Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO
Lời cảm ơn
Với mong muốn được hiểu biết hơn về các khối liên kết kinh tế, đặc biệt là tổ chức Thương mại thế giới - WTO và trên hết là hy vọng nền kinh tế Việt Nam có thể hoà nhập vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới cho nên em đã chọn đề tài: "Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO".
Trong quá trình nghiên
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu và làm đề án với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PTS. Nguyễn Thường Lạng em đã hoàn thành bài viết đúng thời gian quy định
Thế nhưng do vốn kiến thức cũng như tầm hiểu biết và thời gian còn nhiều hạn chế với một đề tài lớn cho nên bài viết không tránh khỏi khiếm khuyết.
Vì vậy em mong được thầy giáo giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em có dịp được bổ sung thêm kiến thức cho bản thân và những bài viết sau đạt kết quả cao hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo!
Hà Nội ngày
Sinh viên
Lời mở đầu
Nền kinh tế thế giới ngày nay đã đạt đến sự phát triển cao dưới sự tác động ngày càng mạng của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi xu hướng: Khu vực hoá và toàn cầu hoá. Đây là xu hướng đặc trưng của sự phát triển kinh tế thế giới hiện đại với các khối kinh tế khu vực nổi bật như: AFTA, APEC, NAFTA, EU... và đại diện cho xu hướng toàn cầu hoá là tổ chức hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) sau đó được thay thế bằng tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn, ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau cả về chiều dọc lẫn chiều ngang, ở tất cả các cấp độ: song phương, đa phương, tiểu khu vực, khu vực, liên châu lục và đang hình thành một nền kinh tế thống nhất toàn cầu trên cơ sở chuyên môn hoá cao độ và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu nhờ tiến trình mở rộng không ngừng tự do hoá thương mại dịch vụ, đầu tư trên phạm vi toàn thế giới.
Sự xuất hiện của các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới là một tất yếu khách quan, một nấc thang phát triển mới trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Điều nàyđã đặt ra không ít vấn đề với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trên con đường đổi mới kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt được xu thế phát triển khách quan này của khu vực và thế giới, chính phủ Việt Nam cũng đã xác định rõ rằng tự do hoá thương mại là yếu tố trọng tâm của tiến trình đổi mới kinh tế. Tiếp theo sự kiện Việt Nam gia nhập AFTA, vừa qua lại là thành viên mới của APEC - một cơ chế hợp tác khu vực lớn mạnh hơn, là một bước phát triển cần thiết nhằm tranh thủ nhiều hơn, rộng hơn các mối quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển đất nước và cũng là bước phát triển logic cần thiết để Việt Nam tiến tới tham gia vào WTO - Tổ chức thương mại thế giới. Gia nhập vào WTO sẽ góp phần không nhỏ trong mối quan hệ đa phương của nền kinh tế Việt Nam. Nó tạo một bàn đạp một lực đẩy cơ bản giúp Việt Nam hoà nhập hoàn toàn vào khối chung của kinh tế toàn cầu và có cơ hội mở cánh cửa bước ra kinh tế thế giới và ngược lại thế giới cũng sẽ có thêm một hướng nhìn mở rộng và tổng quan hơn về Việt Nam.
Trong bối cảnh tổng hoà kinh tế khu vực, kinh tế toàn cầu hiện nay bất cứ quốc gia nào muốn gia nhập vào các liên kết kinh tế quốc tế đều phải chấp nhận các quy định và nguyên tắc chung của tổ chức đó. Về cơ bản sự tham gia WTO sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích nhưng nói như vậy không có nghiã là phủ nhận những hệ quả nảy sinh khác trong vấn đề bảo hộ thương mại, sức cạnh tranh của hàng hoá, hàng rào thuế quan, nếu như Việt Nam không lường trước được và không chuẩn bị nội lực.
Nhận thức đựơc tầm quan trọng đó, đề tài: "Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào tổ chức Thương mại thế giới - WTO" được chọn để nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, đề án được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về Liên kết kinh tế quốc tế và đặc điểm của Tổ chức thương mại thế giới - WTO
Chương II: Sự cần thiết, cơ hội và thách thức để Việt Nam gia nhập WTO
Chương III: Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào WTO
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về liên kết kinh tế quốc tế
và đặc điểm của tổ chức thương mại thế giới- WTO
I. Những vấn đề lý luận cơ bản về liên kết kinh tế quốc tế
1. Sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế.
Phân công lao động quốc tế ngày nay đang diễn ra với một phạm vi ngày càng rộng và một tốc độ ngày càng nhanh, xâm nhập vào hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế mỗi quốc gia và ngày càng đi vào chiều sâu do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ.
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế cùng với những thành tựu mới của cách mạng khoa học và công nghệ đưa tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc điểm nổi bật trong phân công lao động quốc tế là sự xuất hiện và phát triển ngày càng nhanh các hình thức hợp tác về kinh tế, khoa học và công nghệ, cả bề rộng và bề sâu, mang nội dung toàn diện hơn và đòi hỏi sự hợp tác ở những khuôn khổ, phạm vi rộng hơn, ở cấp độ cao hơn.
Sự hợp tác về kinh tế sẽ tạo thuận lợi cho tất cả các bên trong việc phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ về việc mở rộng thị trường và có khả năng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nhờ chất lượng ngày càng cao. Ngoài ra, sự liên kết về thị trường theo khu vực còn để bảo vệ lợi ích cho mỗi bên.
Bên cạnh đó sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia cũng đã tác động mạnh đến qúa trình phân công lao động quốc tế làm hình thành nên các liên kết kinh tế quốc tế.
Những đặc điểm mới của phân công lao động quốc tế nêu trên đã đưa tới một bước phát triển cao hơn của nó và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các hình thức liên kết kinh tế quốc tế.
2. Các đặc trưng, vai trò và loại hình của liên kết kinh tế quốc tế.
a. Khái niệm
Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá có tính chất quốc tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế. Đó là sự thành lập một tổ hợp kinh tế quốc tế của một nhóm thành viên nhằm tăng cường, phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt và điều kiện phát triển giữa các bên và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và bề sâu.
b. Những đặc trưng của Liên kết kinh tế quốc tế.
- Đó là sự gia tăng cả về số lượng và cường độ của các mối quan hệ kinh tế quốc tế đặc biệt là quan hệ về thương mại đầu tư và tài chính tín dụng
- Liên kết kinh tế quốc tế tạo ra khuôn khổ lớn hơn về kinh tế và pháp lý cho các quan hệ giữa các quốc gia.
- Hình thành cơ cấu kinh tế có tính khu vực.
- Là giải pháp trung hoà giữa xu hướng tự do hoá và bảo hộ mậu dịch trong chính sách đối ngoại của các quốc gia.
- Dựa trên cơ sở thoả thuận của các chính phủ theo nguyên tắc có đi có lại và cân bằng lợi ích kinh tế giữa các quốc gia.
c. Vai trò của liên kết kinh tế quốc tế.
- Khai thác lợi thế so sánh của mỗi bên nhằm thúc đẩy xuất khẩu mậu dịch quốc tế cũng như kích thích đầu tư quốc tế.
- Tạo nên sự ổn định tương đối và phản ứng linh hoạt trong việc phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các thành viên.
- Tạo nên khả năng thuận lợi trong việc xích lại gần nhau hơn giữa các khu vực, thành viên về kinh tế, môi trường pháp lý, tạo điều kiện phát triển khoa học công nghệ.
Ngoài ra liên kết kinh tế quốc tế còn có thể gây ra những tác động tiêu cực với mỗi thành viên cũng như quan hệ kinh tế quốc tế nói chung:
+ Trong nội bộ liên kết kinh tế quốc tế, các thành viên có trình độ phát triển thấp sẽ gặp nhiều khó khăn và có thể bị phụ thuộc vào các thành viên có nền kinh tế phát triển
+ Trong phạm vi toàn thế giới, các liên kết kinh tế quốc tế có thể đưa tới sự phân chia thị trường và làm giảm nhịp độ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
d. Các loại hình liên kết kinh tế quốc tế.
- Khu vực mậu dịch tự do hay khu vực buôn bán tự do.
