Những giải pháp chủ yếu để tăng cường Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

Mục lục Lời mở đầu 3 Chương I : Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu 5 I. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu 5 1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu 5 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 6 II. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam 8 Cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam 8 Những thách thức lớn đối với hàng dệt may của EU 10 Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU 13 I. Khái quát chung về sản phẩm dệt may Việt Nam 13

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp chủ yếu để tăng cường Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.Sự vận động của ngành dệt may thế giới 13 2. Đánh giá chung về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 15 II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU 17 Kết quả đạt được từ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong thời gian qua 17 III. Những ưu điểm và tồn tại của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU 23 1. Ưu điểm 23 2. Những tồn tại 24 3. Nguyên nhân của những tồn tại 24 Chương III : Những giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hạn chế và tăng cường XK hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 27 I. Các giải pháp ở tầm vĩ mô 27 1. Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường TM 27 2. Cải cách công tác quản lý hạn ngạch hàng dệt may Việt Nam vào EU 29 3. Tổ chức cung cấp thông tin 30 II. Các giải pháp ở tầm vi mô 30 Doanh nghiệp chủ động đổi mới công nghệ và đào tạo công nhân, cán bộ 30 2. Tăng cường áp dụng ISO 9000, ISO 14000 31 3. Tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn 32 Kết luận 33 Danh mục tài liệu tham khảo 34 Lời mở đầu Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX. Trong định hướng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 mục tiêu hoạt động xuất nhập khẩu có nội dung cơ bản là : “Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH –HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao…” Dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ, có vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế quốc dân nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng. Ngành đảm bảo hàng hoá tiêu dùng trong nước và nhu cầu xuất khẩu, thu hút nhiều lao động, vốn đầu tư không đòi hỏi quá lớn, ít rủi ro, thu lợi nhuận nhanh nên khá phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Dệt may Việt Nam luôn là một trong những ngành được quan tâm hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu trong suốt nhiều năm qua. Để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, vấn đề đặt ra cho toàn ngành là phải nghiên cứu, mở rộng thị trường sang các thị trường tiềm năng. Hiện tại, trong số các thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thì EU là thị trường lớn và đầy hứa hẹn, vì nó gồm 15 thị trường quốc gia thành viên và hướng tới kết nạp thêm 10 nước thành viên nữa ở Trung và Tây Âu. Hơn nữa, EU có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam không chỉ là vấn đề lâu dài mà còn là vấn đề cần thiết trước mắt với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nhận thức được vấn đề trên, Chính phủ cùng với ngành dệt may đã sử dụng nhiều biện pháp để kinh doanh trên thị trương EU và đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều vấn đề phải tiếp tục khắc phục. Và với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về thị trường EU, cụ thể là hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này, tác giả chọn đề tài : “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU - thực trạng và giải pháp”. Nội dung đề tài gồm 3 chương : Chương I : Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu. Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU. Chương III : Những giải pháp chủ yếu để tăng cường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. Chương I : những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu Khái niệm và đặt điểm của hoạt động xuất khẩu Khái niệm Xuất khẩu là việc bán, cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho bên nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. - Hoạt động xuất khẩu với xuất phát điểm từ việc mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ (cả hàng hoá hữu hình và vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia có lợi thì hoạt động mở rộng ra với phạm vi toàn cầu (vượt biên giới quốc gia) hoặc giữa thị trường trong nước với khu chế xuất ở trong nước. - Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Cho đến nay, hoạt động xuất khẩu phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế nhằm đem lại lợi ích cho các quốc gia. 1.2. Đặc điểm - Xuất khẩu hàng hoá là sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia như : yếu tố pháp luật, kinh tế , văn hoá… - Hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia, nhằm khai thác lợi thế so sánh của các quốc gia. - Hoạt động xuất khẩu hàng hoá góp phần cải thiện đời sống nhân dân (bằng cách thu hút lao động tạo thu nhập cho người dân), gia tăng tiến bộ xã hội, công bằng xã hội. - Hoạt động xuất khẩu hàng hoá có thể được tiến hành bởi tư nhân hoặc doanh nghiệp nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu và mục đích của họ. 1.3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu : - Tái xuất khẩu : là hoạt động xuất khẩu hàng hoá đã nhập về nước thông qua chế biến (sơ chế và tái chế), cũng có thể hàng hoá không về trong nước, mà nhận từ nước ngoài rồi giao lại cho người mua ở nước thứ ba. - Chuyển khẩu : là hoạt động không gắn với hành vi mua và bán, mà chỉ thực hiện các dịch vụ cần thiết cho việc quá cảnh hàng hoá ở một nước trung gian như vân tải, bảo quản, lưu bãi, lưu kho… - Xuất khẩu gián tiếp : Đây là việc xuất khẩu thông qua các trung gian thương mại. - Xuất khẩu trực tiếp : đây là việc bán hàng trực tiếp cho người mua hàng không qua trung gian. - Tạm xuất : là hàng hoá đưa ra khỏi quốc gia rồi lại đưa về nước như gửi hàng đi triển lãm giới thiệu sản phẩm. - Xuất khẩu tại chỗ : đây là các hoạt động cung cấp hàng hoá dịch vụ cho đối tượng là người nước ngoài đang ở nước sở tại và trong trường hợp này hàng hoá, dịch vụ có thể chưa vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có ưu điểm là giảm được chi phí trung gian như : vân tải, lưu kho bãi, bao bì đóng gói… 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân Thương mại quốc tế diễn ra tất yếu khi có sự phân công lao động quốc tế và việc phân phối tài nguyên không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới. Lợi ích từ thương mại quốc tế rất to lớn và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của các quốc gia. Là một mặt của ngoại thương, xuất khẩu có những vai trò quan trọng nhất định : - Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để phát triển kinh tế, phục vụ CNH – HĐH đất nước. CNH là con đường tất yếu và đúng đắn để khắc phục nghèo nàn lạc hậu. Nhưng nó lại đòi hỏi phải có lượng vốn lớn, vốn ở mỗi quốc gia có thể là từ viện trợ, vay nợ, thu hút đầu tư từ nước ngoài dưới nhiều hình thức và vốn thu từ công ty xuất khẩu. Trong đó xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ đã tạo nguồn vốn quan trọng thể hiện sự phát huy nội lực của quốc gia, nó quyết định đến quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Xuất khẩu đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Có thể nhìn nhận tác động của xuất khẩu tới sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo quan điểm : coi thị trường trong nước và thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển. Hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho việc cung cấp đầu vào cho sản xuất. Khi xuất khẩu hàng hoá luôn vấp phải sự cạnh tranh của hàng hoá cùng loại của quốc gia khác đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất kinh doanh. - Xuất khẩu tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhận thức được vai trò to lớn của xuất khẩu, Việt Nam đã coi đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Điều đó đã dược khẳng định trong mục tiêu phát triển kinh tế đến 2010 là hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện CNH – HĐH đất nước. 2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp Đối với mỗi doanh nghiệp, sự tồn tại của nó là việc tiêu thụ được nhiều sản phẩm không chỉ trong nước mà còn ở thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu hàng hoá của mình. Các khoản lợi ích của doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu : - Thu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, vật phẩm tiêu dùng. - Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp tăng cường đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý về hoạt động xuất khẩu, hoạt động bán hàng, sau bán hàng, thiết lập các kênh phân phối. - Khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán, hợp tác đôi bên cùng có lợi, đồng thời doanh nghiệp tiếp nhận được thông tin phản hồi để có thể điều chỉnh chiến lược sản phẩm và giá cả cho phù hợp. - Khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp đòi hỏi phải đổi mới công nghệ để nâng cao hơn nữa về chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất cho phù hợp. II. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường EU Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam Lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam Việt Nam là một nước nằm trên rìa bán đảo Đông Dương, có vị trí địa lý thuận tiện cho việc phát triển thương mại qua đường biển và đường sắt. Việt Nam còn có nguồn lực lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Mức lương nhân công trung bình hiện nay khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới 0,48 USD/giờ, Thái Lan 0,87 USD/giờ, Anh 10,16 USD/giờ… Nguồn lao động dồi dào như vậy rất phù hợp với đặc điểm của ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều nhân công. Thêm vào đó, Việt Nam còn có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp với việc phát triển cây bông, đay và các loại cây khác dùng làm nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, từ đó đã ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Một lợi thế nữa phải kể đến là các chính sách hỗ trợ của Chính phủ (những chính sách đổi mới tích cực của Chính phủ tạo điều kiện mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các doanh nghiệp) như Nghị định số 02/1998/NĐ-CP, số 57/1998/NĐ-CP. Bên cạnh đó còn luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) theo Nghị định số 07/1998/NĐ-CP và 03/1998/NĐ-CP, luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) số 10/1998/NĐ-CP đã qui định về các chế độ ưu đãi đầu tư… Cùng với các dự án sản xuất phụ liệu may, các dự án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao đã tháo gỡ phần nào khó khăn về tài chính của doanh nghiệp cũng như khó khăn đầu tư vào ngành dệt may. Mặt khác, ngành dệt may đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư ban đầu cho từng công đoạn không lớn. Trong điều kiện thiếu vốn như nước ta hiện nay có thể coi đây là một lợi thế của ngành. 1.2. Vị trí hàng dệt may của Việt Nam trên thị trường EU : * Tiềm năng của thị trường EU : Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất về hải quan, có mức thuế hải quan áp dụng chung cho tất cả các nước thành viên. Năm 1992 đã có hiệp ước về sự thống nhất chính trị, kinh tế, xã hội giữa các nước thành viên. Cho đến nay, EU là một thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia với 386 triệu người tiêu dùng. Trong tương lai không xa, EU còn kết nạp thêm 10 thành viên ở Trung và Tây Âu. Thị trường EU sẽ gồm 25 thị trường quốc gia, nó thực sự là một cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt nam. EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Liên minh Châu Âu không chỉ lớn về quy mô (thường xuyên có GDP chiếm 20% GDP toàn cầu) mà còn mạnh về cơ cấu, tăng trưởng ổn định (bình quân GDP theo đầu người vào loại cao của thế giới, khoảng 23.543 USD). Từ những đặc điểm về kinh tế như trên của EU, có thể nhận thấy rằng EU là một thị trường tiêu thụ lớn về hàng hoá. EU tăng cường mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại đặc biệt trong chiến lược Châu á mới. EU và các nước ASEAN quan hệ lâu dài trên cơ sở hiệp định hợp tác dựa trên cơ sở chủ nghĩa khu vực, tạo điều kiện cho quan hệ thương mại Việt nam – EU được mở rộng. Hơn nữa quan hệ song phương VN – EU được dựa trên cơ sở dành cho nhau những ưu đãi về xuất nhập khẩu, Việt Nam có điều kiện thuận lợi đẩy mạnh XNK, trao đổi hàng hoá với nước ngoài, đặc biệt là hàng dệt may. Và với thị trường tiềm năng EU thì hàng dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển cao hơn cả về số lượng và chất lượng. Việt Nam đã tham gia hội nghị cao cấp á -Âu lần thứ 2 ở London (2-4/4/1998) đã tạo cơ hội mới cho quan hệ hợp tác song phương và đa phương. Một nhân tố khác nữa là sự ra đời đồng tiền chung Châu Âu (EURO) đã góp phần giảm được chi phí chuyển đổi ngoại tệ khi xuất nhập khẩu hàng hoá sang thị trường EU. Nó là cơ hội mới để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này. 1.3. Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của EU Tuy với những tiềm năng lớn về xuất khẩu, nhưng EU vẫn có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may tương đối cao. Hàng năm, EU nhập khẩu khoảng 63 tỷ USD quần áo các loại và trên 46 tỷ USD hàng dệt may. Với tốc độ bình quân hàng năm đối với hàng may mặc chiếm gần 50% trong tổng giá trị nhập khẩu của cả thế giới, hàng dệt may chiếm 36 – 37 %, song so với toàn thế giới có xu hướng giảm. Những năm gần đây, do tăng cường hình thức gia công nên tỷ lệ nhập khẩu hàng gia công của EU càng tăng. Đây chính là biện pháp nhằm tận dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào từ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Với Việt Nam, đây là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU. 2. Những thác thức lớn đối với hàng dệt may Việt Nam Trước hết, phải kể đến những bất lợi của ngành dệt may khi Việt Nam nằm ngoài WTO. WTO là một tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất hiện nay, chi phối trên 90% khối lượng buôn bán trên thế giới. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có cơ hội bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong khuôn khổ các cuộc đàm phán đa phương của WTO. Hiệp định về hàng hoá dệt may ATC (Agreement on Textile and Clothing) là một trong những thành tựu chủ yếu của vòng đàm phán Urugoay trong khuôn khổ WTO. Như vậy theo ATC, sau 10 năm nhập khẩu hàng dệt may áp dụng hạn ngạch với các nước đang phát triển (1995 -2005) hạn ngạch sẽ được cắt bỏ. Bắt đầu từ năm 2005 hạn ngạch đối với hàng dệt may sẽ không còn áp dụng với những nước thành viên của WTO. Như vậy, những nước nằm ngoài WTO như Việt Nam tiếp tục bị hạn chế về hạn ngạch theo các hiệp định song phương, kể cả sau năm 2004 và phải chịu thuế suất nhập khẩu và xuất khẩu cao hơn thị trường EU. Hơn nữa, những thuận lợi có được của các nước thành viên của WTO sẽ làm tăng những bất lợi của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của quá trình ưu đãi thuế quan phổ cập và xoá bỏ hạn ngạch với hàng dệt may của các nước là thành viên của WTO. Từ nay đến hết năm 2004, nếu Việt Nam chưa trở thành thành viên của WTO thì nhiều khả năng sẽ vẫn bị áp dụng hạn ngạch, trong khi các nước thành viên được tự do xuất khẩu. EU là thị trường gồm các nước có nền kinh tế phát triển mà họ sẽ tăng cường áp dụng các hàng rào phi thuế quan như các yêu cầu về nhãn mác, môi trường, điều kiện lao động, các yêu cầu về chống bán phá giá… Như vậy, sức cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường EU của hàng Việt Nam sẽ giảm một cách tương đối so với các nước khác. Vì vậy, nó đòi hỏi Việt Nam phải chủ động phát huy nội lực của mình. Ngoài ra, còn phải kể đến đó là hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết 14/07/2000 và đã được Chính phủ hai bên phê chuẩn sẽ tạo điều kiện, mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại song phương, hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ sẽ được hưởng tối huệ quốc. Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn, có nhu cầu lớn về hàng hóa lại không khó tính như thị trường EU. Mỹ trái với thị trường EU là chất lượng không đóng vai trò quyết định, giá cả là yếu tố quyết định tiêu dùng. Các doanh nghiệp Mỹ không quan tâm nhiều đến mẫu mã mà vấn đề hàng đầu họ đặt lên là giá thành. Do đó, việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam hơn là xuất sang thị trường EU. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để EU vẫn là thị trường đầy hấp dẫn, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU vẫn ngày càng được đẩy mạnh. Đây thực sự là một thách thức với các nhà quản lý, nhà hoạch định chiến lược trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU. Những yếu tố phát sinh từ phía nước ta cũng là một trong những thách thức không nhỏ của việc xuất khẩu hàng dệt may sang EU : - Nguy cơ “tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với cá nước trong khu vực và trên thế giới do xuất phát điểm của Việt Nam quá thấp nên để thực hiện được những yêu cầu về chất lượng hàng hoá khắt khe là rất khó khăn vì thiếu vốn đầu tư công nghệ cao. - Việt Nam không tránh khỏi ảnh hưởng của xu thế “Tự do hoá thương mại”, ảnh hưởng của sự biến động giá cả quốc tế và lãi suất ngân hàng. Tình hình cung cầu và vốn đầu tư nó đã gây nên nhưng thách thức cho Việt Nam trong hoạch định chiến lược cũng như điều hành quản lý. Vì thế, mà nó đòi hỏi kinh tế Việt Nam phải phát triển vượt