Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Thực hiện chủ trương trên, từ đại hội Đảng lần thứ 6(Tháng 12 - 1990) đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính sách nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, các loại hình doanh nghiệp n
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp chủ yếu để mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa & nhỏ ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư doanh nghiệp tư nhân(DNTN),công ty trách nhiệm hữu hạn(TNHH),công ty cổ phân(CTCP) đã phát triển nhanh chóng đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp thì đến nay ở nước ta có tới 70% doanh nghiệp nhà nước(DNNN) và hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh(DNNQD) thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
Hiện nay, DNVVN ở nước ta tuy có tốc độ phát triển tương đối khá nhưng đang gặp khó khăn nhiều mặt: thiết bị, công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức và quản lý yếu kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém , giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập lậu và hàng hoá của các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt.
Nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vốn hiện có của hầu hết các DNVVN rất ít trong khi đó nhu cầu vốn để các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ lại đòi hỏi rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tín dụng ngân hàng nhằm tìm ra các giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, hỗ trợ cho các DNVVN là một vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn về vai trò của tín dụng của ngân hàng nói chung và của ngân hàng công thương Ba Đình nói riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này để tìm ra các giải phát cơ bản nhất nhằm hỗ trợ cho các DNVVN phát triển theo hướng công nghiệp hoá(CNH) và hiện đại hoá( HĐH) .
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài có nhiệm vụ :
-Luận giải vai trò của DNVVN và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
-Đánh giá thực trạng tín dụng ngân hàng trong những năm qua và sự hỗ trợ của nó đối với các DNVVN
-Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về giải pháp tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các DNVVN
-Đề xuất một số giải pháp tín dụng ngân hàng đối sự phát triển DNVVN ở nước ta trong quá trình CNH và HĐH
3.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm ba chương,9 tiết và danh mục các tài liệu tham khảo
Chương I
Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhất là các chính sách về tài chính, tín dụng đang được thực hiện rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam vấn đề này đã và đang được đặt ra, thể hiện ở việc xây dựng và thực hiên các chính sách, chương trình nhằm khuyến khích và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Song việc xây dựng các chính sách đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp không ít khó khăn. Vì cho đến nay, chúng ta chưa có một định nghĩa tương đối đầy đủ về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn một cách tổng quát việc định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể có hai cách tiếp cận chủ yếu sau đây: định nghĩa theo chức năng và định nghĩa theo tính ứng dụng.
Khi định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chức năng, người ta dựa vào những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như trình độ chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp tổ chức quản lý, quan hệ giữa chủ và thợ, giữa người quản lý và người làm công trong hoạt động kinh doanh.v.v... cách tiếp cận này còn có nhiều hạn chế vì nó mới chỉ nêu được mặt định tính, còn mặt định lượng rất cần thiết nó chưa thể hiện được. Nếu dựa vào định nghĩa này thì chúng ta không có cơ sở để phân loại
ở Pháp người ta còn đưa ra tiêu chuẩn để xếp loại những doanh nghiệp siêu nhỏ. Doanh nghiệp siêu nhỏ chủ yếu là những doanh nghiệp cá nhân (doanh nghiệp gia đình). Tài sản của doanh nghiệp là tài sản của cá nhân - chủ gia đình. ở Pháp, tiêu chí phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ là những doanh nghiệp có số công nhân dưới 20 người.
Hiện nay ở nước ta chưa có một định nghĩa chính xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ; Có ý kiến cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là doanh nghiệp sử dụng dưới 500 lao động. Nhưng họ chưa đưa ra được luận cứ vì sao lại chọn con số này làm mốc.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng: Những doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất và xây dựng được coi là doanh nghiệp nhỏ. Nếu chúng có số vốn từ 100 - 300 triệu đồng và số công nhân từ 5 - 10 người; còn các doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 300 triệu đồng và số công nhân lớn hơn 50 người là doanh nghiệp vừa. Nhưng theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế khác thì doanh nghiệp nhỏ là loại doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng và số công nhân dưới 100 người; còn doanh nghiệp vừa là những doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 10 tỷ và số công nhân từ 100 đến 500 người.(1tr1)
Qua nghiên cứu ở một số nước trong khu vực, qua kinh nghiệm triển khai cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta từ nguồn vốn tài trợ của Đài Loan, chúng tôi thấy không cần thiết phân thành ba loại doanh nghiệp: vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Xuất phát từ thực trạng, các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay: vốn ít, thiết bị kỹthuật lạc hậu, nên theo chúng tôi tiêu chí đặt ra để phân loại doanh nghiệp là vốn và lao động. Những doanh nghiệp có số vốn 30 tỷ đồng và 500 lao động trở xuống thì gọi là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo định nghĩa và cách đánh giá này thì ở nước ta hiện nay có tới 80% doanh nghiệp Nhà nước và hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao gồm: hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần đều thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, bên cạnh những doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đang chi phối nền kinh tế; còn có những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước.
Ví dụ: 100 năm trước đây, ở Mỹ có 300 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì năm 1980 lên tới 13 triệu và năm 1993 là 19 triệu, tăng gấp 3,8 lần so với năm 1960.(2 tr208)
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban tổng hợp Nhật Bản năm 1995 ở Nhật có 6.500 doanh nghiệp, trong số đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 99,1% và số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp này là 43,3 triệu người chiếm 79% số người làm việc trong các doanh nghiệp.(3)
ở Mỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 90% trong tổng số các doanh nghiệp thuộc các ngành tin học, điện tử, chất dẻo. Đây là những doanh nghiệp vệ tinh làm gia công lắp ráp cho các doanh nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại.
Việc phát triển nhanh chóng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước tư bản chủ nghĩa nói trên, trong những thập kỷ gần đây, là do nhiều nguyên nhân:
Một là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó kịp thời tình hình biến động của thị trường.
Hai là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận mọi sự rủi ro, mạo hiểm có thể xảy ra, nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới, những ngành mà lúc đầu đem lại lợi nhuận ít và những ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá biệt.
Ba là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thực hiện sự đổi mới thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn, vì yêu cầu vốn bổ xung không nhiều; và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
Ngày nay do sự phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học và công nghệ nên nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ mới.
Bốn là: Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng những kỹ thuật tiên tiến, có thể kết hợp giữa tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công, có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở hạ tầng kêm.
Hiện nay, có người cho rằng: Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước tư bản phát triển là hiện tượng “phi tập trung hoá” và học đi đến kết luận rằng: Luận điểm của Lênin về tích tụ tập trung tư bản dẫn tới độc quyền ngày nay không còn đúng nữa. Nghiên cứu sâu bản chất kinh tế của hiện tượng này chúng ta thấy rằng: Đó chẳng qua là sự biển hiện của độc quyền dưới dạng mới mà thôi.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu vốn, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, thiếu thông tin và tình hình thị trường, về tiến bộ khoa học và công nghệ, nên buộc phải lệ thuộc vào các công ty độc quyền thông qua hình thức hợp tác kinh doanh giữa tư bản độc quyền với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực chất của quan hệ hợp tác này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở làm gia công cho các tổ chức độc quyền mà thôi.
Trong quan hệ hợp tác, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở trong thế phụ thuộc về tài chính và kỹ thuật, còn các công ty độc quyền có khả năng lực chọn bạn hàng phù hợp với mục tiêu chiến lược, nhờ vậy mở rộng khả năng kiểm soát sản xuất nói chung và tiến bộ khoa học kỹ thuật nói riêng.
Tóm lại dưới tác động của khoa học và công nghệ, sự tích tụ và tập trung tư bản của các tổ chức độc quyền chẳng những không giảm mà còn tăng nhanh chưa từng thấy. Sự phát triển của các ngành công nghiệp mới, sự chuyên môn hoá ngày càng cao, quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp sản xuất khác nhau ngày càng gắn bó, đã xuất hiện một hệ thống kiểu “kim tự tháp”. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Trong hệ thống kim tự tháp này, độc quyền lớn ở đỉnh chóp cung cấp vốn và chỉ đạo kỹ thuật đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở dưới đáy có nhiệm vụ cung cấp trở lại các linh kiện, dịch vụ giá rẻ theo đơn đặt hàng của các độc quyền lớn.
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở các nước, chúng ta thường nghe và nghĩ đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn khi nói đến sự phát triển kinh tế của Nhật Bản, thì người ta thường nghĩ tới Toyota, Mitsubishi; cũng như thế, khi nói đến Hàn Quốc, thì người ta nghĩ ngay đến hãng Samsung.v.v.... Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, thì ít người quan tâm nghiên cứu.
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước.
Theo số liệu thống kê của nhiều nước cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 95% tổng số các doanh nghiệp, thu hút từ 75 đến 90% số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp và đóng góp từ 40 đến 50% thu nhập quốc dân ở mỗi nước. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” số 1(9) tháng 1,2 năm 1995 cho biết: ở Mỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về số người lao động chiếm 78,5%, về thu nhập quốc dân chiếm 34% so với toàn bộ doanh nghiệp nước Mỹ; ở Cộng hoà liên bang Đức (không kể Đông Đức) con số đó là 75% và 45%; ở Nhật Bản con số đó là 92,8% và 56%; ở Pháp số nhân việc làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 83,5% trong toàn bộ các doanh nghiệp nước này.
Do có lợi thế là: chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công ty, nhà xưởng; có thể mở văn phòng, xưởng sản xuất tại gia đình với chi phí quản lý thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng v.v.... nên số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua phát triển khá nhanh. Đặc biệt là loại doanh nghiệp mang tính chất gia đình, cá thể chiếm một tỷ lệ lớn.
Kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nửa cơ giới, lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, hải sản; xây dựng và giao thông vận tải v.v... nên nó có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập bảo đảm đời sống cho người lao động. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất và sử dụng công nghệ người máy đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong phú. Trong cơ cấu các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp siêu nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính chất cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn. ở Pháp, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp và có gần 50% trong số này chỉ sử dụng lao động trong gia đình, không cần thuê ngoài một nhân viên nào.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được; trái lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ do qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có những hàng hoá người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải qua khâu trung gian.
Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa hàng thương nghiệp dịch vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận.
Do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh thương nghiệp - dịch vụ bán lẻ. Vì rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể hoạt động được; còn nơi làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay nhà mình; nhân viên bán hàng thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu thông hàng hoá thấp.
Các doanh nghiệp lớn không thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại - dịch vụ vừa và nhỏ đặt khắp các đường phố khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng và thuận tiện.
ở Nhật năm 1995, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 51% trong các ngành sản xuất, 62% đối với ngành buôn bán, 80% đối với ngành bán lẻ.
ở Việt Nam, chúng ta có thể đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh thương mại - dịch vụ qua tỷ trọng bán lẻ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh so với tổng mức bán lẻ của toàn xã hội qua các năm:
Năm 1980: 70,8%.
Năm 1989: 57,3%.
Năm 1994: 67,6%.
Năm 1998: 76%.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển có tính nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc gia và đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Cho nên bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp cũng đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận dụng lợi thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất khẩu (hướng ngoại).
Thực tiễn cho thấy rằng hàng chục năm qua, ở các nước đang phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là những mặt hàng được sản xuất ra bằng những nguyên liệu do các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản cung cấp.
ở Đài Loan, từ năm 1978 đến năm 1993 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 64,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Đến năm 1998, con số trên tuy có giảm xuống, nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn: 52,57%.(4 tr14)
Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để khai thác có hiệu quả các lợi thế bên trong là vấn đề đặc biệt có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng tâm; đồng thời ra sức sản xuất những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu.
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền thống do các doanh nghiệp vừa và nhỏ kể cả kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc...
4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ của từng nước; ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất thuộc các ngành nông, lâm, hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh sự phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ trương: “Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài” .(5 tr 15)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế biến.
Theo số liệu của Tổng cục thống kế ở thời điểm cuối năm 1998, số doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh phân theo ngành nghể như sau:(6)
Số doanh nghiệp
Số vốn đăng ký (tỷ đ)
Tổng số
26.282
56.331
- Nông lâm nghiệp
1.004
2.810
- Thuỷ sản
2.189
610
- Công nghiệp chế biến
8.886
18.314
- Xây dựng
2.407
2.924
- Thương nghiệp
5.535
6.677
Như vậy ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát triển nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tài nguyên, về sức lao động của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp này chủ yếu thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong điểm 1.1.3, chúng tôi đã trình bày vị trí và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên lao động, tạo ra nhiều việc làm. sản xuất ra nhiều hàng hoá, tăng thu nhập cho Nhà nước và cho người lao động. Nhưng hiện nay, ở các nước cũng như ở nước ta, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp một số khó khăn và hạn chế:
1. Khó khăn về vốn.
Tình trạng chung ở các nước là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi mới thành lập vốn đầu tư ban đầu hay còn gọi là vốn pháp định thường rất ít. Vì ở các nước tư bản phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời trong các thập kỷ qua chủ yếu là của những người sản xuất hàng hoá nhỏ (công nhân, nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ) hoặc của một số trí thức mới tốt nghiệp ra trường bắt đầu lập nghiệp nên họ gặp rất nhiều khó khăn về vốn.
ở nước ta, sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1990), Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp phát triển rất nhanh, chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần v.v.... Những doanh nghiệp này cũng đang trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, họ phải dựa vào vốn vay của các ngân hàng thương mại hoặc của những người thân quen.
Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho việc sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp bị động lúng túng khi cần mua vật tư, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng - không có tiền để mua, và do đó khi có điều kiện bán được hàng lại không có hàng để mà bán.
Hiện nay không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, tức là sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn của người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh toán, vỡ nợ đã xảy ra.
2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ thì doanh nghiệp đó sẽ giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới thiết bị và công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động nâng cao số lượng, chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Song muốn đổi mới thiết bị và công nghệ, doanh nghiệp phải có một nguồn vốn lớn.
Như vậy là khó khăn về thiếu vốn nói trên dẫn đến khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do thiếu vốn, nên mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp so với các doanh nghiệp lớn: mức trang bị kỹ thuật được biểu hiện bằng số vốn cố định bình quân cho một công nhân trong doanh nghiệp. Nó được tính theo công thức:
Hàng năm, vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ, nói chung có tăng lên. Nhưng mức trang bị kỹ thuật của nó so với mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp lớn lại giảm xuống một cách tương đối.
Chẳng hạn, ở Nhật Bản nếu năm 1963 mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng 35% mức trang bị kỹ thuật của các doanh nghiệp lớn, thì sau 30 năm tức là năm 1997 con số đó đã tụt xuống, chỉ còn 5%.
Nguyên nhân của tình hình trên là do mấy thập kỷ qua, dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới, các doanh nghiệp lớn phải thích ứng bằng cách ra sức tích cực và tập trung tư bản để nâng cao cấu tạo kỹ thuật tư bản, nhằm tăng cao năng suất lao động để giành ưu thế trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Trong nước năm tới, nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ không giải quyết được tình trạng lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ thì sự lệ thuộc vào doanh nghiệp lớn càng nhiều và do đó có thể bị doanh nghiệp lớn thôn tính hoặc bị phá sản.
Do vốn ít, nên cấu tạo kỹ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Có nghĩa là doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng ít máy móc hiện đại nhiều lao động sống nên năng suất lao động thấp, thường chỉ bằng 30 - 50% so với các doanh nghiệp lớn cùng ngành. Do đó tiền lương cũng chỉ bằng 40 - 50% so với tiền lương trong các doanh nghiệp lớn. Chính vì lẽ đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng những không thu hút được lao động có tay nghề cao mà còn có thể bị mất lao động lành nghề, lâu năm trong doanh nghiệp mình.
3. Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới.
Những năm gần đây các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước tư bản phát triển nhất là các nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc bị tác động bởi nhiều yếu tố như sự mất giá của đồng tiền, công nhân đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện điều kiện lao động, sự tranh chấp giữa chủ và thợ ngày càng gay gắt; thêm vào đó giá cả đất đai tăng vọt do tình trạng ngày càng khan hiếm của chúng gây ra, việc bảo vệ môi sinh môi trường đã đến lúc đặt ra hết sức nghiêm túc, đòi hỏi sự quan tâm đầy đủ của toàn xã hội v.v... làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mất dần lợi thế.
Trước tình hình đó, buộc một số doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện phải tìm cách chuyển hướng đầu tư của mình đến các nước đang phát triển. Tức là đến những nơi có thể sử dụng kỹ thuật sản xuất với trình độ thấp, và có nguồn lao động dồi dào với mức tiền công rẻ.
Tuy nhiên việc đầu tư vào các nước đang phát triển thường gặp những khó khăn, như chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở một số nước chưa ổn định, các quy định về luật pháp thường hay thay đổi, chưa có sự kiểm soát về chính trị một cách có hiệu quả, việc áp dụng chính sách bảo hộ ở một số nước nhiều khi tạo ra của cải bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài v.v...
Trong điều kiện thị trường thế giới đang có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng mẫu mã hàng hoá kém, giá thành cao hơn so với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có quy mô sản xuất lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm cho mình một chỗ đứng có lợi để tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới.
4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Theo số liệu thống kê hàng năm, ở nhiều nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ lệ phá sản cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. Chẳng hạn như ở Pháp, hàng năm có khoảng 200 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời thì cũng chính thời gian ấy lại có chừng ấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Những doanh nghiệp phá sản thường là những doanh nghiệp vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, chất lượng lao động và năng lực của cán bộ quản lý kém, thiếu hiểu biết về thị trường và nhất là do sai lầm nghiêm trọng trong việc quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp.
ở nước ta, từ khi thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định 388/HĐBT (tháng 11 - 1993) đến tháng 7-1999 đã có khoảng 6000 doanh nghiệp nhỏ và quá nhỏ thuộc nhóm các doanh nghiệp có dưới 100 lao động và dưới 500 triệu đồng vốn đã ngừng hoạt động hoặc đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài. Phần lớn các doanh nghiệp này do cấp huyện quản lý.
Đến nay, trong tổng sô khoảng 6000 doanh nghiệp nhỏ nói trên, đã có khoảng 4000 doanh nghiệp được sát nhập lại thành doanh nghiệp có quy mô lớn hơn; và số còn lại khoảng 2000 doanh nghiệp phải chuyển sang hình thức sở hữu khác hoặc bị giải thể.
Những khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói trên, suy cho cùng đều bắt nguồn từ khó khăn về vốn để sản xuất kinh doanh. Vì thiếu vốn nên không có khả năng đổi mới thiết bị, ứng dụng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, do đó không thể tạo ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường thế giới; và cuối cùng tất yếu phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn các doanh nghiệp lớn.
