Lời nói đầu
Với chủ trương xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã khẳng định sự tồn tại tất yếu của các thành phần kinh tế. Nhờ đó, kinh tế hộ sản xuất thực sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với đặc điểm hoạt động linh hoạt, có tính chủ động cao, không đòi hỏi nhiều vốn, khả năng hoàn trả vốn nhanh nhạy và thích ứng với cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất đã nhanh chóng khẳng định vị trí của mình trong nền
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Với vai trò và vị trí quan trọng của kinh tế hộ sản xuất, đòi hỏi phải có một cơ chế và chính sách quản lý thích hợp nhằm tạo điều kiện cho khu vực này phát huy được những tiềm năng và thế mạnh của mình.
Xuất phát từ thực tế khách quan về vốn cho phát triển kinh tế hộ sản xuất, dựa trên Nghị định 14/CP của Chính phủ “Quy định về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển kinh tế nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nông thôn”. Để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã chuyển hướng về địa bàn nông thôn, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước, cho vay các thành phần kinh tế trọng tâm là kinh tế hộ góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống nông dân. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã trở thành người bạn đồng hành và là cánh tay đắc lực của người lao động là chiếc cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn.
Thanh Trì là một huyện ngoại thành Hà Nội, dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, có khả năng tiềm năng để phát triển một ngành nông nghiệp toàn diện. Thực hiện tốt định hướng của ngành, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì đã bám sát các nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện đã chủ động đầu tư vốn, góp phần triển khai thành công các chương trình phát triển kinh tế trên địa bàn. Ngân hàng đã không ngừng gia tăng nguồn vốn bằng nhiều hình thức để đáp ứng nhu cầu vốn của kinh tế hộ sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển cải thiện đời sống của nhân dân trên địa bàn. Tuy nhiên bên cạnh đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì cũng còn gặp một số khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hộ sản xuất.
Qua quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì, tiếp xúc thực tế cho vay hộ sản xuất, kết hợp với những kiến thức học ở trường, em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Những giải pháp chủ yếu huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì”. Đề tài nhằm đánh giá đúng thực trạng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì hiện nay. Từ đó phát triển hơn nữa những mặt mạnh bổ khuyến những mặt yếu, tạo tiền đề, động lực cho huyện Thanh Trì bước vào thế kỷ XXI mạnh mẽ và vững chắc.
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận đề tài chia làm 3 chương chính.
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kimh tế hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì.
Chương III: Phương hướng và giải pháp huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì.
Do thời gian học hỏi và nghiên cứu còn hạn chế cả về lý luận và thực tiễn nên bài viết còn nhiều khiếm khuyết. Với lòng biết ơn sâu sắc, mong nhận được sự góp ý của thầy, cô giáo , các cán bộ ngân hàng và đọc giả.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo GS.TS Nguyễn Thế Nhã, các thầy cô giáo trong khoa KTNN & PTNT và các cô chú cán bộ công nhân viên ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Sinh Viên
Ngô Văn Hiển
Chương I
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất
I. Kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân
1. Vai trò của nông nghiệp nông thôn nước ta.
Nông nghiệp nông thôn có vị trí hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Nước ta hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lao động trong ngành nông nghiệp, hàng năm nông nghiệp sản xuất ra hơn 40% tổng sản phẩm xã hội và 50% giá trị thu nhập quốc dân.
Vai trò của nông nghiệp nông thôn còn thể hiện ở việc xuất khẩu các nông sản có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu với một thế mạnh về điều kiện đất đai, thiên nhiên, thời tiết và khí hậu, nên nông nghiệp nước ta có thể sản xuất ra nhiều nông sản thực phẩm cao cấp góp phần cho xuất khẩu. Tổng sản lượng nông nghiệp kể năm 1990 trở lại đây tăng đáng kể, trong đó nổi bật nhất là lương thực.
Năm 1990 sản lượng lương thực là 21,49 triệu tấn.
Năm 1991 sản lượng lương thực là 21,99 triệu tấn
Năm 1992 sản lượng lương thực là 24,20 triệu tấn
Năm 1993 sản lượng lương thực là 24,50 triệu tấn
Năm 1997 sản lượng lương thực là 30,50 triệu tấn.
Năm 1998 sản lượng lương thực là 31,85 triệu tấn, xuất khẩu 3,8 triệu tấn đứng thứ 2 sau Thái lan.
Từ chỗ độc canh cây lương thực nông nghiệp nước ta đang phát triển theo hướng đa dạng cơ cấu sản xuất cây nông nghiệp đã chuyển sang kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm gần 20% giá trị sản xuất nông nghiệp.
Hàng năm, nước ta trồng thêm được 1020 triệu ha rừng tập trung, 400 triệu cây phân tán, khai thác trên 3triệu mét khối gỗ 30triệu xe củi cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó việc đánh bắt và nuôi trông thuỷ sản đều đạt sản lượng cao.
Tuy nhiên nền nông nghiệp nước ta vẫn còn nét đặc thù đó là nền nông nghiệp tự cấp mà đại đa số nông dân sản xuất nhỏ là phổ biến, phân công và hợp tác chưa đồng đều. Do đó để có tốc độ phát triển kinh tế bình quân hàng năm tăng lên thì yêu cầu tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp là cấp bách.
2. Kinh tế hộ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp.
2.1. Khái niệm hộ sản xuất.
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Phương thức sản xuất này có những quy luật phát triển riêng của nó và trong mỗi chế độ nó tìm cách thích ứng với nền kinh tế hiện hành. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về hộ sản xuất.
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người chung huyết tộc và không cùng huyết tộc.
Liên hiệp quốc cho rằng: "Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ".
Tại cuộc thảo luận quốc tế lần thứ IV về quản lý nông trại tại Hà Lan năm 1980, đưa ra khái niệm: "Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác".
Có quan niệm lại cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các thành viên dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên cùng sáng tạo ra và cùng sử dụng chung. Quá trình sản xuất hộ được tiến hành một cách độc lập và các thành viên của hộ thường có cùng huyết thống, thường cùng sống chung trong một ngôi nhà. Hộ cũng là một đơn vị để tổ chức lao động, tồn tại như một đơn vị kinh tế cơ sở với chế độ tự cấp, tự túc, tự sản, tự tiêu.
Trên góc độ ngân hàng: "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ "hộ sản xuất" là "hộ", "hộ gia đình".
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Phụ lục số 1 kèm theo Quyết định 499A ngày 2/9/1993, theo đó khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau: "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông, làm trường viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các họ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta.
2.2. Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất.
Đặc điểm 1: Kinh tế hộ nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc khép kín lên dần nền kinh tế hàng hoá. Tiếp cận với thị trường chuyển từ nghề nông thuần tuý sang nền kinh tế đa dạng theo xu hướng chuyên môn hoá. Dưới sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường trong quá trình chuyển hoá tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh và hệ quả sẽ đến sự phân chia giàu nghèo trong nông thôn. Từ đó vấn đề đặt ra đối với quản lý và điều hành phía Nhà nước là phải làm sao cho phép kinh tế hộ phát triển mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ giàu, giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để hộ nghèo bớt khó khăn và vươn lên khá giả.
Đặc điểm 2: Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau khá lớn, giữa các vùng với nhau và ngay cả trong một vùng cũng có sự chênh lệch nhau giữa quy mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và trình độ hiểu biết giữa các hộ do điều kiện khó khăn và thuận lợi khác nhau giữa các vùng. Một tất yếu khác của sự phát triển kinh tế hộ sản xuất là nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng tăng độ giảm bớt tính chất sản xuất phân tán, manh mún lạc hậu của kinh tế tiểu nông.
Đặc điểm 3: Trong quá trình chuyển hoá kinh tế hộ sản xuất sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế khác nhau như: Hộ nhận khoán, trong đó các hộ là các thành viên của các tổ chức kinh tế đó. Một loại hình kinh tế hộ khác xuất hiện đó là các hộ nhận khoán thầu. Trong quá trình nhận thầu nhìn chung phần lớn kinh tế các hộ nhận thầu phát triển nhanh thu nhập cao rõ rệt, nhưng bên cạnh đó còn có hộ gặp rủi ro, thất bại.
Một hình thức kinh tế hộ cao hơn đó là kinh tế trang trại. Đây là hình thức phổ biến của các nước phát triển trên thế giới, có tác dụng tạo ra nhiều nông sản hàng hoá. ở nước ta hình thức này còn ít và ở trình độ thấp ở một số nơi như các vùng kinh tế mới, hình thức kinh tế trang trại đã bắt đầu phát triển và mang hiệu quả rõ rệt (cây cà phê, cây điều...).
2.3. Phân loại hộ sản xuất:
Các hộ sản xuất dù hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng có những đặc trưng phát triển do bản thân nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quyết định. Hộ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ thuộc rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư mỗi gia đình. Việc phân loại hộ sản xuất có căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp nhằm đầu tư phát triển có hiệu quả kinh tế hộ sản xuất.
Có nhiều cách phân loại hộ sản xuất khác nhau:
2.3.1. Dựa trên các yếu tố tự nhiên.
Yếu tố tự nhiên đề cập đến đây là các đặc trưng địa lý kinh tế, xã hội. Có thể gặp hai kiểu phân loại chính: Một là thành thị - nông thôn; hai là vùng kinh tế.
