiếp một khối lượng tiền lớn lên biên giới.
IV. Những kiến nghị về phía Nhà nước.
CEMACO là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, do đó hiệu quả kinh tế của Công ty không chỉ do những yếu tố thuộc bản thân Công ty quyết định mà còn chịu tác động rất lớn của cả yếu tố khách quan bên ngoài (kinh tế, chính trị, pháp luật...). Do vậy, để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới Việt-Trung của Công ty nói riêng có hiệu quả, đồng thời cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác, Nhà nước nên có những quan tâm, những chính sách, biện pháp đúng lúc kịp thời, cụ thể hơn đối với hoạt động này.
1. Thiết lập tổ chức và cơ chế quản lý buôn bán biên giới hợp lý để có thể kết hợp được lợi ích của địa phương và lợi ích của trung ương.
Cụ thể là nâng cao vai trò quản lý của Uỷ ban nhân dân Tỉnh- Sở thương mại và du lịch của tỉnh. Ta biết rằng các chính sách mà Chính phủ đưa ra dù có sát thực hay thích hợp như thế nào nếu không có sự chỉ đạo đúng đắn, sự giám sát kiểm tra kịp thời và thường xuyên của các chính quyền địa phương thì các chính sách này không thể có hiệu quả được.
Vai trò của chính quyền các tỉnh biên giới được thể hiện ở việc quản lý đối tượng xuất nhập khẩu, hay việc chỉ đạo và tổ chức thu thuế. Nhà nước nên giao cho chính quyền các tỉnh biên giới cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu qua biên giới cho các đối tượng đủ tiêu chuẩn đóng trên địa bàn tỉnh chứ không chỉ giới hạn là cư dân hay doanh nghiệp của tỉnh. Còn đối với công tác chỉ đạo và tổ chức thu thuế, Nhà nước nếu muốn địa phương tích cực trong công tác này thì phải có chính sách phân bổ ngân sách từ nguồn thuế thích hợp. Thực tế cho thấy, nguồn thu ngân sách tỉnh từ các khoản thuế xuất nhập khẩu qua biên giới (chủ yếu là xuất nhập khẩu tiểu ngạch) không nhỏ, từ nguồn thu này, nhiều tỉnh đã có tiền để cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, thực hiện các chính sách Y tế, giáo dục ... nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Nếu Nhà nước không để lại một phần nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu qua biên giới cho các tỉnh với một tỷ lệ thích hợp thì dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể buộc chính quyền các địa phương biên giới “nhiệt tình” đôn đốc chỉ đạo công tác thu thuế. Như vậy, Nhà nước vừa thất thu thuế, đồng thời hàng hoá buôn lậu ngày càng nhiều, tình trạng buôn lậu không được kiểm soát chặt chẽ.
Trực tiếp tham gia quản lý buôn bán biên giới còn có lực lượng Hải quan, biên phòng, công an, kiểm dịch... Để dẩy mạnh hiệu quả của công tác quản lý cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Nhưng quyền hạn và trách nhiệm của mỗi lực lượng phải được phân biệt rạch ròi, tránh tình trạng chồng chéo, không những làm giảm hiệu quả mà còn tác động tiêu cực.
Biên phòng phải là lực lượng nòng cốt chịu quản lý con người xuất nhập cảnh qua các cửa khẩu, quản lý đường biên mốc giới và mọi hoạt động của con người và phương tiện qua biên giới ngoài cửa khẩu xác định.
Hải quan là lực lượng chịu trách nhiệm về việcquản lý mọi hoạt động của phương tiện xuất nhập cảnh trên các cửa khẩu đã xác định.
Công an là lực lượng chịu trách nhiệm chính về hoạt động giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự xã hội, an ninh kinh tế...
Cấp uỷ, chính quyền phường xã chịu trách nhiệm toàn diện về quản lý lãnh thổ trên địa bàn phường xã.
