Lời nói đầu.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước nhằm mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam, đưa nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời khẳng định được mục tiêu vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh sẽ đạt được trong thời gian không xa. Đảng và Nhà nước đã có những định hướng đúng đắn với các chiến lược cho từng giai đoạn cùng với những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có đồng thời thu hút
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp chủ yếu tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam thời kỳ 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thêm nguồn lực từ bên ngoài. Hiện nay, một nguồn lực quan trọng nhất mà chúng ta có thể khai thác từ bên ngoài nhằm mục đích phát triển kinh tế là vốn và công nghệ. Vì đây là yếu tố rất cần thiết, chúng ta đang thiếu (vốn) và trình độ công nghệ vừa thiếu, vừa lạc hậu, không đủ đáp ứng cho nhu cầu cho thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với những biện pháp đã được áp dụng từ trước đến nay, Nhà nước cần phải thường xuyên điều chỉnh các cơ chế, chính sách để khắc phục những hạn chế và luôn luôn tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn và công nghệ vào thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về các giải pháp đã được áp dụng cũng như các giải pháp định hướng nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư và đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, em xin được lựa chọn đề tài: “ Những giải pháp chủ yếu tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời kỳ 2001-2005”.
Trong thời gian thực hiện đề tài, với những tài liệu và thông tin thu thập được chưa đầy đủ và khả năng viết bài còn hạn chế, em mong sẽ được thầy góp ý và hướng dẫn giúp em hoàn thành đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Nội dung.
Lý luận chung về đầu tư và nguồn vốn FDI.
Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư.
Khái niệm về vốn đầu tư.
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn, đồng thời do nhu cầu ngày càng tăng về tài sản cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư không qua hoạt động đầu tư. Như vậy, vốn đầu tư chính là lượng vốn bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới một cách thường xuyên.
Cơ cấu vốn đầu tư:
Vốn đầu tư chia thành hai loại chính: Vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn đầu tư trong nước:
Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư trong nước.Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia thành ba quỹ lớn: quỹ bù đắp, quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Quỹ bù đắp và quỹ tích luỹ là nguồn để hình thành vốn đầu tư, trong đó quỹ tích luỹ là quan trọng nhất, toàn bộ quỹ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Tiết kiệm trong nước bao gồm 3 khoản chủ yếu sau:
Tiết kiệm của Chính phủ (Sg)
Tiết kiệm của Công ty (Se)
Tiết kiệm của hộ gia đình (Sh)
Tiết kiệm của Chính phủ .
Tiết kiệm của Chính phủ = tổng thu nhập - tổng chi tiêu, mà 90% thu nhập cho ngân sách Nhà nước ta là từ thuế trong đó các loại thuế chính như thuế xuất - nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế môn bài vv... hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập, vì vậy mà dần phải xoá bỏ một số loại thuế, như thuế xuất-nhập khẩu. Mặt khác nước ta lại là một nước thường rơi vào tình trạng bội chi nên từ đó dẫn đến việc tiết kiệm của Chính phủ là rất hạn chế.
Tiết kiệm của công ty: Tiết kiệm của công ty chính là lợi nhuận để lại công ty. (Lợi nhuận không chia = Pr không chia).
Pr không chia = TR - TC - Tde - Pr cổ đông (nếu là công ty cổ phần.)
TR: Tổng doanh thu
TC: Tổng chi phí
Tde: Thuế lợi tức
Pr cổ đông: Lợi nhuận chia cho các cổ đông
Tiết kiệm của dân cư:
Là khoản thu nhập khác ngoài thu nhập có thể sử dụng của các hộ gia đình.
Tiết kiệm = Thu nhập - Chi tiêu
Khi thu nhập gia đình tăng lên thì tiết kiệm sẽ tăng lên, nghĩa là một nước với những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm lớn hơn, và những nước giàu có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư lớn hơn những nước nghèo (có thu nhập thấp). Việt Nam là một nước nghèo vì vậy tỷ lệ tiết kiệm từ hộ gia đình là thấp. Xu hướng chung cho thấy khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng.
Từ những nhận định trên cho thấy nguồn vốn đầu tư trong nước của nước ta ngày càng có xu hướng thấp đi. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các LDCs nói chung và Việt Nam nói riêng thì quy mô và tỷ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển ngày càng tăng đòi hỏi nguồn vốn lớn.