- Hộ sản xuất thành thị và nông thôn: Các hộ được phân công theo địa bàn cư trú tương ứng là thành thị và nông thôn. Nước ta có 80% số hộ nông thôn và 20% hộ thành thị.
- Hộ sản xuất theo vùng kinh tế: theo đó nước ta có 7 vùng chính đó là: Miền núi và trung du Bắc Bộ; Đồng bằng Sông Hồng; ven biển Bắc Trung Bộ; ven biển Nam Trung Bộ; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Đồng bằng Sông Cửu Long.
Hoạt động kinh tế hộ sản xuất mang sắc thái và đặc trưng mỗi vùng.
2.3.2. Dựa trên các yếu tố kinh tế.
- Đây là hình thức phân loại thường gặp nhất, trong đó bao gồm nhiều dạng phân loại khác nhau. Dựa vào thu nhập có thể chia ra hộ giàu - nghèo; hoặc hộ giàu, hộ khá - hộ trung bình - hộ nghèo. Tuy nhiên, việc tính thu nhập nhất là của người nông dân là điều rất phức tạp. Mặt khác, tiêu chuẩn giàu, nghèo khác nhau giữa các khu vực như thành thị, nông thôn.
- Dựa vào mức độ đa dạng hoá sản xuất có thể chia ra: hộ thuần nông, hộ kinh doanh tổng hợp, hộ sản xuất phi nông nghiệp. Từ sự phân hoá trên có thể đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp tại điều kiện khuyến khích các hộ phát triển ngành nghề, tăng trưởng sản phẩm hàng hoá.
2.4. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Từ khi Nghị Quyết VI ( Khoá VI tháng 03/1989 ) - Bộ Chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh tăng vụ, bố trí phân vùng đặc điểm sinh thái và nhu cầu thị trường, khai phá thêm hàng ngàn hecta đất mới, ruộng đất được sử dụng tốt hơn, vừa đi vào thâm canh vừa đi vào đổi mới cơ cấu sản xuất, cơ cấu thời vụ. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất để đạt tới mục đích cuối cùng là thu được thành quả lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế, là đơn vị tích vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
2.4.1. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình; tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Kinh tế hộ sản xuất được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bước chuyển từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá quy mô lớn. Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
2.4.2. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
Lao động là nguồn lực dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là động lực quyết định của nền kinh tế quốc dân. Bởi lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam có 80% dân số sống ở mức thấp mặc dù từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước, trong những năm qua số lượng các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng, nhưng yêu cầu đối với lao động nông thôn của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động nông thôn có cơ hội làm việc trong các doanh nghiệp này. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 12 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa được sử dụng hết. Các yếu tố tự nhiên chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn chúng ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nông nghiệp và nông thôn.
Mặt khác, do cấu tạo hữu cơ thấp, quy mô sản xuất nhỏ, nên mức đầu tư cho một lao động trong kinh tế hộ sản xuất là thấp. Qua khảo sát Việt Nam cho thấy :
- Vốn đầu tư cho hộ sản xuất: 1,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu tư cho 1 công ty tư nhân: 3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu tư cho kinh tế quốc doanh địa phương:
3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
(ở đây chỉ tính vốn đầu tư tài sản cố định)
Như vậy, chi phí cho một lao động ở trong hộ sản xuất là ít tốn kém nhất. Điều này đặt trong hoàn cảnh đất nước ta còn là một nước nghèo, vốn tích luỹ ít thì càng khẳng định hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp góp phần giải quyêts công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng.
2.4.3. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các đơn vị kinh tế nói chung và hộ sản xuất nói riêng đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích, hộ sản xuất không ngừng vươn lên tự khẳng định vị trí trên thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển đầy đủ, đa dạng thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
2.4.4. Hộ sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động dần tới chuyên môn hoá, tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Kinh tế hộ đã từng bước tạo sự chuyển dịch cơ cấu nông thôn, củng cố quan hệ sản xuất, tăng cường lực lượng sản xuất tạo sự phân công lao động trong nông thôn từ nền sản xuất thuần nông lạc hậu, sản xuất hàng hoá kém phát triển sang sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Từ sự phân công lao động dẫn đến quá trình chuyên môn hoá trong các hộ sản xuất. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ thì sự chuyên môn hoá càng cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện, đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau. Nếu như chuyên môn hoá làm cho năng xuất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn thì hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn thiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chính các hộ sản xuất và từ đó đáp ứng nhu cầu thị trường.
2.5. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến hành lên CNXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển làm nòng cốt cho phát triển kinh tế hộ nông thôn.
Những ngày đầu cải tạo XHCN, kinh tế hộ cá thể được coi là mảnh đất hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB. Do đó nó không được pháp luật thừa nhận, mà trái lại nó còn được coi là đối tượng cải tạo. Sau đó, chúng ta đã nhận thấy trong điều kiện một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trình độ sản xuất thấp, kinh tế hộ cá thể sẽ trở thành nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 01/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phóng (tự do hoá) sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VII, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp từ tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phấn. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ chương, csc để định hướng nêu trân. Nhờ đó, kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Sau Nghị Quyết VI BCH TW khoá VI (3/1989 ) thừa nhận hộ là đơn vị kinh tế tự chủ rồi đến Nghị định 66 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 2/3/1992, cùng luật doanh nghiệp tư nhân NĐ 29 ngày 19/3/1998, luật công ty thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992: "Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ VII của Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/1993, tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá VII), Đảng đã ban hàng nghị định TW5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai, quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
Nghị quyết TW5 cùng các văn bản luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương CNH - HĐH đất nước.
Nghị quyết TW6 lần một (khoá VIII) với chủ trương "tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, nhất là CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn" đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với các chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển "Kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất.
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính. Bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình tín dụng ngân hàng đạt được ưu thế hơn các hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn TDNH có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để đáp ứng điều kiện vay vốn ngân hàng.
Đối với ngân hàng, tư khi chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ, thông tư 01 - TD - NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/1999/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/CV - NHNN 14 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHNo - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam về thực hiện một số chính sách ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình hình đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là một yếu tố phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò tín dụng ngân hàng với kinh tế hộ sản xuất.
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay, thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng, các đơn vị kinh tế không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
2.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Nếu như vốn tham gia vào quá trình đầu tư không đem lại hiệu quả sẽ không có sự tăng trưởng thậm chí còn gây sức ép tới lạm phát, tạo ra kết cục trái ngược. Thực tế cho thấy, quá trình sản xuất luôn trải qua những giai đoạn khác nhau, vì vậy các doanh nghiệp nói chung và hộ sản xuất nói riêng có lúc thừa vốn có lúc thiếu vốn. Việc vay bổ sung vốn lưu động sẽ giúp cho quá trình sản xuất được liên tục. Mặt khác, vốn đầu tư từ bên ngoài vào còn giúp cho các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đổi mới công nghệ nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước như nước ta hiện nay.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất với sự chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất chưa thu hoạch sản xuất, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của tín dụng ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tin thần cho mọi người.
Như vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng ngân hàng. cũng vì thế mà thị phần của các hộ sản xuất trong dư nợ của ngân hàng nông nghiệp càng tăng.
2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng ngân hàng đã được thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có nghĩa là vốn đã được bổ sung vào đúng chỗ còn thiếu, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn, đóng góp cho xã hội nhiều sản phẩm với chất lượng cao thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo tránh được rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. trên cơ sở đó hộ sản xuất phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
2.3. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ. Và tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn rỗi giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở các thành thị và nông thôn, đ._.ẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ. Như vậy, bằng động tác gián tiếp ngân hàng đã kích thích các hộ sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải hoạch định kinh doanh để tính toán có hiệu quả, giảm chi phí sản xuất hàng hoá, góp phần vào phát triển kinh tế hộ nói riêng và nền kinh tế cả nước nói chung.
2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị - xã hội:
Tín dụng ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được tiêu cực xã hội. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau, hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên hộ giàu. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như: rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng kinh doanh. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
3. Giới thiệu một số chính sách tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nước đối với tín dụng hộ sản xuất.
Sau hơn 10 năm đổi mới, việc thực thi hàng loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới; đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chính sách tín dụng ngân hàng đã và đang thực hiện đổi mới đồng bộ và hữu đáp ứng các yêu cầu mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực và nguồn bên ngoài. Nhìn lại các chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn có thể nói chính sách tín dụng nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn luôn là một chính sách quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày 26 tháng 8 năm 1991 (Ngày đầu của thời kỳ đổi mới) Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có chỉ thị số 202/CT nêu rõ: "Việc cho vay của ngân hàng để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp cần được chuyển sang cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất thuộc các ngành này thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ".
Ngày 2/03/1993 trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm sau hơn 1 năm "làm thử" việc chuyển sang cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/CP về "chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn". Đây là bước tiến mới, vì chỉ thị 202/CP chủ yếu chỉ đề cập đến việc chuyển hướng tín dụng ngân hàng sang cho vay trực tiếp hộ sản xuất và triển khai thực hiện như một chương trình thử nghiệm.
Ngày 20/03/1999 chính phủ ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg về "một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn".
Ngày 16 tháng 04 năm 1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước có văn bản số 320 CV-NHN 14 hướng dẫn thực hiện một số nội dung trong Nghị định 67 của Chính phủ và giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chịu trách nhiệm chủ yếu thực hiện.
Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam yêu cầu các chi nhánh ngân hàng thực hiện một số nội dung sau có liên quan tới tín dụng hộ sản xuất.