1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, tư bản cho vay đã xuất hiện trất sớm - từ trước chủ nghĩa tư bản, dưới hình thái tư bản cho vay nặng lãi. Sự tồn tại của tư bản cho vay nặng lãi chỉ đòi hỏi điều kiện là: một bộ phận của sản phẩm lao động được chuyển hoá thành hàng hoá và các chức năng của tiền đã phát triển; tức là kinh tế hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Trước chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức của tư bản cho vay rất cao, nên lợi tức có thể chiếm toàn bộ sản phẩm thặng dư, thậm chí có khi còn lấn sang phần sản phẩm tất yếu của người đi vay. Trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, Mác đã chỉ ra rằng: Tư bản cho vay là một bộ phận trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản tiền tệ tách ra. Đó là một hiện tượng kinh tế tất yếu nảy sinh từ sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá trong chủ nghĩa tư bản.
Vì rằng trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, một số tư bản có một lượng tiền tạm thời chưa dùng đến, như tiền khấu hao tư bản cố định, tiền dự trữ để mua nguyên liệu, vật liệu hoặc để trả lương cho công nhân, giá trị thặng dư đang trong quá trình tích tụ chưa đủ mức biến thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất v.v... Đó là số tư bản không hoạt động, không sinh ra lợi nhuận, nên họ cần phải cho vay để thu lợi tức. Trong khi đó, một số nhà tư bản khác lại cần tiền để mua nguyên vật liệu trong khi chưa bán được hàng của mình hoặc cần mở rộng sản xuất kinh doanh phục vụ nhưng chưa tích luỹ đủ nguồn vốn tự có v.v... nên họ cần phải đi vay. Từ đó xuất hiện tư bản cho vay.
Trong bộ Tư bản, Mác đã vạch rõ: Tư bản cho vay là loại tư bản mà quyền sở hữu và quyền sử dụng tách ra thành những chủ thể khác nhau. Hay nói cách khác đó là tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng. Cho vay, thực chất là việc người này bán quyền sử dụng số tiền của mình cho người kia trong một thời gian nhất định. ở đây, cùng một tư bản, nhưng đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, vì sau một thời gian nhất định số tiền cho vay sẽ được hoàn trả lại cho người chủ của nó và kèm theo một khoản lợi tức; Còn đối với người đi vay thì nó là tư bản hoạt động, vì nó được người đi vay sử dụng vào sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận này không phải do tư bản của anh ta sinh ra, mà do anh ta sử dụng tư bản của người khác, do đó anh ta phải trích một phần lợi nhuận thu được trả cho người cho vay dưới hình thức lợi tức. Lợi tức được coi như giá cả của hàng hoá tư bản cho vay.
Từ sự phân tích trên cho thấy: Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ nhất định, tự nó làm nảy sinh những mâu thuẫn trong sự vận động của vốn dưới hình thái tiền tệ. Từ đó đòi hỏi một cách khách quan sự ra đời của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung gian của ngân hàng. Đó là việc ngân hàng đứng ra huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi và phân tán trong nền kinh tế; rồi bằng nguốn vốn đó và nguồn vốn tự có của mình tiến hành cho các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân vay để phát triển sản xuất, cải thiện đời._. sống, nhằm mục tiêu thương mại.
Như vậy, tín dụng ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện chức năng mua tiền tức là đi vay và bán tiền tức là cho vay để thu lợi nhuận. Lợi tức gửi tiền ( Zng) là giá cả mua tiền, còn lợi tức cho vay (ZCV) là giá cả bán tiền.
Lợi nhuận của tín dụng ngân hàng được tính theo công thức sau đây:
PTDNH = ZCV - (Zng + Chi phí nghiệp vụ TDNH)
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Tín dụng ngân hàng có những đặc điểm sau đây:
1.2.1. Tín dụng ngân hàng hoạt động đan xen đối với các loại hình tín dụng khác.
Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, ở nước ta hiện nay đã có nhiều loại hình ngân hàng đang hoạt động như: ngân hàng gửi tiền (ngân hàng tín dụng), ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân và ngân hàng đoàn thể.
Riêng ở Hà Nội, tính đến đầu tháng 8 - 1999 đã có 4 hội sở ngân ngân hàng thương mại trung ương, 18 chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh, 5 ngân hàng thương mại cổ phần, 3 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, 9 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trung bình 50.000 dân có một ngân hàng (Báo Hà Nội mới ngày 4 - 8 - 1999).
Còn hệ thống tín dụng nhân dân thì cuối năm 1999, ở nước ta đã có 567 quỹ được cấp giấy phép, 534 quỹ đi vào hoạt động thu hút 153.901 thành viên, với tổng nguồn vốn 448,1 tỷ đồng. Cũng trong thời gian này, đã có 5 quý tín dụng nhân dân khu vực hoạt động với tổng số vốn là 51,3 tỷ đồng, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương có tổng số vốn 121,2 tỉ dồng (Báo Hà Nội mới ngày 12 - 3 - 2000).
Số hợp tác xã tín dụng ở nước ta, hiện nay còn ít, mới có 64 cái.
Sắp tới sẽ có một số loại hình tín dụng khác ra đời như: Công ty đầu tư kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng đầu tư chứng khoán, ngân hàng địa ốc, công ty cất giữ, mua bán chuyển nhượng, quản lý, giấy tờ có giá v.v...
Các loại hình tín dụng nói trên đều đặt dưới sự kiểm soát của ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng.
Việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng ở nước ta là xu hướng tất yếu của nền kinh thị trường. ở một số nước trong khu vực khi chúng tôi có dịp đến nghiên cứu và khảo sát, thì lợi nhuận của các ngân hàng thu được qua hình thức tín dụng cho vay vốn chỉ có 60%, còn 40% là thu từ các loại hình tín dụng khác. Nhưng ở Việt Nam hiện nay các loại hình tín dụng khác nhau chưa phát triển, nên hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại đan xen với với hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và hợp tác xã tín dụng là chủ yếu.
1.2.2 Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh này tuy mang tên ngân hàng chuyên doanh, ví dụ: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư v.v... nhưng hoạt động tín dụng của các ngân hàng này và các ngân hàng cổ phần đều kinh doanh và dịch vụ đa dạng. Tuỳ theo năng lực nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ công nghệ của từng ngân hàng mà đi theo hướng chuyên doanh một số nghiệp vụ hay kinh doanh tổng hợp, bao gồm: Cho vay cả ngắn hạn, cho vay dài hạn, cho vay ngoại tệ, nội tệ, hoạt động đối nội và đối ngoại v.v... Chỉ riêng ngân hàng nước ngoài chưa được phép kinh doanh nội tệ như ngân hàng trong nước.
Tín dụng ngân hàng Việt Nam tuy đã phát triển theo hướng đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, kinh doanh tổng hợp, nhưng sự phát triển các hình thức tín dụng còn chậm. Hướng tới bên cạnh các hình thức tín dụng truyền thống sẽ mở ra các hình thức tín dụng mới như: Chiết khấu, tái chiết khấu và chuyển nhượng giấy tờ có giá, tài trợ mua bán hàng trả góp, đấu thầu trái phiếu kho bạc và trái phiếu công ty, tư vấn, bảo lãnh, bảo hiểm, tín dụng thu mua, cung ứng thông tin. Trên thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại trở thành ngân hàng đa dạng vừa có thể làm dịch vụ môi giới cho khách hàng, vừa trực tiếp kinh doanh chứng khoán của mình, đồng thời làm dịch vụ như tổ chức thanh toán, lưu giữ chứng từ và dữ liệu v.v...
Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng còn thể hiện ở chỗ phục vụ đa thành phần khách hàng, đa đối tượng vay vốn. Ngân hàng thương mại quốc doanh không chỉ đầu tư cho kinh tế quốc doanh mà còn đầu tư cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh; không chỉ đầu tư cho đối tượng sản xuất kinh doanh mà còn đầu tư cả lĩnh vực tiêu dùng; không chỉ đầu tư chuyên ngành công nghiệp, nông nghiệp... mà còn đầu tư đa ngành, có nghĩa là một ngân hàng có thể đầu tư cho tất cả các loại khách hàng.
Tính chất đa dạng hoá các hoạt động của tín dụng ngân hàng, các ngân hàng và tổ chức tín dụng được hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị trường đã tạo ra động lực cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các ngân hàng phát triển, từ đó có tác động tích cực đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng Việt Nam còn có đặc điểm khác với tín dụng các nước là: Vừa phải hoạt động kinh doanh sinh lời, vừa phải thực hiện chính sách xã hội được đặt ra đối với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng cổ phần mang tính chất tự nguyện theo khả năng. Song riêng đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện một số dự án, chương trình cho vay mang tính chất xã hội như: Cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay tạo công ăn việc làm, cho sinh viên vay để bảo đảm học tập v.v...
Tính đến tháng 8 - 2000 tổng số vốn cho vay xoá đói giảm nghèo đạt tới 1800 tỷ, đã cho hơn 2,2 triệu lượt hộ đói nghèo vay để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đó là chưa kể nguồn vốn tài trợ quốc tế. Riêng vốn xoá đói giảm nghèo ở 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đã có 465 tỷ đồng cho gần 700 ngàn lượt hộ đói nghèo vay (Báo Nhân dân ngày 8 - 8- 2000).
Các loại cho vay nói trên còn mang nội dung bao cấp qua tín dụng.
Vì cho vay không lấy lãi hoặc mức lãi suất rất thấp. Như vậy các ngân hàng thương mại quốc doanh vừa phải hoạt động bình đẳng trong cơ chế thị trường vừa phải thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa và vị trí chủ đạo của mình trong các tổ chức tín dụng.