Vì vậy cùng với xu hướng quốc tế hoá chúng ta cần tìm cách thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn đầu tư nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài có 3 loại chính:
Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO).
Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất đáp ứng những nhu cầu nhân đạo: Cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai. Hiện nay loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú và tiền mặt. Như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khoẻ ban đầu.... loại này chủ yếu giải quyết về mặt xã hội, không tham gia nhiều giải quyết về vấn đề kinh tế, đầu tư phát triển kinh tế.
Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ODA được gọi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của nước này. ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Viện trợ đa phương qua các tổ chức quốc tế ví dụ các tổ chức Liên hợp quốc (UNDP, UNICEF....) IMF, WB, ADB, OFEC.... Viện trợ đa phương chiếm 20% trong tổng ODA còn song phương chiếm 80% viện trợ ODA ngày nay ngoài các nước DAC (85%) còn có Nga và các nước Đông Âu (10%) các nước ả Rập có dầu mỏ (5%). Nội dung viện trợ ODA bao gồm
- Viện trợ không hoàn lại: Thường chiếm 25% tổng vốn ODA
- Hợp tác kỹ thuật
- Cho vay ưu đãi, bao gồm:
+ Cho vay không lãi suất
+ Cho vay lãi suất ưu đãi: Từ 0,5 đến 5%/ năm trả vốn từ sau 3 đến 10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10 đến 50 năm.
Theo quy định của Liên hợp quốc (1970) thì các nước công nghiệp phát triển phải dành 0,7% GNP để viện trợ cho LDCs. Nhưng thực tế hiện nay chỉ có rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu này.
Tuy nhiên ODA vẫn là một nguồn vốn đầu tư lớn quan trọng, nhưng bên cạnh đó nó cũng có rất nhiều hạn chế.
Do chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế mức độ đóng góp vốn nên hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư.
Do nước nhận vốn đầu tư có toàn quyền sử dụng vốn nên hiệu quả sử dụng vốn thường thấp và dễ dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài. Nhiều nước do sử dụng kém hiệu quả vốn đầu tư đã rơi vào tình trạng nợ nước ngoài quá lớn và có nước khó có khả năng trả nợ.
Đầu tư gián tiếp (ODA là chính) hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các chủ đầu tư nước ngoài.
Các nước tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp dễ bị các chủ đầu tư nước ngoài trói buộc vào vòng ảnh hưởng chính trị của họ.
Chính từ những khống chế trên nên giảm phần nào tầm quan trọng của nguồn vốn ODA, mặt khác hiện nay ngoài thu hút vốn đầu tư, nước ta còn rất cần thu hút, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nguồn vốn FDI có được ưu điểm này và nó khắc phục hầu hết các hạn chế của nguồn vốn ODA.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI).
Các hình thức đầu tư.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Nói cách khác, đầu tư gián tiếp thực chất là loại hình đầu tư trong đó chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư, họ chỉ hưởng lãi suất theo tỷ lệ của vốn đầu tư.
Các hình thức của đầu tư gián tiếp phụ thuộc vào chính nguồn vốn của chủ đầu tư. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng, có thể là của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ...Các nguồn vốn này có thể dưới hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại, cho vay ưu đãi và không ưu đãi. Các doanh nghiệp và tư nhân cũng có thể đầu tư gián tiếp dưới hình thức mua cổ phiếu và chứng khoán ở mức không quá lớn, chưa đạt đến tỷ lệ cổ phần khống chế để buộc phải đứng ra điều hành một dự án đầu tư.
Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ một số nước công nghiệp phát triển. ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp) của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế IMF, ADB, WB,...) giành cho các nước nhận viện trợ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
( được trình bày ở phần dưới đây)
Khái quát về nguồn vốn FDI.
Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
Đặc điểm và vai trò của FDI.
Đặc điểm:
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước.
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì đầu tưanh nghiệp hoàn toàn đầu tưo chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý
Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh đầu tưoanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
FDI được thực hiện thông qua việc xây đầu tưựng đầu tưoanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần đầu tưanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các đầu tưanh nghiệp với nhau.
Vai trò của FDI.
ảnh hưởng của vốn FDI đến lao động và việc làm.