Để thực hiện được những biện pháp này, một mặt phải nâng cao điều kiện cơ sở vật chất làm việc cho các lực lượng quản lý như: xây dựng các trạm kiểm soát cửa khẩu, máy móc kiểm tra chất lương, cân đo đong đếm, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc...(trên thực tế nhiều khi bọn buôn lậu có những phương tiện liên lạc hiện đại và hơn rất nhiều ). Mặt khác, cần có chính sách khen thưởng kịp thời đối với những đơn vị, cán bộ làm tốt nhiệm vụ, đồng thời phải xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
2. Xây dựng một chính sách đầy đủ và khả thi cho vùng biên giới về mặt hàng, thị trường, thuế, công tác thanh toán...
Để có một chính sách thị trường và mặt hàng thích hợp trước hết cần tổ chức nghiên cứu tổng hợp về quản lý và khai thác kinh tế đối với toàn bộ vùng biên của nước ta với Trung Quốc để xác định tiềm năng của khu vực này. Các công ty lớn của Trung ương có mặt ở vùng biên giới, cùng các địa phương kết thành sức mạnh, để đi sâu vào thị trường Trung Quốc, tăng nhanh khối lượng hàng xuất của ta và mua đúng hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống. Ngoài ra, cần tạo lập mọi liên kết giữa các tỉnh biên giới và các tỉnh tuyến sau nhằm phát triển nguồn hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sức mạnh và khả năng mới cho doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ở các tỉnh biên giới xâm nhập sâu mở rộng thị trường bán hàng vào các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên và vùng Hoa Nam. Nếu thực hiện được theo phương hướng này ta còn có thể giải quyết được vấn đề nhập siêu trong buôn bán với Trung Quốc.
Đối với vấn đề thanh toán trong tình hình hiện nay, thanh toán theo như Hiệp định bảo đảm hợp tác và thanh toán giữa hai nước vẫn chưa thực hiện được. Lúc này việc áp dụng chính sách thí điểm thực hiện thanh toán bằng bản tệ ở khu vực Móng Cái là thích hợp. Vì vậy cần có sự chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc kịp thời của Ngân hàng Trung ương, kịp thời tổng kết, đánh giá để áp dụng cho các tỉnh khác. Nhanh chóng đưa công tác thanh toán vào nền nếp.
3. Để thúc đẩy buôn bán biên giới ngoài những biện pháp về cơ chế tổ chức quản lý, về chính sách như trên, Trung ương có thể cùng kết hợp với các địa phương thực hiện một số biện pháp để tạo ra một số điều kiện có tác động tích cực tới buôn bán biên giới như :
-Chú trọng đầu tư thích đáng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung tâm kinh tế-thương mại-dịch vụ-du lịch, tạo ra các tiềm lực mới ở các tỉnh biên giới để từng bước thúc đẩy hợp tác không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật tại khu vực biên giới , đồng thời hấp dẫn các nhà đầu tư vào khu vực này nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của vùng biên giới Việt-Trung.
-Về các thủ tục hành chính cần được đơn giản hoá xoá bỏ phiền hà tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhằm tạo môi trường thông thoáng.
-Bộ giao thông vận tải cần cân nhắc việc cho phép các phương tiện vận tải đủ yêu cầu cũng có thể tham gia chuyên chở ở các tỉnh biên giới, tránh tình trạng phải qua khâu trung gian như hiện nay vừa tạo ra sự tiêu cực, kém hiệu quả, gây nên bất bình cho các doanh nghiệp trong nội địa.
-Một hình thức gián tiếp nhằm thúc đẩy buôn bán biên giới mà Bộ Thương mại không thể bỏ qua, đó là việc chỉ đạo các cơ quan chức năng cần phải có biện pháp tổ chức và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham dự các hội chợ triển lãm quốc tế một cách có hiệu quả nhất là các hội chợ triển lãm do ta hoặc do Trung Quốc tổ chức ở các tỉnh biên giới. Tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham quan, khảo sát, tìm bạn hàng Trung Quốc và tìm cách đưa hành Việt Nam sang bán cho Trung Quốc ...