* Về nguồn vốn :
- Các chi nhánh thành viên phải có biện pháp phù hợp để huy động nguồn vốn của các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể đã góp phần phục vụ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn của địa phương.
- Để tranh thủ ngày càng nhiều nguồn vốn từ nước ngoài, các chi nhánh phải thực hiện việc giải ngân đúng cẩm nang và đúng thời gian bảo đảm hiệu quả cao các dự án uỷ thác để tăng tín nhiệm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với Chính phủ và các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Đối với tín dụng thực hiện các chương trình kinh tế theo chính sách của Đảng, Nhà nước có ưu đãi lãi suất, phải tổ chức tốt khâu thẩm định và giải ngân để nhận toàn bộ nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước chuyển sang Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nôngthôn Việt Nam cho vay các chương trình này.
* Về cơ chế tín dụng:
Các chi nhánh tổ chức tốt việc điều tra nắm nhu cầu vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế hộ trên địa bàn.
* Về cơ chế đảm bảo tiền vay.
- Đối với hộ gia đình sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, mức vay tối đa đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, nhưng mức vay cụ thể phải căn cứ vào nhu cầu vốn hợp lý cho từng đối tượng vay và có hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh. Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất...
- Đối với các khoản vay khắc phục thiên tai thì người vay không phải thực hiện quy định đảm bảo tiền vay. Trong trường hợp có rủi ro, các chi nhánh báo cáo cho Thống đốc để trình Thủ tướng chính phủ xem xét giải quyết.
* Về mạng lưới phục vụ và giao dịch:
- Các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, thành phố phải căn cứ vào địa bàn hoạt động, đối tượng tín dụng, khả năng tài chính, từng bước mở rộng mạng lưới ngân hàng loại IV (xã, liên xã, thị trấn) để đáp ứng yêu cầu và huy động vốn vừa cho vay tạo thuận tiện cho khách hàng, thực hiện giải ngân tại chỗ, trực tiếp đến hộ vay vốn.
- Việc uỷ thác cho quỹ tín dụng và các ngân hàng thương mại cổ phần ở nông thôn làm đại lý một số nghiệp vụ tín dụng, chi nhánh phải xem xét đầy đủ khả năng quản lý, tài chính và khả năng thực hiện nghiệp vụ đại lý của tổ chức này và phải có đề án trình Tổng giám đốc xem xét quyết định mới thực hiện.
3.2. Một số quyết định chính sách của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với tín dụng đầu tư hộ sản xuất.
- Căn cứ điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ban hàng kèm theo Quyết định số 390/QĐ - NHNN5 ngày 22 tháng 11 năm 1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
- Căn cứ Quyết định số 284/2000/QĐ - NHNN1 ngày 21/9/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ của tổ chưc chính sách tín dụng.
- Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam kỳ họp lần thứ 15.
Ban hành kèm theo quyết định này quy định cho vay đối với khách hàng.
- Quyết định này (Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18 thời gian tháng 01 năm 2001) có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 02 năm 2001 và thay thế các quy định của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sau đây:
+ Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15 tháng 12 năm 1998 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về việc ban hành cho vay đối với khách hàng.
Các văn bản hướng dẫn Quyết định số 180/QĐ/HĐQT của Tổng giám đốc: văn bản số 1110/NHNo-05 ngày 2 tháng 6 năm 1999 về mẫu biểu cho vay theo QĐ 180; văn bản số 2375/NHNo-05 ngày 18 tháng 10 năm 1999 về việc thực hiện Quyết định số 180/QĐ/HĐQT.
Trong phạm vi đề tài này chỉ giới thiệu một số quy định việc cho vay bằng đồng Việt Nam của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tư phát triển và đầu tư phát triển và đời sống của kinh tế hộ sản xuất.
* Về đối tượng áp dụng: Hộ gia đình, cá nhân thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp đóng làm trụ sở. Trường hợp hộ chỉ có đăng ký tạm trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của nơi thường trú và có xác nhận UBND xã (phường) nơi đến cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch đối với ngân hàng là chủ hộ hoặc người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự.
- Đối với hộ nông dân (nông - lâm - ngư - diêm nghiệp) phải được cơ quan có thẩm quyền cho thuê giao quyền sử dụng đất, mặt nước.
- Đối với hộ đánh bắt thuỷ sản: Phải có phương tiện đánh bắt và được Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho phép đánh bắt.
- Đối với hộ gia đình cá nhân kinh doanh: Phải được cơ quan thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh..
- Đối với hộ làm kinh tế gia đình và hộ khác phải được UBND xã (phường) xác nhận cho phép sản xuất kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình. Riêng đối với hộ là nông lâm trường phải có xác nhận của Giám đốc nông trường.
* Về nguyên tắc vay vốn.
- Khách hàng phải đảm bảo:
+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng (mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, phù hợp với chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, phù hợp với giấy phép kinh doanh với mục đích được giao, thuê, khoán quyền sử dụng mặt nước).
+ Phải có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
+ Phải trả gốc và lãi tiền vay đúng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Nếu không thực hiện đúng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và ngân hàng Nông nghiệp có quyền bán tài sản làm đảm bảo theo thoả thuận trong hợp đồng để thu nợ theo quy đinh của pháp luật.
+ Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính phủ, Thống đốc ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn về đảm bảo tiền vay của ngân hàng nông nghiệp đối với khách hàng.
- Các Ngân hàng nông nghiệp cơ sở phải đảm bảo:
+ Cho vay các đối tượng là giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
+ Thoả thuận thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng tối đa không quá 12 tháng. Cho vay trung và dài hạn được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của ngân hàng nông nghiệp (cho vay trung hạn từ 12 - 60 tháng cho vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành bảng hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống).
+ Thoả thuận lãi suất cho vay cho phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng.
+ Mức cho vay: Ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án: mức cho vay tối đa không quá 70% tổng nhu cầu vốn của dự án (đối với cho vay đời sống là không quá 60% tổng nhu cầu) tỷ lệ cho vay không quá 70% giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay.
+ Ngân hàng nông nghiệp được miễn giảm tiền vay của khách hàng theo nguyên tắc khách hàng bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân - Ngân hàng nông nghiệp không được miễn giảm lãi tiền vay đối với khách hàng thuộc đối tượng quy định tại điểm 1 điều 78 luật của tổ chức tín dụng.
+ Ngân hàng nông nghiệp có nghĩa vụ thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Ngân hàng nông nghiệp nơi cho có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đầy đủ những cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng phù hợp với đặc điểm hoạt động của chi nhánh và đặc điểm kinh doanh, sử dụng vốn của khách hàng.
Tiến hành kiểm tra trước khi cho vay đó là việc thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định.
Kiểm tra trong khi cho vay bao gồm: Kiểm tra việc giải ngân theo tốc độ thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
Kiểm tra sau khi cho vay bao gồm: Kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay sau khi cho vay, kiểm tra hiệu quả của dự án hoặc phương án, kiểm tra hiện trạng tài sản đảm bảo tiền vay.
Sau khi kiểm tra vốn vay nếu có phát hiện khách vi phạm, giám đốc Ngân hàng nông nghiệp cho vay căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng mà quyết định xử lý cho phù hợp và đúng quy định. Tạm ngưng cho vay trong trường hợp khách hàng sử dụng sai mục đích, cung cấp thông tin sai sự thật nhưng đã được khắc phục và sửa chữa. Chấm dứt cho vay trong các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng đã cam kết nhưng không khắc phục và sửa chữa, khách hàng ngừng sản xuất có thể dẫn đến phá sản. Ngân hàng sẽ tiến hàng khởi kiện trước pháp luật đối với khách hàng vi phạm một trong những điều sau: Vi phạm hợp đồng tín dụng và đã được ngân hàng thông báo nhưng không khắc phục. Có sự quá hạn do nguyên nhân chủ quan nhưng không có biệm pháp để trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ ngân hàng theo thoả thuận, có hành vi lừa đảo, gian lận (thủ tục khởi kiện theo quy định của pháp luật).
III. Đặc điểm huy động vốn và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng .
1. Đặc điểm huy động vốn.
Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn hoạt động trước hết phải có vốn. Nhưng do những khác biệt trong công tác tổ chức cũng như vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế mà nhu cầu về vốn của ngân hàng rất lớn. Nhu cầu về vốn của ngân hàng được đáp ứng từ những nguồn vốn sau:
1.1. Vốn tự có
Nguồn vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ hai bộ phận:
* Vốn điều lệ: Là số vốn bán đầu của ngân hàng, là tiêu chuẩn để một ngân hàng thành lập và đi vào hoạt động: Về quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định (vốn do Nhà nước quy định). Tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau của từng ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành khác nhau. Vốn điều lệ nói lên sức mạnh và khả năng hoạt động ban đầu của một ngân hàng.
* Vốn tự có bổ sung: Được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của ngân hàng.
1.2. Nguồn vốn vay từ trung ương.
Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới nhiều hình thức như: cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá trị của ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
1.3. Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, do đó nó tác động đến nguồn vốn và khả năng sử dụng của từng chi nhánh.
1.4. Nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động có nhiều hình thức khác nhau.
1.4.1. Các khoản tiền gửi của khách hàng.
a. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây là một trong những khoản tiền lớn gửi ngân hàng.
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau, thông thường là theo thời gian:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã được thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng.
b. Tiền ký gửi.