Ví dụ: EFTA (Khu vực mậu dịch tự do châu âu)
-Liên minh thuế quan
VD: Cộng đồng kinh tế châu âu trước thời kỳ 1992 EEC hoặc ECM
- Thị trường chung
VD: Khối cộng đồng kinh tế châu âu EEC từ năm 1992
- Liên minh tiền tệ
VD: Các hệ thống tiền tệ Breton Woods, hệ thống tiền tệ châu âu
- Liên minh kinh tế
VD: Khối đồng minh Benelux là một liên minh kinh tế giữa Bỉ - Hà Lan và Luých xăm bua kể từ năm 1960.
e. Tác động của một trong các loại hình - liên minh thuế quan
Liên kết kinh tế quốc tế có nhiều loại hình với phạm vi và mức độ liên kết khác nhau, trong đó liên minh về thuế quan là một nội dung chủ yếu của các liên kết kinh tế và đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện tại việc thay đổi chính sách thuế quan để gia nhập vào WTO là vô cùng quan trọng
- Liên minh thuế quan với việc tạo lập mậu dịch
Tạo lập mậu dịch là chuyển nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm từ người sản xuất trong nước với chi phí cao tới người sản xuất của một nước thành viên có chi phí thấp. Nói cách khác, do không có lợi thế so sánh nên từ bỏ hoặc giảm bớt sản xuất trong nước để tăng nhập khẩu mặt hàng đó và giá rẻ từ nước thành viên có lợi thế hơn .
Giá
Lượng
1,5USD
1USD
b
a
d
c
DA
SA
Đồ thị số 1: Tạo lập mậu dịch trong liên minh thuế quan
100 160 200 250
Giả sử có hai nước A và B. SA là đường cung mặt hàng i của nước A. DA là đường cầu mặt hàng i của nước A. Trước liên kết, giá thành một đơn vị sản phẩm i sản xuất ở B là 1 USD khi nhập khẩu vào
A chịu thuế suất là 50% giá trị nên giá trên thị trường nội địa của A là1,5 USD.
Với mức 1,5 USD thì cung ở trong nước là 160 và cầu có khả năng thanh toán là 200 lượng nhập khẩu là (200 - 160) = 40. Sau khi liên kết, bỏ thuế quan đánh vào hàng i từ nước B, giá thị trường trong nước A giảm xuống còn 1USD. Những người sản xuất với chi phí cao ở nước A phải giảm hoặc ngừng sản xuất nên lượng cung SA chỉ còn 100, trong khi đó lượng cầu có khả năng thanh toán tăng lên 250, nhu cầu nhập khẩu bằng (250 - 100) = 150. Như vậy liên kết tạo ra mậu dịch, tăng nhập khẩu vào nước A từ nước B. Người tiêu dùng ở nước A được lợi vì mua được hàng rẻ và nhiều hơn nhưng nhà nước A không thu được thúê và sản xuất ở A giảm sút (60) song nước A sẽ có lợi thế về mặt hàng khác.
- Liên minh thuế quan với chuyển hướng mậu dịch:
Chuyển hướng mậu dịch là chuyển xuất xứ hàng hoá nhập khẩu từ một nước không phải là thành viên của liên minh thuế quan sang một nước là thành viên của liên minh thuế quan.
DA
Giá
SA
1,5USD
1,2USD
1USD
b
a
d
c
Lượng
Đồ thị số 2: Chuyển hướng mậu dịch trong liên minh thuế quan
Giả dụ có nước A, B, C. Trước khi liên
kết mặt hàng i được sản xuất ở nước C
với giá 1 USD, ở nước B với giá 1,2
USD. Khi nhập nhập khẩu vào nước A
chịu thuế suất 50% giá trị nên các nhà nhập
khẩu của A sẽ mua hàng của C, và giá trên
thị trường nội địa ở A là 1,5USD.
100 130 180 200
Với mức giá 1,5USD lượng cung trong nước SA = 130 cầu có khả năng thanh toán DA = 180, lượng nhập khẩu từ nước C bằng (180 - 130)= 50. Giả dụ bây giờ nước A và B tham gia liên minh thuế quan còn C vẫn ở ngoài. Như vậy hàng của B tuy có chi phí sản xuất cao hơn nhưng vì bây giờ đưa vào nước A không phải chịu thuế nên lại rẻ hơn hàng của C. Bởi vậy các nhà nhập khẩu ở A sẽ mua hàng của B mà thôi không mua hàng từ C nữa. Giá thị trường nội địa mặt hàng i ở A bây giờ là 1,2 USD. Những người sản xuất với chi phí cao phải giảm hoặc ngừng sản xuất nên cung ở A, SA giảm xuống còn 100, trong khi đó nhu cầu có khả năng thanh toán tăng lên 200, lượng hàng nhập khẩu là (200 - 100) = 100. Nhưng bây giờ xuất xứ của hàng chuyển từ C sang B, tức là chuyển hướng mậu dịch từ C sang B người sản xuất ở B và người tiêu dùng ở A được lợi, nhà nước A không thu được thuế.
Khi chuyển hướng mậu dịch do hàng rào thuế quan bị loại bỏ, buôn bán tăng lên hay nói cách khác chuyển hướng mậu dịch bao hàm cả tạo lập mậu dịch.
Trong bài viết này chúng ta sẽ đề cập đến một loại hình đại diện cho các loại hình liên kết kinh tế quốc tế đó là tổ chức WTO. Sự ra đời của nó là nhằm biến nền kinh tế thế giới này thành một thể thống nhất, bình đẳng và tự do trong mậu dịch giữa các quốc gia cũng như để nhằm khắc phục nhược điểm phát sinh từ các liên kết khu vực như dẫn tới sự phân chia thị trường và cạnh tranh lẫn nhau cả về kinh tế và chính trị.
II. Sự ra đời của tổ chức Thương mại thế giới.
1. Tóm tắt lịch sử tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới - WTO.
1.1. GATT là gì?
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) có tiền thân là tổ chức hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). GATT là một tổ chức được thành lập tạm thời sau chiến tranh thế giới thứ hai theo gương các tổ chức đa phương khác tham gia vào hợp tác kinh tế quốc tế - đáng chú ý là các tổ chức của "Bretton Woods", ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
GATT (General agreement on Tariffs and Trade) không phải là tổ chức kinh tế có tôn chỉ mục đích, chương trình hành động mà các nước phải chấp hành. Nó không nhằm mục đích hiệu lực hoá các hiệp định thương mại. Nói các khác GATT là một hiệp định đa phương giữa các quốc gia có nền kinh tế thị trường về thương mại và thuế quan. Đã trải qua nhiều thế kỷ kể từ ngày GATT được ký kết vàonăm 1947 tại Geneve trong đó đã tính đến việc hình thành tổ chức thương mại quốc tế. GATT ra đời là một nỗ lực vượt bậc nhằm cứu nền thương mại thế giới khỏi khủng hoảng trì trệ nghiêm trọng mà lịch sử đã chứng kiến từ đầu thập kỷ 30 và người ta đã kịp nhận thấy rằng, một trong những nguyên nhân đẩy đến tình trạng trên chính là chính sách bảo hộ thái quá mà mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã cố thi hành bất chấp ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại chung. Những chính sách này làm méo mó cạnh tranh lành mạnh trong các nền kinh tế thị trường, làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong không khí kém an toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá và dịch vụ rất khó khăn. Điều này tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu, do đó kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Nói tóm lại, với những mục tiêu cao cả là tạo ra một môi trường thương mại quốc tế an toàn và rộng khắp, hiệp định chung về thuế quan và thương mại là một nỗ lực lớn nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu.
1.2. Những nguyên tắc và quy định căn bản của GATT.
GATT có những nguyên tắc và qui định căn bản mà mỗi nước thành viên phải có nghĩa vụ tôn trọng như sau:
a. Không phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế
b. Bảo hộ thông qua quan thuế và không được phép thông qua hình thức nào khác như trợ cấp đầu vào, lãi suất thấp, thuế quan ưu đãi...
c. Khống chế các mức quan thuế để hạn chế các nước thành viên tự ý nâng mức thuế quan lên cao hơn.
d. Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh: Bắt buộc các thành viên phải đưa ra những ứng xử công bằng, giảm bớt bảo hộ mâu dịch...
