Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại Công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội

Lời mở đầu Vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với quá trình phát triển kinh doanh và phát triển kinh tế, nó là nguồn lực làm tăng năng suất lao động và đựoc coi là nền tảng của sự tiến bộ. Nhờ có vốn mà quá trình sản xuất được tiến hành tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo ra của cải cho xã hộ`i, đem lại sự giàu có cho quốc gia. Đến nay, nhân loại bước sang thiên niên kỷ mới và đã đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại Công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoa học công nghệ đang đổi mới từng ngày thì nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với khả năng tài chính và theo kịp trình độ khoa học công nghệ của thời đại là con đường ngắn nhất giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình. Hơn nữa trong khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và chỉ những doanh nghiệp nào trang bị cho mình những vũ khí sắc bén mới có thể đứng vững tồn tại và phát triển được, đó là chiến lược đổi mới công nghệ máy móc thiết bị, chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất làm việc và chiến thắng trên thương trường. Với tầm quan trọng của vốn thì vấn đề huy động vốn đang là mối quan tâm và gây trở ngại lớn cho doanh nghiệp trong chiến lược phát huy tính tự chủ và sáng tạo của doanh nghiệp. Đặc bịêt là vấn đề huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong thời gian thực tập tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội, nhận thấy công ty hoạt độngkinh doanh rất hiệu quả với tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao. Do đó nhu cầu đổi mới công nghệ máy móc thiết bị là rất cần thiết, nhằm nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp. Song cũng như một số công ty sản xuất khác thì việc huy động vốn cho đầu tư đổi mới là rất khó khăn trong tình hình thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế. Nhận thức được vấn đề đó, em đã đi sâu nghiên cứu vào đề tài :"Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại Công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội". Kết cấu của chuyên đê tốt nghiệp gồm có 3 chương : Chương 1: Tầm quan trọng của việc đổi mới máy móc công nghệ thiết bị đối với sự phát triển của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng về thiết bị công nghệ và công tác huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp huy động vốn cho đổi mới máy móc thiết bị công nghệ ở công ty sứ Viglacera Thanh Trì. Để hoàn thành tốt đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo-Ths. Vũ Thị Hoa và các thầy cô giáo trong bộ môn Tài Chính Doanh Nghiệp , cùng với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các cô, các anh, các chị trong phòng tài chính kế toán của công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội. Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2007 Sinh viên Bùi Thị Ngọc Thuý Chương 1: Tầm quan trọng của việc đổi mới máy móc thiết bị đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1.1. Tài sản cố định và vấn đề đầu tư đổi mới TSCĐ là máy móc thiết bị trong doanh nghiệp 1.1.1. Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp 1.1.1.1. Tài sản cố định của doanh nghiệp Ba yếu tố cần thiết để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,đó là con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên, nhiên vật, sản phẩm dở dang...), các tư liệu lao động hay còn gọi là công cụ lao động (như nhà cửa máy móc thiết bị, xe tải, ghe tàu...) là những phương tiện vật chất và con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến nó trở thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống của con người. Như vậy tài sản cố định là những công cụ lao động (tư liệu lao động) quan trọng, có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, biểu hiện dưới hình thức là tài sản hữu hình hoặc vô hình, giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm qua nhiều chu kỳ sản xuất. Tiêu chuẩn của TSCĐ: Các tư liệu lao động được xếp vào TSCĐ phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây: - Tiêu chuẩn 1: Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng TSCĐ đó. - Tiêu chuẩn 2: Nguyên giá TSCĐ phải được xác định một cách đáng tin cậy. - Tiêu chuẩn 3: Thời gian sử dụng từ một năm trở lên - Tiêu chuẩn 4: Có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Những tư liệu lao động nào không thoả mãn những tiêu chuẩn nói trên được xếp vào công cụ lao động nhỏ. Việc quản lý và sử dụng công cụ lao động này như tài sản lưu động và nguồn trang trải là vốn lưu động. Phân loại TSCĐ Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ của DN theo những tiêu thức nhất định thành các loại khác nhau. nhằm phục vụ cho viẹc quản lý và sử dụng của DN. Thông thường có những cách phân loại sau đây: Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: Theo phương pháp này thì toàn bộ TSCĐ của DN được phân làm 2 loại: Tài sản cố định hữu hình: Là những tư liệu sản xuất chủ yếu, có hình thái vật chất, có gia trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, như nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vân tải, tàu xe,... Tài sản cố định vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trịđã được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, có liên quan đến nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí để mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả,chi phí để có quyền sử dụng đất... Cách phân loại này giúp người quản lý doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của DN, từ đó có những quyết định đầu tư đúng đắn, hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư, làm cho cơ cấu tài sản phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của DN trong thời gian trước mắt và trong tương lai lâu dài. Phân loại theo công dụng kinh tế: Theo phương pháp này thì TSCĐ của DN được chia làm 2 loại: Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh là những TSCĐ hữu hình và những TSCĐ vô hình, trự tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN, gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực,thiết bị truyền dẫn, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, phương tiện vận tải,... và những TSCĐ vô hình khác... TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh: là những TS dùng cho phúc lợi công cộng, không mang tính chất sản xuất kinh doanh như nhà cửa, phương itện dùng cho sinh hoạt văn hoá thể dục thể thao, nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng khác... Cách phân loại này giúp nhà quản lý thấy rõ kết cấu TSCĐ, vai trò tác dụng của TSCĐ trong quá trình kinh doanh của DN tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ có hiệu quả và thực hiện việc trích khấu hao TSCĐ được chính xác. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ có thể chia TSCĐ theo các loại sau đây TSCĐ đang sử dụng: Là những TSCĐ của DN đang sử dụng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN hay phục vụ cho các hoạt động khác như hoạt động phúc lợi, n ninh quốc phòng. TSCĐ chưa cần dùng:Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN hay hoạt động khác của Dn nhưng chưa cần dùng, còn dự trữ để sử dụng cho tuơng lai sau này. TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết,hay khôngphù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của DN, cần phải đượcthanh lý, bán để thu hồi vốn đầu tư ban đầu. Cách phân loại này giúp DN thấy được tình hình TSCĐ của DN thừa hoặc thiếu như thế nào để có kế hoạch đầu tư, xây dựng, mua săm, tháo dỡ và thanh lý kịpthời để thu hồi vốn, bổ sung vào vốn sản xuất kinh doanh của DN. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng Theo tiêu thức này TSCĐ được chia làm 3 loại: -TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ mà DN sử dụng cho mục đích kinh doanh của DN, bao gồm: TSCĐ hữu hình: nhóm TSCĐ này được chia thành các loại sau đây: Loại 1: nhà cửa, vật kiến trúc- là TSCĐ được hình thành sau quá trình thi công xây dựng nư trụ sở làm việc, nhà kho,... Loại 2: Máy móc thiết bị- là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng chôhạt động sản xuất kinh doanh của DN như máy móc chuyên dùng, thiết bị động lực, dây chuyền công nghệ. Loại 3: Phương tiệnvận tải, thiết bị truyền dẫn- là các loại phương tiện vận tải như phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, hệ thống thông tin, đường ống nước... Loại 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý- là những thiết bị, dụng cụ dùng cho việc quant lý hoạt động sản xuất kinh doanh của DN , như máy vi tính phục vụ quản lý, thiết bị đo lường,dụng cụ đo lường kiểm tra chất lượng sản phẩm... Loại 5: Vườn cây lâu năm như vườn cà phê, vườn trà , vườn cao su... hay súc vật làm việc, súc vật sinh sản, trâu bò... Loại 6: Các loại TSCĐ khác là toàn bộ TS khác chưa liệt kê trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật... TSCĐ vô hình: Như chi phí thành lập DN, chi phí sưu tầm và phát triển, chi phí nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, chi phí mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu... -TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp và an ninh quốc phòng, là những TSCĐ mà do DN quản lý, sử dụng, cho các mục đích phúc lợi, an ninh quốc phong trong doanh nghiệp. -TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ cho nhà nước, cho các cơ quan khác, đơn vị khác theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Phương pháp phân loại này giúp cho DN thấy được cơ cấu của TSCĐ của DN theo mục đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý và sử dụng TSCĐ hiệu quả nhất. Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu: Căn cứ vào tình hình sở hữu có thể chia thành: TSCĐ tự có: là TSCĐ thuộc quyền sở hữu của DN TSCĐ đi thuê là TSCĐ thuộc quyền sở hữu của DN khác, bao gồm tài sản đi thuê hoạt động và tài sản đi thuê tài chính. Phân loại TSCĐ theo nguồn vốn hình thành: Căn cứ vào nguồn vốn hình thành của TSCĐ có thể chia thành 2 loại: TSCĐ hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu TSCĐ hình thành từ các khoản nợ phải trả. Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý DN thấy được nguồn hình thành TSCĐ của DN mình, từ đó có biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả nhất. 1.1.1.2. Hao mòn tài sản cố định TSCĐ của DN qua quá trình sử dụng sẽ bị hao mòn theo thời gian.TSCĐ sẽ giảm dần giá trị do tham gia phục vụ cho sản xuất kinh doanh của DN, hoặc do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Có hai hình thức hao mòn đó là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình: Là sự giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ do các tác động lý hoá, trong quá trình sử dụng, và tác động bởi môi trường tự nhiên (độ mặn, độ ẩm, độ acid...) Trong quá trình sử dụng, các bộ phận cấu tạo thành TSCĐ cọ xát với nhau, mài mòn, làm cho công suất sử dụng TSCĐ giảm dần, cụ thể là chât lượng và tính năng kỹ thuật của TSCĐ giảm dần, cuối cùng là TSCĐ không còn sử dụng được nữa. Nếu xét về mặt kinh tế, hao mòn hữu hình là sự giảm sút về mặt giá trị của TSCĐ, và phần giá trị này được chuyển vào giá trị của sản phẩm do TSCĐ tạo ra. Hao mòn vô hình của TSCĐ: Là sự giảm sút về giá trị của TSCĐ do sự lạc hậu về mặt kỹ thuật của TSCĐ và sự giảm đi phần giá trị khi năng suất lao động xã hội ngày càng tăng, có những TSCĐ cùng loại được sản xuất ra ngày càng nhiều, do có công suất lớn hơn, kỹ thuật hiện đại hơn và giá rẻ hơn. Có các loại hao mòn sau: - TSCĐ bị hao mòn giá trị trao đổi do có những TSCĐ tương tự song giá mua rẻ hơn. - TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do có những TSCĐ tuy mới mua với giá như cũ nhưng lại có trình độ kỹ thuật tốt hơn, công suất sử dụng cao hơn. - TSCĐ bị mất giá hoàn toàn do chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm, khi sản phẩm này sản xuất ra không được thị trường chấp nhận vì có những sản phẩm khác thay thế chất lượng tốt, giá rẻ hơn và chức năng phong phú hơn. 1.1.1.3. Vốn cố định Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của DN đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình hay vô hình được gọi là vốn cố định của DN. Đó là số vốn đầu tư ứng trước, vì số vốn này nếu được sử dụng hiệu quả sẽ không mất đi, DN sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Quy mô vốn cố định nhiều hay ít quyết định đến quy mô hay khối kượng của TSCĐ, nó ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của DN. Mặt khác, những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của TSCĐ được áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng, chi phối đến quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn cố định. Đặc điểm của vốn cố định Phương thức luân chuyển vốn cố định phụ thuộc vào phương thức kết chuyển giá trị TSCĐ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định luân chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn giá trị của TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn sẽ dược thu hồi từ tiền thu bán hàng hay cung ứng dịch vụ, dưới hình thức trích lập quỹ khấu hao. Như vậy sau nhiều chu kỳ phục vụ sản xuất kinh doanh thì vốn cố định giảm dần,ngược lại quỹ khấu hao TSCĐ tăng dần lên.. Khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng, vốn cố định luân chuyển hết, quỹ khấu hao tích luỹ được sẽ dùng để mua sắm,xây dựngTSCĐ mới dùng để thay thế TSCĐ cũ không còn sử dụng được nữa. Tới đây vốn cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển. Như vậy vốn cố dịnh của DN có những đặc điểm sau: - Vốn cố định được luân chuyển và vận động theo đặc điểm của TSCĐ, được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN. - Vốn cố định được luân chuyển dần dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Trong quá trình sử dụng tài sản cố định phục vụ cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì tài sản bị hao mòn, bị giảm giá sử dụng. Tức là giá trị của tài sản cố định đã được luân chuyển vào giá trị sản phẩm. Phần giá trị chuyển dịch này nó không bị mất đi mà nó sẽ thu hồi lại sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm. Các chu kỳ tiếp theo giá trị bị hao mòn càng tăng, phần giá trị cố định chuyển dịch vào sản phẩm càng lớn, số tiền khấu hao lũy kế ngày càng tăng, phần giá trị còn lại của tài sản cố định càng giảm. Cho đến khi số khấu hao lũy kế bằng số vốn cố định bỏ ra ban đầu thì coi như tài sản cố định đã khấu hao hết. Vậy trong quá trình sử dụng tà sản cố định đồng thời là quá trình luân chuyển dần vốn cố định vào giá trị sản phẩm. - Sau nhiều chu kỳ sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển. Đó là khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.Vòng tuần hoàn của vốn cố định bắt đầu từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra mua sắm tài sản cố định qua nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản cố định được chuyển dịch vào giá trị của snar phẩm dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại giảm xuống vì nó đã dần được thu hồi thông qua hình thức trích khấu hao tài sản cố định. Đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng tức là phần giá trị của nó đã hoàn thành một vòng tuần hoàn vì nó đã thu hồi toàn bộ. Vai trò của vốn cố định Một trong những điều kiện hàng đầu để tiến hành hoạt động kinh doanh là phải có vốn. Vốn kinh doanh là cơ sở để thực hiện các kế hoạch chiến lược và phương hướng kinh doanh. Do vậy vai trò của vốn cũng xuất phát từ vai trò của của tài sản cố định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. - Thứ nhất, vốn cố định quyết định năng lực sản xuất , quy mô sản xuất, chất lượng sản xuất cũng như cạnh tranh của DN. Vốn cố định là vốn ứng trước để đầu tư mua sắm TSCĐ. Do vậy lượng vốn cố định lớn là cơ sở để thiết lập hệ thống TSCĐ cần thiết đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. TSCĐ được xem là hệ thống “xương cốt”của nó có đủ lực để đảm bảo cho nó duy trì và phát triển hay không. Vốn cố định sẽ quyết định hệ thống xương cốt đó. Quy mô sản xuất kinh doanh của DN cũng phụ thuộc vào quy mô TSCĐ, Và tất nhiên phụ thuộc vào quy mô vốn cố định. DN muốn mở rộng quy mô sản xuất tức là muốn tăng năng lực sản xuất của DN để sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn hơn thì DN phải đầu tư mua sắm TSCĐ, hay là phải sử dụng một lượng vốn cố định tương xứng với quy mô đó. Chất lượng sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố (trình độ kỹ thuật của máy móc thiết bị, trình độ quản lý, khả năng cung ứng vật tư, nguyên vật liệu của nhà cung cấp…) nhưng phải kể đến yếu tố rất quan trọng là trình độ trang thiết bị TSCĐ. Năng lực sản xuất của TSCĐ rất quan trọng, song nếu TSCĐ quá lạc hậu về mặt kỹ thuật thì khả năng tiêu thụ của sản phẩm hạn chế vì chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản phẩm cao không phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, chưa nói đến sản phẩm bị lỗi thời do công nghệ. Ngược lại nếu đầu tư một số vốn cố định đáng kể để trang bị dây chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có tính chất ưu việt hơn thì chắc chắn sản phẩm đó sẽ được thị trường chấp nhận hơn, khả năng cạnh tranh và tiêu thụ sẽ lớn hơn. Khi năng lực sản xuất của DN lớn, quy mô sản xuất mở rộng, sản phẩm có chất lượng cao, kết hợp với trình độ quản lý tiên tiến chắc sẽ là thế mạnh cạnh tranh để DN dành thắng lợi khẳng định vị thế của mình trên thị trường. - Thứ hai là, hiệu quả sử dụng vốn cố định ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Trong doanh nghiệp sản xuất thì vốn cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn kinh doanh của DN, do đó nó ảnh hưởng đến nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN. Để sản xuất kinh doanh DN phải bỏ ra một khoản đầu tư lớn vào máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ, nhà xưởng, nguyên vật liệu, nhân công…Khoản chi phí về nguyên vật liệu, nhân công có thể bù đắp hoàn toàn ngay nhưng khi kết thúc chu kỳ kinh doanh còn khoản chi phí về TSCĐ thì chỉ bù đắp một phần rất nhỏ. Nếu DN không xác định được mức độ hao mòn của TSCĐ một cách hợp lý thì sẽ dẫn đến việc trích khấu hao không đúng với giá trị hao mòn thực tế của TSCĐ và tình trạng TSCĐ hết thời gian sử dụng mà vẫn chưa thu hồi hết giá trị ban đầu bỏ ra, tức vốn cố định bị thất thoát. Vì vậy khâu quản lý và sử dụng TSCĐ cần phải chặt chẽ nếu không TSCĐ bị mất mát hư hỏng trước thời hạn cũng dẫn đến việc thanh lý hoặc tốn kém sữa chữa, tu bổ. Vốn bỏ ra sẽ không thu hồi được đầy đủ, vốn bị thất thoát dẫn đến DN làm ăn thua lỗ, ăn vào vốn. Do vậy, đồng vốn cố định sử dụng không hiệu quả sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế của DN, việc quyết định đầu tư vào TSCĐ sẽ phải được cân nhắc kỹ càng. Hơn thế, việc quản lý và sử dụng vốn cố định còn liên quan đến tổng chi phí cố định cho một thời kỳ. Nếu DN quản lý tốt, có phương pháp khấu hao hợp lý, bảo dưỡng và sữa chữa kịp thời có kế hoạch sử dụng quỹ khấu hao một cách khoa học sẽ tránh được sự thất thoát về vốn. Đồng thời tận dụng được công suất của TSCĐ để giảm chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm. 1.1.2. Sự cần thiết phải đổi mới máy móc thiết bị công nghệ Trong giai đoạn hiện tại mà cách mạng khoa học kỹ thuật đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng kinh tế đất nước, sự hiểu biết về kỹ thuật và sản xuất là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thị trường và xây dựng kinh tế nước nhà một cách chủ động, tích cực và có hiệu quả. Kỹ thuật ...sự tiến bộ kỹ thuật luôn gắn liền với bất kỳ lĩnh vực kinh tế quốc dân. Với những máy móc, cơ cấu, phuơng tiện là những công cụ hữu ích và cần thiết làm tăng sức lực của con người lên gấp hàng trăm nghìn lần. Trong khi máy móc thiết bị có tầm quan trọng chiến lược trong quá trình phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, thì máy móc thiết bị của Việt Nam không mấy sáng sủa. Hầu hết máy móc thiết bị đều lạc hậu, cũ kỹ, sản xuất sản phẩm với độ chính xác không cao, chưa đáp ứng cho nhu cầu thị hiếu tiêu dùng trong nước, chưa nói đến ở nước ngoài. Phần lớn các máy móc thiết bị được sản xuất lâu đời và nhập khẩu về nước từ những năm 70. Trong đó đa số các tài sản đã được khấu hao nhiều (trên 60%).Còn lại những tài sản cũ thì được tân trang, sữa chữa để tiếp tục sử dụng, sự liên kết các máy móc đơn lẻ làm cho hệ thống các máy móc công nghệ của nước ta thiếu sự đồng bộ, làm giảm tuổi thọ nhiều lần. Trước đây, Việt Nam cũng nhập khẩu máy móc từ các nước bạn như Liên Xô, các nước Asean, song với nền kinh tế kém phát triển thì thu nhập quốc dân thấp nên không đủ trang trải những máy móc thiết bị tốt. Hầu hết không phát huy hết năng suất hoạt động của máy móc. Với số vốn đầu tư vào công nghệ máy móc thiết bị ít, đa số là tận dụng những công nghệ lạc hậu cũ kỹ giá rẻ của các nước trên thế giới,trong nước chưa thật sự phát triển ngành công nghiệp chế tạo làm cho tình hình máy móc thiết bị ở Việt Nam càng thiếu đồng bộ, khó khăn về việc thay thế bộ phận khi có hỏng hóc. Máy móc công suất chỉ đạt 50-60% tương ứng với việc chỉ sử dụng 1/2 số máy móc thiết bị hiện có. Như vậy máy móc cũ kỹ lạc hậu là những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, giá thành cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa, chưa nói đến sự cạnh tranh với nước ngoài. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đặt mục tiêu lợi nhuận hàng đầu. Để tối đa hoá lợi nhuận thì doanh nghiệp phải nâng cao vị trí và giá trị doanh nghiệp trên thị trường thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Và chiên thắng thuộc về những người biết nắm vững khoa học và biết vận dụng nó theo mục đích của mình. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, mà cụ thể là đưa máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ cao vào sản xuất. điều đó đồng nghĩa với việc tăng năng lực sản xuất cả về số lượng và chất lượng. Với hệ thống máy móc hiện đại và đồng bộ DN sẽ tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, ít tiêu hao nhiên liệu hơn và giảm luợng phế phẩm đi, năng suất lao động sẽ tăng lên, khối lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giảm lao động thủ công và chi phí tiền lương cho công nhân. Tất cả những yếu tố thuận lợi trên góp phần làm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho doanh thu tăng kéo theo sự gia tăng về lợi nhuận, sản phẩm có khả năng cạnh tranh với các nuớc trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh việc tiết kiệm được chi phí thì với hệ thống máy móc thiết bị hiện đại thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện để thực hiện thay đổi mẫu mã cũng như chủng loại hàng hoá trên thị trường làm tăng cung ứng sản phẩm chất lượng cao trên thị trường đáp ứng được nhu cầu lớn trên thị trường nội địa và quốc tế. Qua đó cũng thấy được tầm quan trọng của việc đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, phải kịp thời và phải phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp. Chỉ có đổi mới máy móc thiết bị công nghệ thì mới có thể tồn tại và cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới. 1.1.3. Các yêu cầu quán triệt khi thực hiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ. Về cơ bản, khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã quá cũ không sử dụng được hoặc là đã hư hỏng không đáp ứng được nhu cầu sản xuất thì doanh nghiệp cần phải tiến hành thực hiện đổi mới máy móc thiết bị đó. Song việc đầu tư đổi mới thiết bị có công nghệ sản xuất cao đòi hỏi doanh nghiệp phải có một luợng vốn lớn, song với quy mô vốn của doanh nghiệp thì có hạn do đó việc đổi mới phải phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn vậy DN cần quán triệt nhưng yêu cầu sau đây khi tiến hành đổi mới máy móc thiết bị. Thứ nhất việc đổi mới máy móc thiết bị phải gắn liền sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tất nhiên khi tiến hành đầu tư đổi mới thì doanh nghiệp đang phải gặp nhiều khó khăn trong vấn đề máy móc thiết bị, nếu như đổi mới mà vẫn với công suất không cao thì doanh nghiệp có cải thiện được tình hình không? có theo kịp các doanh nghiệp và chiến thắng trong cạnh tranh được không? Trong khi đó mục đích của việc đổi mới công nghệ thiết bị là thay thế khắc phục được những tồn tại của công nghệ cũ lạc hậu bằng những công nghệ mới tiên tiến, ưu việt hơn. Chỉ với công nghệ cao và hiện đại thì doanh nghệp mới có khả năng tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy mà việc đổi mới máy móc thiết bị phải gắn liền với sự đổi tiến bộ của khoa học công nghệ. Khi thực hiện đổi mới máy móc thì doanh nghiệp phải tiến hành tìm hiểu, điều tra nghiên cứu về kỹ thuật, tính năng,...những máy móc thiết bị nào phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của doanh nghiệp đặt ra, tránh việc đầu tư vào những công nghệ lạc hậu, làm tốn kém chi phí, ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Thứ hai, đổi mới phải đồng bộ và có trọng điểm Khi doanh nghiệp tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị thì doanh nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ máy móc. Đây là yếu tố quan trọng vì sản phẩm tạo ra muốn được thị trường chấp nhận thì cần phải đáp ứng sự đồng bộ về chất lượng, kiểu dáng , mẫu mã...Nếu chỉ đổi mới một cách khập khiễng thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng chung của doanh nghiệp, sản phẩm không có ưu điểm nổi trội không cạnh tranh được thì việc đổi mới máy móc thiết bị không có ý nghĩa.Muốn vậy doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn để tiến hành đầu tư, song số vốn huy động được của doanh nghiệp thì có hạn, do vậy mà việc lựa chọn đổi mới có trọng điểm là rất giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp chỉ nên đổi mới những máy móc thiết bị quan trọng chủ chốt quyết định đến năng lực hoạt động của máy móc khác, tránh việc đầu tư đổi mới dàn trải và không hiệu quả, làm ứ đọng vốn trong khi doanh nghiệp đang cần vốn. Thứ ba, việc đổi mới phải đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Sản phẩm làm ra phải được thị trường chấp nhận, nếu đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, dù sản phẩm có chất lượng tốt nhưng không phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng thì việc đổi mới cũng không có ý nghĩa gì. Bởi sự đòi hỏi của người tiêu dùng là rất cao và thay đổi rất nhanh. Và doanh nghiệp phải nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng đó để sản phẩm được thị trường đón nhận, và việc đầu tư máy móc thiết bị là phù hợp trong tương lai. 1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư đổi mới Khi doanh nghiệp đã có phương án đầu tư đổi mới thì doanh nghiệp phải xem xét những nhân tố ảnh hưởng đầu tư đổi mới sau đây: Một là, tính hiệu quả của dự án đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, khi đầu tư sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn gặp những rủi ro nhất định như rủi ro về lãi suất, rủi ro về thị trường. Do đó khi đưa ra một quyết định đầu tư thì doanh nghiệp luôn phải xem xét tính hiệu qủa của dự án đầu tư. Nếu dự án đầu tư có đảm bảo chắc chắn về một tương lai vững chắc, mang lại hiệu quả cao thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hơn là một dự án đầu tư không mang lại kết quả sinh lời, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hai là, sự tiến bộ của khoa học công nghệ Nó có thể là cơ hội cũng có thể là nguy cơ đe doạ đối với sự đầu tư đổi mới của một doanh nghiệp. Trong đầu tư doanh nghiệp phải tính đến thành tựu của khoa học công nghệ để xác định đầu tư về trang bị, đầu tư về quy trình công nghệ sản xuất, hiện đại hoá về trang thiết bị, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải dám chấp nhận mạo hiểm trong đầu tư đổi mới để sản xuất ra sản phẩm mới. Ngược lại nếu trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp không theo kịp với sự phát triển của xã hội thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không được thị trường chấp nhận, dẫn đến có thể bị thua lỗ. Ba là, thị trường và sự cạnh tranh Doanh nghiệp cần thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về thị trường, khả năng cạnh tranh của mình để kịp thời đổi mới trang thiết bị, khoa học công nghệ, sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với thị trường,được thị trường chấp nhận về mẫu mã, kiểu dáng, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Bốn là khả năng tài chính của doanh nghiệp Để đi đến quyết định đầu tư đổi mới thì doanh nghiệp không thể không tính đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp chỉ có nguồn tài chính ở giới hạn nhất định để sản xuất kinh doanh, nó bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn huy động từ bên ngoài. Doanh nghiệp không thể đầu tư khi các dự án vượt xa khả năng tài chính của mình. Do đó đây là một điều kiện nội tại chi phối đến quyết định của doanh nghiệp trong việc đầu tư đổi mới trang thiết bị của mình. Như vậy để đưa ra được một quyết định đầu tư đúng đắn, hợp lý thì doanh nghiệp phải luôn xem xét một cách kỹ lưỡng các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, từ đó giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí đầu tư, tăng hiệu qủa sử dụng vốn. 1.2. Huy động vốn cho việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp hiện nay Huy động vốn kịp thời và đầy đủ là một nội dung quan trọng của công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Gồm các phương pháp, hình thức, công cụ nhằm huy động các nguồn vốn, phân phối và sử dụng các nguồn vốn đó của doanh nghiệp một cách hiệu quả, nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Khai thác và tạo lập nguồn vốn cố định đáp ứng nhu cầu đầu tư TSCĐ là nhu cầu đầu tiên trong quản trị vốn cố định của DN để định hướng cho việc khai thác và tạo lập nguồn vốn cố định đáp ứng yêu cầu đầu tư các DN phải xác định được nhu cầu vốn đầu tư vài TSCĐ trong những năm trước mắt và lâu dài. Căn cứ vào dự án đầu tư TSCĐ đã được thẩm định để lựa chọn và khai thác nguồn vốn đầu tư phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, DN có thể khai thác nguồn vốn đầu tư vào TSCĐ từ nhiều nguồn khác nhau như lợi nhuận để lại tái đầu tư, từ ngồn vốn liên doanh liên kết, từ ngân sách nhà nước tài trợ, từ vốn vay dài hạn của ngân hàng, từ thị trường vốn…Mỗi nguồn vốn đều có ưu điểm, nhược điểm riêng và điều kiện thực hiện khác nhau, chi phí sử dụng khác nhau. Vì thế trong khai thác tạo lập nguồn vốn cố định thì DN phải đa dạng hóa các nguồn vốn tài trợ, cân nhắc kỹ các ưu nhược điểm của rừng nguồn vốn để lựa chọn cơ cấu các nguồn tài trợ vốn cố định hợp lý và có lợi nhất cho DN. Những định hướng cơ bản cho việc khai thác và tạo lập các nguồn vốn cố định cho DN là phải đảm bảo khả năng tự chủ của DN trong sản xuất kinh doanh, hạn chế và phân tán rủi ro, phát huy tối đa những ưu điểm của các nguồn vốn được huy động. Điều này không chỉ đòi hỏi ở sự năng động nhạy bén của từng DN mà còn ở việc đổi mới các chính sách, cơ chế tài chính của nhà nước ở tầm vỹ mô để tạo điều kiện cho DN có thể khai thác, huy động được các nguồn vốn cần thiết. Có thể nói khai thác và tạo lập nguồn vốn cố định của DN là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng, nhằm định hướng cho việc khai thác và tạo lập nguồn vốn cố định đáp ứng nhu cầu đầu tư. Có thể huy động vốn từ các nguồn sau đây: 1.2.1. Huy động từ nguồn vốn bên trong 1.2.1.1. Huy động từ quỹ khấu hao TSCĐ Trong quá trình phục vụ cho sản xuất kinh doanh,TSCĐ sẽ bị hao mòn dần. Để bù đắp cho phần giá trị hao mòn này DN phải chuyển dịch dần phần giá trị đã hao mòn của TSCĐ vào giá trị của sản phẩm, dịch vụ mà do TSCĐ có tham gia phục vụ sản xuất, tạo ra dịch vụ đã cung ứng trên thị trường. Việc chuyển dịch phần giá trị hao mò._.n này sẽ được thực hiện dưới hình thức trích khấu hao TSCĐ. Số tiền trích khấu hao tích luỹ lại tạo thành quỹ khấu hao. DN sẽ dùng quỹ khấu hao này để tái tạo hoặc sản xuất giản đơn TSCĐ mới thay thế TSCĐ cũ khi TSCĐ cũ hết thời gian sử dụng. Như vậy khấu hao TSCĐ là việc phân bổ phần giá trị TSCĐ đã hao mòn vào giá trị sản phẩm, dịch vụ một cách có hệ thống trong suốt thời gian sử dụng hữu ích ước tính hợp lý của TSCĐ. Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình thường được xem xét theo định kỳ, thường là cuối năm tài chính. Nếu có sự thay đổi về thời gian sử dụng thì phải thay đổi phương pháp khấu hao và mức khấu hao tính cho năm hiện hành và các năm tiếp theo. Quỹ khấu hao là một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ của DN. Nhưng trên thực tế khi chưa có nhu cầu đầu tư mua sắm xây dựng TSCĐ mới thì doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ này để một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình. Về nguyên tắc việc trích khấu hao phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ (bao gồm hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình) và phải đảm bảo thu hồi đủ số vốn đầu tư đã đầu tư xây dựng mua sắm TSCĐ lúc ban đầu. Có các phương pháp khấu hao sau: Phương pháp khấu hao theo đường thẳng Phương pháp khấu hao nhanh Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và có điều chỉnh. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao hợp lý là biện pháp quan trọng để bảo toàn vốn cố định, đảm bảo cho DN thu hồi đủ số vốn cố định khi TS hết thời gian sử dụng, tập trung được tiền khấu hao kịp thời đổi mới TSCĐ, thiết bị và công nghệ, ngoài ra còn là yếu tố quan trọng để tính giá thành sản phẩm và đánh giá đúng kết quả kinh doanh của DN 1.2.1.2. Vốn được huy động từ lợi nhuận để lại Nguồn vốn huy động từ nội bộ doanh nghiệp là nguồn vốn được trích từ kết quả kinh doanh của DN. Khi quá trình kinh doanh có hiệu quả, hằng năm có trích một khoản lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn thông qua quỹ đầu tư phát triển. Nhằm tích tụ vốn và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của cách huy động từ nội bộ doanh nghiệp là quy mô vốn huy động được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của DN trong các năm trước, nếu DN làm ăn có lãi và ổn định trong các năm thì mới có thể tăng vốn huy động từ nguồn này.Trên thực tế, có khoảng từ 20-40% lợi nhuận sau thuế được bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển phục vụ cho mở rộng sản xuất kinh doanh của năm tới, tất nhiên tỷ lệ này còn phụ thuộc vào cách quản trị tài chính của từng DN, Doanh nghiệp phải xem xét giữa việc tich luỹ tiêu dùng và việc tiếp tục đầu tư mở rộng kinh doanh. Đối với những DN có quy mô lớn, lợi nhuận ở mức ổn định cần phải thu hút một lượng vốn của nhà đầu tư thì DN nên thực hiện trích lập quỹ phát triển sản xuất với tỷ lệ thấp hơn. Đối với DN có khả năng phát triển mở rộng sản xuất thì nên dành phần lợi nhuận lớn hơn cho đầu tư phát triển. Trong nền kinh tế thị trường thì nguồn này có tính chất ổn định. Song để tập trung được nguồn này thì DN phải có thời gian tích tụ lâu dài, đến một mức nào đó thì vốn mới phát huy được tác dụng vì từ nguồn này thường không lớn. Nhưng từ nguồn này DN có thể chủ động từ việc trích lập quỹ đầu tư phát triển phù hợp với nhu cầu vốn trang trải cho đầu tư đổi mới công nghệ máy móc thiết bị. 1.2.1.3. Nguồn vốn từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ Khi tài sản đã hao mòn không sử dụng được nữa,tài sản cố định hư hỏng thì doanh nghiệp không những không phát huy được giá trị sử dụng của tài sản đó mà còn phải mất một khoản chi phí bảo dưỡng, bảo quản, trong coi tài sản đó. Như vậy vừa không mang lợi ích kinh tế lại vừa tốn kém chi phí. Doanh nghiệp nên thực hiện thanh lý nhượng bán tài sản này để thu hồi một lượng vốn tồn đọng, trong một thời kỳ hoạt động thì tài sản chờ thanh lý cũng chiếm tỷ trọng khá lớn do đó mà lượng vốn thu hồi được này tương đối đáng kể, vừa lại không tốn kém những chi phí bảo quản, góp phần bổ sung thêm vốn cho đổi mới thiết bị công nghệ của doanh nghiệp. Như vậy huy động từ nguồn vốn bên trong để tài trợ cho nhu cầu đổi mới công nghệ thiết bị luôn được ưu tiên, bởi đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền quyết định trong việc sử dụng và không chịu sức ép về chi phí sử dụng các nguồn vốn từ bên ngoài. 