Đây là khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc sử dụng các khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
* Tiền ký gửi không kỳ hạn: Là các khoản tiền gửi mà người gửi có quyền rút ra bất kỳ lúc nào họ muốn. Đối với loại này tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà không được phép tính lãi hoặc lãi thấp.
* Tiền gửi có kỳ hạn: Với khoản tiền gửi này, ngân hàng chỉ phải hoàn trả số tiền ký gửi vào ngày đến hạn ghi trên hợp đồng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng.
1.4.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính, tín dụng.
Các NHTM có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài chính tín dụng. Đối với những NHTM ở các nước phát triển có quan hệ rộng khắp thì nguồn vốn vay là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng. Nguồn vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các ngân hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn quan trọng.
1.4.3. Các hình thức huy động vốn khác.
Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, ngân hàng còn thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành tín phiếu ngân hàng, tín phiếu cầm cố... Thông thường đối với những hình thức này thường lãi suất cao hơn so với các loại hình tiền gửi tiết kiệm và các loại hình được huy động vốn theo từng sáng kiến của mỗi (khách hàng) ngân hàng. Với các hình thức này, ngân hàng chủ động về mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay theo những nhu cầu hiện tại của mình.
2. Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng .
Đây là thành phần quan trọng nhất trong danh mục các khoản sử dụng vốn của ngân hàng. Hoạt động sinh lợi của các ngân hàng là hoạt động tín dụng. Các khoản mục tín dụng có thể được phân loại theo nhiều cách: Mục đích, hình thức bảo đảm (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng...
* Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng có thể chia thành các khoản mục như sau:
- Nông nghiệp:
+ Cho vay trồng trọt.
+ Cho vay chăn nuôi.
- Công nghiệp - TTCN
- Thương mại - dịch vụ
- Phát triển ngành nghề.
- Mục đích khác.
* Căn cứ theo hình thức đảm bảo thì khoản mục tín dụng được phân chia thành:
- Cho vay có đảm bảo.
- Cho vay không có đảm bảo.
* Căn cứ theo kỳ hạn có:
- Cho vay ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn.
- Cho vay dài hạn.
Những quy định về kỳ hạn của các khoản mục cho vay được quy định theo điều luật của từng quốc gia.
* Căn cứ theo phương pháp hoàn trả có:
- Các khoản vay hoàn trả một lần.
- Các khoản vay hoàn trả nhiều lần.
Chúng ta sẽ phân tích một số khoản mục quan trọng.
2.1. Cho vay có đảm bảo.
Cho vay có đảm bảo là hoạt động quan trọng của ngân hàng, nó biểu hiện việc ngân hàng cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có thể bao gồm nhiều loại khác nhau như: bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, máy móc thiết bị, nhà máy, cổ phiếu,... yêu cầu cơ bản của những vật thế chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ khi đến hạn thanh toán với ngân hàng.
Sự đảm bảo là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do đó chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kém này có thể được biểu hiện thông qua một vài yếu tố, bao gồm: nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và lợi nhuận thấp. Người trong điều kiện thế chấp như vậy có thể tạo uy tín bằng việc thế chấp các tích sản. Khi người vay đem cầm cố các tích sản mang quyền sở hữu của mình thì hộ sẽ có ý hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần được bảo đảm hay không. Khi kỳ hạn cho vay dài, rủi ro trong việc hoàn trả tăng lên thì các khoản vay càng cần có sự đảm bảo.
2.2. Cho vay không đảm bảo.
Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không bảo đảm được dựa trên hình thức tài chính của người vay, lợi tức có thể thu được trong tương lai, ý thức trả nợ trong quan hệ với ngân hàng trước đây, tín nhiệm của ngân hàng đối với người vay. Trong hoạt động của ngân hàng có một số khoản vay chủ yếu thì trong nhiều trường hợp họ được hưởng lãi suất ưu đãi và không cần có bảo đảm cho khoản vay. Những công ty ấy thường là có danh tiếng trên thị trường, có phương cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận ổn định và có một khả năng tài chính vững mạnh. Họ sẵn sàng cung cấp cho ngân hàng các báo cáo tài chính của công ty để ngân hàng nắm rõ tình hình tài chính, sự tiến bộ của họ và có thể đáp ứng các món cho vay không đảm bảo.
Các doanh nghiệp không phải là khách hàng duy nhất của ngân hàng được cho vay trên cơ sở không cần đảm bảo, nhiều cá nhân cũng được hưởng đặc quyền này. Những người có nhà riêng, có công ăn việc làm ổn định, làm việc trong các công sở có thu nhập ổn định, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đó cũng sẽ được vay không cần bảo đảm.
2.3. Cho vay hoàn trả một lần.
Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào từng thời điểm nhất định hoặc trả khi đáo hạn. Đối với khoản vay này việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gánh nặng đối với khách hàng. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay ngắn hạn.
2.4. Cho vay hoàn trả làm nhiều lần.
Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất định. Cho vay hoàn trả nhiều lần được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng tín dụng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải được trả một lần. Đối với nhiều người các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví như các khoản trả góp, đóng vai trò như một phương tiện tích luỹ. Các khoản trả góp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng mức tiết kiệm của người dân và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
2.5. Cho vay ngắn hạn.
Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn là một năm hoặc thấp hơn. Cho vay ngắn hạn được thực hiện một thời gian nhất định dưới một năm hoặc trên cơ sở theo yêu cầu (đã được thoả thuận trước với ngân hàng). Cho vay theo yêu cầu là khoản cho vay không có kỳ hạn nhất định và ngân hàng phải đáp ứng khi khách hàng phát sinh nhu cầu vay vào bất cứ thời điểm nào. Cho vay theo yêu cầu, người vay có được vị thế rất linh hoạt và có thể trả nợ trong một thời gian rất ngắn.
Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.6. Cho vay trung và dài hạn.
Thời hạn cho các khoản vay trung và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Theo quy định của nước ta, những khoản vốn vay từ 1 đến 3 năm được coi là trung hạn, từ 3 năm trở lên được coi là dài hạn. Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn và khách hàng được vay với mục đích dùng để đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định.
Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung hạn và dài hạn vì một số lý do: Thứ nhất, khách hàng có thể yên tâm về thời gian sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian ngắn việc sử dụng vốn phục vụ cho mở rộng sản xuất kinh doanh để mang lại lợi nhuận thường gặp khó khăn. Do đó muốn phát triển kinh doanh cần có n hững nguồn vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho sản xuất. Thứ hai, các khoản vay trung hạn và dài hạn thường thuận tiện hơn các khoản vay ngắn hạn, doanh nghiệp không phải hoàn trả toàn bộ khoản vay một lần, thay vào đó các khoản trả nợ được hoàn trả theo phương pháp trả nhiều lần trong thời gian khoản vay được thực hiện. Thứ ba, các món vay trung và dài hạn dễ dàng thực hiện hơn so với các hình thức tài trợ khác như phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu mới...
Vốn trung và dài hạn là một nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự tăng trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển.
IV. Đặc điểm sử dụng vốn của hộ sản xuất.
Người dân ở nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng họ chủ yếu sống bằng nghề nông là chính, mà nông nghiệp lại phụ thuộc và điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên ngoài mặt tích cực là mang lại thuận lợi cho sản xuất, nó vẫn còn mang lại không ít khó khăn, sản xuất thường gặp nhiều rủi ro như mưa nắng, lũ lụt, sâu bệnh... Vì vậy việc sử dụng vốn tín dụng cũng có dễ xảy ra rủi ro, nhiều khi đầu tư bị mất trắng không có khả năng hoàn trả.
Thu nhập của các hộ sản xuất nói chung là thấp, đời sống của họ còn nhiều khó khăn. Vì vậy vốn tín dụng còn có hiện tượng sử dụng sai mục đích. Có trường hợp vốn cung cấp không được đầu tư vào sản xuất, mà dùng vào mua sắm hoặc đánh bạc nên làm cho đồng vốn phát huy tác dụng kém.
Đối tượng vay vốn là các hộ gia đình, nên món vay thường nhỏ. Vì vậy thủ tục cần đơn giản, gọn nhẹ tránh để người dân đi lại nhiều gây lãnh phí thời gian và tiền của của người dân dẫn đến chi phí cho một đồng vốn vay khá cao.
Đối tượng sản xuất của các hộ sản xuất chủ yếu là cây trồng, con vật nuôi nó có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Vì vậy việc sử dụng vốn phải phù hợp với từng loại cây trồng, từng loại vật nuôi. Vốn đầu tư phải được sử dụng đúng lúc, đúng thời gian mới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp. Vì vậy cần thiết phải có lượng vốn dự trữ đáng kể trong thời gian dài cho nên hiệu quả sử dụng vốn không cao.
Mặt khác hộ sản xuất còn có các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nên việc sử dụng vốn cũng có một phần hiệu quả hơn.
* Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng ở hộ sản xuất ngoại thành.
- Tốc độ đô thị hoá nhanh, do đó hầu hết các huyện ngoại thành đều bị thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Để tạo công ăn việc làm cho người dân nông thôn, không còn có cách nào khác là phải phát triển nhiều ngành nghề, đó là cách sử dụng vốn hợp lý nhất, có hiệu quả nhất nhằm phát triển kinh tế nông thôn.
- Trình độ thâm canh của nông dân vùng ngoại thành tương đối cao, do đó họ luân giao cây trồng những cây có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Từ đó tạo điều kiện phát triển sản xuất, như vậy việc sử dụng vốn cũng có hiệu quả hơn.