bậc, trưởng thành để đủ sức đỡ những ảnh hưởng trên. - Sự nhất thể, đồng bộ của luật pháp Việt Nam và sự phù hợp của nó với các thông lệ quốc tế cũng đang là vấn đề cản trở hợp tác song phương Việt Nam – EU. Chương II : thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU I. Khái quát chung về sản phẩm dệt may Việt Nam 1. Sự vận động của ngành dệt may thế giới Dệt may là ngành sản xuất và cung ứng mọi chủng loại sản phẩm đáp ứng trước tiên nhu cầu cơ bản của con người, ngoài ra sản phẩm dệt may còn đáp ứng yêu cầu khác của con người trong sinh hoạt và sản xuất. Ngành dệt may gắn liền với từng giai đoạn phát triển của xã hội. Ngành công nghiệp dệt may đã hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thực tế, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, tiến trình công nghiệp hoá của các nước từ Anh, Pháp, ý là các nước phát triển đến các nước Nics như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan… nõ đã chứng minh vị trí tiên phong và quan trọng của ngành dệt may nói riêng và của ngành công nghiệp nhẹ nói chung. Ngành dệt may có những lợi thế cơ bản trong thời kỳ công nghiệp hoá và đặc biệt là với các nước có nguồn lao động dồi dào vì nó không cần vốn đầu tư ban đầu lớn, sử dụng nhiều lao động, tốc độ quay vòng vốn nhanh, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, khi nền công nghiệp của một nước đạt tới tình độ nhất định thì lợi thế của ngành dệt may giảm dần và có xu hướng chuyển dịch sang các nước có trình độ công nghiệp thấp hơn, nhường chỗ cho các ngành khác có lợi thế và hiệu quả hơn. Trong quá trình phát triển, ngành dệt may thế giới đã trải qua hai giai đoạn chuyển dịch. Lần thứ nhất nó diễn ra từ năm 1969 tới năm 1980. Giai đoạn này, ngành chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước công nghiệp mới với 4 cường quốc dệt may là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Riêng 4 nước này đã chiếm 1/3 sản lượng dệt may của thế giới và hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Giai đoạn hai, từ năm 1985 đến nay, chuyển dịch từ các nước Nics sang các nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ hơn như : ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia… Hiện nay, hơn 60% khối lượng hàng hoá dệt may xuất khẩu trên thế giới có xuất xứ từ các nước đang phát triển, trong đó từ các nước đang phát triển ở Châu á chiếm 32%. Nguyên nhân gây ra hai sự chuyển dịch lớn về công nghiệp dệt may như vậy do có sự chênh lệch về trình độ phát triển công nghiệp. Đối với các nước có nền công nghiệp phát triển thì lợi thế của ngành dệt may giảm xuống, không còn phù hợp nữa và lợi nhuận do ngành dệt may mang lại không bằng so với cùng lượng vốn đầu tư do đem đầu tư vào ngành công nghiệp khác. Chính vì vậy, các nước có nền công nghiệp phát triển đã bằng mọi hình thức chuyển giao máy móc, thiết bị, công nghệ cho các nước có nền công nghiệp chủ phát triển và có nhu cầu. Các nước Châu á đã nhanh chóng tiếp nhận công nghệ dệt may của các nước phát triển và tận dụng tốt lợi thế của người đi sau đã không ngừng nâng cao chất lượng và số lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm dệt may của thế giới và khu vực (chỉ riêng Trung Quốc, với sự nhanh nhạy và ưu thế về lao dộng và tài nguyên sẵn có đã chiếm gần 13% lượng xuất khẩu của thế giới). Mặc dù ngành công nghiệp dệt may đã có sự dịch chuyển mạnh mẽ theo kiểu làn sóng như trên song cũng không thể loại bỏ vị thế của ngành công nghiệp dệt may các nước phát triển, mà họ đã đưa công nghiệp dệt may lên một tầm cao mới, vượt trội hơn trước cả về số lượng, chất lượng, mẫu mã thời trang và giá cả. Đi cùng với sự phát triển của kinh tế, các trung tâm thời trang lớn càng xuất hiện như một số trung tâm ở các nước thuộc EU và Mỹ… Với Châu Âu, từ xưa đến nay vẫn được coi là kinh đô thời trang của thế giới với các trung tâm thời trang nổi tiếng như Pháp, ý… chuyên sản xuất các mẫu mã thời trang cao cấp nổi tiếng thế giới. Tuy có sự chuyển dịch, song ngành công nghiệp dệt may Châu Âu vẫn luôn dẫn đầu về khối lượng và đặt biệt là chất lượng. Từ năm 1992, các nước EU xuất khẩu 48,390 tỷ USD hàng dệt may chiếm 41% tổng khối lượng mậu dịch của Đức, 5,3% của Bỉ, 2,7% của Pháp… Song song với sản phẩm chất lượng cao thì giá cả của nó cũng khá cạnh tranh. Do vậy, hàng nhập khẩu vẫn có cơ hội lớn để thâm nhập thị trường các nước có nền công nghiệp phát triển đó, đáp ứng nhu cầu số đông dân cư. 