1.2.2. Huy động vốn từ nguồn bên ngoài 1.2.2.1. Vốn được huy động thông qua vay nợ Vay từ hệ thống các Ngân Hàng Thương Mại và các tổ chức tài chính tín dụng Vốn được huy động từ hệ thống các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng là vốn mà công ty được ngân hàng hay tổ chức tín dụng chuyển nhượng một lượng giá trị (vốn) với những điều kiện nhất định và trong một thời gian nhất định. Theo đó, những điều kiện vay là là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý, đảm bảo cho Ngân Hàng hay tổ chức tín dụng có thể thu hồi được vốn (cả gốc và lãi) sau một thời gian thỏa thuận trong hợp đồng vay. Còn DN được tiếp nhận vốn và phải tuân thủ các nguyên tắc đi vay. Hiện nay trong nước ta thị trường tài chính rất phát triển làm cho hàng loạt tổ chức trung gian tài chính tín dụng như hệ thống ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú với nhiều loại hình tín dụng. Đây là một điều kiện thuận lợi cho DN có thể lựa chọn hình thức tài chính tín dụng để huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong cơ cấu vốn kinh doanh của DN thì vốn được huy động theo cách này chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng trên dưới 3/4 trong tổng số cơ cấu nguồn vốn. Đối với DNNN thì có thể nói đây là nguồn huy động chính và chủ đạo nhất. Bởi vì đặc trưng của nguồn này là DN có thể huy động thường xuyên, và huy động với quy mô vốn rất lớn. Với cách huy động này tạo cho DN huy động vốn có một cơ cấu tài chính linh hoạt. Hình thức huy động vốn cũng rất đa dạng. Thủ tục bảo đảm đi vay (tín chấp, thế chấp, bảo lãnh…) cũng phong phú tạo điều kiên cho DN có thể lựa chọn hình thức vay phù hợp. Bên cạnh đó với cách huy động này cũng có những hạn chế, đó là lợi tức của khoản tiền vay phải trả đúng hạn. Nếu như không sử dụng tiền vay có hiệu quả thì dẫn tới gánh nặng nợ vay, DN sẽ gặp phải nhiều rủi ro và chịu sự kiểm soát của chủ nợ trong khi sử dụng vốn vay. Hơn nữa DN còn bị hạn chế về mặt chi phí sử dụng vốn vay khá cao. Vì vậy DN không nên quá lạm dụng hình thức huy động vốn này để DN không bị ảnh hưởng xấu về mặt tài chính. Vay từ cán bộ công nhân viên Huy động từ cán bộ công nhân viên trong công ty ngưòi lao động của DN với nhiều hình thức như hoãn trả lương, hoặc vay vốn nhàn rỗi của nhân viên. Hoặc khi thu nhập của người lao động cao lên nếu có cơ chế hợp lý sẽ kích thích người lao động góp vốn đầu tư cho DN. Mặt khác, từ sự góp vốn của mình tinh thần làm chủ của người lao động sẽ nâng cao, tạo sự gắn bó của họ với DN để nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế cho DN. Từ đó mở ra khả năng tự tăng vốn kinh doanh, phát huy tính năng động, sáng tạo của DN trong việc khai thác và sử dụng vốn tiềm tàng. Đối với nguồn huy động từ cán bộ công nhân viên của công ty thì rất hạn chế về quy mô, không phải cá nhân nào cũng tích tụ được vốn, và không phải cá nhân nào cũng sẵn sàng cho công ty vay. Do đó nguồn huy động từ cán bộ công nhân viên chỉ mang tính chất bổ sung thêm cho nguồn vốn huy động của DN. 1.2.2.2. Huy động vốn từ liên doanh liên kết Huy động vốn bằng liên doanh liên kết là việc các nhà đầu tư và một số doanh nghiệp khác trong và ngoài nước góp vốn cùng sản xuất kinh doanh một lĩnh vực, một mặt hàng để cùng hưởng lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh. Thực chất đây là một kiểu hùn vốn, hình thức được sử dụng khác phổ biến ở các DN trong nước ta. Các bên có thể tham gia vốn góp bằng tiền, vật tư, tài sản... ở loại hình doanh nghiệp này thì việc góp vốn ban đầu hay bổ sung vốn, phân chia lợi nhuận và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước đều được xác định trong điều lệ hoặc hợp đồng, tuân thủ theo luật đầu tư trong nước và nước ngoài đảm bảo lợi ích của bên liên doanh và hợp doanh hay lợi ích của quốc gia. Mức độ chi phối của các bên liên doanh đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tùy thuộc vào mức độ vốn góp của mỗi bên và các điều khoản đã cam kết trong điều lệ của DN và hợp đồng kinh doanh. Đặc điểm lưu ý khi DN sử dụng hình thức huy động vốn này phải đáp ứng yêu cầu vừa huy động vốn vừa đảm bảo quyền kiểm soát và chi phối của DN đối với bên liên doanh. Như vậy, việc huy động đáp ứng nhu cầu đầu tư với chi phí tối thiểu về vốn mà mức độ an toàn về mặt tài chính cao nhất. Đảm bảo thực hiện tốt các phương án đầu tư đã duyệt là vấn đề quan trọng của từng DN. 1.2.2.3. Huy động vốn từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là hình thức mà công ty phát hành các công cụ chứng khoán (như trái phiếu, cổ phiếu…) để huy động vốn từ bên trong và bên ngoài của các cá nhân và tổ chức. Hình thức này cho phép DN huy động vốn từ tiền nhãn rỗi trong dân cư, từ những nguồn rãi rác và phân tán nhưng tập trung số đông lại thành nguồn vốn lớn. Đây là hình thức phổ biến và chủ yếu trong nền kinh tế thi trường phát triển với xu thế quốc tế hóa ngày càng cao. Nhưng việc sử dụng công cụ tài chính để tập trung vốn qua thị trường này rất phức tạp. Mặc dù công cụ tài chính ngày càng phong phú và đa dạng nhưng mỗi công cụ huy động đều có những lợi thế và bất lợi riêng nhất định. Do đó DN cần phải am hiểu về công cụ tài chính để lựa chọn công cụ tài chính huy động một cách phù hợp và có lợi nhất là một vấn đề quan trọng. Với cách thức phát hành cổ phiếu thì không phải loại hình DNNN nào cũng được phát hành cổ phiếu mà chỉ có công ty nhà nước và công ty cổ phần nhà nước mới được phép phát hành cổ phiếu. Hình thức phát hành này cũng rất đa dạng, có thể phát hành cổ phiếu lần đầu, phát hành cho cổ đông chiến lược… Ưu điểm của việc sử dụng cổ phần để đáp ứng nhu cầu tăng vốn kinh doanh có những lợi thế là giúp công ty tăng vốn dài hạn tạo ra vốn chủ sở hữu, nhưng công ty không bị bắt buộc tính pháp lý phải hoàn trả khoản tiền chi phí cho việc sử dụng vốn một cách cố định như khi sử dụng vốn vay. Nếu như năm nay chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc lỗ thì có thể công bố không phân chia lợi tức cổ phần cho đến khi công ty thu được lợi nhuận có khả năng trả được lợi nhuận và cổ tức cổ phần,giảm nguy cơ công ty phải tổ chức lại hay phá sản. Mặc dù là huy động từ bên ngoài nhưng công ty không có nghĩa vụ phải hoàn trả cổ tức theo kỳ hạn cố định (đối với cổ phiếu thường). Hay mặc dù phải trả lợi tức cố định cho cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu nhưng công ty phát hành không nhất thiết bị bắt buộc phải trả đúng hạn hằng năm mà có thể hoãn sang kỳ sau, không phải thế chấp cầm cố tài sản giúp công ty chủ động sử dụng vốn mềm dẻo và linh hoạt. Thời gian sử dụng vốn dài với chi phí sử dụng vốn thấp, đối với trái phiếu con được trừ trước khi tính thuế làm giảm bớt chi phí sử dụng. Hơn nữa DN có thể chủ động trong việc huy động vốn khi có nhu cầu, và nhu cầu huy động vốn của DN ít bị hạn chế nên DN có thể vay số lượng phù hợp tương ứng với số vốn cần huy động. Cùng với những lợi thế trên, việc công ty phát hành cổ phiếu cũng đưa lại nhiều bất lợi, đó là việc phát hành cổ phiếu ra công chúng làm tăng thêm cổ đông mới, từ đó phải phân chia quyền biểu quyết và quyền kiểm soát công ty cho số cổ đông này, và dẫn đến cổ đông cũ phải chia sẽ quyền phân phối thu nhập cho các cổ đông mới gây bất lợi cho cổ đông hiện hành. Hơn nữa chi phí phát hành cổ phiếu thường như hoa hồng cho người bảo lãnh, chi phí quảng cáo…thường cao. Sử dụng trái phiếu làm tăng hệ số nợ và phải hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng đến tình tình tài chính của DN. Một nền kinh tế thị trường như hiện nay, với những mối quan hệ về tài chính mở rộng và phát triển, đặc biệt là sự phát triển của thị trường chứng khoán thì DN có thể kêu gọi vốn đầu tư thông qua thị trường này một cách dễ dàng và thuận lợi. 1.2.2.4. Huy động vốn từ cách thức thuê tài chính Hình thức huy động vốn từ cho thuê tài chính là hình thức cho phép DN tham gia một hoạt động tín dụng trung và dài hạn với tư cách là người đi thuê các máy móc thiết bị và phương tiện vận chuyển và các bất động sản khác với bên cho thuê trên cơ sở hợp đồng cho thuê. Bên cho thuê cam kết sẽ mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, và các bất động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê được hai bên thỏa thuận. Bản chất nó là một hoạt động tín dụng,trong đó người cho thuê cũng như người đi vay là thu tiền vốn đầu tư và người đi vay cũng như là người đi thuê là sử dụng vốn. Nhưng hình thức cấp tín dụng là bằng tài sản, người đi thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản và thanh toán theo định kỳ đã thỏa thuận, thời hạn thuê thường chiếm phần lớn thời gian hoạt động của tài sản. Thời gian này người đi thuê không được hủy ngang hợp đồng và khi hết thời hạn thuê người đi thuê có thể được nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên. Với hình thức này bên cho thuê dễ dàng kiểm tra việc sử dụng tài sản và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản thuê, phát hiện sớm những rủi ro tiềm ẩn để có những biện pháp xử lý kịp thời. Có các hình thức cho thuê tài chính Hình thức cho thuê tài chính có sự tham gia của 3 bên (bên cho thuê,bên đi thuê và nhà cung cấp) Hình thức cho thuê tài chính có sự tham gia của 2 bên (bên đi thuê và bên cho thuê). Hình thức cho thuê tài chính hoàn trả toàn bộ Hình thức cho thuê tài chính hoàn trả toàn phần … Đối với DN sử dụng hình thức thuê tài chính có những điểm lợi, đó là việc thuê tài chính là công cụ tài chính giúp cho DN có thêm vốn trung hạn và dài hạn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh vì không phải tập trung một lượng vốn quá lớn để mua tài sản như vậy mà với một số vốn hạn chế thì doanh nghiệp vẫn có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh. Song điểm bất lợi chủ yếu của hình thức này là khi sử dụng thuê tài chính thì doanh nghiệp phải chấp nhận chi phí sử dụng vốn với mức độ tương đối cao so với tín dụng thông thường. Chương 2: Thực trạng về thiết bị công nghệ và công tác huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội 2.1. Tổng quan về công ty sứ Viglacera Thanh Trì 2.1.1 Sự hình thành và phát triển: Công ty sứ Viglacera Thanh Trì (Thanh Trì sanitary wares company) có trụ sở tai phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai Hà Nội là một công ty nhà nước chuyên sản xuất kinh doanh các loại vật liệu xây dựng, sành sứ vệ sinh và vật liệu cho ngành gốm sứ. Ban đầu được hình thành từ một cơ sở sản xuất nhỏ chuyên sản xuất bát của tư nhân, và qua những giai đoạn phát triển chính như sau: - Giai đoạn 1961-1987: Xưởng gạch Thanh Trì được thành lập, trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp sành sứ thủy tinh,sau đổi tên thành xí nghiệp gạch Thanh Trì. Sản phẩm chủ yếu là các loại gạch đá men, gạch chịu lửa... Năm 1980 đổi tên thành nhà máy sành sứ xây dựngThanh Trì và bắt đầu sản xuất các sản phẩm sành sứ có tráng men, tổng khối lượng khoảng 80 tấn.Do công nghệ chắp vá nên sản phẩm chất lượng kém. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp nên sản phẩm vẫn tiêu thụ hết. - Giai đoạn 1988-1991: Thời gian này nhà nước đổi mới cơ chế quản lý, khi đó nhà máy vẫn còn làm ăn thua lỗ nên sản phẩm làm ra không cạnh tranh nổi với các sản phẩm cùng loại trong và ngoài nước.Chi phí sản phẩm cao và chất lượng thấp dẫn đến sản phẩm không tiêu thụ được, nhà nước đứng trên bờ vực phá sản. - Giai đoạn 1992 đến nay: Tháng 11/1992, lãnh đạo bộ xây dựng và liên hiệp các xí nghiệp đã nhận thấy vấn đề và kịp thời giải quyết đưa nhà nước thoat khỏi tình trạng bế tắc. Bên cạnh việc bố trí tổ chức lại nhân sự. Tổng công ty đã có quyết định dặt nhà máy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng giám đốc. Trước nhu cầu ngày càng tăng của sứ vệ sinh và xuất phát từ quan điểm "công nghệ quyết định sản phẩm”, tổng giám đốc đã chỉ đạo nhà máy ngừng sản xuất để tập trung nghiên cứu công nhệ mới , đổi mới thiết bị và điều kiện làm việc, sắp xếp lại mặt hàng và dây chuyền sản xuất. Sau 46 ngày hoạt động trở lại, nhà máy đã sản xuất được 20.400 sản phẩm với chất lượng cao hơn hẳn các năm trước, gấp 3-4 lần sản lươnngj năm 1990,1991. Sau 3-4 năm sứ Thanh Trì đã đáp ứng được một phần nhu cầu của thị trường, sản xuất trên hàng trăm nghìn sản phẩm, công ty đã đưa kinh doanh từ vài trăm triệu đồng lên hàng chục tỷ đồng một năm. - Ngày 14/03/1994 theo quyết định số 176A/BXD_TCLĐ nhà máy trở thành DNNN. - Tháng 8/1994, Nhà máy đổi tên thành công ty sứ Viglacera Thanh Trì trực thuộc tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng. - Năm 2005 theo quyết định 225/TCT_HĐQT của tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng sát nhập nhà máy sứ Bình Dương vào công ty sứ Viglacera Thanh Trì nâng tổng công suất lên 800.000 sản phẩm mỗi năm. Hiện nay công ty đang mở rộng sản xuất, bổ sung lắp đặt thêm dây chuyền công nghệ do việc nghiên cứu sản phẩm mới đang được chấp nhận của thị trường, dự kiến dây chuyền mới sẽ đi vào hoạt động vào tháng 1/2007. 2.1.2. Quy mô sản xuất kinh doanh của công ty: Tình hình tài chính của doanh nghiệp năm 2006 (tính đến thời điểm cuối năm 31/12/2006) TT Chỉ tiêu Số tiền (triệu đồng) Tỷ trọng 1 Vốn cố định 43.534 15,38% 2 Vốn lưu động 239.369 84,62% 3 Tổng vốn kinh doanh 282.903 100% 4 Vốn vay 254.613 90% 5 Vốn chủ sở hữu 28.290 10% Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty Về loại sản phẩm chủ yếu bao gồm: thân bệt, két nước, chậu rửa, chân chậu và các loại sản phẩm khác.Trong đó thân bệt gồm 21 loại sản phẩm có giá khoảng từ 800.000 đồng - 5.000.000 đồng. Chậu rửa gồm 9 loại sản phẩm chính có giá từ 130.000 đồng - 1.200.000 đồng. Các sản phẩm đều có nhiều màu sắc đa dạng đáp ứng nhu cầu thị trường như trắng, cốm, ngà, mận xanh nhạt, xanh đậm, đen. Tình hình tiêu thụ sản phẩm: Thị trường trong nước: Sản phẩm của công ty có mặt trên cả nước và được chia thành ba khu : miền Bắc, Trung, Nam. Theo thống kê về tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ phân bổ theo 3 miền thấy rằng sản phẩm tiêu thụ của công ty tập trung lớn ở thị trường miền Bắc, tiếp đến là thị trường miền Nam, thị trường miền Trung tiêu thụ kém nhất. Tại thị trường nội địa, sản phẩm của công ty đang phải cạnh tranh gay gắt với nhiều DN khác, như sứ Thiên Thanh, sứ Thái Bình , sứ Minh Tiến và các sản phẩm nhập ngoại theo các con đường chính ngạch cũng như phi ngạch từ nước ngoài ra khỏi cửa khẩu biên giới mang nhãn hiệu như: Cotto, Seltar của Thái lan; Toto, American Standard, Villeroy, của Mỹ, Italia, Trung Quốc, Nhật Bản. Thị trường ngoài nước: Việc tìm kiếm đối tác nước ngoài không còn là khó khăn đối với các DN. Sản phẩm của công ty sứ Viglacera Thanh Trì đã được thị trường nước ngoài chấp nhận. Từ cuối năm 1995, sản phẩm của công ty đã được nhập khẩu sang Myanma, Israen, Nga, Hà Lan. Tháng 9/1996 sản phẩm của công ty được xuất sang Italia. 2.1.3 Quy trình công nghệ của công ty Đầu tiên là khâu nguyên liệu sẽ qua kiểm tra cung cấp cho các công đoạn chế tạo hồ, men và khuôn. Trong công đoạn này nếu sản phẩm không đạt yêu cầu thì sẽ được tái tạo lại hoặc bỏ. Tơí công đoạn tiếp theo là tạo hình, sấy và hoàn thiện, phun men (khâu chế tạo men cung cấp), các công đoạn này cũng được kiểm tra, nếu sản phẩm không đạt sẽ được đưa về công đoạn chế tạo hồ, các sản phẩm sau khi đạt ở công đoạn phun mễn được đem nung. Những sản phẩm đạt loại A thì sẽ được lưu kho, loại B tiến hành sữa chữa rồi nung lại, còn loại C thì loại bỏ, cuối cùng sản phẩm đạt tiêu chuẩn thì bao gói và tiêu thụ. Công ty đang sử dụng 2 dây chuyền công nghệ là DCI và DCII. Sản xuất qua nhiều công đoạn liên tục và trên thiết bị hiện đại. Xí nghiệp sản xuất khuôn mẫu chế tạo khuôn mẫu để phục vụ cho phân xưởng tạo hình. Nhà máy sứ là nơi sản xuất sản phẩm, nhà máy gồm phân xưởng gia công tạo hình, phân xưởng kỹ thuật men, phân xưởng cơ điện và phân xưởng nung. Cùng với máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ thì nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Căn cứ vào sản phẩm chính của công ty mà nguyên liệu chính bao gồm: Penspat, đất sét, cao lanh, thạch anh, BaCO3, thủy tinh lỏng, phụ gia men và nguyên liệu khác. Các nguyên vật liệu gầy như: quartz, penspat, cao lanh được lấy từ mỏ Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai đã qua sơ chế đặc biệt thành phần hóa học. Về nguyên liệu sản xuất men, ngoài nguyên liệu dẻo, gầy tuyển chon từ nguyên liệu làm xương sẽ sử dụng thêm một số hóa chất, trong đó có các hóa chất phải nhập ngoại nư silicatzion, oxit kẽm của Nitơ, photpho để nâng cao chất lượng của men. Kiểm tra thụng số nguyờn vật liệu ( PKT – KCS ) Kiểm tra cỏc thụng số hồ Men ( PKT –KCS, PX ) Kiểm tra kớch thước, hỡnh dạng sản phẩm (PKT-KCS,PX) Kiểm tra hoàn thiện, phun Men sản phẩm (PKT- KCS, PX) Kiểm tra cỏc thụng số theo nhiệt độ nung (PX, PKT-KCS) Phõn loại sản phẩm theo yờu cầu( PX) Nguyờn vật liệu nhập kho Gia cụng hồ Tạo hỡnh (đổ rút ) Xớ nghiệp sản xuất khuụn Kiểm tra mộc, phun men Phun men Nung sản phẩm Phõn loại sản phẩm Sản phẩm A (xuất ra thị trường) Sản phẩm B (sản phẩm nung lò) Sản phẩm C (sản phẩm đập bỏ) Kinh doanh Phõn xưởng cơ Sơ đồ quy trình công nghệ 2.1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán ở công ty sứ Viglacera Thanh Trì: 2.1.4.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của công ty Đặc điểm Công ty sứ Viglacera Thanh Trì là một đợn vị trực thuộc tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng Viglacera, nhưng công ty được phép hạch toán độc lập, vì vậy công ty được quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý sao cho hợp với điều kiện riêng của công ty. Hiện nay công ty đang áp dụng cơ cấu quản lý trực tuyến chức năng. Cơ cấu này vừa đảm bảo một thủ trưởng vừa phát huy được quyền dân chủ sáng tạo độc lập tương đối của các phòng ban. Giám đốc là người chịu tách nhiệm cao nhất trong việc quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giám đóc do bộ trưởng bộ xây dựng chỉ định, là người điều hành và quản lý công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm trước bộ trưởng bộ xây dựng, luật pháp và cán bộ công nhân viên, để đảm bảo hoạt động của công ty có hiệu quả. Phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc trong công việc chung của công ty. Là người phụ trách kế hoạch sản xuất, công tác kỹ thuật. Công ty sứ Viglacera Thanh Trì có 3 phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, phụ trách kinh doanh và phụ trách nhà máy. Phòng Tài Chính Kế Toán: đứng đầu là kế toán trưởng, có chức năng tham mưu cho giám đốc trong các vấn đề thuộc lĩnh vực tài chính kế toán như việc thực hện công tác tài chính kế toán cũng như kiểm soát mọi hoạt đông kinh tế tài chính của công ty theo đúng pháp luật. Phòng kế toán tài chính có hai nhiệm vụ đó là thực hiện công tác tài chính và kiểm tra kiểm soát vấn đề tài chính: Vấn đề công tác tài chính: cần đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà đầu tiên là lập kế hoạch tài chính thống nhất với kế hoạch tài chính của công ty, từ đó có các biện pháp huy động vôn hợp lý, sử dụng tiết kiệm và linh hoạt nguồn vốn nhằm đảm bảo có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao và phù hợp với diễn biến của thị trường. Vấn đề kiểm tra kiểm soát: là kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý tài sản, quản lý tài chính của công ty và việc thực hiện các kế hoạch tài chính , kế hoạch đầu tư. Phòng kinh doanh có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty tổ chức, triển khai, chỉ đạo công tác kinh doanh. Có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng và các đối thủ cạnh tranh, tổ chức mạng lưới bán hàng. Phòng kế hoạch đầu tư: có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty tổ chức, triển khai cũng như chịu trách nhiệm về công tác kế hoạch đầu tư.. Nhiệm vụ của phòng này là xây dựng kế hoạch sản xuất, triển khai tổ chức sản xuất, soạn thảo và lưu trữ hợp đồng kinh tế, công tác kế hoạch vật tư và công tác kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản. Phòng tổ chức lao động là phòng chuyên môn, tham mưu cho giám đốc công ty về công tác tổ chức quản lý và sử dụng lao động, thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động như tổ chức sản xuất, đào tạo quản lý và sử dụng cán bộ công nhân viên. Thực hiện chính sách và chế độ chính sách đối với người lao động Văn phòng là phòng nghiệp vụ nằm trong hệ thống bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty, có nhiệm vụ tiếp nhận các chủ trương, chính sách văn bản của lãnh đạo để tổ chức thực hiện hướng dẫn, giám sát các phòng ban có liên quan, có nhiệm vụ giao dịch, hành chính văn thư lưu trữ, quản trị văn phòng, công tác đời sống và y tế, công tác thông tin. Phòng kỹ thuật-KCS là phòng có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty tổ chức triển khai, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật như: chất lượng sản phẩm, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, an toàn lao động và phòng chống cháy nổ. Nhà máy sứ Thanh Trì và nhà máy sứ Bình Dương: là hai đơn vị trực tiếp thực hiện công tác sản xuất sản phẩm sứ vệ sinh, có nhiệm vụ quản lý chỉ đạo, thực hiện sản xuất, quản lý thiết bị, quản lý lao động, thực hện công tác vệ sinh, công tác lao động. Xí nghiệp sản xuất khuôn mẫu là đơn vị trực thuộc công ty sứ Viglacera Thanh Trì, có chức năng thiết kế và sản xuất khuôn phục vụ sản xuất kinh doanh của toàn công ty. Như vậy các phòng ban, nhà máy, xí nghiệp trong công ty có quan hệ chặt chẽ với nhau trong mục tiêu chung thúc đẩy sản xuất,tăng lợi nhuận, uy tín cho công ty, tăng mức sống cho cán bộ công nhân viên. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ của các phòng ban, nhà máy, xí nghiệp mà công ty sản xuất được sản phẩm tốt, phù hợp với khả năng của công ty cũng như nhu cầu của thị trường. 2.4.