Nội dung kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh ở nước ta không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận mà còn phải thực hiện mục tiêu xã hội, tức là vừa phải tuân thủ các quy luật của cơ chế thị trường, vừa phải hướng hoạt động phục vụ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
1.3. Vai trò của tín dung ngân hàng đối với sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
1.3.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc mở rộng sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực hiện yêu cầu ấy, nếu chỉ dựa vào sự tích luỹ lợi nhuận thu được trong nội bộ từng doanh nghiệp thì rất lâu, không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Nhưng nếu thông qua sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng thì việc đó có thể thực hiện một cách nhanh chóng.
ở nước ta hiện nay, tuy đã qua 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vẫn còn đang trong quá trình tổ chức và tổ chức lại. Một số doanh nghiệp quy mô nhỏ cần vốn để tăng thêm máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu, năng lượng và lực lượng lao động. Một số doanh nghiệp khác đang trong tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, cần vốn để đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao cấu tạo kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá. Và một số doanh nghiệp đã hình thành nhưng còn đang trong tình trạng thiếu vốn hoạt động.
Với tư cách là một trung tâm tín dụng, các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các cơ sở sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, trong các tổ chức văn hoá xã hội và trong các tầng lớp dân cư, trong nước và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, hoặc bù đắp phần vốn thiếu hụt để cho số vốn tự có trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chu chuyển bình thường. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn có các công trình trọng điểm có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã tập trung nguồn vốn đầu tư cho các ngành, các công trình trọng điểm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng tỷ trọng vốn đầu tư trung hạn và dài hạn để các doanh nghiệp có thể đổi mới thiết bị công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh; tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nêu trên, Đảng ta chủ trương “Tăng nhanh mức huy động vốn thông qua các chính sách đầu tư phát triển và mở rộng thị trường vốn bằng nhiều hình thức như: gửi tiền tiết kiệm dài hạn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu kể cả việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, mở rộng các quỹ đầu tư và các hình thức huy động nguồn vốn nước ngoài. Từng bước hình thành thị trường chứng khoán”.(7 tr229)
1.3.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng như việc điều tiết kinh tế vĩ mô, bao giờ Nhà nước cũng phải sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
Vì rằng muốn khai thác tốt nhất lao động tài nguyên, ngành nghề trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng cơ sở thì phải tiến hành phân công lại lao động, phân bổ lại dân cư, tổ chức lại sản xuất, đổi mới quản lý. Tất cả những việc đó, chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là phải có nguồn vốn tương ứng.
Giải quyết vốn cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, có nhiều nguồn, nhiều kênh. Nhưng do bản chất của tín dụng ngân hàng là vay bảo đảm hoàn trả kèm theo lãi cho người vay nên nó có thể huy động được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi rất lớn.
Tín dụng ngân hàng, bằng các hình thức huy động vốn linh hoạt, áp dụng nhiều phương thức nhận gửi, chi trả cho khách hàng nhanh chóng, thuận tiện; có một hệ thống kinh doanh tiền tệ bao gồm các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch, các trụ sở ngân hàng rộng khắp, nên có khả năng huy động được mọi khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, để đưa vào sản xuất lưu thông có mục tiêu, có trọng điểm. Qua đó, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân hợp lý, có hiệu quả.
Ưu thế nổi bật của hoạt động tín dụng ngân hàng là không làm tăng khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Với chức năng đi vay, tín dụng ngân hàng “hút” tiền thừa trong lưu thông; và với chức năng cho vay, tín dụng ngân hàng “đẩy” tiền ra lưu thông, khi lưu thông thiếu tiền.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ làm cho quan hệ tiền hàng cân đối với nhau. Chính vì lý do này, tín dụng ngân hàng là một công cụ tổng thể chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh có hiệu quả.
Để thấy rõ vai trò chống lạm phát bằng công cụ tín dụng ngân hàng, chúng ta hãy xem chỉ số tăng giá ở nước ta qua các năm từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến 1999.
Năm Chỉ số tăng giá
1990 400%
1991 429%
1992 628%
1993 34,8%
1994 67,2%
1995 67,4%
1996 17,5%
1997 5,2%
1998 14,4%
1999 12,7%
Năm 1992 chỉ số tăng giá đạt ở mức cao nhất, lên tới 3 con số: 682%. Nhưng từ năm 1993 - 1995, chỉ số tăng giá đã giảm xuống còn hai con số từ 34,8% - 67,4%. Thắng lợi đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do có sự đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của tín dụng ngân hàng theo hai pháp lệnh: Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5 -1994). Đây là bước ngoặt của ngành ngân hàng trong việc thực hiện chủ trương của Đại hội VI của Đảng là: “bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế”.(8 tr 73)
Tuy nhiên chỉ số tăng giá những năm 1994, 1995 vẫn còn cao. Một trong những nguyên nhân của tình hình là trong thời gian này, chúng ta sử dụng giải pháp tình thế bằng cách phát hành tiền để giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước. Nhưng từ năm 1996 đến nay, tình trạng này đã được chấm dứt. Bội chi ngân sách đã được giải quyết chủ yếu thông qua tín dụng ngân hàng, thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Do đó chỉ số tăng giá đã giảm từ 67,4% năm 1995 xuống còn 12,7% năm 1999.
Kiềm chế được lạm phát, giữ chỉ số tăng giá ở mức thấp một cách hợp lý có ý nghĩa tích cực đối với sức mua của đồng tiền Việt Nam, ổn định tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, chẳng những tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mà còn có lợi cho người tiêu dùng, nhất là đối với người lao động có thu nhập thấp.
1.3.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác.
Trong cơ chế thị trường Mác đã chỉ rõ: việc sản xuất kinh doanh vì động cơ lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành, sản xuất ra cùng một loại hàng hoá. Mục đích của cạnh tranh là giành ưu thế trong sản xuất để có ưu thế trong tiêu thụ, nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Điều kiện để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này là doanh nghiệp phải có vốn khá lớn để đổi mới kỹ thuật và công nghệ, cải tiến tổ chức và quản lý, nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp của mình sản xuất ra thấp hơn giá thị trường. Thực hiện yêu cầu này, các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng mà chúng tôi đã trình bày ở điểm 1.3.1. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cơ sở của cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh trạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau, sản xuất ra những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau, như cạnh tranh giữa các ngành dệt, dự án, may mặc, cơ khí điện tử v.v... Mục đích của cạnh tranh này là nhằm giành giật lĩnh vực đầu tư thu hút nhiều lợi nhuận.
Như chúng ta đã biết, trong các ngành sản xuất khác nhau do điều kiện kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý khác nhau; do đó cùng một lượng vốn đầu tư vào các ngành như nhau, nhưng khối lượng lợi nhuân thu được trong cùng một thời gian (một năm chẳng hạn) lại không bằng nhau. Từ đó dẫn đến dự cạnh tranh di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Tuy nhiên, việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác không phải doanh nghiệp nào muốn là có thể làm được, vì phải có những điều kiện nhất định. Song điều kiện khó khăn nhất, có ý nghĩa quyết định nhất là điều kiện đổi mới vốn cố định, tức là loại bỏ thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất mặt hàng cũ, mua sắm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới để sản xuất mặt hàng mới, cùng với các phương tiện dịch vụ sản xuất mới. Trong trường hợp này, nhiều doanh nghiệp phải dựa vào sự hỗ trợ nguồn vốn của tín dụng ngân hàng.
Việc tín dụng ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thuộc cá ngành sản xuất khác nhau trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này, lĩnh vực này sang ngành khác, lĩnh vực khác có ý nghĩa nhiều mặt. Một mặt, đó là việc tín dụng ngân hàng với chức năng phân phối thực hiện sự phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. mặt khác đó là việc tín dụng ngân hàng góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành trong nền kinh tế quốc dân một cách hợp lý.
1.3.4. Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp như đã trình bày ở trên, phát huy tác dụng đến mức nào tuỳ thuộc vào chính sách lãi suất được quy định trong từng thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng ngân hàng là một công cụ rất nhạy cảm trong việc điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng của các ngân hàng trung ương. Nó có tác dụng tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại.
Kết quả đáng ghi nhận trong việc đổi mới chính sách tiền tệ - tín dụng ở nước ta là: vào đầu năm 1993, Chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng. Quyết định số 55/CT ngày 10/03/1993 của HĐBT cho phép Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư phù hợp với sự biến động của giá cả thị trường xã hội. Sau đó quyết định 39 của HĐBT ngày 10 - 3 - 1993 đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng. Nội dung cơ bản của các nguyên tắc đó như sau:
1. Mức lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải đủ bảo tồn vốn và có lãi cho người gửi. Hay nói cách khác lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải bằng chỉ số trượt giá cộng với lãi suất cơ bản. Nguyên tắc này nhằm khuyến khích những người có tiền chưa dùng đến đem gửi vào ngân hàng. Vì đây là việc làm “vừa ích nước vừa lợi nhà”.
2. Chính sách lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, triệt để khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mức lãi suất cho vay của tín dụng ngân hàng phải lớn hơn mức lãi suất nhận gửi nhằm bù đắp được chi phí hợp lý nghiệp vụ ngân hàng và chỉ số trượt giá của hàng hoá trên thị trường xã hội. Nguyên tắc này nhằm xoá bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng.
Trong những năm 1994 - 1995, do lãi suất cho vay thấp hơn lãi xuất nhận gửi nên ngân hàng Nhà nước đã phải bù lỗ cho các ngân hàng thương mại một khoản tiền khá lớn, gần 800 tỷ đồng.