2. Đánh giá chung về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển và hiện tại đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, nên cũng không thể tách rời xu hướng chung của thế giới. Và ngành công nghiệp dệt may nói riêng và công nghiệp nhẹ nói chung là những ngành mũi nhọ góp phần đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu tạo nguồn tích luỹ làm cơ sở để đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH đất nước. Tuy nằm trong tình trạng chung của một nền công nghiệp nhỏ bé nhưng xét trong mối quan hệ với tổng thể nền kinh tế quốc dân thì ngành dệt may vẫn có ưu thế nổi trội, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (từ 8 – 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong giai đoạn hiện nay, ngành dệt may đã giải quyết phần nào nhiệm vụ tạo công ăn việc làm cho người dân (hiện nay ngành thu hút khoảng 400.000 lao động chính và nhiều lao động phụ khác). Ngoài ra, ngành dệt may còn đem lại nhiều lợi ích khác cho nền kinh tế quốc dân như : tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ, kích thích phát triển các ngành nghề khác có liên quan. Ngành dệt may là ngành đã đóng góp vào công cuộc HĐH – CNH đất nước rất to lớn. Cụ thể là gần đây ngành dệt may Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm trên 9%, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng từ 133,9 triệu USD vào năm 1991 đến 1.600 triệu USD năm 1999 và đến năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đã đạt tới 2750 triệu USD (Bảng 1) Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước Đơn vị : triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng kim ngạch dệt may 1150 1502 1450 1747 1892 1975,4 2750 Nguồn : Tổng công ty xuất khẩu dệt may Việt Nam (2003) Mặt hàng dệt may trong nhiều năm luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao sản lượng toàn bộ ngành công nghiệp Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bắt đầu tăng vọt từ năm 1993, là năm bắt đầu thực hiện hiệp định may mặc giữa Việt Nam với EC (ngày nay là EU). Hiệp định này đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng và thị trường của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Nếu năm 1993, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam mới đạt 283,8 triệu USD chiếm 8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thì năm 1994 đã tăng lên 475,6 triệu USD chiếm khoảng 12,21%. Đến năm 1995, với sự ra đời của tổng công ty dệt may Việt Nam trên cơ sở thống nhất liên hiệp các xí nghiệp dệt và Liên hiệp các xí nghiệp may đã phát huy được sực mạnh tổng hợp đưa hàng dệt may Việt Nam vững bước đi lên. Từ năm 1995 đến nay, kim ngạch dệt may không ngừng tăng lên và đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô và luôn nằm trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Mặc dù chỉ đứng thứ hai, song dệt may luôn được coi là có lợi thế so sanh và có nhiều khả năng phát triển cao. Năm 1997, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu chiếm 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, sang năm 1998 tỷ lệ này tăng lên 15,5% mặc dù phải chịu ảnh hưởng không nhỏ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới. Đến năm 2000, với sự nỗ lực của toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu đạt tới 1,892 tỷ USD tăng 8,29% so với năm trước. Cùng năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được ký kết vào tháng 7/2000 đã góp phần không nhỏ làm tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Do chưa khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Mỹ và EU và cũng như chưa khia thác hết thế mạnh của ngành nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2001 chỉ đạt 1,975 tỷ USD tăng 4,41% so với năm trước nhưng vẫn chiếm tỷ tọng xuất vào thị trường phi hạn ngạch 67,76% và thị trường có áp dụng hạn ngạch 31,23%. Nhưng tính đến hết năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước có mức tăng mạnh 2,75 tỷ USD tăng 38,21% so với năm 2001. Bước sang năm 2003, hàng dệt may vẫn tiếp tục khẳng định được thế mạnh xuất khẩu của mình. Tính đến hết tháng 6 năm 2003, kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả nước sang các thị trường đạt 1,840 tỷ USD tăng 70% so với cùng kỳ năm ngoái. II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU 1. Kết quả đạt được từ việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua. Liên minh Châu Âu cũng như từng quốc