đ. Thủ tục trì hoãn: Các nước có thể trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ đối với GATT trong thời gian nhất định thông qua các biện pháp tạm thời bảo hộ các ngành trong nước nhưng phải chứng minh được rằng nếu không thi hành bảo hộ các nhà sản xuất trong nước thực sự tổn thất lớn, được áp dụng với những nước tạm thời bảo hộ các ngành công nghiệp yếu kém để tạo cơ hội phát triển.
e. Cấm các hạn chế về số lượng đặc biệt đối với nông sản, hàng dệt và sắt thép.
g. Cho phép ký kêt các thoả thuận thương mại khu vực.
h. Những điều kiện ưu đãi đặc biệt dành cho các nước đang phát triển: Các nước đang phát triển thành viên của GATT dành cho các nước đang phát triển những quyền lợi đặc biệt và khác nhau mà không đòi hỏi phải thi hành những nguyên tắc có đi có lại.
i. Giải quyết bất đồng thương mại: Nguyên tắc này nhằm bảo đảm an toàn và công bằng trong quan hệ thương mại. Các nước thành viên của GATT nếu cảm thấy quyền lợi của họ theo quy định của GATT đang bị vi phạm thì bước đầu tiên để giải quyết tranh chấp là tiến hành thương lượng. Nếu thương lượng không có kết quả thì có thể khiếu nại lên GATT. Nếu trên phạm vi do GATT xác định không chịu thực thi ý kiến giải quyết thì bên thiệt hại có quyền tiến hành các biện pháp trả đũa.
Trên đây là những nguyên tắc và quy định cơ bản của GATT thể hiện mục tiêu cao cả của nó là tạo ra môi trường thuận lợi cho các quan hệ mậu dịch vì sự tăng trưởng kinh tế tốt hơn cho tất cả các nền kinh tế. Với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm về nền thương mại toàn cầu, các bên tham gia ký kết GATT đã dành những nỗ lực đáng kể trên nhiều phương diện, để đạt được những nguyên tắc cơ bản và hoàn thiện như hiện nay.
2. Các vòng đàm phán của GATT và sự ra đời của WTO.
2.1. Các vòng đàm phán thương mại.
Những bước tiến vượt bậc tới tự do hoá thương mại quốc tế đã diễn ra thông qua những cuộc đàm phán về mậu dịch đa phương hay còn gọi là "Những vòng đàm phán mâu dịch" được tiến hành dưới sự bảo trợ của GATT. Đặc biệt, vòng đàm phán Urugoay là vòng đàm phán cuối cùng và kéo dài nhất so với các vòng đàm phán trước đó.
Bảng số 1 : Các vòng đàm phán thương mại GATT
Năm
Địa điểm
Đối tượng đàm phán
Số nước tham gia
1947
Geneva
Thuế
23
1949
Annecy
Thuế
12
1951
Torguay
Thuế
38
1956
Geneva
Thuế
26
1960 -1961
Geneva
(Vòng Dillon
Thuế
26
1964 -1967
Geneve (vòng kenedy)
Thuế và các biện pháp chống phá giá
62
1973 - 1979
Geveva (Vòng Tokyo)
Thuế và các biện pháp phi thuế quan, các hiệp định Khung
102
1986 - 1993
Geveva (vòng urugoay)
Thuế, các biện pháp phi thuế quan, các nguyên tắc dịch vụ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, dệt và may mặc nông nghiệp , thành lập WTO...
123
Nguồn: Trung tâm tư vấn và đào tạo Kinh tế thương mại - ICTC
Những bước tiến vượt bậc tới tự do hoá thương mại quốc tế đã diễn ra thông qua những cuộc đàm phán về mậu dịch đa phương, hay còn gọi là những vòng đàm phán mậu dịch. Mặc dù các cuộc đàm phán kéo dài liên miên nhưng cuối cùng cũng đưa ra cách tiếp cận tổng thể cho các cuộc thương lượng thương mại, một cách tiếp cận với nhiều lợi thế qua từng vấn đề. Lúc đầu vòng đàm phán cho phép các thành viên nêu quan điểm của mình trong việc tìm kiếm và đảm bảo lợi thế. Sau đó là có sự nhượng bộ để có thể bảo vệ các điều kiện chính trị trong nước, các nhượng bộ này có thể giải quyết dễ dàng hơn trong một tổng thể bao gồm các lợi ích kinh tế và chính trị hấp dẫn. Tiếp theo, các thành viên là các nước đang phát triển có cơ hội lớn hơn trong tác động và gây ảnh hưởng đối với hệ thống đa phương trong một vòng đàm phán so với trong quan hệ song phương với các nước phát triển. Cuối cùng cải cách toàn diện trong những lĩnh vực nhạy bén của mậu dịch thế giới có thể trở thành thực thi hơn trong bối cảnh toàn cầu - cải cách về thương mại nông sản là một bằng chứng thành công của vòng đàm phán Urugoay.
Phần lớn các vòng đàm phán mậu dịch ban đầu của GATT chú trọng đến quá trình liên tục giảm thuế quan. Tuy nhiên kết quả của vòng đàm phán Kenedy vào giữa những năm 60 bao gồm một hiệp định của GATT về chống phá giá. Vòng đàm phán Tokyo giữa những năm 70 là nỗ lực nhằm mở rộng và cải thiện hệ thống này.
2.2. Vòng đàm phán urugoay - sự ra đời của WTO
Vòng đàm phán thương mại lần thứ 8 được bắt đầu tại thủ đô Urugoay vào tháng 9-1986 với những quyết tâm mạnh mẽ hơn của các bên nhằm đi xa hơn các vòng đàm phán trước với những mục tiêu chủ yếu:
- Giảm nhẹ áp dụng các hàng rào phi thuế quan đối với mậu dịch.
- Đảm bảo để các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn nữa vào các cuộc đàm phán của GATT và đảm nhận các nghĩa vụ của GATT nhiều hơn trước đây.
- Mở rộng phạm vi áp dụng của GATT sang cả mậu dịch nông sản dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Tại vòng đàm phán mà tính gay gắt của các cuộc thương lượng kéo dài đến phút cuối cùng, 7 năm sau đó các nhà lãnh đạo quốc gia đã sáng suốt bỏ phiếu tán thành những nguyên tắc mới gồm 7 vấn đề lớn.
+ Một là, mở cửa hơn nữa thị trường của các nước thành viên các bên tham gia ký kết cam kết giảm dần thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp thời hạn giảm từ 5 năm đến 10 năm kể từ tháng 7 - 1995. Thuế suất trung bình đối với sản phẩm công nghiệp mà các nước phát triển nhập khẩu từ các nước đang phát triển sẽ giảm khoảng 37%, thuế suất đối với hàng nhập khẩu từ các nước công nghiệp sẽ giảm khoảng 38%. Các nước công nghiệp sẽ giảm thuế nhập khẩu hàng công nghiệp nói chung từ các nước kém phát triển nhất là 25% và sẽ tới 59% trừ hàng dệt và cá.
Kể từ năm 2000 tất cả thuế nhập công nghệ phẩm ở các nước công nghiệp sẽ giảm trung bình từ 6,3% xuống 3,9%. Phần hàng nhập miễn thuế trong toàn bộ nhập khẩu công nghệ phẩm của các nước công nghiệp phát triển sẽ tăng từ 20% lên 43%, đồng thời chỉ đánh thuế một thuế suất rất thấp đối với 5% hàng nhập (so với 7% trước kia)
+ Thứ hai, tự do hoá thương mại nông phẩm.
Tất cả các hàng rào thuế quan đối với thương mại phải được chuyển đổi thành thuế quan trước 2001, đối với các nước phát triển thì điều này phải được thực hiện trước năm 2005. Các nước kém phát triển nhất được miễn thi hành quyết định này. Những thuế quan này trung bình giảm 36% đối với các nước công nghiệp phát triển và 24% đối với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó các nước công nghiệp phải giảm khoảng 20% tổng quy mô trợ giúp. Mức giảm này đối với các nước đang phát triển là 13,3%
+ Thứ ba, tự do hoá thương mại dịch vụ. Lần đầu tiên trong lịch sử GATT, những ngành dịch vụ gồm dịch vụ du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận tải, liên lạc viễn thông được đưa ra xem xét rồi sau đó đề ra những bước tự do hoá thị trường dịch vụ.
+ Thứ tư, những thay đổi trong thương mại hàng dệt
- Từ ngày 1-1-1995, có ít nhất 16% khối lượng nhập khẩu các sản phẩm trong khuôn khổ MFA phải nằm dưới quy định của GATT và tốc độ áp dụng đối với các quota chưa được tự do hoá phải tăng lên 16%.
- Từ đầu năm 1998, nhập khẩu phải được tự do hoá thêm 17%, từ đầu năm 2002, chỉ tiêu này sẽ phải tăng thêm 18% nữa. Tốc độ tăng tự do hoá đối với quota còn lại sẽ tiếp tục tuần tự thêm là 25% và 27%.