Kết luận
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn kinh doanh XNK với thị trường Trung Quốc của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật, ta thấy Công ty tuy là một doanh nghiệp Nhà nước mới chính thức hoạt động (1/1/1999) với số vốn hạn chế nhưng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công ty đã tự mình vượt qua những thử thách, khó khăn của giai đoạn đầu sát nhập, sử dụng vốn có hiệu quả, kinh doanh có lãi, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Ngoài ra, hoạt động buôn bán biên giới Việt - Trung của Công ty còn là cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường Trung Quốc, tận dụng mọi ưu thế của hai nước láng giềng trong quan hệ ngoại thương, giải quyết nhu cầu về hoá chất, vật liệu điện, các vật tư khoa học kỹ thuật cho sản xuất và nghiên cứu, góp phần xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thể cung cấp.
Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều vấn đề phải quan tâm, xem xét. Đó là việc xuất khẩu mới chỉ chiếm một trị giá nhỏ so với nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chưa tương xứng với quy mô và nhu cầu của thị trường hai nước. Bên cạnh đó, khó khăn không phải ít trong việc lựa chọn hình thức XNK, phương thức thanh toán... sao cho phù hợp nhất với từng thương vụ và việc thực hiện chúng luôn tuân theo những quy định cuả Nhà nước trong buôn bán biên giới.
Phân tích thực trạng và tình hình kinh tế hiện nay, chúng ta khẳng định sự tồn tại và phát triển của Công ty là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của cả nước. Trong thời gian tới, Công ty sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn nữa trong việc củng cố, mở rộng hoạt động XNK qua biên giới Việt Trung nếu Công ty biết phát huy thế mạnh của mình, khắc phục điểm yếu và chớp đúng thời cơ kinh doanh.
Muốn vậy, trước mắt Công ty cần chủ động nắm bắt cung cầu trên thị trường, đa dạng hoá mặt hàng XNK, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau, có chiến lược kinh doanh có hiệu quả và kết hợp sức mạnh đoàn kết của cán bộ công nhân viên. Đồng thời đề xuất lên bộ và các cơ quan quản lý cấp trên những chính sách hỗ trợ phát triển cho hoạt động XNK hàng hóa qua biên giới Việt Trung.
Với trình độ còn hạn chế, hy vọng luận văn sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động XNK của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thịnh vượng.
Danh mục tài liệu tham khảo
Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách kinh tế đối ngoại. (Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện kinh tế thế giới NXB Khoa học xã hội - 1996 ).
Giáo trình kinh tế quốc tế - Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội - NXB Giáo dục - 1998.
Giáo trình kinh tế ngoại thương - Đại học Ngoại Thương - XNB Giáo dục -1998.
Giáo trình kinh tế vĩ mô - Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội - NXB Giáo dục - 1998.
Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - Trung tâm kinh tế Châu á - Thái Bình Dương - NXB Thống kê Hà Nội - 1997.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
Báo doanh nghiệp Việt Nam.
Tạp chí kinh tế và phát triển Đại học Kinh tế quốc dân.
Tạp chí Ngoại thương.
Các tài liệu của Công ty hoá chất- Vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật.
Báo cáo về thị trường Trung Quốc năm 1998-1999. Vụ Châu á - Thái Bình Dương. Bộ thương mại.
Dự thảo về quy chế buôn bán biên giới Việt-Trung _ Bộ thương mại.
Nghị định 36/CP của chính phủ ngày 19/04/1997 về quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
Nghị định 110-HĐBT ngày 31/03/1995 quy định chi tiết về việc thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Nghị định 115-HĐBT ngày 09/04/1995 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tiểu ngạch biên giới.
Chỉ thị 174-TTG ngày 16/12/1995 về những biện pháp cấp bách thực hiện hiệp định tạm thời về giải quyết công việc trên vùng biên giới Việt-Trung.
Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm - Mậu dịch biên giới Việt-Trung trong chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền của Trung Quốc (số 1 năm 1998).
- Buôn bán biên giới Việt- Trung: Tình hình và triển vọng. Số 6 năm 1998.
Tạp chí kinh tế Châu á- Thái Bình Dương.
Các hiệp định:
- Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới giữa hai nước (ký ngày 06/11/1994).
- Hiệp định thương mại (ký ngày 07/11/1994).
- Hiệp định hợp tác kinh tế (ký tháng 2/1995).
- Hiệp định thanh toán và hợp tác (ký ngày 26/05/1996).
- Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau (ký tháng 11/1996).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0553.doc