Các dự án đầu tư trực tiếp được tiến hành tại nước sở tại sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Điều này góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là một vấn đề nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, các nước này có lực lượng lao động phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng, vì vậy FDI được coi là một chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn đề này. Đối với Việt Nam nguồn vốn FDI đã góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động, đây là một trong hai mục tiêu chính của Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong chiến lược thu hút nguồn vốn FDI.
ảnh hưởng của FDI đến quá trình chuyển giao công nghệ.
Khi đầu tư vào một nước nào đó , chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu ....(hay còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học ....(hoặc còn gọi là công nghệ mềm). Tuy nhiên trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển là trình độ KT-CN còn lạc hậu trong thời đại KH-KT phát triển như vũ bão hiện nay thì việc các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển cho phù hợp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất là phải biết tận dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến thông qua chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức thực hiện quá trình chuyển giao nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư .
ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế.
Tranh thủ vốn và kỹ thuật, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Xem xet tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới , có thể thấy rằng FDI đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế ( nhất là đối với các nước NICs). Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn ở trong nước nhằm phát triển kinh tế.
Mức tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư là chủ yếu, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động, năng xuất lao động tăng theo. Theo kết quả phân tích, khi tăng 1% đầu tư tư nhân nước ngoài sẽ làm tăng nhịp độ tăng trưởng kinh lên 0,119% và tỷ lệ tiết kiệm tăng 0,032%. Tuy nhiên đó chưa phản ánh hết tác dụng to lớn về chất lượng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế.
ảnh hưởng của FDI đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều váo quá trình phân công lao động xã hội. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thai đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế . Bởi vì: thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới; đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật –công nghệ, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế; một số ngành được kích thích phát triển bởi nguồn vốn FDI, nhưng cũng có ngành bị mai một đến mức bị xoá sổ .
Ngoài ra , FDI còn có một số tác động khác như.
Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài.
FDI cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì đầu tư hầu hết các dự án FDI là nhằm mục đích sản xuất ra các sản phẩm “hướng vào xuất khẩu”. Cùng với việc tăng khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá, hoạt động này còn giúp mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
b. Tác động của đầu tư trực tiếp.
Tác động tích cực:
- Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài.
- Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Giúp cho các nước sở tại sử dụng có hiệu quả đồng vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế.
Tác động tiêu cực
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường.
Cơ sở pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để mang vốn và tài sản vào một nước nào đó, các nhà đầu tư nước ngoài- một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế với những đặc thù riêng của nó về sự can thiệp trực tiếp của chủ đầu tư vào quá trình sản xuất kd, về tính lâu dài của dự án, về sự gắn liền với chuyển giao công nghệ...càng đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi một hệ thống luật pháp rõ ràng, hoàn chỉnh.
Năm 1977, chỉ một năm sau ngày đất nước được thống nhất, các nhà lãnh đạo cao nhất của VIệT NAM đã có một quyết định làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Đó là việc ban hành điều lệ đầu tư nước ngoài ở CHXHCN VN, kèm theo Nghị định số 115/CQ ngày 19 tháng 4 năm 1977 của CP, gọi tắt là “ Điều lệ đầu tư 77”. Tuy nhiên, Điều lệ 77, do ra đời trong điều kiện thiếu một hệ thống quan điểm rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế, nên không tránh khỏi những hạn chế kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cho dù đó là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn thì cũng khó có thể đi vào cuộc sống bởi vì đối với bất kỳ một quốc gia nào, yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là tình hình chính trị đối ngoại và sự ổn định an ninh chính trị trong nước.
Sau chiến tranh, nguồn viện trợ từ các nước XHCN như Liên xô, Trung Quốc bị sử dụng lãng phí, đầu tư kém hiệu quả và tới đầu thập kỷ 90, khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn viện trợ trị giá mỗi năm hàng tỷ rúp không còn nữa. Trong khi đó nguồn tích luỹ nội bộ dường như bằng không, cơ chế quản lý sai lệch, hoạt động đầu tư chỉ có tác động rất yếu ớt tới tăng trưởng và biến đổi cơ cấu kinh tế.
Trong bối cảnh nói trên, để chống đỡ với những khó khăn kinh tế, nhiều địa phương, nhiều ngành đã đưa ra những sáng kiến khác nhau về cải tiến cơ chế quản lý. Mặc dù những sáng kiến tự phát này đã gây nên tình trạng hỗn loạn trong quản lý nền kinh tế quốc dân, nhưng chính chúng là mầm mống cho một ý đồ đổi mới toàn diện đời sống kinh tế-xã hội được hình thành từ năm 1985 và được chính thức thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VI vào năm 1986.