- Từ ngày 1-1-2005 các hạng mục sản phẩm còn lại tức là 49%khối lượng nhập khẩu, sẽ được hoà nhập vào GATT.
+ Thứ năm, chống bán phá giá, hiệp định chống bán phá giá được thương lượng còn bao gồm nhiều luật lệ chi tiết hơn chống bán phá giá trước kia chẳng hạn như xác định phương pháp cần sử dụng để quyết định phá giá những chuẩn mực nào cần được tính đến khẳng định bằng chứng của tổn thất, những quy định có tính thủ tục bắt buộc đối với việc đề ra và thực hiện điều tra việc chống bán phá giá. Một nhân tố mới quan trọng là cấm tiếp tục những biện pháp chống bán phá giá thêm 5 năm nữa trừ những trường hợp ngoại lệ.
+ Thứ sáu, quyền sở hữu trí tuệ: Hiệp định về khía cạnh có liên quan đến thương mại sở hữu trí tuệ (agreement on Trade-Related aspects of Intellectual Property-TRIPs)đã được thông qua. Về cơ bản TRIPs dựa trên những công ước đa bên sẵn có nhưng được hoàn thiện hơn nhiều. Việc thực hiện đầy đủ những quy định trong TRIPs cần có thời gian dài khác nhau giữa các nhóm nước có trình độ phát triển khác nhau. Các nước công nghiệp phát triển được phép hưởng thời kỳquá độ từ tháng 1/1995 đến 12/1996. Sau đó đưa hẳn những luật lệ của nước họ vào hệ thống các qui định của hiệp định. Đối với các nước đang phát triển thời hạn cuối cùng là năm 2000. Đối với các nước kém phát triển thời hạn này là đến 2006 thậm chí trong một số điều kiện cụ thể có thể được gia hạn thêm. Và cuối cùng trong trường hợp xảy ra xung đột bên bị tổn thất sẽ được phép áp dụng biện pháp trừng phạt "trả đũa chéo".
+Thứ bẩy, chuyển GATT thành tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Vấn đề sau cùng trong thoả ước chung giữa các bên đàm phán tại urugoay là chuyển GATT, một diễn đàn thương mại thành tổ chức thương mại thế giới-một tổ chức chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề có liên quan đến thương mại thế giới, một tổ chức tương tự như ngân hàng thế giới hay quỹ tiền tệ quốc tế.
Từ ngày 1/1/1995, WTO khởi đầu hoạt động của mình với tư cách là cơ quan giám sát luật chơi trong mậu dịch đa phương. Khi đó WTO gồm 81 nước và khu vực lãnh thổ, chiếm 90% kim ngạch buôn bán thế giới. Trong số 81 thành viên chính thức này có 60 nước thuộc các nước thế giới thứ ba và 25 nước thuộc các nước công nghiệp, 15 nước liên minh châu âu và 3 nước thuộc khối XHCN cũ. Đến ngày 22/10/1997 WTO đã có 132 nước thành viên.
III. Những vấn đề cơ bản và vai trò của tổ chức WTO
1. Cơ cấu tổ chức và những quy định mới trong WTO
1.1. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của WTO
Uỷ ban phát triển và thương mại
Uỷ ban hành chính kế toán và ngân sách
Hội đồng chung
Cơ quan
giải quyết
tranh chấp
Tổ chức thương mại quốc tế
Uỷ ban về thương mại hàng hoá
Uỷ ban về thương mại dịch vụ
Uỷ ban về quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại
Hội đồng nội các
Với một kết cấu gọn nhẹ, chức năng trung tâm của WTO là giải quyết thương mại các tranh chấp thương mại, thúc đẩy thương mại và phát triển kinh tế sẽ được các nước thành viên quan tâm tại các hội nghị cấp bộ trưởng diễn ra hai năm một kỳ.
Trong cơ cấu của WTO có một cơ quan cao nhất đó là hội đồng nội các hay hội nghị cấp bộ trưởng bao gồm đại diện tất cả các nước thành viên giải quyết mọi công việc liên quan đến hiệp định thương mại đa biên.
Song công việc hàng ngày của WTO do một số cơ quan chức năng giải quyết chủ yếu là hội đồng chung bao gồm tất cả các thành viên của WTO, có nhiệm vụ báo cáo cho hội nghị cấp bộ trưởng. Hội đồng chung được chia thành hai uỷ ban: Uỷ ban giải quyết tranh chấp để giám sát thủ tục giải quyết tranh chấp và uỷ ban đánh giá chính sách thương mại thường xuyên của từng nước thành viên.
Hội đồng chung cũng phân chia trách nhiệm thành lập uỷ ban chính
Hội đồng về thương mại hàng hoá, hội đồng về thương mại dịch vụ, hội đồng về các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ
Ban uỷ ban khác được thành lập bởi hội nghị bộ trưởng có nhiệm vụ báo cáo lên hội đồng chung. Đó là uỷ ban về thương mại và phát triển, giải quyết các vấn đề liên quan đến các nước đang và kém phát triển. Uỷ ban về cán cân thanh toán có trách nhiệm tư vấn việc áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại để giải quyết các trở ngại về cán cân thanh toán. Uỷ ban về dự đoán tài chính và hành chính sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến tài chính và ngân sách của WTO.
1.2. Sự khác nhau giữa WTO và GATT. Những quy định mới trong WTO.
1.2.1. Sự khác nhau giữa WTO và GATT
Tổ chức thương mại thế giới WTO là một thể chế pháp lý của hệ thống thương mại đa phương. WTO đưa ra các nghĩa vụ có tính nguyên tắc để chính phủ các nước thiết lập khuôn khổ, các luật lệ và quy định thương mại trong nước phù hợp với nền thương mại thế giới, là nền tảng của tiến trình phát triển các quan hệ thương mại giữa các nước thông qua các cuộc thaỏ luận thương lượng và phán xét có tính tập thể. WTO không phải là sự mở rộng đơn giản của GATT, ngược lại, hoàn toàn thay thế tổ chức tiền thân của nó và có đặc điểm rất khác biệt.
- GATT là một loạt các quy định, hiệp định đa phương , không có nền tảng về thể chế. WTO là một tổ chức thuờng trực có ban thư ký riêng.
- GATT hoạt động trên cơ sở tạm thời thậm chí sau hơn 40 năm các chính phủ mới chọn phương án sửa đổi thành cam kết vĩnh viễn , còn các cam kết của WTO là đầy đủ và cố định.
- GATT các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại hàng hoá , Nhưng WTO còn bao hàm cả thương mại dịch vụ và khía cạnh liên quan đến thương mại sở hữu trí tuệ.
- GATT là một công cụ đa biên mang tính chất chọn lọc tự nhiên còn các hiệp định của WTO phần lớn là đa biên và do đó bao gồm các cam kết của các nước thành viên để trở thành thành viên đầy đủ.
- Hệ thống giải quyết các tranh chấp của WTO nhanh hơn, năng động hơn và ít bị tắc nghẽn hơn so với GATT. Việc thực hiện các phán quyết về giải quyết tranh chấp cũng dễ dàng đảm bảo hơn.
1.2.2. Những quy định mới của WTO.
Những nguyên tắc mới trong WTO vẫn dựa trên cơ sở những nguyên tắc của GATT nhưng được bổ sung sửa chữa để hoàn thiện hơn. Đặc biệt có một số nguyên tắc cơ bản và đơn giản xuyên suốt nội dung các văn bản này .
Tất cả tạo nên hệ thống thương mại đa biên.
a. Thương mại không phân biệt đối xử .
Về cơ bản nguyên tắc này vẫn giống quy định trong GATT tuy nhiên còn bao gồm cả sự sửa đổi, bổ sung các vấn đề liên quan đến thương mại quyền sở hữu trí tuệ. Các hiệp định WTO với những điều khoản không có sự phân biệt đối xử khác bao gồm các hiệp định các quy tắc về xuất xứ, kiểm nghiệm hàng hoá trước khi giao hàng, về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và về áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh và kiểm dịch.
b. Sự thâm nhập thị trường ngày càng tăng và có thể dự đoán trước .
Sự khác biệt giữa GATT và WTO trong việc thi hành các biện pháp về giảm thuế quan là WTO mang tính chất bắt buộc đối với các nước thành viên ký kết cam kết thực hiện. Vòng đàm phán uruguay đã đóng góp lớn vào việc cắt giảm thuế quan và đôi khi bằng 0 trong khi tổng số thuế thu được tăng đáng kể.