Từ năm 1994, chúng ta đã từng bước chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Và đến tháng 6 - 1995, các ngân hàng thương mại đã thực hiện triệt để chính sách lãi suất dương trong hoạt động tín dụng của mình. Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã thực sự trở thành xí nghiệp kinh doanh tiền tệ từ đó đến nay.
4. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng có quyền quyết định mức trần lãi suất cho vay tối đa và mức sàn tối thiểu của lãi suất tiền gửi. Các ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh tín dụng và tiền tệ được phép quyết định mức lãi suất trong phạm vi khung lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định, Lãi suất được điều chỉnh theo sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường xã hội. Sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất nhận gửi trước đây là 0,5 nay còn 0,35%. Thực hiện nguyên tắc này, các ngân hàng đã bù đắp được chi phí, dự phòng rủi ro và có lãi.
Biểu 1:Diễn biến lãi suất qua các năm 1990-1999
Năm
Lãi suất nhận gửi bình quân % tháng
Lãi suất cho vay bình quân % tháng
1990 - 1994
1995
1996
1997
1998
1999
0.3
2.9
1.9
1.4
1.3
1.4
4.3
3.5
2.5
1.8
1.6
1.7
Trên đây, chúng ta mới nói đến việc xác định lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay tín dụng của ngân hàng sao cho cả người cho vay và người nhận gửi đều thu được một lợi nhuận nhất định. Còn về phía các doanh nghiệp với tư cách là những người đi vay, thì lãi suất cho vay của tín dụng ngân hàng là bao nhiêu để họ có thể chấp nhận được, thì chúng ta chưa bàn kỹ.
Các doanh nghiệp vay tiền của tín dụng ngân hàng là để sản xuất kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Do đó, họ chỉ vay tiền khi mức sinh lợi của nó phải cao hơn lãi suất tiền vay phải trả cho ngân hàng thương mại. Vấn đề này Mác đã phân tích trong học thuyết tư bản cho vay của mình rằng: Tỷ suất lợi tức (z’) phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân (). Trong điều kiện bình thường, giới hạn trên của nó là , giới hạn dưới của nó không xác định được, nhưng bao giờ cũng phải lớn hơn số 0.
0 < z’ Ê
Trong giới hạn đó, tỷ suất lợi tức lên xuống tuỳ thuộc vào sự biến động trong quan hệ cung cầu của tư bản cho vay gắn liền với chu kỳ sản xuất công nghiệp.
ở nước ta hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn cần vay; nhưng không phải họ chịu vay với bất cứ giá nào. Từ đầu năm 2000 đến nay, mặc dù ngân hàng Nhà nước đã 5 lần giảm lãi suất cho vay để giải phóng đầu ra, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn không dám vay, khiến cho các ngân hàng thương mại bị đọng vốn đến mức quá tải. Tính đến ngày 30 - 6 - 2000 vốn dự trữ vượt mức của ngân hàng thương mại là 2876 tỉ đồng trong đó Ngân hàng Công thương là 909 tỉ đồng, Ngân hàng Ngoại thương là 1011 tỷ đồng, Ngân hàng Nông nghiệp 298 tỷ đồng, Ngân hàng Exim Bank 20,8 tỷ đồng, Ngân hàng Tân Việt 13,5 tỷ đồng.
Hiện tượng tồn đọng vốn ở các ngân hàng thương mại nói trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do mấy tháng gần đây chỉ số giá cả thị trường nước ta giảm liên tục:
Tháng 1-2000: 0,9%
Tháng 2-2000: 2,5%
Tháng 3-2000: 0,8%
Tháng 4-2000: 0,1%
Tháng 5-2000: 0,5%
Tháng 6-2000: 0,5%
Trong khi các yếu tố đầu vào của sản xuất thì không giảm hoặc giảm ít. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm xuống, một số mặt hàng không bán được như lương thực, đường, cà phê, xi măng, than, vật liệu xây dựng v.v... Trong tình hình này, các chủ doanh nghiệp tính rằng việc vay vốn cho sản xuất kinh doanh là không có lợi.
Chính sách lãi suất có vai trò rất quan trọng trong việc huy động vốn và cho vay vốn của tín dụng ngân hàng. Nội dung cơ bản của chính sách này đã được trình bày ở trên, theo quan điểm bảo đảm hài hoà lợi ích kinh tế của các chủ thể có quan hệ tín dụng với nhau, tức là bảo đảm sao cho người có tiền cho vay, người nhận gửi - tín dụng ngân hàng và người đi vay để sản xuất kinh doanh - các doanh nghiệp đều cảm thấy cùng có lợi.
Chương 2:
THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu và hạn chế.
1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Một là: ý thức được vị trí và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nên những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách, luật pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển và ngày càng khẳng định chỗ đứng của nó trong công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Hai là: Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại doanh nghiệp mà các thành phần kinh tế nhất là kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thành lập.
Dưới đây là biểu thống kê số lượng các loại doanh nghiệp và số vốn hoạt động của chúng từ năm 1998 - 2001.
Biểu 2: Số lượng các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
Tổng số
Từ 1998 đến 2000
Năm 2001
DN
Vốn
DN
Vốn
DN
Vốn
Tổng số
26.282
56.331
18.854
40.080
7.428
16.250
- DN tư nhân
13.772
2.000
8.684
1.321
5.088
679
- Cty TNHH
5.120
3.598
3.390
2.571
1.730
1.021
- Cty cổ phần
130
1.021
106
806
27
215
- DN Nhà nước
6.042
48.718
5.704
34.611
338
14.101
- DN địa phương
4.271
15.665
4.029
14.173
242
1.491
- DN trung ương
1.771
33.048
1.675
20.438
96
12.610
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Như vậy chỉ tính riêng năm 2001 đã có 7.428 doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh với số vốn 16.250 tỷ đồng, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và do địa phương quản lý.
Hiện nay số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là 19.202 doanh nghiệp, chiếm 73% so với tổng số các doanh nghiệp; nhưng số vốn hoạt động của chúng chỉ có 6.619 tỷ, chiếm 11,7% tổng số vốn hoạt động của tổng số các doanh nghiệp.
Ba là: Trong những năm qua, nhất là từ năm 1995 đến nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đáng kể trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân. Song hiện nay, các cơ quan thống kê chưa có số liệu tổng hợp theo loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó để đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng tôi dựa vào số liệu thống kê của Tổng cục thống kê trong các biểu sau đây để rút ra những số liệu cần thiết để chứng minh, với quan niệm các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Biểu 3: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: tỷ đồng
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số
14.001
15.471
18.116
20.912
23.170
1. Công nghiệp QD
9.475
10.599
12.599
14.642
16.755
- Q.D.T.W
6.438
7.435
9.154
10.602
12.086
- Q.D địa phương
7.573
8.035
8.962
9.809
2. CN ngoài QD
4.535
4.871
5.769
6.415
- Hợp tác xã
1.279
746
514
434
- CN tư doanh
136
228
513
826
- Tư nhân cá thể
3.119
3.896
4.309
4.509
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Biểu 4: Khối lượng vận chuyển hàng hoá theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Tổng
Quốc
Ngoài quốc
Cấp quản lý
số
doanh
doanh
Trung ương
Địa phương
1997
53.889
28.871
25.018
9.172
44.717
1998
46.431
21.183
35.248
9.779
46.652
1999
64.903
18.008
46.895
9.825
55.078
2000
70.464
19.775
50.709
10.898
59.556
2001
75.560
21.302
54.228
11.800
63.760
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Biểu 5: Tổng mục bán lẻ hàng hoá theo thành phần kinh tế
Tổng số
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
1997
19.031
5.788
519
12.723
1998
33.403
9.000
662
23.740
1999
51.214
12.370
563
38.280
2000
67.273
14.650
612
52.011
2001
85.245
20.130
673
64.442
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Qua số liệu thống kê trong ba bảng trên, cho chúng ta thấy:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thì giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngoài quốc doanh năm 2000 chiếm 27,5%, công nghiệp ngoài quốc doanh do địa phương quản lý chiếm 46,9%. Như vậy ước tính năm 2000 doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 74% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước.
- Trong lĩnh vực lưu thông năm 2001 tổng mức bán lẻ hàng hoá của kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 79% tổng mức bán lẻ toàn xã hội.
- Khối lượng vận chuyển hàng hoá trong lĩnh vực ngoài quốc doanh năm 2001 chiếm 74%.
Bốn là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm giải quyết. Sau những năm đầu chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, nhất là những năm Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, nhiều hợp đồng sản xuất gia công, mua bán giữa các doanh nghiệp ở nước ta và các nước nói trên bị huỷ bỏ, làm cho hàng loạt công nhân thất nghiệp, mặt khác hàng năm cả nước có đến chục vạn thanh niên, học sinh đến tuổi lao động và hàng vạn bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cần có việc làm. Trong bối cảnh đó, do có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế được thành lập nên đã giải quyết được hàng tiệu người lao động có việc làm.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính đến 1/7/2000 lao động làm việc trong các ngành và thành phần kinh tế như sau:
Biểu 6: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân đến 1/7/2000 phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: ngàn người
Tổng số
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Tổng số
32.718
3.968
29.749
- Công nghiệp
3.521
706
2.815
- Xây dựng
848
298
549
- Nông nghiệp
23.683
264
23.419
- Giao thông
496
118
377
- Thương nghiệp
1.776
270
1.505
v.v....
Nguồn: Niên giám thống kê 2000(6)
Theo biểu trên, nếu không tính số lao động nông nghiệp thì lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà chủ yếu là lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, thương nghiệp, năm 2000 đã chiếm tới trên 6 triệu người.