gia thành viên đã có mối quan hệ thương mại với Việt Nam ở từng mức độ khác nhau. Nhưng phải đến mấy năm gần đây, quan hệ này mới được củng cố mà điểm đột phá là hiệp định về hàng dệt may được ký kết vào năm 1992 và có hiệu lực chính thức vào ngày 1/1/1993. Quan hệ thương mại Việt Nam – EU không ngừng phát triển đã mở ra triển vọng lớn về thị trường cho sản phẩm dệt may Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam và EU đã bốn lần ký hiệp định bổ sung tăng thêm hạn ngạch và giảm bớt các mặt hàng xuất sang EU chịu sự quản lý bằng hạn ngạch vào tháng 8/1995, 11/1997, 3/2000 và đầu năm 2003. Hiệp định về hàng dệt may cùng với những ưu đãi thuế quan phổ cập GSP mà EU dành cho Việt Nam đã mở ra cơ hội phát triển lớn ngành dệt may Việt Nam. 1.1. Về kim ngạch xuất khẩu (1996 – 2002) Nguồn : Tổng công ty dệt may Việt Nam 2003. Thị trường EU được coi là thị trường xuất khẩu trọng điểm cả nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường này. Hàng năm, EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại. Từ năm 1980, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước EU như Pháp, Đức, Nga… nhưng do thay đổi về chính trị thế giới nên quan hệ buôn bán đã bị hạn chế. Từ năm 1991, quan hệ thương mại Việt Nam - EU có nhữnh bước tiến mới. Kể từ khi hiệp định buôn bán hàng dệt may được ký kết và có hiệu lực từ ngày1/1/1993.Từ đó, kim ngạnh xuất khẩu hàng dệt may VN sang EU liên tục với mức tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân 30% mỗi năm trong giai đoạn 1993 -1997. Nhìn vào biểu đồ về kim ngạch xuất khẩu thấy rõ kim ngạch tăng qua các năm và đỉnh điểm của kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là năm 2001 với 617 triệu USD chiếm 31,23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Bước sang năm 2002, do chịu ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ nên kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đã bị giảm sút và chỉ đạt 533 triệu USD chiếm 20,11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và giảm 11,12% so với năm 2001. Tính đến hết tháng 6/2003, kim ngạch xuất khẩu sang EU mới chỉ đạt 195 triệu USD, giảm 31,3% so với cùng kỳ năm 2002. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU có xu hướng giảm mạnh kể từ năm 2002, mặc dù những năm 2001 trở về trước thì kim ngạch không ngừng tăng qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả nước. Số liệu được thể hiện rõ từng năm qua bảng 2 (1996 -2002) Bảng 2 : xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU Đơn vị : triệu USD Năm Kim ngạch XK DM sang EU Tăng so với năm trước Kim ngạch XK DM của cả nước Tăng so với năm trước Tỷ trọng XK vào EU 1996 233 17,45% 1150 35,29% 19,39% 1997 366 64,13% 1520 30,61% 24,37% 1998 504 37,70% 1450 -3,46% 34,76% 1999 555 10,12% 1747 20,48% 31,77% 2000 609 9,73% 1892 8.29% 32,19% 2001 617 1,31% 1975,4 4,41% 31,23% 2002 533 -10,37% 2750 38,21% 20,11% Nguồn : Tổng công ty dệt may Việt Nam (2003) 1.2. Cơ cấu mặt hàng XK Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào 1 số sản phẩm dễ làm, các mã hàng nóng như áo Jacket hai hay ba lớp, áo sơmi, váy… Đặc biệt áo Jacket luôn giữ vị trí hàng đầu trong cơ cấu hạn ngạch xuất khẩu sang EU. Bảng 3 : Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang EU lớn năm 2002 Đơn vị tính : triệu USD Mặt hàng Jacket Sơmi nam T.Shirt Quần áo lót nhỏ CAT 21 8 4 6 31 Đứng thứ 1 2 3 4 5 Số lượng 157,573 141,933 120,750 54,897 46,133 Nguồn : Tổng công ty dệt may Việt Nam (2003) Theo hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU, trong giai đoạn đầu (1993 – 1995) số mặt hàng còn quản lý bằng hạn ngạch là 106 cat. Hai năm tiếp theo giảm xuống còn 54 cat và giai đoạn 1998 – 2002 chỉ còn 9 cat. Theo qui định 30% hạn ngạch từng chủng loại được giành cho các doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng là nhà công nghiệp Châu Âu, do Uỷ Ban Châu Âu giới thiệu. Ngoài ra, một tỷ lệ hạn ngạch khoảng 5% (riêng T.Shirt, PoloShirt-Cat 4 là 10%) để ưu tiên và thưởng khuyến khích cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước. Năm 2002, việc thực hiện hạn ngạch đã được đẩy mạnh và còn rất ít các mặt hàng chưa sử dụng hết hạn ngạch. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải có các giải pháp để khai thác triệt để hạn ngạch mà EU giành cho Việt Nam, để gần nhất là hết năm 2003 có thể phục hồi được ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV488.doc