35
40
30
25
20
15
10
5
1947 GATT 1962 trước 1972 sau 1987 trước 1994 sau
thành lập vòng Kenedy vòng Kenedy Vòng Tokyo vòng Uruguay
Biểu đồ số 1: Mức độ giảm thuế
Nguồn: Trung tâm tư vấn và đào tạo Kinh tế thương mại - ICTC
c. Tăng cường cạnh tranh công bằng.
Các nguyên tắc của GATT trước đây được thông qua để đặt nền tảng cho chính phủ các nước đưa ra thuế bù trừ đối với hai dạng ''cạnh tranh không bình đẳng '' đã được mở rộng và giải thích trong các hiệp định của WTO. Hiệp định về nông nghiệp của WTO đưa ra nhằm gia tăng sự công bằng thương mại nông sản. Còn về sở hữu trí tuệ, các điều kiện cạnh tranh của nó sẽ được cải thiện, bao gồm các ý tưởng các phát minh đưa ra để đẩy mạnh sự cạnh tranh công bằng và không bị bóp méo.
d. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế .
Hơn 3/4 số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường .
Trong xu hướng phát triển mới đã thực sự loại bỏ khái niệm cho rằng hệ thống thương mại chỉ tồn tại đối với các nước công nghiệp hoá và nó cũng đã thay đổi sự nhấn mạnh trước đó hòng một số hiệp định và điều khoản của GATT về việc gạt bỏ các nước đang phát triển. Ngược lại là việc khuyến khích mạnh mẽ các nước công nghiệp giúp đỡ các nước đang phát triển thành viên như một sự cố gắng có ý thức và cương quyết mà không đòi hỏi sự nhượng bộ nào.
e. Trường hợp mở cửa thương mại.
Dựa trên những nguyên tắc chủ đạo của GATT, quy định của WTO về chính sách thương mại tự do cho phép với mọi hàng hoá và lượng hàng hoá dịch vụ nguyên liệu sản xuất dịch vụ không bị hạn chế. Một trong những mục tiêu của WTO là ngăn cản xu thế tự bảo vệ và xoá bỏ chủ nghĩa bảo hộ.
2. Vai trò của WTO.
Về căn bản nhiệm vụ của WTO hiện nay cũng giống như những nhiệm vụ của GATT trước đ._.ây. Tuy nhiên trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi thế giới đang được nhìn nhận như là ngôi nhà chung mà tất cả dân tộc phải có trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Trọng trách của WTO vô cùng to lớn, trong đó đặc biệt là nhiệm vụ hoà giải những bất đồng thương mại để bảo vệ thị trường quốc tế, cũng như là sự điều hoá giữa hai xu hướng bảo hộ mậu dịch và tự do hoá thương mại theo một hướng có lợi nhất không chỉ cho các nước phát triển cũng như các nước đang và chậm phát triển, để từ đó tạo lập nên một môi trường thương mại tự do trên toàn thế giới.
Biểu đồ số 2: Mức tăng trưởng thương mại Thế giới (%)
10
8
6
4
2
0
8% 9,5%
4%
3%
1996 1997 1998 (ước) 1999 (dự báo)
Nguồn: Thời báo Kinh tế số 99/1998 (Huỳnh Ngọc Nhân)Chương II
Sự cần thiết, cơ hội và thách thức để Việt Nam
gia nhập WTO
I. Sự cần thiết về việc gia nhập WTO của Việt Nam
1. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế .
Công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành công nhất định một phần là nhờ sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức kinh tế quốc tế trên thế giới. Việt Nam là thành viên của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) từ năm 1976 đã và đang hợp tác chặt chẽ với các tổ chức này. Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ quý báu của nhiều thành viên WTO tạo điều kiện thuận lợi thực hiện thành công các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo đường lối đổi mới.
Nhờ đó Việt Nam đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng kéo dài ở thập kỷ 80 . Từ năm 1991 đến 1998 kinh tế liên tục phát triển với tốc độ tương đối cao và ổn định. Tốc độ GDP bình quân thời kỳ 91 - 95 là 8,2%năm và đạt mức 9,5% vào 1996; 8,8% vào 1997 . Lạm phát giảm từ tốc độ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống 12,7% năm 1995 , 4,5% năm 1996 và 3,6% năm 1997 , GDP theo đầu người chưa tới 200 USD có khả năng tăng gần gấp đôi vào năm 2000.
Với những kết qủa bước đầu quan trọng kể trên Việt Nam đã từng bước tạo ra cơ sở kinh tế , khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Việt Nam gia nhập ASEAN từ 1995 cùng với ASEAN tham gia diễn đàn hợp tác á - âu (ASEAM) và tháng 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của APEC . Đó là những quyết định tiếp theo của một tiến trình căn bản đã được bắt đầu bằng việc Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO vào đầu năm 1995 . Việc tham gia các tổ chức thương mại khu vực mà các tổ chức này đều tuân thủ các nguyên tắc của WTO, cũng là bước chuẩn bị và sự hỗ trợ quan trọng cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình gia nhập WTO.
2. Sự cần thiết phải gia nhập vào WTO
Việt Nam nhận thức rõ vai trò quan trọng của tổ chức thương mại thế giới đối với sự phát triển cuả kinh tế toàn cầu nói chung cũng như sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia khi tham gia các định chế của tổ chức này. Căn cứ vào những tiến trình và kết quả đạt được trong việc xây dựng hệ thống luật pháp, điều chỉnh cơ chế chính sách và khả năng hội nhập của nền kinh tế, sau một thời gian là quan sát viên của GATT, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO với mong muốn không ngừng mở rộng các mối quan hệ kinh tế - thương mại - đầu tư với các thành viên mà Việt Nam đã và đang có quan hệ. Đây là một quyết định quan trọng thể hiện quyết tâm của Nhà nước và nhân dân ta trong việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa nền kinh tế thương mại Việt Nam hoà chung vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới với những định chế đa biên.
II. Thực trạng hoạt động thương mại của Việt Nam
1. Đánh giá chung về nền kinh tế Việt Nam.
Để hoà nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam chúng ta từ sau đổi mới kinh tế đã có nhiều biến chuyển rõ rệt về các chính sách kinh tế nói chung cũng như chính sách về thương mại nói riêng.
Đó là việc xoá bỏ chế độ nhà nước độc quyền thương mại, thuế xuất nhập khẩu được giảm dần và đơn giản hoá các thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan giảm bớt cùng với việc khai thác mở rộng thị trường nước ngoài bên cạnh việc huy động vốn cho đầu tư phát triển... Tất cả những thay đổi trên đều không nhằm mục đích phấn đấu gia nhập tổ chức thương mại thế giới tạo cơ hội mở rộng thị trường cũng như tạo điều kiện phát triển kinh tế .
Thực tế Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua cũng cho thấy vai trò của chính sách thương mại đối với phát triển kinh tế đất nước, thể hiện qua biểu:
Biểu số 1: Tốc độ tăng trưởng GDP, 1990 - 1997
Đơn vị:%
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
GDP
5,1
6
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
8,9
Nông lâm ngư nghiệp
1,5
4,2
5,1
4,5
1,3
5,1
5,0
4,5
Công nghiệp, xây dựng
2,9
9,0
14,0
13,1
14,0
13,9
15,6
13,5
Dịch vụ
10,8
8,3
7,0
9,2
10,2
10,9
9,5
8,6
Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương 1997 - Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 2042 triệu USD (năm 1991) lên 7255 triệu USD năm 1996; 8,7 tỷ USD năm 1997. Trong năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á, tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam giảm dần qua các quý, Quý I tăng 13,6% quý II 7,3% quý III giảm xuống còn 5,2% và dự báo quý IV sẽ giảm 10 - 11%. Theo nghị quyết số 52/1998/NQ - UBTVQH 10 về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu năm 1998: Tốc độ tăng trưởng GDP từ 6 - 7%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 10 -11%, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 3% - 3,5%. Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%, tỉ lệ nhập siêu gần 19% kim ngạch xuất khẩu, mức lạm phát dưới 10% và bội thu ngân sách không vượt quá 4% GDP.
Tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại còn bộc lộ những hạn chế liên quan tới chiến lược phát triển kinh tế đó là :
- Tình trạng nhập siêu cao trong những năm gần đây. Năm 1996 nhập siêu 3,88 tỷ USD. Năm 1997 mức độ nhập siêu đã giảm nhưng vẫn ở mức 2,5 tỉ USD.