- Trình độ dân trí cao hơn so với nơi khác, quan hệ hàng hoá tiền tệ cũng biểu hiển rõ nét hơn. Họ mạnh dạn vay vốn đầu tư vào sản xuất khi cần thiết, khi đến hạn trả sòng phẳng, việc sử dụng vốn thường có hiệu quả hơn nơi khác.
V. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế nông thôn.
Do nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân, nhiều nước trên thế giới nhất là các nước nông nghiệp trong khu vực Đông Nam á đã rất coi trọng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Kinh nghiệm của một số nước sau đây về vấn đề này cần được nghiên cứu và tham khảo.
Thứ nhất: Ngân hàng nhân dân Indonesia
Ngân hàng nhân dân Indonesia (BRI) là ngân hàng thương mại thuộc quyền hữu chính phủ song hoạt động như một ngân hàng thương mại độc lập. BRI hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo những nguyên tắc, quy chế được soạn thảo trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế. BRI có bốn lĩnh vực hoạt động chính. Một trong bốn lĩnh vực này là hoạt động ngân hàng vi mô do hệ thống ngân hàng đơn vị BRI đảm nhiệm và hệ thống này chịu trách nhiệm cung cấp các sản phẩm tiết kiệm và tín dụng cho cộng đồng dân cư ở nông thôn. mạng lưới rộng lớn với 3.703 đơn vị ở khu vực nông thôn là một trong những hệ thống lớn nhất của hệ thống ngân hàng đơn vị.
BRI có một số lượng rất hạn chế các sản phẩm tín dụng. Điều này giúp khách hàng hiểu một cách dễ dàng về các sản phẩm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ cán bộ song song với việc nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng. Các đặc tính chủ yếu của các sản phẩm không thay đổi theo thời gian. Tóm lại đơn giản hoá là một trong những nguyên tắc quản lý của BRI.
BRI không cho vay nhóm nhưng trong các sản phẩm tín dụng đều được lồng ghép bởi một "hệ thống khuyến khích hoàn trả nhanh chóng" nhằm khuyến khích khách hàng vay vốn hoàn trả đúng hạn. BRI đặt ra các mức lãi suất cho vay khác nhau phụ thuộc vào việc thanh toán đúng hạn. Khách hàng khi vay thực tế phải chịu một lãi suất cố định hàng tháng trong đó bao gồm 255 số tiền lãi đã thu là lãi phạt. Nếu trả nợ khách hàng sẽ đợc hoàn lại một số lãi phạt đã thanh toán cho ngân hàng. Mặc dù nguyện vọng được vay những lần tiếp theo là yếu tố chủ yếu khuyến khích người vay trả nợ nhưng "hệ thống khuyến khích" đã tạo ra một động cơ rất mạnh mẽ để người vay thanh toán nợ khi đến hạn. Tính hiệu quả của phương pháp này được thể hiện bởi tỷ lệ quá hạn là 5,77% và tỷ lệ thất thoát vốn dài hạn là 2,6%.
BRI chỉ cho vay đối với khách hàng có thể chứng minh được mình đã có 3 năm hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tất cả các khoản vay đều phải có tài sản thế chấp mặc dù việt phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ rất hiếm khi xảy ra. Ngân hàng xem tài sản thếp chấp chỉ là một chỉ số đánh giá tính nghiêm túc của mục đích vay vốn của khách hàng.
Quá trình chấp thuận khoản vay và kiểm soát khoản vay nhất là với những khách hàng vay lần đầu rất được ngân hàng chú trọng. Việc tới thăm các khách hàng tại nhà trước và sau khi cho vay là bắt buộc đối với cán bộ tín dụng. Đối với khách hàng xin vay vốn lần thứ hai thì mức độ chi tiết tại các lần thăm thực tế sẽ thấp hơn.
Thứ hai: Ngân hàng phát triển nông nghiệp Thái Lan (BAAC)
* ._.vay và đảm bảo khi khách hàng có tài khoản, có yêu cầu rút tiền gửi hoặc thanh toán ngân hàng phải thực hiện kịp thời. Đây là điều kiện giúp cho ngân hàng huy động vốn với giá rẻ nhất do chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay có điều kiện cạnh tranh trên thị trường.
2. Giải pháp sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất.
2.1. Đối với ngân hàng cho vay hộ sản xuất.
Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế hộ sản xuất, để có chính sách cho vay vốn phù hợp với điều kiện sản xuất của từng hộ là rất quan trọng. Để làm công tác cho vay cho những năm tới thì ngân hàng phải kết hợp đồng bộ các giải pháp sau:
2.1.1. Cải tiến thủ tục vay và thời gian cho vay để hộ sản xuất tiếp cận khi thiếu vốn.
Đơn giản hoá thủ tục cho vay trên cơ sở đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lý. Hiện nay trong vấn đề về thủ tục vay vốn đối với hộ sản xuất nghiệp đang nổi lên mâu thuẫn lớn, là một chính sách mới nên việc xét duyệt làm thủ tục cho vay phải hết sức chặt chẽ thận trọng, tránh những rủi ro pháp lý xảy ra. Nhưng do trình độ dân trí nói chung của nhân dân còn thấp nên đối với họ thủ tục như hiện nay là quá nhiều giấy tờ thủ tục phức tạp và tốn nhiều thời gian trong việc đi lại làm thủ tục xin vay và giải quyết cho vay, có nhiều trường hợp làm đơn xin vay vốn nhưng do quá trình xét duyệt quá lâu và kéo dài cho đến khi vay được vốn thì dự án đầu tư vào đã trái mùa. Do vậy, nên chăng các khoản vay dưới 5 triệu đồng không cần phải lập dự án sản xuất kinh doanh để trình ngân hàng, cho nên đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn đồng thời vẫn đảm bảo tính pháp luật chặt chẽ và đảm bảo nguyên tắc tín dụng của ngân hàng. Có đơn xin vay và khế ước vay tiền nên kết hợp vào một bản và thời gian từ khi làm thủ tục vay đến khi người vay nhận được tiền cần rút ngắn chỉ nên từ 3 đến 10 ngày để không lỡ mất cơ hội làm ăn của người dân.
2.1.2. Thực hiện cho vay không phải thế chấp.
Theo quy định hiện nay (QĐ 67/QĐ - TTg tháng 3 năm 1999), những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh dưới 10 triệu đồng thì không phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Quy định này tạo điều kiện cho hộ sản xuất nhỏ, thu nhập thấp tiếp cận đến vốn tín dụng ngân hàng nhưng mặt khác cũng làm phát sinh nguy cơ có hàng ngàn món vay nhỏ bị mất an toàn. Do đó ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng phải khai tài sản thế chấp.
Phần lớn các đơn vị các hộ sản xuất vay ngân hàng đều thế chấp tiền vay bằng bất động sản chủ yếu là nhà đất. Nhưng ở nông thôn do cơ chế bao cấp từ nhiều năm để lại, người dân chuyển nhượng nhà cửa cho nhau thậm chí không cần giấy tờ nếu có cũng là đôi bên thoả thuận, hợp tác xã chứng nhận cao hơn nữa là UBND xã xác nhận khi đối chiếu với nguyên tắc cho vay của ngân hàng đều không hợp lệ. Bởi vì tài sản thế chấp phải hợp đủ 3 yếu tố:
- Có giá trị và giá trị sử dụng.
- Phụ thuộc quyền sở hữu của ngời vay.
- Có khả năng bán, chuyển nhượng dễ dàng.
Việc thế chấp tài sản ở các hộ vay vốn còn mang tính hình thức. Bởi vì đa số các tài sản mà hộ có thể đưa ra làm vật thế chấp là nhà cửa, vườn tược khi họ không trả được nợ nếu như ngân hàng thực hiện phát mại tài sản sẽ gặp phải những khó khăn về mặt tâm lý. Đó là, do nhà cửa, ruộng vườn của các hộ sản xuất gắn liền với gia tộc, anh em họ hàng , nên khó có thể mua bán trao đổi dễ dàng được. Người dân chỉ có ngôi nhà và mảnh vườn là chỗ nương thân duy nhất, khi phát mại tài sản thế chấp của người dân về mặt lý ngân hàng đúng nhưng về tình thì đẩy người dân đến chỗ cùng đường là không có chỗ nương thân. Do đó để đảm bảo độ an toàn vốn cho ngân hàng, hạn chế rủi ro và ràng buộc trách nhiệm của người vay vốn thì việc: Đề nghị UBND Huyện Thanh Trì cũng như UBND xã nhanh chóng hoàn chỉnh nốt giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn. Đề nghị các cấp chính quyền và các cơ quan pháp luật ủng hộ và trợ giúp ngân hàng khâu phát mại tài sản thế chấp của hộ vay vốn khi ngân hàng đề xuất phát maị.
Để giải quyết vấn đề này, về phía ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp nữa là:
- Ngân hàng nên bỏ thông lệ yêu cầu người vay kê khai tài sản và coi tài sản kê khai là tài sản thế chấp. Danh sách tài sản nên được sử dụng là thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng và chỉ được sử dụng trong quá trình thẩm định món vay, đồng thời khẳng định tính nghiêm túc của mục đích vay vốn.
- Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp của người xin vay và không bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tín dụng với các hộ có tiềm năng, cán bộ tín dụng có thể tham khảo phương pháp cho điểm tín dụng: Phương pháp này nhằm xác định rủi ro tín dụng theo những khía cạnh đánh giá khác nhau. Phương pháp này sử dụng ba tiêu thức cơ bản về người vay để đánh giá là: Tư cách, năng lực, vốn (hay khả năng tài chính).
2.1.3. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất.
Việc xây dựng và củng cố mạng lới ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch, (ngân hàng cấp 4) là điều kiện thuận lợi giúp ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến hộ sản xuất nhưng chưa đủ để khách hàng nhỏ đến với ngân hàng.
Trước hết là ngân hàng và nông dân chưa hiểu đầy đủ về nhau để có niềm tin một cách trách nhiệm, thiếu thông tin cả lý luận và thực tiễn. Ngân hàng thì lo ngại cho nông dân vay vốn, mất vốn dẫn đến phải phá sản. Còn nông dân thì hiểu ngân hàng không đầy đủ, không thấy được trách nhiệm nặng nề của ngân hàng vừa phải tìm cách huy động vốn để đủ nguồn cho vay, vừa phải cho vay số vốn đã huy động không để tồn động và phải đòi được nợ từ người vay, làm nghĩa vụ với nhà nước và giải quyết đời sống, việc làm cho bộ máy cán bộ công nhân viên. Vì không hiểu được đầy đủ ngân hàng nên một bộ phận người dân đòi hỏi ngân hàng phải đáp ứng những nhu cầu nhiều khi hoàn toàn cá nhân chỉ có lợi cho mình. Ví dụ: “lãi suất càng thấp càng tốt, trong khi ngân hàng chỉ có ít cán bộ tín dụng, nông dân vay những món quá nhỏ, địa bàn quản lý rộng phải mất nhiều người tham gia... chi phí quản lý lớn”. Hoặc mong “vay dài hạn, món vay lớn, thủ tục gọn...” trong khi cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa đủ, chưa đồng bộ. Người dân còn nhiều mặc cảm vì chưa hiểu đầy đủ ngân hàng, nhiều biểu hiện kỳ thị ngân hàng do còn ảnh hưởng tư tưởng của thời bao cấp.
Để tháo gỡ những vướng mắc này, thì ngân hàng thực sự coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, thông tin sâu sát thực tế phục vụ nông dân, coi nông dân là thị trường lớn, nông dân là “thượng đế”, cần chuyển tải thông tin về ngân hàng đến người dân sâu, rộng, nhanh, đầy đủ và thống nhất hơn để dân dễ hiểu và tin ngân hàng, ngân hàng hấp dẫn và thu hút được hộ sản xuất. Huy động tổng lực các tổ chức và cá nhân tham gia làm công tác giáo dục tuyên truyền vận động. Tổ chức ngân hàng gắn bó với cấp uỷ, chính quyền địa phương xin chủ trương chỉ đạo quản lý, đặc biệt coi trọng việc phối hợp với các đoàn thể quần chúng ở nông thôn có kế hoạch và thực hiện công tác tuyên truyền vận động.
Một mặt khác nữa là đại bộ phận người dân “có vay có trả” rất lo lắng việc trả nợ khi đã đi vay, cho nên khi cầm đồng vốn vay của ngân hàng đều lo ngại nhất là làm sao để sản xuất kinh doanh có hiệu quả: Làm gì? Làm như thế nào? Bán cho ai, ở đâu?... Nhưng nhiều việc tự họ không thể làm gì được như không có kiến thức khoa học kỹ thuật mới; không tự tạo được thị trường tiêu thụ lớn... Vì vậy, sau khi đã cho vay vốn, trên cơ sở các dự án sản xuất kinh doanh khả thi ngân hàng cần phối hợp với các ngành kinh tế, với các doanh nghiệp tạo nguồn vốn để dạy nghề cho nông dân, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ.
2.1.4. Mở rộng diện bảo hiểm trong nông nghiệp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay hộ sản xuất.
Để góp phần ổn định đời sống nhân dân phát triển sản xuất và hạn chế rủi ro vốn tín dụng cho vay sản xuất nông nghiệp cần mở rộng mà nông nghiệp là một ngành gặp nhiều rủi ro do thiên thai hàng năm đem lại, ngược lại nguồn lợi nhuận ở ngành nông nghiệp lại không cao. Đồng thời tạo điều kiện ổn định ngân sách tránh các trường hợp bị động trong việc cứu tế trợ giúp. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam cần triển khai bảo hiểm trong nông nghiệp, vì vậy để tạo điều kiện cho Ngân hàng Nông nghiệp mở rộng thị trường tín dụng nông nghiệp thì các vùng các hộ sản xuất nhất là hộ nông dân nghèo cần có những giải pháp này.
Nhà nước cần ban hành quỹ bảo hiểm trong rủi ro tiền vay tới sản xuất nông nghiệp. Quỹ này lấy từ ngân sách do Bộ tài chính quản lý hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý lấy nguồn từ các khoản thuế thu từ các hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Nông nghiệp hoặc các nguồn thu khác như thuế tài trợ của nước ngoài.
Miễn giảm lãi suất vốn cho hộ sản xuất ở những vùng thiên tai khi mà sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại từ 40% sản lượng trở nên. Quỹ này nhằm bù đắp lãi suất giảm đó cho Nhà nước. Bù đắp của hộ không còn khả năng trả nợ khi thiên tai quá lớn (nhà để tài sản thiệt hại nặng, mất mùa...).
2.1.5. Tăng lượng vốn cho vay đối với hộ sản xuất.
Vốn tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và cấp thiết để cung cấp cho hộ sản xuất nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện định hướng phát triển kinh tế của huyện thì phải có nguồn vốn đầu tư lớn. Việc tăng khối lượng vốn tín dụng ngân hàng là một trong những giải pháp tích cực nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất nói riêng và kinh tế nông thôn của huyện Thanh Trì nói riêng.
Việc tăng khối lượng vốn tín dụng cần thực hiện theo phương pháp tăng dần hàng năm trên cơ sở nâng cao chất lượng đầu tư vốn, cách thức đầu tư... để vốn tín dụng cung cấp được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế hộ sản xuất.
* Với mức cho vay:
Đối với những hộ nghèo mà nhu cầu vay vốn dưới 1 triệu đồng nên quy định cho phép ngân hàng đầu tư 100% nhu cầu vốn tự có về chi phí sản xuất, những hộ nghèo vốn của họ chủ yếu là quyền sử dụng đất, sức lao động của bản thân và kinh nghiệm trong cuộc sống của họ, đa số họ thường xuyên thiếu vốn, thiếu ăn nên không có vốn đầu tư cho sản xuất họ rất cần đến đầu tư tín dụng để có vốn phục vụ sản xuất cho nên đối với các hộ nghèo cụ thể là các hộ vay không quá 1 triệu đồng thì nên qui định cho phép ngân hàng cho vay 100% nhu cầu vốn.
* Tăng mức đầu tư cho một hộ.
Khi các hộ vay vốn đã qua một vụ sản xuất đã quen dần với cách tính toán làm ăn, vay trả thì nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh phải tăng lên. Thực trạng ở Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì các hộ sản xuất vay lẻ tẻ 1 - 2 triệu đồng rất nhiều. Nếu bất cứ cho vay với mức thấp thì sẽ không đảm bảo cho phát triển sản xuất lớn, chỉ để sản xuất tự cung cấp tự cấp, không vươn lên sản xuất hàng hoá được. Vì vậy nên tuỳ nơi, tuỳ khả năng nguồn vốn, tuỳ nhu cầu và hiệu quả của đối tượng vay vốn mà quy định cho mức vay hợp lý.
2.1.6. Cho vay tập trung có trọng tâm, trọng điểm đầu tư theo dự án.
Không phải tất cả các hộ ở vùng nông thôn đều có khả năng tính toán phương án cho sản xuất kinh doanh, nếu có thì mỗi hộ cũng ở phạm vi và trình độ khác nhau cho nên việc cho vay dàn đều sẽ tạo ra hiệu qủa thấp vì hộ cần vốn đầu tư vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh thì thiếu vốn trong khi những hộ không có phương án sản xuất, không biết tính toán, sử dụng vốn bừa bãi gây lãng phí và không đảm bảo khả năng trả nợ. Hơn nữa tập trung vốn vào các vùng có trọng điểm đầu tư theo dự án sẽ thúc đẩy sử dụng được nhanh, chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ sản xuất mà còn phát huy được hiệu qủa của vốn .
Tập trung vốn cho các đối tượng đầu tư có hiệu quả các nghành nghề truyền thống, mũi nhọn của huyện như phát triển rau thực phẩm có giá trị cao, phát triển chăn nuôi lợn, thả cá...
Cùng với việc chọn các đối tượng đầu tư có hiệu quả, tập trung vào các vùng kinh tế phát triển hoặc các vùng kinh tế có khả năng phát triển kinh tế hơn. Cụ thể đối với huyện Thanh trì có các vùng trọng điểm như:
Vùng chuyên canh lúa gồm 6 xã đó là: xã Hữu Hoà, Tả thanh Oai, Đại áng, Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, Liên Ninh. Để hỗ trợ đủ vốn mua vật tư để phục vụ sản xuất ngân hàng đã tiến hành cho vay hỗ trợ đầu tư cho vùng này một số vốn đáp ứng phần nào chi phí.
Trong những năm tới ngân hàng cần đầu tư hơn nữa vào vùng này để phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực và tăng thu nhập cho bà con nông dân.