Năm là: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong những năm qua đã thúc đẩy dự phân công lại lao động, bố trí lại dân cư, phân bố vốn đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Năm 1999 so với năm 1994, giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp tăng khá về tuyệt đối, nhưng tỷ trọng giảm từ 38,7% xuống còn 29%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% lên 29,1%, dịch vụ tăng từ 38,6% lên 41,9%.
Nhờ có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói trên nên đã khai thác có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao (tốc độ tăng GDP bình quân 1995 - 2001 là 8,2%).
2. Những hạn chế và yếu kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Những năm quá sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong bối cảnh cơ chế thị trường mới hình thành đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế chính sách, luật pháp mới được tạo lập chưa đầy đủ và đồng bộ; quan niệm về phát triển ._. tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng nhất là vấn đề bức xúc hiện nay.
Cần ban hành ngay qui chế cán bộ tín dụng. Quy địng rõ tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ tín dung, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn phải được xác định một cách rõ ràng. Ai không đủ năng lực và phẩm chất thì nhất thiết không nên để họ tiếp tục làm cán bộ tín dụng nữa.
3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro.
Hiện nay ngân hàng Nhà nước có hệ thống các trung tâm phòng ngừa rủi ro, các ngân hàng thương mại đều có phòng chuyên trách thông tin phòng ngừa rủi ro, đáp ứng được một phần những thông tin về khách hàng, về hoạt động của thị trường tín dụng, có tác dụng tốt cho việc nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn. Song việc thông tin còn chậm, chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Thời gian tới cần phải có những hình thức thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Thông tin khách hàng vay vốn các ngân hàng trên địa bàn là cần thiết nhất để bảo đảm một khách hàng không được vay vốn ở nhiều ngân hàng.
4. Tăng cường kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay:
Công tác kiểm tra và giám sát có thể tiến hành theo hình thức:
- Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Kiểm tra việc đánh giá tài sản thế chấp, bảo quản tài sản thế chấp, cầm cố.
- Kiểm tra các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau về khách hàng.
- Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc các khách hàng trả nợ các khoản gốc và lãi đến hạn.
Thông qua các hình thức kiểm tra nói trên, cho phép chúng ta phát hiện sớm những vụ việc tiêu cực để ngăn ngừa và xử lý kịp thời, hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong tín dụng ngân hàng.
3.3. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm nổi bật của DNVVN ở Việt Nam là vốn tự có bé, toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh chủ yếu là phải vay ngân hàng; mặt khác do những yếu kém trong sản xuất kinh doanh nên tính rủi ro trong cho vay đối với DNVVN, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cao. Do vậy nếu cơ chế cho vay của ngân hàng quy định chặt chẽ thì dẫn đến tình trạng ngân hàng không cho vay đưocj, tái lại nếu quy định không chặt chẽ sẽ dẫn đến rủi ro, thất thoát vốn. Để thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho DNVVN phát triển nhưng vẫn bảo toàn được vốn tín dụng, theo tôi cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN trên một số mặt chủ yếu như: thể lệ cho vay, hình thức tín dụng và chính sách lãi suất.
3.3.1. Sửa đổi và bổ sung thể lệ cho vay.
Trong việc sửa đổi và bổ sung thể lệ chó vay của tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN, cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây:
- Các nguyên tắc và điều kiện tín dụng đối với các DNVVN không thể tách rời các nguyên tác về điều kiện cho vay đối với nền kinh tế, nhưng do tính đặc thù của DNVVN cần phải quy định phù hợp hơn.
- Phải giới hạn mức tín dụng, giới hạn kỳ trả nợ và giới hạn về mặt xử lý khi cho vay.
- Phải đổi mới phương thức cho vay đa dạng hoá các hình thứ tín dụng và mở rộng các đối tượng cho vay.
- Thực hiện lãi suất cho vay có phân biệt theo từng ngành và theo từng mục đích sử dụng vốn, áp dụng khung lãi suất tối đa và tối thiểu để có chính sách ưu đãi về lãi suất.
Trên cơ sở những quan điểm trên, chúng tôi đề nghị cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải chỉnh sửa theo hướng sau:
1. Nguyên tắc tín dụng:
Tín dụng là quan hệ vay trả, nguồn vốn của tín dụng là nguồn vốn huy động có thời hạn, do đó việc cho vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Trong thời kỳ bao cấp tín dụng có ba nguyên tắc đó là:
- Cho vay có mục đích, có kế hoạch.
- Có vật tư hàng hoá tương đương làm bảo đảm.
- Hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn.
Trong ba nguyên tắc trên suy cho cùng để thực hiện nguyên tắc duy nhất đói là nguyên tắc hoàn trả.
Hiện nay các ngân hàng đã chuyển sang hạch toán kinh doanh, tín dụng ngân hàng không còn tình trạng bao cấp, nguyên tắc tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường phải có một nội dung mới. Đó là phải đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh doanh của ngân hàng và phải tôn trọng quyền tự chủ tài chính của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, linh hoạt, chủ động và phù hợp với cơ chế thị trường.
Nghiên cứu các thể lệ chế độ tín dụng của ngân hàng Nhà nước ban hành trong những năm gần đây, chúng tôi chưa thấy thể hiện được yêu cầu nói trên. Đề nghị ngân hàng Nhà nước nghiên cứu làm rõ các nguyên tắc tín dụng trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Và từ nguyên tắc này mà cụ thể hoá trong nghiệp vụ sử dụng vốn vay của khách hàng, tín dụng ngân hàng sao cho vừa đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay của khách hàng vừa bảo đảm hạch toán kinh doanh của ngân hàng.
2. Mở rộng đối tượng tín dụng:
Nghiên cứu cho vay DNVVN ở ngân hàng Bangkok và một số ngân hàng các nước trong khu vực, chúng tôi thấy đối tượng cho vay của ngân hàng rất đa dạng và thích hợp với cơ chế thị trường. Vì đứng trên phương diện kinh doanh của ngân hàng nơi nào có cầu về tín dụng thì ngân hàng cho vay. Do mục đích của tín dụng ngân hàng không những chỉ đầu tư vào sản xuất, kinh doanh mà còn đầu tư vào cả trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Cơ chế tín dụng của các nước không phân biệt đối tượng cho vay ngắn hạn là đầu tư vào khâu dự trữ vật tư hàng hoá, cho vay trung hạn là đầu tư vào tài sản cố định như Việt Nam.
Để mở rộng đối tượng đầu tư đáp ứng yêu cầu về tín dụng, ngày 21/02/1998 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã có thông tư số 02- TT- NH5 “Hướng dẫn thi hành cho vay vốn phát triển kinh tế gia đình và cho vay tiêu dùng”. Nhưng theo chúng tôi các điều kiện quy định còn hạn hẹp, nhất là cho vay tiêu dùng.
Để thích hợp với nhu cầu vay vốn của các DNVVN và để đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải sửa đổi và mở rộng đối tượng cho vay.
- Cho vay ngắn hạn không nhất thiết chỉ đầu tư vào tài sản lưu động, mà có thể đầu tư cả vào lĩnh vực mua sắm công cụ sản xuất, máy móc thiết bị, trang thiết bị nội thất, phương tiện vận tải.... (thuộc tài sản cố định) nếu phương án vay vốn của khách hàng đảm bảo trả nợ trong vòng 12 tháng, hoặc khách hàng có nguồn vốn khác cam kết trả nợ trong vòng 12 tháng thì ngân hàng có thể xét cho vay ngắn hạn để đầu tư vào các đối tượng làm tài sản cố định. Giải pháp này nhằm tháo gỡ cho các doanh nghiệp không phải làm các thủ tục xin vay vốn trung và dài hạn, không bị lệ thuộc vào nguồn vốn và mức phán quyết của ngân hàng cơ sở.
- Đối tượng cho vay tiêu dùng cá nhân cần được mở rộng và cho vay vào các mục đích sử dụng sau:
+ Cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở.
+ Cho vay mua sắm các phương tiện đi lại, nghe nhìn.
+ Cho vay đi du lịch.
+ Cho vay đóng học phí, đi học nghề, du học nước ngoài.
+ Cho vay hiếu, hỷ, chữa bệnh.
Tất nhiên việc cho vay này phải được xem xét khả năng hiện thực của người vay trong việc đảm bảo hoàn trả đúng kỳ hạn.
5. Đổi mới phương thức cho vay.
Phương thức cho vay tuy là biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng để đảm bảo cho vay đúng nguyên tắc đúng đối tượng, quản lý được khoản cho vay. Nhưng nó là những vấn đề quy định về thủ tục có liên quan đến khách hàng vay vốn. Nếu một phương thức cho vay đề ra qua nhiều thủ tục rườm rà sẽ gây khó khăn phiền phức cho người vay. Trái lại, nếu phương hướng cho vay, quy trình cho vay không chặt chẽ sẽ dẫn tới không an toàn.
Việc đổi mới phương thức cho vay phải chặt chẽ về pháp lý, an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động về sử dụng vốn.
ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại hai phương thức cho vay được hướng dẫn trong cơ chế hiện hành, đó là cho vay luân chuyển và cho vay từng món. Song phương thức cho vay luân chuyển không phù hợp với cơ chế thị trường nên hầu như các ngân hàng cơ sở đều không vận dụng.
Phương thức cho vay phổ biến hiện nay là cho vay từng món, song về thủ tục cho vay quy định quá phức tạp, không phù hợp với trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tôi cần phải đơn giản một số biểu mẫu, bỏ bớt một số thủ tục không cần thiết. Ví dụ: phương án kinh doanh không nhất thiết mỗi món vay phải xây dựng một phương án. Tờ trình xin vay vốn chỉ cần làm lần đầu thay thế đơn xin vay, giấy nhận nợ, cam kết thế chấp hoặc hợp đồng thế chấp bằng một hợp đồng tín dụng.