- Một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của nước ta đang được bảo hộ bằng hàng rào thuế quan rất cao so với thế giới (45% - 50%) với diện mặt hàng khá rộng.
Biểu số 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu 1991 - 1998
Năm
91
92
93
94
95
96
97
98
Đơn vị: Triệu USD
1,65
6
255
204
349
818
1239
1500
Biểu số 3: 10 nước và lãnh thổ đứng đầu về xuất khẩu (Triệu USD)
Nước, vùng lãnh thổ
Kim ngạch xuất khẩu
Xếp thứ
Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài loan
Thái Lan
Hồng Kông
Malaisia
Singapore
Pháp
Mỹ
Liên Bang Nga
923
601
545
500
376
169
139
95
88
48
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư (số liệu tính đến ngày 19/10/1998)
Sự đổi mới trong chính sách kinh tế nói chung và chính sách thương mại nói riêng đã tạo nên những kết quả khả quan: Việt Nam đã có quan hệ với 105 quốc gia và lãnh thổ quan thuế. Kim ngạch ngoại thương từ mức 4.420 triệu USD năm 1991, năm 1997 là 19.500 triệu USD. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng đều: Năm 1991 đạt 1,65 triệu USD, năm 98 đạt 1.500 triệu USD, gấp 909 lần. Đến hết năm 1997 Việt Nam đã cấp 2.320 giấy phép cho các nhà đầu tư nước ngoài thuộc 61 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn pháp định là 31,2 tỷ USD.
Biểu số 4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1988 - 1997
Chỉ tiêu
1988-97
1988-90
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Số Dự án cấp giấy phép
Vốn đăng ký (TrUSD)
Số Dự án giải thể
Số vốn giải thể (TrUSD)
Số dự án tăng vốn
Số vốn tăng (TrUSD)
Vốn thực hiện
Tỷ lệ vốn thực hiện/ vốn đăng ký (%)
2257
31438
347
3760
397
3771
11799
36,5
218
1501
6
26
1
0,3
399
27,1
155
1388
38
293
6
7,7
221
24
193
2271
48
401
10
99
398
22,7
272
2987
34
79
51
222
1106
28
362
4071
58
217
73
504
1952
34,1
404
6616
56
471
122
1247
2652
34,8
501
9212
52
1024
134
684
2371
33
479
5548
55
243
143
1095
2950
53,1
Biểu số 5: 10 nước và lãnh thổ đứng đầu về FDI tại Việt Nam (Triệu USD)
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn đầu tư
Tỷ trọng (%)
Singapore
Đài loan
Hồng Kông
Nhật Bản
Hàn Quốc
Pháp
Malaisia
Mỹ
Thái Lan
B.V. Islands
181
309
184
213
191
96
59
70
78
55
6447
4268
3734
3500
3154
1465
1370
1230
1109
1089
20
13,3
11,6
11,4
9,8
4,6
4,3
3,8
3,4
3,4
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu tư (Số liệu tính đến ngày 19-10-98)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được tiến hành từ đầu năm 1988, khi Quốc Hội công bố Luật đầu tư nước ngoài. Đến cuối năm 1997 đã cấp giấy phép đầu tư cho 2257 Dự án với tổng vốn đầu tư là 31.438 triệu USD. Tốc độ thu hút vốn đầu tư không ngừng tăng, nếu như năm 1988 - năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài chỉ có 37 dự án với số vốn đầu tư là 366 triêu USD được cấp giấy phép thì đến năm 1992 con số này tương ứng là 193 dự án và 2271 triệu USD và đạt mức kỷ lục 501 dự án và 9212 triệu USD vào năm 1996 tăng gấp 25 lần về vốn đầu tư so với 1988. Đến năm 1997, tốc độ thu hút vốn giảm xuống do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á. Trong số các đối tác nước ngoài, Nies và Nhật bản luôn là những nước dẫn đầu về cả số lượng và vốn đầu tư tại Việt Nam, trong đó Singapore là nước đứng vị trí số một với 181 dự án và tổng số vốn là 6447 triệu USD.
Để tiếp nhận được và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nước sở tại phải có một số điều kiện tối cần thiết như: có được vốn trong nước ở một mức độ nhất định, có cơ sở hạ tầng tối thiểu đảm bảo cho sự hoạt động của các dự án FDI, có những năng lực nội tại đủ để tiếp nhận các công nghệ phù hợp của các dự án FDI. Từ một nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung-quan liêu bao cấp chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tạo lập những điều kiện này. Đây chính là một thử thách lớn của Việt Nam so với các nước khác trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI. Tuy vậy với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, với xu hướng vận động theo chiều hướng tích cực của nền kinh tế, Việt Nam sẽ sớm có đủ điều kiện tốt để tiếp nhận các dự án FDI ở qui mô lớn và hiện đại.
2. Thuế quan và các quy chế thương mại
Những cải cách trong chính sách thương mại của Việt Nam diễn ra song song với quá trình đổi mới kinh tế, bắt đầu từ những nới lỏng quy chế thương mại, xoá bỏ chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương và tiến đến xây dựng các thể chế thích hợp với một nền kinh tế thị trường mở cửa.
Ngay sau khi gia nhập ASEAN, một nhóm công tác liên bộ về xây dựng các danh mục hàng hoá theo chương trình cắt giảm thuế quan - CEPT đã được thành lập dưới sự chủ trì của tổng cục thuế (Bộ Tài chính) với sự tham gia của các Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Tổng cục Hải quan... Nhóm nghiên cứu liên bộ đã có những đóng góp hết sức quan trọng để hoàn thành các danh mục hàng hoá, đảm bảo cho Việt Nam có thể đệ trình đúng thời hạn và đã góp phần thể hiện được thiện chí của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Về thuế xuất khẩu, mức thuế cao nhất là 45% áp dụng đối với mặt hàng phế liệu kim loại màu, phế liệu kim loại đen 35%. Mức thuế xuất khẩu thấp nhất đối với mặt hàng nông sản. Mức thuế 1% áp dụng đối với: cá các loại, mực các loại, mủ cao su tự nhiên, 3% đối với tôm cua tươi ướp lạnh, 4% đối với dầu thô và 5% đối với đá quý.
Về thuế nhập khẩu, so sánh mục tiêu chủ yếu của chương trình cắt giảm thuế quan - CEPT là các nước thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với đa số mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN khác xuống còn từ 0% - 5% với biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam chúng ta thấy rằng trong số 3211 nhóm mặt hàng của biểu thuế nhập khẩu hiện hành, hơn nửa tổng số nhóm mặt hàng đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho chương trình cắt giảm thuế quan điều đó có nghĩa là về thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu.Biểu số 6: Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu Việt Nam.
0% - 5%
6% - 10%
11%- 20%
21% - 60%
Trên 61%
Số nhóm măt hàng
Tỉ trọng (%)
Số nhóm măt hàng
Tỉ trọng (%)
Số nhóm măt hàng
Tỉ trọng (%)
Số nhóm măt hàng
Tỉ trọng (%)
Số nhóm măt hàng
Tỉ trọng (%)
1705
53,1
299
9,31
636
19,81
546
17
25
0,78
Nguồn: Biểu thuế XNK - Bộ tài chính
Tuy nhiên trong cơ cấu của biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất thấp chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Tỉ trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0% - 5% phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nguồn nguyên vật liệu là đầu vào mà sản xuất trong nước chưa đủ đáp ứng. Các thuế suất cao hơn phần lớn áp dụng với các mặt hàng trong nước đã sản xuất nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước hoặc các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế suất trên 61% được áp dụng chủ yếu với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng và giảm hiện tượng "chảy máu" ngoại tệ mạnh trong điều kiện Việt Nam đang phải tiết kiệm ngoại tệ cho các mục tiêu chiến lược.