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của công ty Phòng tài chính kế toán có chức năng cung cấp thông tin và kiểm tra các thông tin đó đảm bảo tính trung thực,chính xác về tình hình tài chính cua công ty. Có nhiệmh vụ thu thập ghi chép, tính toán tổng hợp các thông tin trên chứng từ đểcung cấp thông tin cho lãnh đạo công ty, lập báo cáo tài chính, xác định kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận và đề ra phương hướng cụ thể cho niên độ sau. Kế troán trong công ty được chia thành 10 phần hành , mỗi kế toán viên đảm nhận mỗi phần hành,bao gồm: Kế toán công nợ phải thu Kế toán tài sản cố định Kế toán thanh toán Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành Kế toán ngân hàng Kế toán tiền lương Kế toán vật tư Kế toán thành phẩm Kế toán nợphải thu Kế toán bán hàng Đặc điểm tổ chức của công tác kế toán: Chính sách kế toán áp dụng tại công ty Chế độ kế toán áp dụng theo chế độ kế toan dành cho DNNN theo quyết định số 15 của Bộ Tài Chính Niên độ kế toán: từ ngày 1/1 đến ngày 32/12 hàng năm Phương pháp tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ Hình thức kế toán áp dụng theo hình thức ghi sổ nhật ký chung Phương pháp tính khấu hao TSCĐ là phương pháp khấu hao bình quân Phương pháp tính nguyên giá nguyên vật liệu xuất kho ápdụng phương pháp tín gía đơn vị bình quân Tỷ giá sử dụng trong quy đổi ngoại tệ Hệ thống chứng từ kế toán Có hai loại chứng từ kế toánlà chứng từ kế toán bắt buộc và chứng từ ké toán hướng dẫn Chứng từ kế toán phải được lập đủ số liên cho mỗi loại chứng từ Chứng từ kế toán được lập bằng mấy vi tính thì phải đảm bảo nội dung quy định cho chứng từ kế toán Mọi chứng từ kế toán phải đủ chữ ký theo chức danh quy định trên chứng từ mới có giá trị thực hiện Các doanh nghiệp phải mở sổ đăng ký chữ ký của thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên kế toán, kế toán trưởng Những cá nhân có quyền hay được uỷ quyền ký chứng từ thì không được ký chứng từ kế toán khi chưa ghi đủ nội dung của chứng từ theo trách nhiệm của người ký. Trình tự luân chuyển chứng từ theo các bước sau: - Lập tiếp nhận xử lý chứng từ kế toan - Kế toán viên,kế toán trưởng kiểm tra và ký chứng tù kế toán - Phân loại sắp xếp chứng từ kế toán, định khoản và ghi sổ kế toán - Lưu trữ, bảo quản chứng từ kế toán. 2.1.5. Khái quát tình hình kinh doanh và tình hình tài chính của công ty trong những năm gần đây 2.1.5.1. Tình hình kinh doanh của công ty Qua thực tế về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 năm qua có một số vấn đề thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: Tình hình kinh doanh của công ty sứ Viglacera Thanh Trì trong năm 3 năm vừa qua. ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 So sánh Năm 2006 So sánh Tuyệt đối Tương đối Tuyệt đối Tương đối 1.Tổng doanh thu 250.765 287.972 37.207 14,84% 504.276 216.304 75,11% 2. LNTT 1.374 1.464 90 6,55% 5.186 3.722 254,2% 3. LNST 989 1.054 65 6,57% 3.734 2.680 254,3% 4. Tổng VKD 145.176 257.185 112.009 77,15% 282.903 25.718 10% 5. VCSH 14.518 25.719 11.201 77,15% 28.290 2.571 10% 6. Vốn vay 130.658 231.466 100.808 77,15% 254.613 23.147 22,96% 7.Tỷsuất LNST/VCSH 5,24% 13,83% 8,59% 8. Tỷ suất LNST/VV 0,58% 1,54% 0,96% 9. Tỷ suất LNST/VKD 0,52% 1,38% 0,86% Nhìn vào bảng kết quả kinh doanh của 3 năm vừa qua ta thấy tổng doanh thu tăng khá cao, cụ thể tăng 75,11% năm 2006 so với 2005, tăng 14,84% năm 2005 so với 2004. Cùng với sự gia tăng về doanh thu thì LNTT và LNST cũng tăng lên đáng kể, LNTT tăng 254,2% (năm 2006/2005), tăng 6,55% (năm 2005/2004) còn LNST cũng tăng tương ứng 254,2% (năm 2006/2005) và tăng 6,57% (năm 2005/2004) . Chứng tỏ DN đã thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ trong 2 năm qua. Với sự gia tăng về tổng vốn kinh doanh song vẫn giữ nguyên cơ cấu vốn. Tỷ lệ gia tăng vốn vay và vốn chủ sở hữu tương đương nhau trong năm 2005/2004 đều tăng 77,15%,chứng tỏ trong năm 2005, DN đã tập trung huy động đều nguồn vốn vay và nguồn vốn chủ sở hữu. Trong năm 2006/2005 vốn chủ sở hữu tăng 10%, vốn vay tăng 22,96%, chứng tỏ doanh nghiệp đã tăng cường huy động vốn vay làm cho cơ cấu vốn cũng có sự thay đổi, vốn tăng chủ yếu là do vay vốn, còn vốn chủ sở hữu tăng nhưng không đáng kể. Doanh nghiệp chưa chú trọng huy động từ nguồn nội lực. Trong 3 năm qua với sự gia tăng về vốn kinh doanh, doanh thu và lợi nhuận thì tỷ suất lợi nhuận trên mỗi đồng vốn cũng tăng. Cụ thể là vào năm 2006 so với 2005 tỷ suất LNST/VCSH tăng 8,59%,tỷ suất LNST/VV tăng 0,96%; tỷ suất LNST/VKD tăng 0,86%. Qua đó ta thấy việc sử dụng đồng vốn chủ sở hữu hiệu quả hơn so với đồng vốn vay. Cứ một đồng VCSH tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì tạo ra 0,1383 đồng LNST (năm 2006/2005), tạo ra ._.định tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Số tiền khấu hao TSCĐ hàng năm được trích từ tiền thu bán sản phẩm (doanh thu) và hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp. Đây là một nguồn tài chính quan trọng để doanh nhiệp tiến hành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Việc tính khấu hao phải phù hợp với mức độ hao mòn của tài sản cố định, đảm bảo thu hồi đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Hiện tại công ty đang thực hiện việc tính khấu hao TSCĐ theo nhiều phương pháp, tuỳ theo từng loại tài sản mà công ty áp dụng những phương pháp khấu hao cụ thể như phương pháp khấu hao theo đường thẳng, phương pháp khấu hao số dư giảm dần có điều chỉnh, phương pháp khấu hao nhanh. Thời gian trích khấu hao bình quân của các máy móc thiết bị như sau: Nhóm máy móc thiết bị chế biến nguyên liệu : 15 năm Nhóm máy móc bộ phận nghiền men : 11 năm Nhóm máy móc bộ phận đổ rót : 12 năm Nhóm máy móc hệ thống sấy : 11 năm Nhóm lò nung Tuynel : 13 năm Như vậy tuỳ vào những tài sản, hay máy móc thì cách tính khấu hao khác nhau, tổng số trích khấu hao đã thực hiện được trong năm 2006 là 44.953 triệu đồng. Hiện tại nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải có kế hoạch phân phối sử dụng tiền trích khấu hao trong kỳ này phù hợp vói nguồn hình thành tài sản cố định. Nguồn vốn hình thành từ tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm 2 nguồn chính là nguồn chủ sở hữu (chiếm 90% trong tổng cơ cấu tài sản) và nguồn vốn vay (chiếm 10% trong tổng tài sản). Do đó khi phân phối và sử dụng tiền trích khấu hao thì doanh nghiệp phải xác định tỷ trọng và sử dụng hợp lý. Số tiền này trong 2007 sẽ được sử dụng như sau: Trả nợ vay : 40.457,7 triệu đồng Tái đầu tư TSCĐ : 4.495,3 triệu đồng Như vậy thì số tiền đầu tư vào TSCĐ có thể dành cho dự án đầu tư máy móc thiết bị trong thời gian tới và chiếm 19,74% tổng số vốn huy động. Mặc dù đã sử dụng phương pháp khấu hao hợp lý đối với từng tài sản nhưng số tiền đầu tư vào TSCĐ chưa nhiều.Nguyên nhân là do mức chi phí lãi vay quá lớn nên phải trích tới 90% để trả lãi vay. Do vậy trong thời gian tới công ty cần xem xét để giảm hệ số nợ xuống, đây là yêu cầu hết sức cần thiết đảm bảo công ty chủ động trong vấn đề huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị từ nguồn khấu hao. Mặt khác công ty cần lưu ý thanh lý các TSCĐ, hư hỏng đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng, trong đó đặc biệt là những tài sản đã hỏng, mua từ rất lâu đời, công suất thấp, mức tiêu hoa nguyên liệu lớn. Theo tính toán của bộ phận kế toán thì số TSCĐ này có giá trị khoảng 2.152 triệu đồng. Công ty phải đôn đốc thanh lý nhanh chóng các tài sản đó, ngoài việc thu hồi vốn thì công ty giải phóng được mặt bằng sản xuất, tiết kiệm được chi phí, bảo quản sữa chữa, trông coi. Vậy số vốn huy động được từ nguồn khấu hao và thanh lý nhượng bán tài sản cố định là 2.152 triệu đồng, chiếm 9,45% tổng nhu cầu vốn cần huy động. Một phần nguồn từ quỹ khấu hao đã tham gia đáp ứng cho dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị, đây là nguồn khá ổn định vì phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người trích lập, song muốn đtạ được mục tiêu và kế hạch khấu hao thì công ty phải thực hiện phân loại tài sản, phân cấp quản lý tài sản cố định cho từng đơn vị và cá nhân trong doanh nghiệp, thực hiện tốt việc kiểm tra, theo dõi biến động TSCĐ, thực hiện tốt quy chế nội quy về quản lý và sử dụng các loại tài sản của doanh nghiệp, lựa chọn phương pháp khấu hao hợp lý và thực hiện tốt việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ hàng năm, từ đó quản lý quỹ khấu hao một cách khoa học và hiệu quả. Đảm bảo thực hiện những nguyên tắc đó thì công ty mới có thể sử dụng hiệu quả nguồn khấu hao đáp ứng đủ cho nhu cầu đổi mới công nghệ thiết bị cho doanh nghiệp. 3.3.1.1.2. Nguồn lợi nhuận để lại để tái đầu tư phát triển Lợi nhuận để lại là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phímà doanh nghiệp bỏ ra trong một thời kỳ nhất định, sau khi đã thực hiện nghĩa vụ với nhà nước thì doanh nghiệp tự quyết định trích lập các quỹ theo mục đích của mình. Đây là một nguồn tài trợ quan trọng cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị. Hàng năm công ty trích ra một phần lợi nhuận sau thuế để hình thành quỹ phát triển sản xuất. Việc trích lập, sử dụng và quản lý quỹ phát triển sản xuất do công ty tự tiến hành và đảm bảo thực hiện đúng mục đích khi hình thành quỹ. Theo số liệu của phòng kế toán tổng kết thì trong năm 2006 có số dư lợi nhuận để lại là 3.734 triệu đồng. Theo quyết định của ban giám đốc thì công ty đã trích 15% lợi nhuận để lại để hình thành vào quỹ đầu tư phát triển. Với mức trích đó thì công ty đã bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển với số tiền là 560 triệu đồng. Như vậy mức trích lợi nhuận để lại trong năm 2006 thì công ty trích lập vào quỹ đầu tư phát triển số tiền 560 triệu đồng, góp phần cho dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị. Dự kiến trong năm 2007 công ty sẽ đạt mức lợi nhuận sau thuế dự kiến là 5,4 tỷ, như vậy công ty có thể tài trợ cho nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị khoảng 810 triệu đồng, chiếm 3,56% tổng vốn cần huy động nếu vẫn giữ mức 15% trích vào quỹ đầu tư phát triển. Với nguồn huy động từ lợi nhuận để lại chỉ mang tính chất bổ sung cho đổi mới công nghệ, đây không phải là nguồn huy động chính, doanh nghiệp phải tích luỹ lâu dài thì mới tích tụ được nguồn này và thực hiện cho dự án của mình. Do đó để có thể huy động lớn từ nguồn này thì doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tìm mọi biện pháp tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, làm tăng lợi nhuận thì mới tích luỹ được nguồn này. Tiếp đó là doanh nghiệp phải xây dựng phương án phân phối lợi nhuận một cách hợp lý đảm bảo tỷ lệ phù hợp để có lợi nhuận đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Có thể khẳng định rằng nguồn vốn bên trong luôn có vai trò quan trọng trong việc huy động cũng như sử dụng vốn để đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, nó có nhiều ưu điểm so với huy động vốn từ bên ngoài, giúp công ty chủ động về thời gian huy động vốn và không phải tính đến thời gian hoàn trả vốn. Tuy nhiên cũng thấy rằng đây là nguồn bên trong nên có hạn chế về quy mô, không thể đáp ứng được nhu cầu đủ vốn cho sự đổi mới công nghệ thiết bị. Do vậy mà ngoài việc huy động vốn từ bên trong thì doanh nghiệp cần tập trung huy động vốn từ bên ngoài cũng rất quan trọng và cấp thiết. 