Để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường cần nghiên cứu hướng dẫn một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng một cách phổ biến như:
- Cho vay theo số dư (thấu chi) khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại ngân hàng trên một năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi, tức là khách hàng được rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán vượt quá mức dư tiền gửi của khách hàng hoặc vượt quá số dư tiết kiệm gửi tại ngân hàng. Chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền rút là số tiền ngân hàng cho vay thấu chi. Nhưng mức rút tiền phải có giới hạn do ngân hàng xác định.
- Chiết khấu chứng từ.
Khi mà thị trường chứng khoán ở nước ta phát triển, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ là nghiệp vụ được áp dụng phổ biến. Hiện nay một số ngân hàng thương mại có cơ chế hướng dẫn nghiệp vụ này nhưng thực tế các ngân hàng cơ sở chỉ cho vay thế chấp bộ chứng từ xuất.
3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng.
Những năm tới các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nước ta sẽ áp dụng một số hình thức tín dụng mới thích ứng với sự hoạt động ngày càng đa dạng của các doanh nghiệp cũng như những tiến bộ về công nghệ ngân hàng. Những hình thức tín dụng đã và sẽ được thực hiện ở Việt Nam là:
- Tín dụng bảo lãnh.
- Tín dụng thuê mua.
- Tín dụng hợp vốn (đồng tài trợ).
- Nghiệp vụ cầm đồ, môi giới, chứng khoán.
Các hình thức tín dụng này ở Việt Nam hiện nay đã có các văn bản hướng dẫn nhưng thời gian qua hoạt động còn kém chưa phát triển. Do quan điểm chỉ đạo chưa nhất quan, do các cơ chế pháp luật chưa được ban hành để tạo điều kiện cho các hình thức tín dụng mới phát triển.-
1. Về nghiệp vụ bảo lãnh:
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định 196 - QĐ - NH14 ngày 16/09/1998 về “Quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng “ đây là một hình thức tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tranh thủ được nguồn vốn nước ngoài dưới hình thức nhập vật tư, thiết bị trả chậm có sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này khá phát triển trong những năm gần đây, giải quyết được nhu cầu vốn, nhất là vốn ngoại tệ để nhập thiết bị, vật tư hàng hoá. Nhiều dự án nhập thiết bị đồng bộ một nhà máy với công nghệ và kỹ thuật hiện đại hàng chục triệu USD được ngân hàng bảo lãnh đã phát huy hiệu quả. Nhưng cũng có nhiều ngân hàng, nhiều trường hợp bảo lãnh một cách vô tội vạ, không chấp hành đúng chế độ bảo lãnh đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp được bảo lãnh nhập những thiết bị về không tiêu thụ được hoặc kinh doanh thua lỗ, ngân hàng không quản lý được vốn hàng trả chậm, đến thời hạn thanh toán doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, ngân hàng phải trả thay.
Hiện nay có nhiều quan điểm đề nghị hạn chế hoặc cấm hẳn việc cho mở L/C trả chậm. Theo quan điểm của tôi việc bảo lãnh mở L/C trả chậm là một loại hình tín dụng phổ biến và phù hợp với cơ chế thị trường, nhất là đối với nước ta hiện nay đang thiếu vốn. Do vậy việc bảo lãnh tín dụng cần được phát triển. Song để đảm bảo an toàn vốn, ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu ban hành quy chế bảo lãnh chặt chẽ.
Về chủ trương nên mở rộng hình thức bảo lãnh để nhập thiết bị đồng bộ, hiện đại để thực hiện các dự án đã được các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Cấm nhập vật tư, hàng hoá trong nước có khả năng cung ứng để bảo vệ hàng nội địa.
2. Tín dụng thuê mua:
Tín dụng thuê mua là hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ khi kết thúc thời hạn thuê. Bên thuê được quyền quản lý, sử dụng tài sản thuê, hoặc mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê mua.
Do đặc điểm của DNVVN là vốn ít, các điều kiện để được vay vốn ngân hàng không đảm bảo, đặc biệt là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng, tín dụng thuê mua, nhất là thuê mua thiết bị phát triển sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các DNVVN. ở các nước công nghiệp phát triển nhiều công ty thuê mua quốc tế.
Ngày 27/05/1999 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã có quyết định số 149 - QĐ - NH5 “về việc ban hành thể lệ tín dụng thuê mua” các ngân hàng thương mại đã có các văn bản hướng dẫn, nhưng việc triển khai thực hiện hết sức khó khăn. Một số ngân hàng thương mại vận dụng tín dụng thuê mua bằng hình thức bắt nợ, chủ yếu là nhà và đất để sử dụng vào nghiệp vụ kinh doanh của mình, chưa triển khai việc cho thuê thiết bị, máy móc, gần đây đã có một số tổ chức liên doanh thành lập công ty thuê mua ra đời nhưng chưa hoạt động.
3. Tín dụng hợp vốn:
Là hình thức tín dụng đồng tài trợ vào một dự án. Do nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh có những dự án đòi hỏi quy mô vốn đầu tư rất lớn. Nếu chỉ một ngân hàng đứng ra đầu tư sẽ khó khăn về nguồn vôn, về nguy cơ rủi ro. Hình thức tín dụng hợp vốn hay nói cách khác là nhiều ngân hàng cùng tham gia đầu tư vào một dự án sẽ giải quyết được những khó khăn trên.
ở Việt Nam hình thức tín dụng này đã và đang áp dụng có hiệu quả. Song để có thể mở rộng hình thức tín dụng này ngân hàng Nhà nước cần ban hành một thể lệ cho vay vốn đồng tài trợ.
3.3.3. Thực hiện chính sách lãi suất hỗ trợ cho các DNVVN.
Để lãi suất trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một bước quan trọng là chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương, việc chuyển này có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành vĩ mô.
Từ chỗ Nhà nước quy định rất cụ thể mức lãi suất đối với các ngành, các thành phần kinh tế, các đối tượng đầu tư và dược áp dụng thống nhất đối với các ngân hàng thương mại. Hiện nay ngân hàng Nhà nước chỉ quy định một trần lãi suất, trên cơ sở trần đó các ngân hàng, tổ chức tín dụng tự xác định mức lãi suất cụ thể của mình. Đã thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ, và đã xử lý được sự bất hợp lý về lãi suất dài hạn và ngắn hạn. Những chủ trương về đổi mới cơ chế lãi suất ở tầm vĩ mô của ngân hàng Nhà nước là rất phù hợp với cơ chế thị trường.Song về cơ chế lãi suất cụ thể cũng cần được nghiên cứu có những chế độ ưu đãi, kích thích một số ngành sản xuất phát triển theo đường lối chính sách của Đảng.
Hiện nay trong các văn bản hướng dẫn về lãi suất các ngân hàng chỉ quy định một mức lãi suất áp dụng cho các ngành, các thành phần kinh tế. Ngoài ra có chính sách ưu đãi đối với một số dự án cho vay vốn với lãi suất thấp như cho vay sinh viên, cho vay tạo việc làm, Việt Đức, tài trợ xuất khẩu và cho vay đối với vùng hải đảo, vùng núi cao được thấp hơn 15% lãi suất cùng loại. Bỏ chế độ ưu đãi lãi suất đối với ngành sản xuất, và chưa có ưu đãi về lãi suất đối với DNVVN.
Nghiên cứu cơ chế lãi suất ngân hàng ở một số nước chúng tôi thấy, ví dụ ở Thái Lan năm 1996 ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho các ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất tối đa và tối thiểu. Khách hàng thường xuyên có tín nhiệm, vay nhiều, kinh doanh vào mục đích ưu tiên, bảo đảm về yêu cầu tài sản thế chấp, báo cáo tốt thì được hưởng lãi suất tối thiểu là 12,5%/năm. Những khách hàng không thuộc diện ưu tiên, những đối tượng cho vay cần hạn chế tín dụng thì áp dụng lãi suất tối đa là 19%/năm.
ở Việt Nam theo chúng tôi nên áp dụng lãi suất tối đa, tối thiểu để phân biệt chính sách tín dụng đối với từng ngành kinh tế, từng mục đích sử dụng vốn. Những ngành cần khuyến khich đầu tư, những loại hình doanh nghiệp cần khuyến khích phát triển thì được hưởng lãi suất ưu đãi với mức lãi suất tối thiểu và ngược lại áp dụng lãi suất tối đa. Lãi suất tối thiểu còn được ưu đãi đối với khách hàng vay nhiều vốn, vay trả ngân hàng sòng phẳng, không vi phạm quy chế tín dụng để thực hiện chính sách khách hàng.
3.4. Xác lập và hoàn thiện điều kiện và môi trường cho tín dụng ngân hàng hỗ trợ DNVVN phát triển.
Tại cuộc hội thảo về phát triển DNVVN ở Việt Nam năm 1999 nhiều tham luận sau khi phân tích vai trò, đặc điểm, những khó khăn và thuận lợi của các DNVVN ở Việt Nam đều đi đến thống nhất: để đẩy mạnh phát triển các DNVVN ở Việt Nam cần xem xét giải quyết các vấn đề như: tạo vốn để phát triển DNVVN; nâng cao trình độ công nghệ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo điều kiện để các DNVVN thâm nhập vào thị trường trong nước và nước ngoài; hỗ trợ và xử lý các thông tin cần thiết cho các DNVVN; đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân cho các DNVVN; tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các DNVVN được tự do hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.