Việt Nam đang tiếp tục hoàn thiện từng bước biểu thuế nhập khẩu để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập. Cụ thể trong quyết định số 834/1998/QĐ -BTC ngày 9/7/98 của Bộ trưởng tài chính về danh mục sửa đổi bổ sung tên và thuế suất một số mặt hàng của biểu thuế nhập khẩu. Ví dụ: Ô tô - giảm thuế suất từ 150% xuống còn 60%. Các loại vải, quần áo từ 35% - 50% xuống còn 10%. Tuy nhiên biểu thuế nhập khẩu của ta vẫn còn nhiều nhược điểm: Ví dụ nhiều nhóm mã hàng chưa bao quát hết các hàng hoá nhập khẩu, nhiều nhóm hàng được sử dụng chung một mức thuế suất và giá tính thuế khiến cho việc xác định thuế cho những hàng hoá không ghi trong bảng mã thuế quan gặp khó khăn. Ví dụ: về bông trong biểu thuế quan của Việt Nam có 6 mức thuế cho 16 nhóm hàng trong khi đó ở Inđônêxia có 7 mức thuế cho 603 mã hàng. Nhiều mặt hàng không đựơc thể hiện trên biểu thuế khiến nhiều doanh nghiệp không thể quyết định kinh doanh mặt hàng này vì không tính được lãi, lỗ mặt khác họ có thể lợi dụng những mặt hàng nằm trong mẫu mã có thuế suất thấp mà luồn lách trốn thuế. Ngược lại nhiều mức thuế quy định quá chi tiết, dàn trải quá rộng, mức thuế rất khác nhau 0%, 5%, 1%, 2%, 3%... 17%, 18%. Nhiều mức thuế suất được định căn cứ vào mục đích sử dụng chứ không theo thông lệ quốc tế là định theo tính chất - ví dụ như máy vắt sổ, máy dệt len, máy khâu. Rất khó xác định hàng nhập đó sẽ đựơc dùng vào mục đích nào trong thực tiễn (quy định những máy móc trên dùng trong công nghiệp đựơc hưởng thuế suất 0% trong khi dùng trong gia đình lại chịu thuế tương ứng là 20%, 30%, 50%) nên dễ bị lợi dụng để trốn thuế. Thuế quan hiện hành nói chung là phù hợp với yêu cầu đổi mới và thực trạng kinh tế nước ta trong những năm vừa qua cho nên đã phát huy được tác dụng tích cực của nó như thuế xuất khẩu đã khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu sản phẩm thô. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, góp phần hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng và hàng xa xỉ, tăng nhập thiết bị máy móc và nguyên liệu cần thiết để phát triển sản xuất trong nước phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, tăng việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, ngoài ra còn góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, hướng dẫn tiêu dùng do đánh thuế cao vào những hàng mà trong nước đã sản xuất được, giảm hoặc miễn thuế cho nguyên liệu nhập khẩu.
Tuy nhiên để thực sự được hoà nhập vào các liên kết kinh tế quốc tế nói chung cũng như tổ chức thương mại thế giới nói riêng thì những đổi mới trong chính sách thuế chỉ là một phần nhỏ đối với xu hướng tự do hoá thương mại. Vì thế Việt Nam đã dự định tiến tới giảm thuế từ 0% - 5% đến 2003.
3. Hàng hoá xuất nhập khẩu:
Nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu bước vào thời kỳ CNH hướng về xuất khẩu với những kết quả bứoc đầu không kém phần quan trọng đó là trong thời kỳ này chính sách thương mại của Việt Nam nhằm vào đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng truyền thống và nỗ lực tìm kiếm những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao (gạo, hạt điều, dầu thô...).
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn là hàng nông sản khoáng sản chưa có chế biến. Những mặt hàng này ít nhạy cảm với tỉ giá hối đoái mà nhạy cảm với giá cả thị trường thế giới hơn.
Phần còn lại trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam là sản phẩm công nghiệp chế biến (dệt, may, giày...) nhạy cảm với tỉ giá hối đoái nhưng chưa chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Hơn nữa những mặt hàng này của Việt Nam lại bị hạn chế bởi quota của các nước nhập khẩu. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu là 2399 triệu USD chiếm tỉ trọng 26,9%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 3.259 triệu USD chiếm 36,5, nhóm hàng nông lâm thủy sản đạt gía trị xuất khẩu là 3,247 triệu USD chiếm 25,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1997. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực, hàng qua chế biến chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong 1997 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng điện tử đạt 400 triệu USD tăng 400% so với 1996 và là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu cao nhất. Một số mặt hàng khác có tốc độ tăng trưởng khá như: giày dép các loại tăng 180,2%; chè các loại tăng 151,4%; hạt điều nhân tăng 139%; cà phê tăng 137,8%. Về gạo năm 1997 xuất 3,68 triệu tấn; năm 1998: 3,6 triệu tấn, vượt Mỹ và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới sau Thái Lan
Biểu số 7: Thực hiện xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu
Chỉ tiêu năm
Mặt hàng
Đơn vị tính
Thực hiện năm 1996
Thực hiện năm 1997
Năm 97 so vói 96
(%)
Kế hoạch 98
Năm 98 so vói 97 (%)
Dầu thô
1000 tấn
8705
650
7,47
12100
1861,5
Than
1000 tấn
3647
3500
96
3500
100
Gạo
1000 tấn
3003
3680
122,5
3500
95,1
Cà phê
1000 tấn
283
390
137,8
410
105,12
Hạt điều nhân
Tấn
23
32
139,1
35
109,38
Cao su
1000 tấn
194
197
101,5
200
101,52
Chè các loại
1000tấn
20,8
31,5
151,4
35
111,1
Lạc nhân
1000 tấn
271,1
84
31
130
154,8
Hạt tiêu
1000 tấn
25,3
26
102,8
28
107,7
Hàng thủy sản
triệu USD
651
760
116,7
900
118,4
Hàng dệt may
Triệu USD
1150
1300
113
1500
115,4
Giày dép các loại
Triệu USD
530
955
180,2
1200
125,7
Nguồn : Vụ kế hoạch thống kê - Bộ thương mại
Những biến đổi trong cơ cấu hàng nhập khẩu trong thời gian hơn 10 năm qua phản ánh chính sách điều chỉnh nền kinh tế. Trong thời kỳ này, đặc biệt là từ đầu những năm 90, Việt Nam chủ trương hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng và ưu tiên nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng phục vụ sản xuất. Việc nhập khẩu máy móc thiết bị cũ bị hạn chế do chính sách thu hẹp việc xây dựng các công trình lớn vào những năm 1988-1990.
Biểu số 8: Thực hiện nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu
Chỉ tiêu năm
Mặt hàng
Đơn vị tính
Thực hiện năm 1996
Thực hiện năm 1997
Năm 97 so vói 96
(%)
Kế hoạch 98
Năm 98 so vói 97 (%)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu trực tiếp
Triệu
USD
2043
2733
133,8
3300
120,75
Ô tô nguyên chiếc
Chiếc
25866
18453
71,3
14000
75,87
Phân bón ure
1000 tấn
1467
1440
98,2
1600
111,1
Xăng dầu
1000 tấn
5804
6018
103,7
7200
119,64
Xi măng đen
1000 tấn
1302
878
67,4
200
22,78
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê - Bộ Thương mại
Sự phân tích sơ bộ những thay đổi cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam cho phép chúng ta có thể kết luận là: Nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu dựa trên những ưu thế về nguồn tài nguyên và các ngành công nghiệp chế biến dùng nhiều lao động.
Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước với một đường lối CNH hướng về xuất khẩu dựa trên những ưu thế của phân công lao động quốc tế và khu vực. Chính sách thương mại nói chung và chính sách sản phẩm nói riêng phải dựa trên những biến đổi cơ cấu kinh tế thế giới và khu vực, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời kỳ này.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời kỳ từ nay đến năm 2000 của Việt Nam được xác định là: dầu thô, hàng dệt may, hàng thủy sản, gạo, cà phê, hàng da và giầy dép, than đá, cao su, sản phẩm điện tử tin học-viễn thông, tơ tằm. Theo dự báo 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực này sẽ đảm bảo 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 1996-2000. Những sản phẩm này cho phép khai thác những lợi thế hiện có của Việt Nam, vừa bảo đảm cho dịch chuyển cơ cấu kinh tế và cơ cấu thương mại theo hướng tích cực. Sự biến đổi cơ cấu này phải tạo ra những điều kiện để Việt Nam có thể đón nhận được lợi thế so sánh động do qúa trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế và khu vực. Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất diễn ra nhanh chóng như hiện nay, chiến lược sản phẩm như vậy càng mang tính khả thi cao. Lợi thế cạnh tranh lâu dài của Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược như vậy là nguồn nhân lực bao gồm cả đội ngũ lao động có kỹ năng và đội ngũ lao động trí tuệ. Vì vậy những sản phẩm tạo ra lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai không chỉ là những sản phẩm dùng nhiêù lao động mà còn là những sản phẩm dùng nhiều trí tuệ.