3.3.1.2. Huy động từ bên ngoài 3.3.1.2.1. Huy động từ nguồn đi vay - Huy động thông qua vay của cán bộ công nhân viên của công ty Đây là hình thức huy động mà doanh nghiệp nên chú trọng hiện nay, khi mà doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và có lãi thì làm cho mức thu nhập của công nhân viên trong công ty càng ngày càng tăng lên. Cùng với sự tích tụ và tiết kiệm của công nhân viên thì khi doanh nghiệp cần vốn có thể huy động vốn vay từ họ. Đối với công ty sứ Viglacera Thanh Trì thì trong thời gian qua đã chú trọng huy động từ nguồn này và do đó mà lượng vốn huy động được càng ngày càng tăng lên. Cụ thể là: Năm Thu nhập của người lao động (triệu đồng/ 1 tháng) Mức huy động từ công nhân viên (triệu đồng/ năm) 2004 1.669 93 2005 1.828 232 2006 1.933 311 Công ty đã huy động vốn từ nguồn vay của cán bộ công nhân viên có nhiều thuận lợi. Với mức lương càng ngày càng tăng lên thì công ty đã có cơ hội để tăng nguồn vốn chô đổi mới công nghệ, một mặt nữa là do công nhân viên đã gắn bó lâu dài với công ty, biết được tình hình sản xuất của công ty nên với những chế độ vay hợp lý thì công ty dễ dàng vay được vốn. Hơn nữa công ty càng ngày càng làm ăn có lãi tạo động lực cho công nhân viên thêm cố gắng và tin tưởng vào sự hoạt động của công ty. Cụ thể là năm 2006, nợ ngắn hạn phải trả cho công nhân viên là 9.370 triệu đồng, nợ dài hạn công nhân viên thì chiếm tỷ lệ ít hơn. Như vậy mặc dù công ty đã chú trọng huy động từ nguồn vay của cán bộ công nhân viên nhưng công ty phải tập trung huy động nhiều hơn từ nguồn vay dài hạn để đảm bảo đủ vốn để đổi mới công nghệ thiết bị. Về cơ bản thì trong những năm gần đây công ty đã xây dựng được niềm tin trong công nhân viên, nhưng do số vốn tích lũy được là hạn chế so với nhu cầu cần huy động của công ty nên nguồn này cũng chỉ mang tính chất bổ sung thêm cho đổi mới công nghệ thiết bị. Hơn thế nữa là công ty phải có chủ trương khuyến khích cán bộ công nhân viên gửi tiền tiết kiệm vào công ty, tránh để vốn nhàn rỗi không sử dụng thì không sinh lời được. Phải chú trọng hơn đến đời sống cán bộ của công nhân viên trong công ty, các tổ chức đoàn thể phải hoạt động tích cực và có hiệu quả để gần gũi, động viên cán bộ công nhân viên kịp thời, có như vậy thì người klao động mới gắn kết với công ty và tin tưởng đầu tư vào công ty. Năm 2006 mức thu nhập bình quân của công ty sứ Viglacera Thanh Trì là 1,933 triệu đồng/ 1năm, với 720 công nhân thì công ty có thể huy động khoảng 311 triệu đồng cho năm 2007 để đổi mới công nghệ thiết bị, chiếm 1,37% tổng số vốn cần huy động. Đối với nguồn vốn vay từ công nhân viên thì doanh nghiệp có thể hoãn trả nợ khi công ty gặp khó khăn, kéo dài thời gian trả nợ vì thế công ty sẽ giảm bơt được gánh nặng nợ nần. Mức chi phí mà công ty phải chịu cho khoản vay này tương ứng với lãi suất ngân hàng nhưng bù lại công ty được vay vốn mà không có hạn mức tín dụng, có thể huy động bao nhiêu tuỳ theo số lượng tiết kiệm được và niềm tin của công nhân viên. công ty không cần phải có tài sản thế chấp hay chịu những khoản chi phí cho vay khác, tạo thêm mối quan hệ khăng khít giữa công ty và công nhân viên, tạo khả năng sáng tạo và tích cực trong công tác, có ý thức xây dựng cho sự phát triển chung của công ty. - Huy động qua các đối tác kinh doanh Với quy mô hoạt động tương đối lớn thì công ty sứ Viglacera Thanh Trì đã tạo dựng cho mình những mối quan hệ làm ăn tin cậy. Ngoài những đối tác làm ăn trong nước thì trong thời gian gần đây công ty đã ký kết hợp đồng về xuất khẩu sản phẩm sứ sang Nhật Bản, đây là thị trường mà doanh nghiệp mới xâm nhập và có thể làm ăn lâu dài, hiện tại công ty đã được ứng trước cho một khoản vốn lớn để thực hiện hợp đồng. Ngoài ra công ty còn được các đối tác trong mối quan hệ truyền thống cho vay một khoản tiền lớn cho đầu tư đỏi mới công nghệ thiết bị. Chính sự tin tưởng và lợi ích lâu dài của hai phía mà công ty sứ Viglacera Thanh Trì buộc phải thực hiện cung cấp đúng lô hàng và đúng mẫu mã chất lượng. Với những chiến lược cho sự đổi mới công nghệ và sự chủ động trong làm ăn của công ty, công ty của Nhật Bản đã đề nghị cung cấp hỗ trợ cho vay ngoại tệ để thực hiện đổi mới công nghệ và thiết bị, đảm bảo hàng cung cấp đạt tiêu chuẩn cao. Trong tình hình huy động vốn khó khăn như hiện nay thì việc công ty sứ Viglacera Thanh Trì huy động được từ các đối tác làm ăn là rất cần thiết, song việc huy động vốn phải cân nhắc và chú ý tới những ràng buộc trong kinh doanh. Chi phí sử dụng vốn cũng tương đương với cho vay của ngân hàng nhưng công ty phải đáp ứng đúng hạn lượng hàng xuất khẩu, tránh mất uy tín đối với các bạn hàng. Vì vậy việc đổi mới máy móc để nâng cao công suất sử dụng là càng cấp thiết hơn, đảm bảo cho công ty có thể cung cấp số lượng hàng lớn mà không ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Nếu chấp nhận khoản vay thì công ty phải nghiên cứu những rủi ro gặp phải, phải đảm bảo chắc chắn là đáp ứng được yêu cầu của bạn hàng nếu không công ty tuy đổi mới được công nghệ nhưng không cung cấp đủ hàng cho đối tác, mất đi cơ hội xuất khẩu một lượng hàng lớn, tổn thất về tài chính bù đắp cho khoản ứng trước, hơn nữa là mất đi một bạn hàng truyền thống, ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của công ty.Theo dự tính thì công ty có thể huy động từ nguồn đối tác là 4.370 triệu đồng, chiếm 19,2% tổng nhu cầu vốn huy động cho đổi mới máy móc công nghệ và thiết bị. Với hệ số nợ vay của ngân hàng rất cao thì công ty nên huy động từ các đói tác kinh doanh, vừa có thể đáp ứng thêm nguồn vốn huy động để đổi mới công nghệ thiết bị, vừa không vượt quá hạn mức tín dụng khi sử dụng vay vốn của ngân hàng quá nhiều. - Vay dài hạn từ ngân hàng và tổ chức tín dụng Công ty sứ Viglacera Thanh Trì xác định, đây là nguồn vốn huy động chủ yếu và quan trọng nhất trong thời gian qua, song với việc huy động nguồn vốn vay từ các ngân hàng thì công ty phải chịu chi phí sử dụng vốn lớn, hơn nữa phải có tài sản đảm bảo, thế chấp, cầm cố rất phức tạp, việc huy động từ nguồn vốn vay làm cho hệ số nợ của công ty tăng cao, ảnh hưởng đến khả năng tài chính của công ty. Việc huy động từ nguồn vốn vay gặp nhiều bất lợi song nếu chỉ huy độngcác nguồn trên thì doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh, trong khi đó khi đổi mới công nghệ thiết bị thì công ty cần một lượng vốn lớn. Trong thời gian tới công ty sứ Viglacera Thanh Trì cần huy động thêm vốn bằng vay dài hạn ngân hàng để bù đắp sốvốn thiếu hụt. Tính đên 31/12/2006 số dư vay dài hạn của ngân hàng là 18.740 triệu đồng, và trong năm này công ty phải trả lãi vay hoảng 356 triệu đồng, nếu so với hạn mức tín dụng thì công ty chỉ được huy động thêm khoảng 5.115 triệu đồng, chiếm 22,46% tổng số vốn cần huy động. Với định hướng trong vay từ nguồn dài hạn của ngân hàng thì để công ty có thể thực hiện vay một cách thuận lợi thì công ty phải thực hiện các biện pháp sau đây Phải hoàn trả lãi vay đầy đủ những khoản đã huy động cho sản xuất kinh doanh trước đây khi đến hạn hoàn trả, cụ thể trong năm 2006 công ty phải hoàn trả lãi vay là 356 triệu đồng. Mục đích tạo uy tín cho công ty thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng vay, hơn nữa làm cho việc vay vốn tiếp của công ty cho sự đổi mới công nghệ thiết bị được thuận lợi. Công ty phải trình bày, xây dựng các phương án kinh doanh cụ thể với ngân hàng để thực hiện vay vốn, vì đây là phương án huy động vốn cho sự đổi mơi công nghệ thiết bị nên việc huy động vốn sẽ không quá khó khăn trong tình hình hiện nay khi tài sản cố định đã hao mòn quá nhiều thì để duy trì hiệu quả kinh doanh công ty phải huy động vốn cho sự đổi mới công nghệ thiết bị. Với những mối quan hệ tốt đẹp với tổng công ty thì công sứ Viglacera Thanh Trì nên tranh thủ sự tin tưởng của tổng công ty và tập đoàn để thực hiện việc bảo lãnh vay vốn, ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ cho vay khi có sự bảo lãnh của các tập đoàn lớn, vì thế công ty sứ Viglacera Thanh Trì phải tạo dựng uy tín và sự giúp đỡ từ tổng công ty để hoạt động vay vốn đượ thực hiện có hiệu quả. Mặc dù hiện nay công ty đang có mối quan hệ rất tốt với ngân hàng nhưng nếu công ty tiếp tục vay nợ thì phải đối mặt với áp lực rất lớn, khả năng gặp rủi ro cao, độ an toàn về mặt tài chính không đảm bảo. Nếu công ty có bất trắc trong vấn đề kinh doanh thì sẽ gặp rất nhiều bất lợi từ gánh nặng lãi vay, mất khả năng thanh toán. Do đó công ty phải xây dựng kế hoạch huy động vốn với cơ cấu hợp lý, phải đa dạng hoá nguồn vốn huy động để việc đổi mới công nghệ thiết bị đạt hiệu quả cao mà không làm tăng hệ số nợ quá lớn. 3.3.1.2.2. Huy động từ cho thuê tài chính Đối với tình hình thực tế của công ty sứ Viglacera Thanh Trì thì nguồn này đang chiếm tỷ trọng ít so với tổng nguồn vốn huy động, số vốn huy động từ thực hiện đi thuê tài chính là 3.500 triệu đồng. Trong khi đó thị trường cho thuê tài chính hiện nay rất phát triển với sự tăng lên nhanh chóng của công ty thuê tài chính đa dạng và nhiều hình thức khác nhau. Với thực tế hiện tại của công ty có hệ số nợ cao như vậy thì việc thuê tài chính là một giải pháp giúp công ty giảm hệ số nợ xuống, không phải huy động một lượng vốn quá lớn mà vẫn có máy móc thiết bị hoạt động. Mặc dù chi phí cho thuê tài chính được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng công ty lại phải chịu một mức chi phí sử dụng vốn cao hơn so với thông thường. Nên công ty phải cân nhắc sử dụng hình thức huy động nào làm cho chi phí sử dụng vốn bình quân ở mức tối thiểu. Nếu huy động từ nguồn này thì công ty phải xây dựng dự án đầu tư rõ ràng, tìm kiếm, lựa chọn và đa dạng hoá các đối tác cho thuê tài chính, tạo uy tín và chấp hành đầy đủ các quy định và mức chi phí khi thực hiện thuê cho những tài sản trước đây. Như thế doanh nghiệp mới huy động từ nguồn này hiệu quả được. Dự tính huy động từ nguồn này vào giai đoạn 1(từ 2008-2011) khoảng 2 tỷ đồng, chiếm 8,78% tổng nhu cầu vốn cần huy động. 3.3.1.2.3. Huy động từ phát hành cổ phiếu trái phiếu trên thị trường chứng khoán Đối với các nước đang phát triển thì thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn chính và cơ bản cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc phát hành chứng khoán. Đối với công ty sứ Viglacera Thanh Trì thì việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán chưa được triển khai. Mặc dù huy động từ nguồn này có rất nhiều ưu điểm. Việc huy động từ thị trường chứng khoán làm tăng vốn chủ sở hữu nên có tính chất ổn định lâu dài, đặc biệt trong tình trạng của công ty có hệ số nợ khá cao thì sẽ làm giảm hệ số nợ của công ty, đảm bảo độ an toàn về mặt tài chính cao. Việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán với chi phí sử dụng vốn thấp, trong khi đó thì quy mô huy động vốn thường lớn. Hiện nay doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn rất lớn và đặc biệt thặng dư về vốn cũng rất lớn. Công ty đáp ứng được điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán thì nhà đầu tư sẽ đánh giá tiềm năng của công ty tăng lên, tình hình tài chính lành mạnh. Một số công ty sản xuất có hiệu quả cũng được niêm yết trên thị trường chứng khoán làm cho công ty dễ dàng chào bán cổ phiếu, đảm bảo có thể huy động vốn kịp thời đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Với nhu cầu vốn lớn cho sự đổi mới công nghệ thiết bị thì nếu công ty chỉ huy động từ các nguồn trên sẽ không đáp ứng nhu cầu về vốn, mà công ty phải huy động từ phát hành cổ phiếu ra công chúng để giải quyết vấn đề nhu cầu vốn trong khi hệ số nợ khá cao. Để phát huy việc huy động vốn từ nguồn này thì doanh nghiệp phải có những biện pháp cụ thể như là: + Công ty cần tìm hiểu những quy định và điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán + Công ty phải chuẩn bị kỹ đối phó với những đối tượng có ý đồ xấu khi niêm yết trên thị trường chứng khoán vì công ty phải công khai hoá thông tin và tình hình tài chính của công ty. + Bộ máy quản lý phải chủ động trong điều hành, tránh trường hợp mất quyền kiểm soát hay chuyển giao công ty, phải xác định nhu cầu vốn để phát hành lượng cổ phiếu vừa đủ + Duy trì sự phát triển kinh doanh của công ty để tạo tâm lý ổn định cho nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán + Xây dựng kế hoạch, lộ trình cổ phần hoá doanh nghiệp, lộ trình tăng vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ một cách hiệu quả nhất. + Tìm kiếm đối tác đầu tư thích hợp, đối tác đầu tư chiến lược, thường là các ngân hàng và các tổ chức tài chính + Để thực hiện được những kế hoạch đó thì công ty phải thuê đơn vị chuyên nghiệp để tư vấn cổ phần hoá và tư vấn phát hành chứng khoán cho công ty. Với những biện pháp đó thì hy vọng công ty nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá sớm như dự kiến, để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu về vốn không chỉ là đổi mới công nghệ thiết bị mà cho chiến lược lâu dài phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. 