Kết luận
1. ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, bao gồm hầu hết các DNNN do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, nó có khả năng to lớn trong việc mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục triệu lao động trong các thành phần kinh tế. DNVVN đã sản xuất chế biến và lưu thông một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú. DNVVN do phân bố rộng khắp trên mọi vùng đất nước nên nó có vai trò tích cực trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của mỗi vùng, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, DNNN còn gặp không ít khó khăn, Trong đó có khó khăn về vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động tạo thế đứng trong cơ chế thị trường là khó khăn lớn nhất, cần phải có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.
2. Tín dụng ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn nhà rỗi trong nền kinh tế để cho vay, nên nó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các DNVVN, thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao (đó là sự phân phối lại vốn giữa các ngành một cách hợp lý), là công cụ hút tiền từ lưu thông và đẩy tiền ra lưu thông, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNVVN.
Để đáp ứng yêu cầu vốn cho các DNVVN phát triển, trước hết tín dụng ngân hàng phải có những giải pháp tạo vốn thích hợp để huy động nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong các tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp dân cư; phát triển thị trường vốn trong nước, mở rộng quan hệ vay vốn ODA, tiến tới phát hành trái phiếu vay vốn của nước ngoài, thu hút có hiệu quả nguồn vốn FDI.
3. Tín dụng ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay vốn trung và dài hạn để các DNVVN thực hiện từng bước việc đổi mới thiết bị và công nghệ; mở rộng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ theo định hướng XHCN; đồng thời nâng cao chất lượng, nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, bảo đảm an toàn vốn cho vay, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra.
Cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải tiếp tục đổi mới, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa. Đó là việc sửa đổi và bổ sung các nguyên tắc cho vay, điều kiện cho vay, thể lệ thế chấp, cầm cố và bảo lãnh tài sản khi vay vốn ngân hàng, và đổi mới phương thức cho vay. Đó là việc đa dạng hoá các hình thức tín dụng ngân hàng bằng việc mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng, phát triển hình thức tín dụng thuê mua, tín dụng hợp vốn. Đó là việc đổi mới cơ chế chính sách ngân hàng theo hướng áp dụng mức lãi suất tối đa và tối thiểu cho từng loại khách hàng, cho từng ngành kinh tế trong từng lĩnh vực kinh tế, từng mục đích sử dụng nhằm phục vụ tốt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
4. Để giúp đỡ các DNVVN phát triển mạnh mẽ, đúng hướng và có hiệu quả kinh tế xã hội cao, cần thành lập các tổ chức tư vấn giúp cho các DNVVN xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn công nghệ, hoàn thiện Maketing, cung cấp thông tin đào tạo cán bộ, thành lập hiệp hội các DNVVN, hệ thống ngân hàng đầu tư phát triển cho các DNVVN, và cuối cùng cần tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước để các DNVVN phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lê Ngọc Châu: Doanh nghiệp vừa và nhỏ với việc chuyển giao đổi mới công nghệ kỹ thuật- tài liệu Hội thảo DNVVN 1999 do Phong thương mại và công nghiệp Việt Nam tổ chức.
2.Học viện chính trị quốc gia Hồ CHí Minh - Kinh tế chính trị giáo trình cao cấp tập I - Hà Nội năm 1999
3.Xí nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản
4.Làm thế nào để vận dụng kinh nghiệm Đài Loan nhằm phát triển quan hệ mậu dịch giữa Đài Loan và Việt Nam
5.Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của đảng năm 2000
6.Niên giám thống kê năm 2000
7.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII(Tháng 6 - 2000)
8.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (Tháng 12 - 1990)
9. Phạm Bá Cửu: Cơ hội đầu tư và chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức.
10. Trần Tiến Cường- Trần Kim Bảo: Một số vấn đề phát triển DNVVN thế giới và Việt Nam, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức.
11. Chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2000- 2005, Tài liệu hội thảo khoa học NHNN Hà Nội tháng 8 năm 2000 do Ngân hàng Nhà nước tổ chức.
12. Các thị trường trái phiếu quốc tế BNP, Hà Nội 1995.
13. Nguyễn Sinh Cúc: Tổng quản lý kinh tế công nghiệp sau năm 5 xây dựng và phát triển 1945- 1955, TCCS số 11 tháng 9 năm 1999.
14. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1990, NXB Sự thật, Hà Nội năm 1991.
15. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tháng 6 năm 1995, NXB Sự thật, Hà Nội năm 1995.
16. Đảng cộng sản Việt Nam- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Sự thật, Hà Nội 1995.
17. Đảng cộng sản Việt Nam- Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế o xã hội đến năm 2005, NXB Sự thật, Hà Nội 1995.
18. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tháng 6 năm 2000, NXB CTQG, Hà Nội năm 2000.
19. Phương Hà- Nghệ thuật điều hành DNVVN, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 2000.
20. Nguyễn Thục Hoát- Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, Luận án PTS năm 1997.
21. Hoàng Ngọc Hoà- Tín dụng ngân hàng trong kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án PTS, Hà Nội 1996.
22. Thái Hà- Những sự kiện quan trọng trong hoạt động đổi mới Ngân hàng, Báo Hà Nội mới ngày 18 tháng 6 năm 2000.
23. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Kinh tế chính trị, giáo trình cao cấp, Tập I- Hà Nội năm 1999.
24. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Kinh tế chính trị, giáo trình cao cấp, Tập II- Hà Nội năm 1999.
25. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Một số vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế thị trường ở nước ta, NXB CTQG, Hà Nội năm 1997.
26. Xuân Hoành- Sự biến động giá cả thị trường và hiện tượng đọng vốn ở các ngân hàng thương mại, TCCS số 18 tháng 9 năm 2000.
27. Cao Sỹ Khiêm- Chính sách tiền tệ quốc gia giai đoạn 2000- 2005, Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5 năm 2000.
28. Cao Sỹ Khiêm- Chiến lược vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Thời báo ngân hàng số đặc biệt kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Ngân hàng Nhà nước TW.
29. Nguyễn Ngọc Lê- Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội, tài liệu hội thảo DNVVN 1999 do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chủ trì.
30. Luật DNNN, NXB CTQG, Hà Nội 1999.
31. Nguyễn Đại Lai- Lãi suất một điều hành tất yếu trong điều hành kinh tế vĩ mô, Tạp chí thông tin giá cả tháng 3 năm 2000.
Lời mở đầu 1
Chương I 3
Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 3
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 3
1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường. 7
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước. 7
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. 8
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu. 8
4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. 10
1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 12
1. Khó khăn về vốn. 12
2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới. 13
3. Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. 14
4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. 15
1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. 16
1.2.1. Tín dụng ngân hàng hoạt động đan xen đối với các loại hình tín dụng khác. 17
1.2.2 Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng. 18
1.3. Vai trò của tín dung ngân hàng đối với sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 20
1.3.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. 20
1.3.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. 22
1.3.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. 24
1.3.4. Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng. 25
1. Mức lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải đủ bảo tồn vốn và có lãi cho người gửi. Hay nói cách khác lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải bằng chỉ số trượt giá cộng với lãi suất cơ bản. Nguyên tắc này nhằm khuyến khích những người có tiền chưa dùng đến đem gửi vào ngân hàng. Vì đây là việc làm “vừa ích nước vừa lợi nhà”. 26
0 < z’ Ê 28
Chương 2: 30
THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 30
2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30
2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu và hạn chế. 30
1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 30
2. Những hạn chế và yếu kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 34
2.2. Sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 38
2.2.1. Những thành tựu đạt được của tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 39
1. Nguồn vốn huy động tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nói chung và cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 39
2. Tín dụng ngân hàng đã góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. 41
3. Cơ cấu tín dụng đã thay đổi theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung hạn, dài hạn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới thiết bị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 42
1. Tín dụng ngân hàng chưa bảo đảm được yêu cầu vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá nói chung, cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 43
2. Lãi suất tín dụng chưa hợp lý hạn chế vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 44
3. Hiệu quả tín dụng chưa cao, nợ khê đọng khó đòi và nợ quá hạn lãi treo phát sinh ngày một tăng. 45
Chương 3 54
Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 54
3.1. Tạo vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 54
3.1.1. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn, dài hạn trong các tổ chức kinh tế và dân cư. 55
1. Hoàn thiện các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư: 55
2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn của ngân hàng. 55
3. Thực hiện chính sách ưu đãi với khách hàng. 56
4. Đẩy mạnh việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế . 56
5. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng, . 57
3.1.2 Phát triển thị trường vốn để thu hút vốn. 57
3.1.3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển. 58
3.2. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 58
3.2.1. Mở rộng cho vay vốn trung hạn và dài hạn để giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ thiết bị. 59
3.2.2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 60
1. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế. 60
2. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách cân đối hợp lý giữa các ngành sản xuất với các ngành thương mại- dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu. 61
3.2.3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi ro. 62
3.3. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 64
3.3.1. Sửa đổi và bổ sung thể lệ cho vay. 65
1. Nguyên tắc tín dụng: 65
2. Mở rộng đối tượng tín dụng: 66
3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng. 68
1. Về nghiệp vụ bảo lãnh: 69
2. Tín dụng thuê mua: 70
3. Tín dụng hợp vốn: 70
3.3.3. Thực hiện chính sách lãi suất hỗ trợ cho các DNVVN. 71
3.4. Xác lập và hoàn thiện điều kiện và môi trường cho tín dụng ngân hàng hỗ trợ DNVVN phát triển. 72
Kết luận 72
Danh mục tài liệu tham khảo 75
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0238.doc