Đầu tư cho vùng chăn nuôi: chăn nuôi ở gia đình là một thế mạnh của huyện. Trong đầu tư chăn nuôi ngân hàng đầu tư thêm một số xã như: Vĩnh Quỳnh, Tứ hiệp, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai
Ngoài chăn nuôi lợn ở các xã như Liên Ninh, Tả Thanh Oai. Ngọc Hồi còn nuôi vịt đẻ, thịt gà công nghiệp nuôi bò sữa ở xã Thanh trì, Yên Sở, Trần Phú. Từ chăn nuôi đã mang lại thu nhập cao cho người lao động đồng thời tạo công ăn việc làm. Do đó ngân hàng cần chú trọng cho vay vốn nhiều hơn đối với vùng chăn nuôi của huyện.
Đầu tư nuôi thả cá : Cá là nguồn lợi, là thế mạnh phát huy ở huỵện ở huyện Thanh Trì với tổng diện tích mặt nước nuôi thả là hơn 955 ha đạt sản lượng 3.700 tấn (năm 2000) tập trung chủ yếu ở các xã như Tứ Hiệp ,Yên Sở, Trần Phú, Định Công, Tam Hiệp, Hoàng Liệt...
Tuy nhiên, khả năng về nuôi cá của huyện chưa được phát huy mạnh so với điều kiện thuận lợi của huyện. Một trong những nguyên nhân tồn tại hiện nay là do nhu cầu về vốn để đầu tư chiều sâu chưa được đáp ứng, đồng thời một số chương trình nuôi thuỷ sản so thiếu vốn nên triển khai chậm. Vì vậy ngân hàng nên đầu tư vốn với thời gian cho vay trung và dài hạn nhiều hơn nữa để nông dân có điều kiện mở rộng và phát triển nuôi cá.
Ngoài đầu tư cho cá vùng chuyên canh chăn nuôi lợn, nuôi cá Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì còn cho vay để chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng hoa ở các xã như: Tam Hiệp, Vĩnh Tuy, Đình Công, Trần Phú phát triển hàng vận cây hoa.
Việc tăng cường đầu tư để phát triển một số vùng chuyên canh đòi hỏi ngân hàng phải xác định rõ mục tiêu, đối tượng vay vốn phải xác định rõ ràng, phù hợp với đối tượng sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư của huyện.
Đầu tư vốn theo dự án góp phần hình thành dần các vùng sản xuất chuyên canh, cung cấp nông sản cho xã hội và cho xuất khẩu. Từ đó mới đảm bảo các điều kiện thu hồi vốn cho vay, vừa thúc đầy chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.
2.1.7. Tăng cường cho vay trung - dài hạn đối với hộ sản xuất.
Để tiến hành sản xuất phải kết hợp giữa lao động công cụ lao động và đối tượng lao động cho vay ngắn hạn thường xuyên giải quyết một phần nhu cầu đầu tư đối tượng lao động cho một chu kỳ sản xuất ngắn (chi phí để mua sắm cây, con giống, phân bón, điện, thuỷ lợi...) cho vay trung - dài hạn để mua sắm công cụ lao động và trang thiết bị máy móc, trồng cây lưu gốc, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, cơ bản đổi mới công nghệ dây chuyền sản xuất đặc biệt cho những vùng chuyên canh. Nhu cầu vốn trung - dài hạn rất cần để có thể phát triển sản xuất, khai thác được mọi tiềm năng các vùng của huyện Thanh Trì.
Hơn nữa các hộ sản xuất có xu hướng phát triển sản xuất, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều. Mục tiêu sản xuất sẽ được đặt ra, giá trị của sản phẩm ngày càng được tăng nếu được qua chế biến. Chính nguồn vốn trung - dài hạn sẽ được dùng để đầu tư mua sắm thiết bị cho quá trình chế biến sản phẩm, quá trình cho vay trực tiếp các hộ đã tiếp cận được những đặc điểm của kinh tế hộ cho thấy đầu tư trung dài hạn có tính chất đầu tư sản xuất lâu năm, và mở rộng quy mô sản xuất.
2.1.8. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ (tổ tín chấp).
Tổ tương trợ là mô hình do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, dưới sự chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ nhau để giữa các thành viên giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Thứ nhất: Tổ là nơi xác định và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất đảm bảo công khai, chuẩn xác, kịp thời. Nhờ đó ngân hàng giải ngân nhanh và vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng.
- Thứ hai: Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện cần thiết, thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn.
- Thứ ba: Tổ cũng là nơi để các hộ sản xuất tương trợ nhau, không những về nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức kỹ thuật sản xuất, về nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
- Thứ tư: Cho vay qua tổ nhóm sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Bởi lý do là tài sản thế chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không muốn mua lại các tài sản này.
Hình thức chuyển tải vốn tính dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ nhóm đem lại lợi ích của cả hai phía: Hộ vay vốn và ngân hàng
+ Đối với hộ gia đình, họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng mà không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện nay số tiền vay của đa phần các hộ gia đình còn nhỏ nên người dân dễ nẩy sinh tâm lý ngại đi vay ngân hàng mà vay mượn những người xung quanh, gây tình trạng cho vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế -xã hội.
+ Đối với ngân hàng thông qua hình thức tổ nhóm, việc cung cấp tín dụng được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn đồng thời đảm bảo an toàn vốn vay. Kết quả thực hiện cho vay qua "tổ nhóm" của Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì từ năm 2000 đã cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm đi rất nhiều. Mặt khác, cho vay qua tổ nhóm giảm đi một phần công đoạn cho cán bộ tín dụng.
Để việc cho vay qua tổ nhóm ngày càng có hiệu quả thì ngân hàng cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
* Thứ nhất: ngân hàng cần phối hợp tốt với các tổ chức chính trị xã hội đặt biệt là Hội nông dân và Hội phụ nữ, đây là hai tổ chức chính trị thích hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
* Thứ hai: Ngân hàng tổ chức các lớp bồi dưỡng cho trưởng nhóm kiến thức cơ bản về quản lý, về nghiệp vụ tín dụng.
* Thứ ba: Về lâu dài, trong quá trình sàng lọc ngân hàng nên chuyển một số tổ tín chấp có đủ điều kiện sang thể tài chính vi mô.
2.1.9. Đào tạo và bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng ngân hàng.
Mặc dù các cán bộ tín dụng ngân hàng đã có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh. Song trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi phải được nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ pải được đào tạo lại thì mới nắm bắt và theo kịp sự đòi hỏi của thị trường và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công tác quản lý hiện nay. Vì vậy việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng là rất cần thiết, cán bộ tín dụng là người trực tiếp giao dịch với khách hàng đòi hỏi cần phải có một trình độ để phân tích thẩm định dự án, thẩm định phương án, cần đào tạo bồi dưỡng để họ nắm vững các quy trình sản xuất của các ngành nghề, có như vậy việc thẩm định mới đạt kết quả cao.
Mặt khác khi cho vay vốn để phát triển sản xuất thì cán bộ tín dụng ngân hàng thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn của hộ vay có đúng mục đích không.
Đồng thời từ việc cho vay kiểm tra việc sử dụng vốn vay của người vay, cán bộ tín dụng có thể tư vấn cho họ biết nên đầu tư như thế nào cho có hiệu quả.
Do vậy Ngân hàng Nông nghiệp Thanh Trì cần quan tâm hơn tới việc đào tạo cán bộ tín dụng nói riêng và toàn bộ công nhân viên ngân hàng nói chung.
2.2. Đối với hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng.
2.2.1. Hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi trong việc vay vốn.
Nhiều người lầm tưởng lạc quan cho rằng nguồn vốn vay của ngân hàng là nguồn vốn của Nhà nước, cho nên việc trả hay không không quan trọng. Và do Nhà nước còn thất thoát hơn ta.
Còn có trường hợp cố tình liều lĩnh thách thức chắc ngân hàng không dám thu hồi vốn bằng cách tịch thu niêm phong nhà cửa của mình nên đã có nhiều trường hợp cố tình không trả nợ vốn vay.
Vì vậy phải làm công tác tư tưởng để người dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn trong việc vay vốn, để họ có ý thức sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn.
2.2.2. Trang bị kiến thức mới để phát triển các ngành sản xuất.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì người dân cần có đầy đủ kiến thức mới đáp ứng được nhu cầu này.
Công việc trang bị kiến thức mới phải thường xuyên, liên tục và kịp thời để người dân có thể nắm bắt khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất của mình, để đầu tư đồng vốn đúng mục đích có hiệu quả hơn.
Để làm được điều này cần phải tiến hành bằng cách mở các lớp đào tạo quản lý sản xuất, truyền bá những kiến thức cơ bản và các kỹ thuật trong chăn nuôi, xử lý khi gặp rủi ro thiên tai bất thường, lớp tập huấn sản xuất cây con... cho một số đại diện từng vùng để từ đó bà con nông dân truyền bá cho nhau những kiến thức đó. Tích cực học hỏi những gương, mô hình sản xuất có hiệu quả, từ đó áp dụng cho mình để tiến hành sản xuất có hiệu quả hơn.
2.2.3. Tăng hoạt động các tổ nhóm.
Tổ nhóm vừa tạo cơ sở cho hộ sản xuất vay vốn vừa là một hoạt động tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Trong sản xuất cũng như trong đời sống, có những việc chỉ có một người làm sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là những hộ mới bước đầu sản xuất còn gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm.