3.3.1.2.4. Huy động vốn từ hợp tác thực hiện liên doanh liên kết Với sự phát triển của nền kinh tế thì công ty không chỉ cạnh tranh với những doanh nghiệp cùng ngành mà còn mở rộng hợp tác với nhiều đối tác khác để tạo thế mạnh cho công ty. Với việc thực hiện liên doanh liên kết cũng là một biện pháp giúp cho công ty có thể huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị trong thời gian tới. Liên doanh sẽ tạo cho công ty nâng cao được trình độ quản lý, ứng dụng máy móc công nghệ vào sản xuất, tận dụng được tối đa lợi thế hiện có của mình. Hình thức liên doanh có thể góp vốn bằng thiết bị , máy móc hiện đại, nhà xưởng, lao động,...Đây là phương thức huy động vốn có ý nghĩa cao vì đi đôi với vốn sẽ là khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Để đáp ứng cho nhu cầu đổi mới công nghệ thiết bị thì trong giai đoạn 1 (2008-2011) công ty phải huy động từ nguồn này khoảng 3 tỷ, chiếm 13,2% cho nhu cầu đổi mới. Với những ưu điểm của thực hiện liên doanh liên kết, để có thể đạt hiệu quả cao trong thực hiện liên doanh, liên kết thì công ty phải có những điều kiện nhất định: + trước hết phải có dự án và xây dựng dự án liên doanh liên kết khả thi. + Công ty phải chủ động tìm kiếm đối tác phù hợp cả trong nước và ngoài nước đảm bảo cho quá trình thực hiện liên doanh liên kết được diễn ra thuận lợi và hiệu quả cao. + Khi thực hiện liên doanh liên kết thì công ty phải phát huy được thế mạnh của mình về thương hiệu, mặt bằng, kinh nghiêm, tổ chức sản xuất quản lý,... + Vấn đề xác định vốn góp khi tham gia liên kết, trình độ của cán bộ quản lý phải có những cán bộ kỹ thuật chủ chốt am hiểu máy móc thiết bị để đánh giá được giá trị tài sản + Điều lệ kinh doanh phải được xây dựng chặt chẽ, khoa học, đảm bảo lợi ích của cả hai bên + Đặc biệt hơn nữa là phải đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết, thành lập doanh nghiệp mới để doanh nghiệp đứng ra tiếp nhận vốn góp của đơn vị. Qua các giải pháp về huy động vốn trên mới chỉ đáp ứng nhu cầu vốn trong giai đoạn 1. Giai đoạn 2 để thực hiện huy động vốn hiệu quả thì doanh nghiệp phải tập trung huy động từ các nguồn như từ thị trường chứng khoán... mà doanh nghiệp chưa thâm nhập vào được. Như vậy để có thể huy động vốn có hiệu quả thì công ty có thể lựa chọn áp dụng các biện pháp huy động vốn sao cho phù hợp với tình hình thực tế của công ty trong từng giai đoạn cụ thể. Phải thực hiện đúng các điều kịên huy động vốn. Phải xây dựng kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn hợp lý và khoa học. Đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, lựa chọn những nguồn vốn tạo điều kiên thuận lợi cho công ty khi thực hiện đôi mới máy móc thiết bị, làm sao để chi phí sử dụng vốn bình quân là thấp nhất. Biểu cơ cấu các nguồn vốn huy động cho đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì giai đoạn 1 (2008-2011) Tổng nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 1 22.776 triệu đồng Nguồn vốn bên ngoài (64,96%) Nguồn vốn bên trong (35,04%) Nguồn đi vay công nhân viên 311 tr.đ (1,37%) Nguồn liên doanh liên kết 3.000 tr.đ (13,2%) Nguồn lợi nhuận để lại tái đầu tư 810 tr.đ (3,56%) Nguồn vốn khấu hao và thanh lý 7.170 tr.đ (31,48%) Nguồn đi vay đối tác 4.370 tr.đ (19,2%) Nguồn vay dài hạn ngân hàng 5.115 tr.đ (22,46%) Nguồn thuê tài chính 2.000 tr.đ (8,78%) 3.4. Kiến nghị đối với nhà nước Nhà nước là tác nhân quan trọng , tham gia vai trò quản lý với tư cách là chủ quản, nhờ các hoạt động đa dạng đã đưa ra những chính sách có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng những chính sách kinh tế vĩ mô để tăng trưởng cân đối và bền vững, kiềm chế được lạm phát hay bằng những quy phạm pháp luật bảo vệ được tiết kiệm, chú trọng đến tính minh bạch của các hoạt động nghiệp vụ, thiết lập các công cụ để huy độngvốn hấp dẫn, tạo cho DN có khả năng huy động vốn thuận lợi.Cụ thể là: Hệ thống chính sách tài chính được đổi mới cơ bản theo hướng giải phóng và khai thông mọi nguồn lực tài chính, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Hệ thống cơ chế chính sách pháp luật tài chính tiếp tục đổi mới tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, đẩy nhanh thu hút vốn đầu tư toàn xã hội. Đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng Đây là một nội dung trọng yếu, phân biệt rõ chức năng của hệ thống ngân hàng 2 cấp, phương thức quản lý điều hành chính sách tiền tệ-tín dụng (tức là sử dụng công cụ kinh tế thông qua công cụ của chính sách tiền tệ). Đối với công cụ chính sách lãi suất thì NHNN phải thực thi chính sách lãi suất thận trọng, linh hoạt , từng bước tự do hoá, tạo điều kiện cho DN huy động vốn. Hoàn thiện công tác tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước, quy định công cụ hạn mức tín dụng, công cụ dự trữ bắt buộc, công cụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. đối với thị trường mở thì cần tập trung phát triển đa dạng hoá công cụ giao dịch, áp dụng phương thức mua bán chứng khoán linh hoạt phù hợp với tiến trình tự do hoá lãi suất của nền kinh tế. Kết hợp đồng bộ với công cụ tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc để nâng cao hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở. Xây dựng và phát triển hệ thống thị trường chứng khoán Xây dựng và vận hành một thị trường chứng khoán quy mô được phát triển từ thấp đến cao, không mất ổn định về mặt kinh tế xã hội, tạo giá cả ổn định, tránh gây tâm lý dè dặt đối với nhà đầu tư trong thời gian phát triển, đưa thị trường chứng khoán trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Đa dạng hoá các hàng hoá trên thị trường chứng khoán làm phong phú, chất lượng cao, hấp dẫn các nhà đầu tư. Hnàg hoá được phát triển trên cơ sở chiến lược huy động vốn cho đầu tư phát triển và định hướng cổ phần hoá. Nâng cao chât lượng dịch vụ của các trung gian tài chính. Khắc phục tồn tại của việc quản lý, điều hành của các chủ thể trên thị trường chứng khoán từ cơ quan quản lý nhà nước đến trung tâm giao dịch chứng khoán. Kuyến khích các tổ chức kinh doanh chứng khoán mở rộng quy mô nâng cao chất lượng, phát triển cơ sở hạ tầng cho thị trường chứng khoán, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin cho hệ thống quản lý ở sở giao dịch chứng khoán. Hoàn chỉnh cung pháp lý cho TTCK, quản lý và giám sát đièu chỉnh qua chính sách và công cụ kinh tế. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ cập, nâng cao kiến thức về TTCK cho công chúng và các đối tương tham gia thị trường. Xây dựng công cụ tài chính phối hợp đồng bộ để đạt hiệu quản cao trong huy động vốn, các công cụ tài chính phải tạo điều kiện thuậnlợi cho doanh nghiệp tăng cường huy động vốn đầu tư phát triển, đồng thời gây sức ép buộc doanh nghiệp phải tăng cường nâng cao sức cạnh tranh. Đồng thời công cụ tài chính trong qúa trình huy động phải dựa trên sự phát triển của thị trường tài chính. Tự do hoá dần chính sách sử dụng các công cụ tài chính trong quá trình huy động vốn. Kết luận Năm 2006 là một năm có nhiều khó khăn và thử thách trong hoạt động sản xuất kinh doanh song dưới sự chỉ đạo và quan tâm hết mực của của các cấp lãnh đạo của công ty và sự đoàn két nhất trí cao trong lãnh đạo công ty, cán bộ công nhân viên sứ Viglacera Thanh Trì đã từng bước tháo gỡ khó khăn, cân đối trong sản xuất kinh doanh, dân thích nghi được sự chuyển đổi và từng bước đi lên. Song bước sang năm 2008 để có thể tự khẳng định mình trên thị trường , tự đứng vững và phát triển tốt hơn đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải đồng tâm, đồng lòng vì sự nghiệp chung giữ vững kết quả đạt được, không bao giờ thoã mãn với kết quả đã có để dừng lại, kiên quyết phấn đấu ngày một tốt hơn Vơi bề dày lịch sử công ty đã xây dựng được uy tín, truyền thống, vị thế vững chắc và lớn mạnh của thương hiệu sứ vệ sinh Viglacera trên thị trường trong nước và quốc tế. Đứng trước những thách thức và cơ hội trong giai đoạn phát triển mới, việc đầu tư chiều sâu nhằm hiện đại hoá công nghệ sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh của côngty là vấn đề hết sức quan trọng. Qua nghiên cứu tình hình thực tế của công ty, em cho rằng việc huy dộng vốn cho đổi mới côngnghệ thiết bị sản xuất phải đa dạng hoá được nguồn vốn huy động, trong đó đặc biệt phải chú ý khia thác từ nguồn vốn bên trong. Và đặc biệt công ty nên chú ý huy động từ các nguồn huy động qua thị trường chứng khoán. Trong chuyên đề này, em đã áp dụng nhiều kiến thức đã được học để nghiên cứu thực tế công tác đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, trên cơ sơ rđó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị. Tuy nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp trong khi kiến thức còn hạn chế. Hơn nữa với thời gian ngắn tìm hiểu thực tế tại công ty hạn chế quá trình tìm hiểu sâu hơn, chuyên dề không tránh khỏi những khiếm khuyết và nội dung cũng như phương pháp nghiên cứu. Kính mong các thầy cô giáo và các cán bộ của công ty sứ Viglacera Thanh Trì góp ý để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn Sự hướng dẫn nhiệt tình và sáng suốt của cô giáo-Ths. Vũ Thị Hoa Sự giúp đỡ tận tình của cán bộ nhân viên phòng tài chính kế toán của công ty sứ Viglacera Thanh Trì Hà Nội. Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2007 Danh mục tài liệu tham khảo 1. TS. Nguyễn Thế Khải, Giáo trình phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp (Học Viện tài Chính), NXB Tài Chính năm 2003. 2. TS. Nguyễn Be, Giáo trình tài chính doanh nghiệp (Học Viện Ngân Hàng) , NXB Thống Kê năm 2005. 3. PGS-TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp (Trường đại học kinh tế quốc dân), NXB thống kê năm 2003. 4. TS. Nguyễn Đăng Nam & PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm, Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Tài Chính năm 2001 5. TS. Bạch Đức Hiển, PGS-TS. Nguyễn Công nghiệp, GIáo trình thị trường chứng khoán (Học Viện Tài Chính), NXB Tài Chính năm 2000 6. TS. Nguyễn Kim Dung, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Nông Nghiệp năm 2003. 7. Diễn đàn kinh tế và tài chính, Huy động tài chính cho phát triển, NXB Chính Trị QuốcGia năm 2006. 8. Các thông tin từ mạng Internet của BộTài Chính 9. Các tạp chí tài chính và tạp chí kinh tế số 15/2004, số 5/2005, số 10/2006 10. Tài liệu báo cáo của công ty sứ Viglacera Thanh Trì trong qua các năm. Nhận xét của đơn vị thực tập Họ và tên người nhận xét: Chức vụ: Nhận xét chuyên đề thực tập Sinh viên: Bùi Thị Ngọc Thuý Lớp : 11.10 Khoá: 41 Đề tài: "Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì". Người nhận xét (ký tên, đóng dấu) Nhận xét của người hướng dẫn khoa học Họ và tên người hướng dẫn khoa học: Ths. Vũ Thị Hoa Nhận xét chuyên đề thực tập Sinh viên: Bùi Thị Ngọc Thuý Lớp: 11.10 Khoá: 41 Tên đề tài: "Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì". Điểm: - Bằng số: Người nhận xét - Bằng chữ: Vũ Thị Hoa Nhận xét của người chấm chuyên đề Họ và tên người chấm chuyên đề: Nhận xét chuyên đề Sinh viên : Bùi Thị Ngọc Thuý Lớp: 11.10 Khoá: 41 Tên đề tài chuyên đề: "Những giải pháp chủ yếu huy động vốn để đổi mới công nghệ thiết bị tại công ty sứ Viglacera Thanh Trì". Điểm: - Bằng số : Người nhận xét - Bằng chữ : Mục lục Trang Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập Tác giả chuyên đề Bùi Thị Ngọc Thuý ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36655.doc
Tài liệu liên quan