Nội dung cốt lõi của công cuộc đổi mới là dân chủ hoá đời sống xã hội, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển sang nền KTTT và khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển trên cơ sở xoá bỏ tư tưởng kỳ thị đối với kinh tế tư nhân, đồng thời mở rộng hợp tác với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Luật đầu tư nước ngoài tại VN đã được soạn thảo và ban hành trên cơ sở những quan điểm đổi mới đó.
Các dự án được khuyến khích đầu tư.
Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên.
Sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 30% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước có giá trị từ 30% chi phí sản xuất trở lên.
Sử dụng nhiều lao động và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vẫn có ở Việt Nam.
Chế biến nông, lâm sản (trừ gỗ), thuỷ sản.
Bảo quản thực phẩm, bảo quản nông sản sau thu hoạch.
Thăm dò, khai thác và chế biến sau khoáng sản.
Phát triển công nghiệp hoá dầu; xây dựng, vận hành đường ống dẫn dầu, dẫn khí, kho, cảng dầu.
Sản xuất thiết bị, cụm chi tiết trong khai thác dầu khí, mỏ, năng lượng, sản xuất thiết bị nâng hạ cỡ lớn.
Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại màu, kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt xốp dùng trong công nghiệp.
Sản xuất các máy công cụ gia công kim loại, thiết bị luyện kim.
Chế tạo thiết bị cơ khí chính xá, thiết bị kiểm tra, kiểm soát an toàn, sản xuất khuôn mẫu cho các sản phẩm kim loại và phi kim loại.
Sản xuất khí cụ điện trùng, cao thế.
Sản xuất các loại động cơ diezen có công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, sản xuất máy, phụ tùng ngành động lực, thuỷ lực, máy áp lực.
Sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng xe máy, sản xuất, lắp ráp thiết bị xe máy, thi công xây dựng, sản xuất thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải.
Đóng tàu thuỷ, sản xuất thiết bị phụ tùng cho các tàu vận tải, tàu đánh cá.
Sản suất thiết bị viễn thông.
Sản xuất thiết bị, linh kiện điện tử, công nghệ tin học.
Sản xuất thiết bị, phụ tùng, máy nông nghiệp, thiết bị tưới tiêu.
Sản xuất các loại hoá chất cơ bản, hoá chất tinh khiết, thuốc nhuộm, các loại hoá chất chuyên dùng.
Sản xuất nguyên liệu chất tẩy rửa, phụ gia cho ngành hoá chất.
Sản xuất xi măng đặc chủng, vật liệu compóit, vật liệu cách âm, cách điện, cách nhiệt cao, vật liệu tổng hợp thay gỗ, vật liệu chịu lửa, chất dẻo xây dựng sợi thuỷ tinh.
Sản xuất các loại vật liệu xây dựng nhẹ.
Sản xuất bột giấy.
Sản xuất tơ, sợi các loại, vải đặc biệt dùng trong ngành công nghiệp.
Sản xuất nguyên liệu cao cấp để sản xuất giày, dép, quần áo xuất khẩu.
Sản xuất bao bì cao cấp phục vụ hàng xuất khẩu
Một số xu hướng vận động chủ yếu của ĐTNN.
Xu hướng tự do hoá đầu tư.
Xu hướng tự do hoá đầu tư được thể hiện trên ba bình diện là: quốc gia, khu vực và quốc tế.
Trên bình diện quốc gia, đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, về vốn góp, thuê mướn nhân công , đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu ... bên cạnh đó, các quốc gia cũng đang đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các khuyến khích về tài chính... Trên bình diện khu vực, đó là sự thành lập các khu vực đầu tư, việc ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương.
Dòng FDI chịu sự chi phối của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế.
Nếu như năm 1990 có khoảng 37000 tập đoàn loại này với khoảng 170000 chi nhánh và cơ sở nước ngoài thì 1995 đã có khoảng 39000 tập đoàn với khoảng 270000 chi nhánh và cơ sở nước ngoài nắm giữ 2700 tỷ USD FDI tương ứng 10% GDP thế giới, mặt khác đa số các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước LDCs hầu hết tập trung ở Châu á.