Vì vậy phải cần tập trung hoạt động những tổ nhóm, như những Hội nông dân, Hội phụ nữ... để thường xuyên gặp gỡ nhau trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, và kịp thời góp ý sửa chữa những sai lầm, khó khăn... có như vậy thì đồng vốn của các hộ sản xuất mới sử dụng có hiệu quả và thay đổi đời sống của từng hộ.
Kết luận và Một số kiến nghị
1. Kết luận
Nhờ vào việc phát triển kinh tế hộ sản xuất mà sản xuất nông nghiệp của nước ta trong những năm qua đã không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Có được kết quả đó là nhờ có chủ trương đúng đắn trong việc cho phép hộ sản xuất tự mình kinh doanh, sản xuất trong phần nhận khoán của mình, nhưng cũng phải kể đến vai trò không nhỏ của Ngân hàng trong việc cho hộ sản xuất vay vốn. Từ khi thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất, Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng đa dạng cho hộ sản xuất. Nhờ có nguồn vốn kịp thời của Ngân hàng nên hộ sản xuất đã mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực, những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi nâng cao đời sống của bà con nông dân góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Qua thời gian thực tập tại NHNo&PTNT huyện Thanh Trì, luận văn đã phân tích và đánh giá việc huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng của hộ sản xuất đã từng bước có hiệu quả và phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đặc biệt là những hộ có nhu cầu vay vốn chính đáng đã được Ngân hàng giải quyết kịp thời nên sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện đã có nhiều khởi sắc. Bên cạnh những mặt được, luận văn đã chỉ ra những hạn chế và tồn tại như: Doanh số cho vay hộ sản xuất mấy năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất là bao nhiêu, nguồn vốn trung - dài hạn còn chiếm tỷ lệ quá thấp, tỷ lệ dư nợ quá hạn còn cao, .... Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất có kết quả cao hơn, đáng chú ý là: Cải tiến thủ tục vay và thời gian cho vay để hộ sản xuất tiếp cận khi thiếu vốn, tăng cường lượng vốn cho vay đối với hộ sản xuất, cho vay tập trung có trọng tâm trọng điểm đầu tư theo dự án, tăng cường cho vay trung - dài hạn..v.v.
2. Một số kiến nghị
* Kiến nghị với Nhà nước.
- Nhà nước có chính sách đầu tư cho nông nghiệp, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chính sách này. Nhà nước cần có một hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp ở tầm quốc gia. Hệ thống chính sách bao gồn các chính sách:
+ Chính sách tài chính - tiền tệ:
Chính phủ nên nới lỏng chính sách lãi suất để đảm bảo rằng các định chế tài chính nông thôn có đủ khả năng trang trải tất cả các chi phí bao gồm chi phí vốn theo giá thị trường, chi phí hoạt động, lạm phát, chi phí bù đắp những khoản mất vốn, đồng thời đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý.
Chính phủ cần khuyến khích sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ này, sẽ có nhiều chương trình tiết kiệm và tín dụng được chuyển đổi thành hợp tác xã tín dụng hơn nếu như các thủ tục đăng ký hoạt động được đơn giản hoá và mức vốn pháp định cần thiết được hạ thấp hơn nữa.
+ Chính sách trợ giá:
. Trợ giá đầu vào: Nhà nước nên có trợ giá để khuyến khích nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật mới hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu, để bán cho hộ sản xuất với giá thành ổn định.
. Trợ giá đầu ra: Sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ, việc tiêu thụ sản phẩm thường gặp khó khăn. Nhà nước cần gia tăng quỹ ổn giá cả, bù đắp cho nông dân đảm bảo không bị rớt giá, gây thua lỗ.
Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm, nông thôn như: bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm vật nuôi...
+ Chính sách tiêu thụ nông sản nhằm tạo thị trường ổn định cho người nông dân.
+ Chính sách bảo trợ xuất khẩu.
+ Chính sách đất đai: Nhà nước đẩy mạnh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Nhà nước cần xem xét miễn thuế trong vài năm tới cho các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cấp đủ kịp thời các khoản nợ khoanh hàng năm đã được xác định. Có như vậy hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp mới có đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng quy mô hoạt động.
* Kiến nghị với UBND huyện và thành phố.
- UBND huyện sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân theo nghị định 17/CP để ngân hàng có đủ điều kiện mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu phát triển kinh doanh, xây dựng nông thôn mới góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.
- Các ban ngành, hội nông dân, hội phụ nữ và xã ủng hộ, phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để thực hiện tốt cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm theo nghị quyết liên tịch 2038, triển khai Quyết định 67/TTg và Quyết định 148/TTg tới bà con nông dân các thôn xã và xúc tiến việc thành lập các tổ vay vốn qua hội nông dân.
- Đôn đốc các ban thu nợ của các xã hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả, kiến quyết yêu cầu các hộ vay vốn trả nợ sòng phẳng, coi việc trả nợ ngân hàng như thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, chấp hành chính sách.
- Đề nghị UBND huyện đề nghị với UBND thành phố sớm có quy hoạch vùng, tiểu vùng về phát triển kinh tế trên địa bàn Hà Nội và xây dựng cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp và ổn định đầu ra để bà con yên tâm sản xuất.
+ Đối với UBND xã.
Tư cách vay vốn cũng đóng vai trò quan trọng quyết định. Cho nên khi xác nhận hộ vay vốn cần quan tâm đến tư cách của người vay, loại trừ ngay những đối tượng nghiện hút, cờ bạc, rượu chè, đề đóm và nợ nần dây dưa.
Để tránh tình trạng hộ vay vốn cố tình lừa đảo ngân hàng lấy tài sản của người khác làm tài sản của mình để đem đi thế chấp vay vốn ngân hàng thì khi xác nhận đề nghị cán bộ ghi cụ thể tài sản thế chấp đất, số thửa ruộng không tranh chấp...
* Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
- Theo quy định hiện hành, các hộ nông dân được giao đất sử dụng lâu dài khi vay trên 10 triệu đồng phải thế chấp quyền sở hữu đất nông nghiệp. Do vậy nếu bị ngân hàng phát mại thì sẽ kiếm sống như thế nào khi mà sản xuất chủ yếu là nông nghiệp. Vì vậy NHNo & PTNT Việt Nam cần tìm một hình thức bảo đảm mới có khả năng thực thi cao nhằm hỗ trợ công tác cho vay của ngân hàng cũng như việc sản xuất của hộ sản xuất.
- Đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu, rút gọn hồ sơ cho vay hộ sản xuất làm sao ngắn gọn, ít loại giấy tờ nhưng đảm bảo tính pháp lý vì trình độ của các hộ vay vốn có hạn.
- Cần tập trung phòng ngừa rủi ro đến hộ sản xuất, trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng cấp trên nên thực hiện theo dõi và giám sát tất cả các thành phần kinh tế của hộ sản xuất để ngăn chặn và hạn chế rủi ro.
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sớm ban hành cụ thể về cho vay trả góp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Nông nghiệp áp dụng phương thức cho vay này.
* Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì.
- Phải biết đối tượng đầu tư là ai, khả năng hoàn trả ở khu vực nào để xem xét đối tượng đầu tư có hiệu quả.
- Đánh giá khả năng tình hình trả nợ vay ngân hàng. Xem xét khách hàng có luôn thực hiện đúng mọi quy định trong thể lệ tín dụng thanh toán của ngân hàng hay không, uy tín khách hàng đối với ngân hàng qua việc vay trả thường xuyên ổn định, ít phát sinh nợ quá hạn, đồng thời kiểm tra sự tôn trọng nguyên tắc về vay vốn tín dụng.
- Tiến hành kiểm tra, kiểm soát khách hàng trong suốt quá trình đầu tư:
Trước khi thực hiện một món vay cán bộ tín dụng phải thực hiện thẩm định khách hàng xem khách hàng có đủ khả năng vay vốn hay không. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào trình độ năng lực kinh nghiệm của cán bộ tín dụng ngân hàng trong việc phân tích khả năng có đầy đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng và vẫn còn phải tiếp tục kiểm tra trong khi cho vay.
Việc kiểm tra, kiểm soát trong quá trình đầu tư tín dụng là rất quan trọng:
Một mặt giúp cho cán bộ tín dụng tiếp xúc gần gũi với hộ vay vốn, từ đó hướng dẫn họ sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
Mặt khác ngân hàng có thể khắc phục trong quá trình thu nợ sau này.
Tài liệu tham khảo
NHNH và luật CTD
Quy định 499A - TDNT 02/09/1993 NHNo Việt Nam hướng dãn nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.
Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18/01/2001 vế việc ban hành cho vay đối với khách hàng.
Kinh tế hộ - Lịch sử và triển vọng phát triển - Vũ Tuấn Anh - NXB KHXH 1997.
Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam - Chu Văn Vũ - NXB Khoa học xã hội - 1995.
Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình - Nguyễn Hữu Đạt - NXB Khoa học xã hội - 1995.
Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn CNH, HĐH - Đặng Thọ Xương - NXB Chính trị quốc gia - 1997.
Giới thiệu hệ thống ngân hàng đơn vị BRI - Indonesia.
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII.
Tạp chí Ngân hàng.
Tạp chí Thông tin ngân hàng NHNo & PTNT.
Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000.
Đánh giá tình hình thực trạng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Thanh Trì của UBND huyện Thanh Trì.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3839.doc