4. Về thị trường
Về cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Từ năm 1991 đến 1997 thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã có sự phát triển mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, cơ cấu khu vực thị trường đã có sự thay đổi lớn nhưng đến nay Việt Nam vẫn chủ yếu buôn bán với các nước trong khu vực, cơ cấu các khu vực thị trường xuất khẩu năm 97 của Việt Nam tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng từ Đông sang Tây (từ Đông Bắc á và Đông Nam á sang Tây Bắc Âu và Bắc Mỹ).
Nếu năm 1991 thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994 giảm xuống còn 75,8% và năm 97 chỉ còn 67,7%. Riêng ở thị trường Đông Bắc á năm 95 chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng 1997 chiếm còn 44%.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 1997 tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng sang châu âu, đặc biệt là Tây Bắc âu, liên bang Nga và các nước Đông âu. Nếu năm 91 thị trường mới chỉ chiếm tỉ trọng 9,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994 đã tăng lên 17,1% và 97 tiếp tục tăng lên 21,5%.
Châu Mỹ mà đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Nếu năm 91 châu Mỹ chỉ chiếm 0,16% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994 đã tăng lên 2,76% và năm 1997 chiếm tỉ trọng 4,48% trong đó Hoa Kỳ chiếm 3,21%. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang châu Đại Dương, mà đặc biệt là Australia. Năm 1991 thị trường này mới chiếm tỉ trọng 0,96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng đến năm 1997 đã tăng lên 2,78%.
Như vậy quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu của Việt Nam không ngừng mở rộng. Việt Nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa (Tây bắc âu, Bắc Mỹ, châu Đại Dương) không chỉ phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước đang phát triển mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển. Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường xuất khẩu từ các nước châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các nước khu vực thị trường phù hợp với chủ trương đa phương hoá đa dạng hoá kinh tế đối ngoại.
III. Cơ hội và thách thức.
Trong thời gian 3 năm qua, chúng ta đã thực sự tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế tuy mức độ có khác nhau đối với các tổ chức khác nhau. Cho đến nay không còn nhiều ý kiến nghi ngờ về lợi ích cũng như cơ hội của một chính sách hội nhập đúng đắn và trong tương lai không xa chúng ta lại có dịp gia nhập với một tổ chức thương mại mang tính chất toàn cầu đó là WTO. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta có thể khai thác được cơ hội và lợi ích cho sự phát triển kinh tế nước nhà.
1. Cơ hội và lợi ích
Không còn nghi ngờ rằng, Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, ví dụ như sự đối xử MFN không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy sự thâm nhập thị trường cho các hàng hoá xuất khẩu, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các cường quốc thương mại chính, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi phổ cập cho các nước đang phát triển thành viên và quan trọng hơn là củng cố những cải cách kinh tế của Việt Nam.
Đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, các hiệp định vòng uruguay có thế đem lại cho Việt Nam các lợi ích:
- Hiện tại thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm 90% khối lượng thương mại thế giới, Việc Việt Nam trở thành thành viên WTO sẽ đẩy mạnh thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao dần vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO
- Việc bãi bỏ hiệp định đa sơi MFA sẽ tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hàng dệt và sản phẩm may mặc của Việt Nam.
- Là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về số lượng với gạo và các nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế và thuế sẽ phải cắt giảm theo hiệp định về nông nghiệp của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc.
-Việt Nam sẽ có lợi do việc cắt giảm thuế đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công, mà về mặt này Việt Nam lại có lợi thế.
- Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính và cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại.
- Việt Nam là nước đang phát triển lại có thu nhập thấp do đó sẽ được miễn trừ khỏi sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên nếu là hàng hoá cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.
- Việt Nam sẽ có cơ hội hoàn thiện hệ thống ngoại thương đảm bảo tính thống nhất của chính sách thương mại phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
- Cuối cùng so với các nước đang phát triển, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các hiệp định của vòng Uruguay bởi vì :
Thứ nhất: theo quy định của WTO hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Mà Việt Nam lại là một nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế do đó sẽ có lợi từ quy định này.
Thứ hai: nhiều nước đang phát triển đã tham gia hệ thống ưu đãi phổ cập GSP của Mỹ, hiệp ước Lom hay hệ thống ưu đãi của khu vực EU sẽ không được nhận ưu đãi về thuế MFN của vòng uruguay kết quả hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ có lợi từ việc loại bỏ những ưu đãi trên.
2. Khó khăn và thách thức.
Bên cạnh những thuận lợi có thể đạt được từ quá trình gia nhập WTO chúng ta cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức:
- Tuy gần đây có những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng, trình độ phát triển của chúng ta có xuất phát điểm thấp, đặc biệt là sức cạnh tranh của các ngành sản xuất dịch vụ của các doanh nghiệp còn yếu kém do quen được bảo hộ trong một thời gian quá dài trong khi các đối thủ cạnh tranh quốc tế có đầy đủ các thế mạnh về kỹ thuật, công nghệ tài chính, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh tiếp cận thị trường . Bên cạnh đó ta lại bắt đầu hội nhập sau nhiều nước trong khu vực và trên thế giới (GATT/WTO đã hoạt động trên 1/2 thế kỷ) do đó ta phải cố gắng theo kịp tiến độ chung trong khi tổ chức này đang có xu hướng muốn đẩy nhanh hơn nữa quá trình tự do hoá, với quy mô rộng hơn và mức độ sâu sắc hơn.
- Các cơ chế mang tính chất kinh tế thị trường của ta còn trong giai đoạn hình thành, nói cách khác là còn sơ khai, chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh nhiều luật lệ và chính sách biện pháp mở cửa còn thiếu chưa phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế còn mang nặng tính bảo hộ và phân biệt đối xử, do dó có thể làm chậm lại nhịp độ hội nhập vào WTO.
- Hiểu biết về hội nhập và chuẩn bị cho công tác hội nhập còn bị hạn chế nhận thức về tầm quan trọng cũng như những yêu cầu, nội dung của hội nhập còn chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, cơ quan. Đặc biệt giới kinh doanh hầu như còn đứng ngoài cuộc, chưa sẵn sàng tham gia vào tiến trình này trong khi khu vực doanh nghiệp chính là đối tượng và cũng là động lực của quá trình hội nhập. Đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn thiếu về số lượng và yếu kém về trình độ nghiệp vụ, kh ả năng xây dựng chính sách cũng như trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán trong các hoạt động đa phương.
- Cuối cùng yếu tố không kém phần quan trọng đó là các doanh nghiệp còn non yếu trong quá trình hội nhập sẽ phải nỗ lực cố gắng nếu không sẽ bị bật ra khỏi vòng quay của thương mại tự do mà trong khi đó đại đa số các doanh nghiệp của Việt Nam về trình độ chưa thể so sánh với các nước trong WTO. Và chúng ta cũng biết rằng, từ lâu thuế là khoản thu lớn và chủ yếu của ngân sách nhà nước. Việc tham gia vào WTO bắt buộc Việt Nam phải cắt giảm hàng rào thuế quan cho sự thâm nhập của nước ngoài vào thị trường trong nước, đó cũng là một khoản thất thu lớn đối với ngân sách quốc gia.
Nhưng nói thế không có nghĩa là Việt Nam sẽ chịu thiệt thòi nhiều hơn là nhận được các lợi ích và cơ hội cho phát triển kinh tế. Mà việc gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam phát triển thương mại một cách toàn diện hơn so với trước đây những vấn đề thương mại quan trọng của GATT đã được tự do hoá rất nhiều bởi các hiệp định của WTO (chẳng hạn như ngành dệt và nông nghiệp) mà đối với những vấn đề đó Việt Nam có nhiêù tiềm năng và có các thị trường xuất khẩu lớn.
Chương III
Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào WTO
I. Điều kiện chủ yếu để Việt Nam tham gia vào WTO.
1. Điều kiện theo quy định chung của WTO.
Các điều kiện bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành thành viên của GATT vẫn được bảo lưu trong WTO. Có nhiều quy định cụ thể nhưng có thể tập hợp chung lại vào ba điều kiện chính sau đây:
- Trước hết phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù phát triển theo mô hình nào.
- Thứ hai là nước muốn xin gia nhập đã sẵn sàng và có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ là thành viên hay không. Cụ thể là công khai về chế độ buôn bán quốc tế, rõ ràng trong mọi quy định liên quan trực tiếp đến buôn bán quốc tế, tất cả thành viên phải ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34421.doc