Bên cạnh đó, với sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, các tập đoàn xuyên quốc gia giờ đây đang chịu sự cạnh tranh đáng kể của các hãng có quy mô vừa và nhỏ trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ mà biểu hiện rõ nhất là dịch vụ thông tin.
Dòng vốn FDI trong sự vận động của quá trình toàn cầu hoá.
Một xu hướng lâu dài là vốn đầu tư sẽ được luân chuyển chủ yếu giữa các nước phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở LDCs và tác động của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào LDCs, trong đó các LDCs khu vực Châu á - Thái Bình Dương nổi lên là khu vực thu hút nhiều vốn đầu tư vào nhất. (Ví dụ năm 1990 chiếm 46%, năm 1995 chiếm 62% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào LDCs ).
Ngoài ra xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chịu ảnh hưởng bởi:
Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư trên thế giới.
Lĩnh vực đầu tư: Xu hướng chung của thế giới là chuyển từ việc khai thác các nguồn tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
Đầu tư với hiệu quả xã hội: vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế xã hội.
Quy mô đầu tư tăng.
Tính cạnh tranh giữa các bên đối tác.
Tính không đồng đều trong phân bổ, lưu chuyển luồng vốn.
Tính quốc tế hoá và tính cục bộ.
Các nước tham gia hai quá trình tiếp nhận đầu tư và đầu tư.
Tính linh hoạt trong dòng vốn FDI ngày càng cao.
Xu hướng chuyển đổi cơ cấu đầu tư.
Thực trạng của hoạt động ĐTTTNN tại việt nam.
Đánh giá chung.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu lên thành phần kinh tế mới – kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . Điều này có ý nghĩa rất to lớn và khẳng định vai trò của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư tính đến 26/12/2001 trên địa bàn cả nước có 460 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vôns đăng ký đạt tới 2436 triệu USD, vốn pháp định 1180 triệu USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư nước ngoài. So với năm 2000, đầu tư , vốn đăng ký cấp mới tăng 22,6%, số dự án tăng 26%.
Bảng 1. ĐTTTNN tại Việt Nam từ 1988-2001
Năm
Số
Dự án
Vốn đăng ký
(triệu USD)
Vốn thực tiếp
(triệu USD)
Quy mô dự án
(triệu USD)
1988
37
366
-
9.9
1989
70
539
-
7.7
1990
106
677
-
6.4
1991
149
1294
213
8.7
1992
195
2036
391
10.4
1993
273
2652
1099
9.7
1994
371
4071
1946
11.0
1995
412
6616
2671
16.1
1996
368
8640
2646
23.5
1997
331
4511
3250
13.6
1998
275
3596
1900
13.1
1999
308
1566
1519
5.1
2000
344
1973
2228
5.7
2001
460
2436
Tổng
3699
40976
Từ số liệu ở bảng 1 cho thấy.
Từ năm 1988-1999 ĐTTTNN ở Việt Nam tăng khá, số dự án đăng ký tăng bình quân 31,5% năm, vốn đăng ký tăng 45% / năm. Đặc biệt riêng năm 1995 có tốc độ phát triển rất cao 173.43% hoặc tăng 73.43% so với năm 1994 và năm 1996 có lượng vốn tăng vọt lên 8640 triệu USD vói tốc tộ tăng trưởng so với năm 1995 là 130.11%.
Tuy nhiên , đến năm 1996, do tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc nội có phần chậm lại cùng với cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, FDI đã bắt đầu chựng lại và suy giảm; nhất là năm 1999 thì xu hướng nđó giảm rõ rệt hơn. Năm 2000 tình hình có phần khả quan hơn, số dự án đăng ký tăng 11% và vốn đăng ký tăng 26%. Sự phục hồi bước đầu của ĐTNN vào Việt Nam là dấu hiệu đáng mừng trong bối cảnh đầu tư vào các nước ASEAN vẫn đang giảm sút. Kết quả này có được một phần là nhờ những tác độngtích cực của giải pháp cải thiện môi trường ĐTNN của Nhà nước Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt là những cải thiện về môi thường pháp lý kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Cũng từ bảng trên cho thấy ; việc góp vốn và triển khai dự án là khá tích cực.Tính đến ngày 31/12/1999, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký là42%. Nếu so với các nứơc trong khu vực (con số này dao động từ 30-40%) thì tỷ lệ góp vốn của Việt Nam ta thuộc loại cao.
Xét về quy mô dự án thì quy mô dự án ĐTTTNN ở Việt Nam không lớn- trung bình 12,6 triệu USD/dự án. Đặc biệt trong năm 1999 quy mô bình quân một dự án quá nhỏ, 5,1 triệu USD/dự án, thấp nhất trong 12 năm trước đó, năm 2000 có phần khả quan hơn, đạt-5,7 triệu USD/dự án.
Thực trạng theo cơ cấu nguồn vốn FDI.
Cơ cấu đầu tư theo ngành.
Phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành cho thấy các dự án ĐTTTNN đã có mặt ở hầu khắp ở mọi ngành kinh tế quốc dân và đang có sự chuyển dịch cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Nếu giai đoạn đầu các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòmg cho thuê, thì ngày nay chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp, cụ thể tính chung cho giai đoạn 1988-1999: cộng nghiệp nặng – 16,7%; công nghiệp dầu khí _8,3%; công nghiệp nhẹ –10,56%; công nghiệp thực phẩm –9,14%.... Cơ cấu đầu tư theo ngành có thể coi là thích hợp.
Các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ.Các ngành nông lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn (chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực naỳ tương đối nhỏ).
Bảng 2:Cơ cấu dự án đầu tư nước ngoài theo ngành:
Ngành
Số dự án
Vốn đăng ký(%)
1- Nông nghiệp
10.6
3.59
2- Thuỷ sản
3.6
0.96
3- Công nghiệp
48.6
37.78
4- Xây dựng
10.3
12.37
5- Khách sạn, du lịch
7.8
13.13
6- Giao thông vận tải, bưu điện
5.3
9.23
7- Tài chính, ngân hàng
1.1
0.54
8- Văn hoá, y tế giáo dục
3.3
1.27
9- Các ngành dịch vụ khác
9.4
21.13
Tổng
100
100
Vốn đầu tư vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại. CNH: Công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH- HĐH và với đặc trưng của nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt Nam thì tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay là còn khoảng cách tương đối xa so với yêu cầu mong muốn mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là đối với Việt Nam, nông nghiệp đang là một trong những lĩnh vực tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo ra được việc làm và thu nhập cho số lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số nhân dân Việt Nam.
Cơ cấu đầu tư theo vùng.
Với mong muốn hoạt động ĐTTTNN góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế, nên Chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “ những vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, miền níu, vùng sâu, vùng xa”. Tuy nhiên, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế- xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp theo thứ tự như sau.
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo vùng (%)
1- Đông Nam Bộ
53.13
5- Đồng bằng sông Cửu Long
2.46
2- Đồng bằng sông Hồng
29.6
6- Bắc Trung Bộ
2.38
3- Duyên hải Nam Trung Bộ
7.64
7- Tây Nguyên
0.16
4- Đông Bắc
4.46
8- Tây Bắc
0.15
Cùng trong thời kỳ này nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%.
Số liệu trên cũng phần nào nói nên rằng vấn đề thu hút ĐTNN theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Như vậy, đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý điều chỉnh hoạt động của chúng ta trong thơì gian tới đối với lĩnh vực này.
Cơ cấu theo hình thức đầu tư:
Liên doanh hiện nay là hình thức phổ biến nhất của ĐTTTNN tại Việt Nam. Hình thức này đang chiếm tới khoảng 61% số dự án và 70% vốn đăng ký. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hd kd ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được tăng lên trong điều kiện các thủ tục cấp giấy phép của Việt Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn trước... Do đó, số dự án ĐTTTNN vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu thời kỳ đầu chỉ có 10% số dự án và vốn đăng ký hd theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con số đó đã lên tới 30% số dự án và 20% vốn đăng ký.
Hình thức hợp đồng hợp tác kd đến nay chỉ chiếm 7,1% số dự án và 10% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “ hợp đồng xây dựng- kd- chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 4 dự án ĐTNN được thực hiện theo hình thức này với số vốn dăng ký gần 900 triệu USD.
Những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình thực hiện ĐTTTNN tại Việt Nam thời gian qua.
Những thành tựu đạt được.
ĐTNN đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và đã có những đóng góp rất tích cực cho quá trình phát triển kinh tế –xã hội của nước ta .
Cụ thể.
ĐTTTNN đã góp nguồn vốn quan ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35356.doc