Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật HN - GĐ năm 2000

Lời nói đầu Như chúng ta đã biết không phải ngẫu nhiên năm 1994 được Liên Hiệp Quốc chọn là năm quốc tế gia đình với chủ đề “Gia đình trong thế giới biến đổi”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới về vấn đề gia đình. Họ nhận thấy rằng khủng hoảng về gia đình cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng về xã hội. Không ai có thể phủ nhận được vị trí quan trọng của gia đình đối với mỗi người, đối với xã hội. Bởi vì gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho những

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật HN - GĐ năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế hệ tương lai của đất nước. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Trong tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp quốc năm 1948 ở điểm 16 có ghi nhận: “Gia đình là yếu tố đầu tiên cơ bản của Nhà nước”. Trong hiến chương của cộng đồng Châu Âu năm 1961 ở phần một cũng ghi nhận: “Gia đình với tư cách là tế bào xã hội có quyền được hưởng sự bảo vệ các mặt xã hội, pháp lý và kinh tế thích hợp để bảo vệ sự phát triển toàn vẹn của nó”. Các công ước quốc tế đều thừa nhận tầm quan trọng của gia đình đối với xã hội, nền tảng gia đình có tốt đẹp vững chắc thì xã hội mới văn minh tiến bộ. Và Việt Nam cũng vậy, Điều 64-Hiến pháp năm 1992 có ghi: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Để cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN-GĐ) nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, những năm gần đây do tác động của sự chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội có nhiều thay đổi, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Cho nên, Luật HN-GĐ năm 1986 (Luật ban hành vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới) đã bộc lộ những tồn tại như nhiều qui định còn mang tính nguyên tắc chung, có tính chất khung, thiếu cụ thể, nhiều qui định không còn phù hợp với thực tế của xã hội ... đã gây khó khăn khi vận dụng, thiếu thống nhất khi thi hành. Xuất phát từ quan điểm chủ đạo là cụ thể hoá Hiến pháp 1992; các qui định của Bộ luật dân sự về hôn nhân và gia đình; kế thừa và phát huy các nguyên tắc cơ bản, các qui định còn phù hợp cuả pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam; để đề cao vai trò của gia đình; cụ thể hoá các quyền và nghĩa vụ nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ quyền lợi phụ nữ, trẻ em, người mất năng lực hành vi dân sự, người cao tuổi; khuyến khích việc giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước; đề cao vai trò của các đoàn thể trong việc xây dựng, củng cố và bảo vệ các quan hệ hôn nhân gia đình. Do vậy, một đạo luật mới đã được ban hành. Đó là Luật HN-GĐ năm 2000 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kì họp thứ 7 thông qua ngày 09/06/2000 và có hiệu lực ngày 01/01/2001. Đứng trước một đạo luật mới ban hành thì vấn đề đầu tiên phải tìm hiểu xem nội dung qui định những gì, nó có những điểm mới nào so với các văn bản luật trước, từ chỗ tìm hiểu luật chúng ta mới có thể đưa luật vào trong cuộc sống. Tuy nhiên, là một sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội tôi không tham vọng làm hết mọi việc trên mà chỉ góp sức nhỏ bé của mình để tìm hiểu một phần nội dung của Luật HN-GĐ năm 2000. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật HN - GĐ năm 2000 cho luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật-chuyên ngành khoa Tư Pháp. Cơ cấu luận văn gồm: Lời nói đầu Chương I: Khái luận chung về kết hôn và điều kiện kết hôn. Chương II: Những điểm mới về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn trong Luật HN -GĐ năm 2000. Chương III: Một số biện pháp cần thiết để đưa chế định kết hôn trong Luật HN -GĐ năm 2000 vào thực tế cuộc sống. Kết luận và kiến nghị Về phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phép biện chứng của triết học Mac-Lênin để tìm ra mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng nhằm đánh giá vấn đề một cách khoa học và hợp logic. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích ... Với trình độ chuyên môn và nhận thức còn hạn chế, cho nên bản luận văn này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự đóng góp và phê bình của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn sinh viên. Em xin trân thành cám ơn ! Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 2001. Sinh viên Lã Minh Toàn Chương I khái luận chung về kết hôn và điều kiện kết hôn I/ Khái niệm kết hôn: Hôn nhân - đó là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng được thực hiện với sự tuân thủ các qui định của pháp luật nhằm để chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc dân chủ hoà thuận. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Quan hệ này là quan hệ giữa hai người khác giới tính, thực chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Vai trò và ý nghĩa này của hôn nhân đều có trong mọi xã hội. C.Mac và Ăngghen đã nhấn mạnh rằng sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất cuộc sống khác là nhờ sinh đẻ và lập tức xuất hiện hai mối quan hệ, một mặt là mối quan hệ tự nhiên, mặt khác là mối quan hệ xã hội. Đó là mối quan hệ xã hội bởi ở đây có sự tham gia của mọi người bất kể trong điều kiện nào, bằng cách nào và với mục đích gì. Mặt khác quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị. Vì thế tính chất của hôn nhân có thể thay đổi phụ thuộc vào cơ sở kinh tế đang thống trị.Hơn nữa, ở xã hội nào mà các quan hệ hôn nhân được coi là quan hệ pháp luật thì sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà là hình thức của quan hệ đó mang ý nghĩa như là một sự kiện pháp lý làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định cho các bên vợ chồng. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật, phong tục tập quán hoặc các qui định tôn giáo cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ cho lợi ích giai cấp mình. Rõ ràng, hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp - ở xã hội nào thì có hình thái hôn nhân đó, và tương ứng với nó là chế độ hôn nhân nhất định. Ví dụ, ở xã hội phong kiến có hôn nhân phong kiến, ở xã hội tư sản có hôn nhân tư sản, ở xã hội xã hội chủ nghĩa có hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt đời. Như vậy, hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình và “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.Lời nói đầu - Luật HN-GĐ năm 2000 . Trong mỗi chế độ xã hội, gia đình đều thực hiện những chức năng có bản tính mang tính chất xã hội. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là sinh sản nhằm sản xuất ra con người, là quá trình tiếp tục nòi giống. Đây là một quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định. Quá trình này được thể hiện ở chỗ “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái - đó là quan hệ gia đình” .C.Mac-Angghen. Toàn tập- Tập 3 “Hệ tư tưởng Đức” NXB Sự thật.H-1986. . Nếu không có sản xuấtvà tái sản xuất ra con người thì xã hội không thể phát triển, thậm chí không thể tồn tại được. Như vậy gia đình là một trong những thể chế cơ bản của xã hội. Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ Nhà nước thừa nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời qui định những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên. Khi nam nữ yêu nhau họ chưa có trách nhiệm gì nhưng khi đã xác lập quan hệ hôn nhân thì họ trở thành vợ chồng và khi đó họ phải có trách nhiệm với nhau, với con cái và với xã hội. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến điều đó bởi vì “Trong tình yêu có hai người và xuất hiện cuộc đời mới, cuộc đời thứ 3. Đây chính là điều quan tâm của xã hội.” (Hồi kí về Lênin). Khi nam nữ có quan hệ với nhau nhưng chưa công khai chung sống với nhau như vợ chồng bằng sự kết hôn thì chưa gọi hiện tượng đó là hôn nhân. Bởi vì “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”.Khoản 6 - Điều 8-Luật HN-GĐ năm 2000. . Kết hôn là điểm khởi đầu của hôn nhân, hình thức của hôn nhân được biểu hiện một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng mà bản chất và ý nghĩa của nó là nhằm giúp đỡ nhau trong cuộc sống và kết hợp với nhau để sản sinh ra thế hệ trẻ và cùng nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội. Kết hôn đã làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để xây dựng gia đình. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp cầm quyền đều thông qua Nhà nước bằng pháp luật tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia đình làm cho các quan hệ đó phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của mình. Nhà nước phong kiến qui định việc kết hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc họ hàng thân thích. Một số nước coi việc kết hôn như là khi kí kết hợp đồng. Còn đối với các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng qui định việc kết hôn của nam nữ vừa có lý, vừa có tình, phù hợp với đạo đức xã hội và nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động. Tại Điều 8 - khoản 2 - Luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.”. Như vậy, nam nữ muốn kết hôn phải thể hiện và đảm bảo hai yếu tố sau: * Phải thể hiện ý chí là mong muốn được kết hôn với nhau. Điều quan trọng đầu tiên là hai bên nam nữ phải tỏ rõ ý chí của mình là mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng. Sự bày tỏ ý chí phải thống nhất với ý chí trong giấy tờ khai xin đăng ký kết hôn và trước cơ quan hộ tịch, hai bên thể hiện rằng họ hoàn toàn đồng ý và mong muốn được kết hôn. Sự thể hiện đó phải hoàn toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của hai người. Kết hôn là mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng, đảm bảo xây dựng gia đình thật sự dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững. Đối với những trường hợp trong khi tiến hành đăng kí kết hôn có sự lừa dối, giả mạo, cưỡng ép hoặc kết hôn không phải vì mục đích gia đình hạnh phúc mà vì động cơ, mục đích không đúng đắn thì về nguyên tắc Nhà nước không công nhận việc kết hôn đó. * Phải được Nhà nước thừa nhận. Nhà nước công nhận hôn nhân khi việc kết hôn tuân thủ các điều kiện kết hôn do Luật HN-GĐ qui định. Điều 64 - Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 qui định. “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”.Nhưng hôn nhân đó phải là hợp pháp và được Nhà nước thừa nhận. Nếu việc kết hôn không tuân thủ các điều kiện kết hôn theo pháp luật qui định thì về nguyên tắc Nhà nước không thừa nhận hôn nhân đó và vì vậy giữa hai bên nam và nữ không phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Như vậy, việc Nhà nước công nhận hôn nhân thông qua sự kiện công nhận việc kết hôn của đôi nam nữ là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng đôi bên đã phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Những quyền và nghĩa vụ đó được Nhà nước bảo hộ. Kể từ ngày cơ quan đăng kí kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam nữ thì các quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, quan hệ cấp dưỡng, quan hệ thừa kế, quyền sở hữu tài sản, xác định được rõ các chủ thể và xác định được thời điểm phát sinh các quan hệ đó. Ví dụ: A và B làm đơn xin đăng kí kết hôn và được uỷ ban nhân dân xã X (nơi thường trú của A) cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 4/01/2001. Hai gia đình định tổ chức hôn lễ vào ngày 28/01/2001. Nhưng không may trên đường đi mời bạn bè đến dự đám cưới của mình thì A bị tai nạn giao thông và chết ngay vào ngày 26/01/2001. Trong trường hợp trên, mặc dù hai người chưa tổ chức lễ cưới nhưng họ đã đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn có thẩm quyền ngày 4/01/2001. Do vậy mà quan hệ vợ chồng giữa A và B phát sinh từ ngày 4/01/2001 chứ không phải ngày 30/01/2001. Vì vậy, khi A chết quan hệ thừa kế được đặt ra cho B. Mặt khác, việc kết hôn thông qua đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn là 1 thủ tục hành chính bắt buộc đối với đôi nam nữ khi kết hôn. Qua đây, Nhà nước thể hiện ý chí của mình trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thể hiện sự quản lý của Nhà nước, nó giúp Nhà nước quản lý tốt công tác hộ tịch, cũng như trong chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình tránh những vi phạm xảy ra trong lĩnh vực kết hôn. Từ đó, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nâng cao ý thức pháp luật của từng người dân. II/ khái niệm điều kiện kết hôn. Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng của Luật HN-GĐ. Điều kiện kết hôn là chuẩn mực pháp lý để xác lập quan hệ hôn nhân và xây dựng gia đình theo khuôn mẫu nhất định phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước và xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Điều kiện kết hôn qui định dựa trên các yếu tố: Kinh tế-xã hội, khoa học, phong tục tập quán, tâm lý dân tộc, truyền thống đạo đức. Các yếu tố này luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng qua lại với nhau và mỗi yếu tố đều có ý nghĩa nhất định đối việc qui định điều kiện kết hôn. Cơ sở khoa học của việc qui định điều kiện kết hôn là yếu tố khách quan đảm bảo sự phát triển lành mạnh của gia đình, của nòi giống theo qui luật di truyền và tiến hoá trong sự kế tục giữa các thế hệ. Việc qui định điều kiện kết hôn dựa trên yếu tố này thì mới có khả năng điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong thực tế, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của các thế hệ và củng cố sự bền vững của gia đình. Do đó, khi qui định các điều kiện kết hôn nhà làm luật không được bỏ qua yếu tố này. Song bên cạnh đó, quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ xã hội, trước tiên chịu sự điều chỉnh của qui phạm đạo đức, chịu ảnh hưởng và được hình thành qua phong tục tập quán và truyền thống đạo đức. Cho nên khi qui định điều kiện kết hôn nhà làm luật còn phải thực hiện việc kế thừa, phát huy những truyền thống phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, các qui tắc đạo đức nhằm củng cố, duy trì bảo vệ sự bền vững bản sắc văn hoá của gia đình Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm, thực hiện nguyên tắc tự do và tiến bộ trong hôn nhân, song tự do hôn nhân không có nghĩa là bừa bãi, tuỳ tiện, tự do ngoài vòng pháp luật. Tự do kết hôn nhưng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các Điều kiện kết hôn do Nhà nước qui định: “Không ai bị buộc phải kết hôn nhưng ai cũng buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn... hôn nhân không phục tùng sự tuỳ tiện của người kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân.” C.Mac “Bản dự luật về ly hôn” C.Mac-Angghen. Toàn tập. Tập 1 NXB Sự thật.H. Tr 978. Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1999 thì “Điều kiện kết hôn là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam nữ”. Việc qui định các điều kiện kết hôn luôn có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó là cơ sở để xây dựng hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng, xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận. Mặt khác, khi qui định các điều kiện kết hôn là sự thể hiện ý chí của Nhà nước trong lĩnh vực kết hôn. Nhà nước chỉ thừa nhận những cuộc kết hôn hợp pháp khi cuộc kết hôn đó tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn và được Nhà nước bảo hộ. Nếu như vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì đó là việc kết hôn trái pháp luật và về nguyên tắc những cuộc kết hôn đó đều bị xử huỷ. Chương ii Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về điều kiện kết hôn. Việc qui định các điều kiện kết hôn trong luật phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện kinh tế - xã hội, yếu tố đạo đức, truyền thống, phong tục tập quán, tâm lý chung của nhân dân. Do vậy, ở mỗi nước khác nhau, ở mỗi giai đoạn phát triển thì điều kiện kết hôn được qui định khác nhau. Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam, ngày 9/6/2000 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kì họp thứ 7 thông qua Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực ngày 1/1/2001 đã thay thế Luật HN-GĐ năm 1986. Luật này được ban hành trên cơ sở kế thừa các qui định còn phù hợp của Luật HN - GĐ năm 1986 nói riêng và pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam nói chung. Đồng thời, xuất phát từ những thay đổi của điều kiện kinh tế-xã hội. Cho nên, Luật đã bổ sung các qui định mới để phù hợp với thực tế khách quan. I.điều kiện về tuổi kết hôn. Điều kiện về tuổi kết hôn của công dân được quy định dựa trên yếu tố tự nhiên, sự phát triển tâm sinh lý, phong tục tập quán... Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, sự phát triển tâm sinh lý, chế độ kinh tế - chính trị và quan điểm của các nhà làm luật cho nên pháp luật của mỗi nước có quy định khác nhau: Bộ luật gia đình của Cộng hoà dân chủ Đức (trước kia) quy định tuổi kết hôn chung cho cả nam và nữ là 18 tuổi (Điều 5); Bộ luật gia đình của Hunggari quy định “ Đàn ông 15 tuổi và đàn bà 16 tuổi tròn mới được kết hôn” (Điều 10); Trung Quốc quy định nam 22 tuổi, nữ 20 tuổi mới được kết hôn; Tây Ban Nha, Chi Lê, một số bang của Mỹ tuổi kết hôn đối với nam là 14, nữ là 12; Hà Lan, Pháp tuổi kết hôn đối với nam là 18, nữ là 16; ở Anh tuổi kết hôn đối với cả nam và nữ là 16. ở Việt Nam, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì tuổi kết hôn cũng được quy định khác nhau: thời kỳ phong kiến không quy định độ tuổi kết hôn, do vậy mà hiện tượng tảo hôn diễn ra phổ biến. Khi đất nước bị chia cắt làm hai miền Nam - Bắc với hai chế độ chính trị khác nhau, ở miền Nam chịu sự điều chỉnh của Luật gia đình 02/01/1959, Sắc luật 15/64, Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền ngụy Sài Gòn; với các văn bản luật này thì tuổi kết hôn đối với nam là 18, đối với nữ là đủ 15 hoặc 16 và cho phép hạ thấp tuổi kết hôn trong những trường hợp đặc biệt theo quy định của nguyên thủ quốc gia. ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì chịu sự điều chỉnh của Luật Hôn nhân - gia đình năm 1959. Sau khi thống nhất đất nước thì Luật Hôn nhân - gia đình năm 1959 được áp dụng thống nhất trong cả nước. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa hoàn toàn quy định về độ tuổi kết hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Đó là “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn ”. Như vậy, muốn kết hôn, nam và nữ phải đạt độ tuổi nhất định. Độ tuổi tối thiểu đối với nam là 20, đối với nữ là 18. Việc quy định tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người, căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội của Nhà nước ta. Quy định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước về thể chất, trí tuệ của nam và nữ nhằm đảm bảo cho họ có thể đảm đương được nhiệm vụ làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Đồng thời còn đảm bảo cho con cái họ sinh ra được khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn trí lực và được quan tâm chăm sóc giáo dục tốt, tạo điều kiện để xây dựng gia đình bền vững hạnh phúc. Trên thực tiễn áp dụng từ năm 1959 việc xác định tuổi kết hôn chưa có cách tính thống nhất. Cách xác định thứ nhát là tính theo tuổi tròn, nghĩa là phải căn cứ vào ngày tháng năm sinh trong giấy khai sinh, cứ đủ 12 tháng mới đủ 1 tuổi. Ví dụ Nguyễn Văn A sinh ngày 10/05/1970 thì đến ngày 10/05/1971 A tròn 1 tuổi. Nhưng thực tế ở nước ta vấn đề đăng ký khai sinh chưa được thực hiện triệt để do công tác hộ tịch còn yếu kém. Do vậy, ở một số nơi nhất là các vùng nông thôn, miền núi số người chưa đăng ký khai sinh chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy, có không ít trường hợp không nhớ rõ ngày, tháng sinh mà chỉ nhớ năm sinh. Cho nên, nếu tính theo các thứ nhất thì gặp rất nhiều khó khăn. Để phù hợp với thực tế trên và để phù hợp với tinh thần của Luật hôn nhân và gia đình chúng ta có cách tính tuổi thứ hai: Tính theo ngày đầu của năm dương lịch. Tính tuổi theo cách này chúng ta chỉ cần căn cứ vào năm sinh. Cứ hết một năm dương lịch là được một tuổi. Ví dụ: Trần Thị B (nữ) sinh năm 1983 thì đến ngày 1/1/1984 B được một tuổi không kể B sinh vào tháng nào trong năm 1983. Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 đều quy định: “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn” song cả hai Luật trên và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không quy định rõ như thế nào là “Nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên”. Do vậy mà dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất là nam phải đủ 20 tuổi, nữ phải đủ 18 tuổi mới được kết hôn. Cách hiểu thứ hai là chỉ cần nam bước sang tuổi 20 và nữ bước sang tuổi 18 là đủ tuổi kết hôn. Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hướng dẫn như sau:”Điều kiện kết hôn quy định tại Điểm 1 Điều 9 là “ nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên”. Theo quy định này thì không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó, nam đã bước sang tuổi 20, nữ đã bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi “. Với hướng dẫn trên là theo cách hiểu thứ hai, nghĩa là nam chỉ cần bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 là đủ tuổi kết hôn. Ví dụ: Nguyễn Văn A sinh ngày 10/5/1970 thì đến ngày 11/5/1989 là A bước sang tuổi 20 và đủ tuổi kết hôn. Hướng dẫn này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan đăng ký kết hôn, cơ quan xét xử và cho mọi ngưới dân hiểu một cách thống nhất quy định của luật tránh những cách hiểu khác nhau gây ra khó khăn, phức tạp không đáng có khi áp dụng, thi hành luật. II.điều kiện hôn nhân một vợ - một chồng. Luật hôn nhân và gia đình của nước ta khác hẳn về chất so với pháp luật phong kiến hay pháp luật tư sản. Pháp luật của Nhà nước phong kiến ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã duy trì chế độ đa thê cho phép người đàn ông lấy nhiều vợ nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Điều 79 - Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931 quy định:”Có hai cách giá thú hợp pháp: giá thú về chính thất và giá thú về thứ thất” và theo Điều 80 Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931 quy định:”chưa lấy vợ chính thì không được lấy vợ thứ”. Pháp luật của Nhà nước Tư sảnvề hình thức cũng quy định hôn nhân một vợ một chồng. Nhưng trong thực tế nguyên tắc đó bị phá vỡ bởi tệ ngoại tình và nạn mãi dâm công khai. Bởi vì:”Tệ mãi dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những không bị suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành hiện thực ngay cả đối với đàn ông nữa”.. Ph.Angghen “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước”. NXB Sự thật. H. 1972. Tr 120. Xuất phát từ bản chất của hôn nhân xã hội chủ nghĩa, điều kiện hôn nhân một vợ một chồng đảm bảo cho sự bền vững và hạnh phúc của gia đình, vợ chồng mới thực sự yêu thương nhau, giúp đỡ và quý trọng nhau. Ph.Angghen đã chỉ rõ:”Xuất phát từ bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng”. Bởi vậy, hôn nhân một vợ một chồng là một nguyên tắc cơ bản và là điều kiện kết hôn được quy định trong cả 3 Đạo luật hôn nhân và gia đình năm 1959, năm 1986 và năm 2000. Tuy nhiên giữa các luật lại có quy định khác nhau. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định:”Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác”, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác”. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tại điều 4 quy định:”Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chông với người khác”. Theo quy định của các điều luật trên thì chúng ta có thể hiểu rằng Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không cấm người đang có vợ, có chồng chung sống như vợ, chồng với người khác. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã cấm cả 2 trường hợp người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Đây là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 nhằm chống ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong hôn nhân. Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác sẽ gây ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của người vợ hoặc người chồng hợp pháp của mình, đồng thời cũng gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Ngoài ra, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có quy định mới:”Cấm người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng”. Rõ ràng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định đầy đủ hơn đã đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Hôn nhân một vợ một chồng có nghĩa là chỉ những người chưa có vợ, có chồng hay những người đã có vợ, có chồng rồi nhưng vợ hoặc chồng họ đã chết hay đã ly hôn thì mới có quyền kết hôn với người khác. Đồng thời những người trên chỉ được kết hôn với những người không tồn tại một cuộc hôn nhân nào khác. Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hôi đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: ”Người đang có vợ, có chồng là: -Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; -Người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 3/3/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; -Người chung sống với người khác như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến trước ngày 1/1/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 1/1/2003) “. Như vậy với những quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn đã quy định đầy đủ và rõ ràng về trường hợp cấm kết hôn này nhằm đảm bảo hôn nhân một vợ một chồng so với các văn bản luật trước. Nhưng trong thực tế xã hội ta hiện nay vẫn tồn tại trường hợp mọt chồng hai vợ hoặc một vợ hai chồng. Đó là những trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, có chồng ở miền Nam khi tập kết ra Bắc lại lấy vợ, lấy chồng khác. Sau khi đất nước thống nhất (30/4/1975) họ trở về đoàn tụ gia đình nên thực tế đã tồn tại cảnh một vợ hai chồng hoặc một chồng hai vợ. Theo hướng dẫn của Thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 của TANDTC thì đây là những trường hợp đặc biệt “là hậu quả của chiến tranh, một vấn đề xã hội phức tạp, vấn đề tình cảm, hạnh phúc gia đình nhất là người vợ và con cái”. Vì vậy TANDTC đã hướng dẫn các Toà án địa phương:”khi giải quyết phải xem xét một cách thận trọng thấu tình đạt lý... Toà án nhan dân trước hết phải giải thích cho các đương sự nhận thức rõ được hoàn cảnh đặc biệt của đất nước và tình hình thực tế của gia đình họ, mặc dù họ không muốn như vậy. Do đó mỗi người phải suy nghĩ tìm thấy một giải pháp tốt nhất, ít tổn thất và hợp tình hợp lý nhất... Nếư cả hai người vợ vẫn tha thiết mong muốn gia đình xum họp thì khuyên họ bàn bạc, thu xếp sao cho ổn thoả ”. Như vậy trường hợp trên tồn tại không phải do ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến mà là do hoàn cảnh của đất nước. Những trường hợp này cần phải được quan tâm bảo vệ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các đương sự, nhất là đối với phụ nữ và con cái. Ngoài ra trong thực tế xã hội hiện nay vẫn còn tồn tại một số biểu hiện của hôn nhân và gia đình phong kiến, đó là tục lệ lấy mhiều vợ của người đàn ông. Hiện tượng này không chỉ có ở miền núi nông thôn mà ngay cả các thành phố lớn. Mặc dù luật cấm nhưng tục lệ này vẫn còn tồn tại. Một trong những nguyên nhân là do chúng ta chưa xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Hiện tượng này đã gây cản trở cho việc xây dựng chế độ hôn nhân một vợ một chồng và duy trì sự bóc lột người phụ nữ. Để đảm bảo hôn nhân một vợ một chồng, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm đăng ký kết hôn phải hết sức thận trọng, phải thẩm tra chính xác về các điều kiện kết hôn trước khi đăng ký kết hôn cho nam và nữ. Đồng thời phải xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm điều kiện này. iii. Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ trong kết hôn. Trong xã hội phong kiến và thực dân nửa phong kiến chế độ hôn nhân cưỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ, mặc dù là con đã thành niên là một nguyên tắc và là một điều kiện kết hôn của pháp luật hôn nhân và gia đình. Bởi vì trong xã hội phong kiến con cái thuộc sở hữu của bố mẹ, mặt khác họ luôn nhằm bảo vệ và củng cố gia đình vững chắc. Cụ thể, Bộ Luật Hồng Đức tại điều 320, 322 qui định về hứa gả chồng, ép gả của ông bà, cha mẹ. Điều 77 Bộ dân luật Bắc kì 1931 qui định: “Phàm con cái đã thành niên cũng như chưa thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được”. Trong Luật gia đình ngày 2/1/1959, Bộ dân luật ngày 20/12/1972, Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về hình thức thừa nhận nguyên tắc tự nguyện trong kết hôn. Tuy nhiên, việc kết hôn của nam và nữ dưới 21 tuổi phải được sự đồng ý của cha mẹ hay ông bà. Khác với pháp luật phong kiến và pháp luật thực dân phong kiến, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Với quan điểm hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sự liên kết đó có tồn tại lâu dài, bền vững hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện tình cảm giữa họ. Do đó, tự nguyện trong hôn nhân vừa là nguyên tắc cơ bản của Luật HN -GĐ vừa là một điều kiện để công nhận hôn nhân hợp pháp. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 cuả Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sửa đồi một số qui lệ và chế định trong dân luật đã xoá bỏ chế độ hôn nhân cưỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ. Điều 2-Sắc lệnh qui định: “người con đã thành niên không bắt buộc phải cha mẹ bằng lòng mới kết hôn được.”. Sắc lệnh 97 đã góp phần đáng kể vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam. Sau Sắc lệnh số 97 là các Luật HN-GĐ năm 1959, Luật HN-GĐ năm 1986, Luật HN-GĐ năm 2000. Điều 4- Luật HN-GĐ năm 1959 qui định: “Con trai và con gái đến tuổi được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.”. Theo Điều 6- Luật HN - GĐ năm 1986: "Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định,._. không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở" Và theo Điều 9- Luật HN - GĐ năm 2000: "Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở". Như vậy, điều kiện về sự tự nguyện được qui định trong Luật HN - GĐ năm 2000 đã kế thừa hoàn toàn Luật HN - GĐ năm 1959, Luật HN-GĐ 1986. Song đã có bổ sung thêm vấn đề lừa dối kết hôn. Với sự bổ sung này, Luật HN -GĐ năm 2000 đã cho chúng ta hiểu đầy đủ, rõ ràng hơn về vấn đề tư nguyện khi kết hôn. Tự nguyện khi kết hôn nghĩa là không có lừa dối, cưỡng ép, cản trở. Sự tự nguyện của nam và nữ khi kết hôn là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý. Tự nguyện kết hôn là không có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối để kết hôn, đồng thời phải có sự thống nhất ý chí của các bên. Nam, nữ khi kết hôn họ phải tự do bày tỏ ý chí của mình là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau, ý chí của các bên được thể hiện bằng những hình thức nhất định. Thông qua đó mới có thể đánh giá và hiểu được ý chí của các bên. Pháp luật đòi hỏi sự bày tỏ ý chí của các bên nam nữ phải thống nhất với ý chí thực của họ. Khi sự bày tỏ ý chí của các bên nam nữ lại không phản ánh đúng ý chí thực của họ thì coi là thiếu tự nguyện kết hôn kết hôn có thể bị Toà án tuyên bố là kết hôn trái pháp luật và ra quyết định huỷ hôn nhân đó nếu một hoặc cả hai bên kết hôn yêu cầu. Như vậy, có sự tự nguyện hay thiếu sự tự nguyện của nam, nữ khi kết hôn quy định tính hợp hay không hợp pháp của hôn nhân và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân. Việc đánh giá yếu tố tự nguyện của hai bên nam, nữ là vấn đề khó khăn và phức tạp. Nếu đánh giá đúng thì có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết về vụ kiện huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Việc đánh giá không chỉ căn cứ vào lời khai của các bên nam nữ vào tờ khai đăng ký kết hôn mặc dù đó là sự bày tỏ ý chí của họ. Bởi vì, thực tế có những trường hợp nam nữ cùng khai là họ tự nguyện kết hôn nhưng thực tế là một trong hai bên hoặc cả hai bên không hoàn toàn tự nguyện thực sự do họ bị cưỡng ép, bị lừa dối, hoặc do việc kết hôn giả tạo. Vì thế để đánh giá sự tự nguyện của họ trong việc kết hôn cần phải dựa trên yếu tố tình cảm đó là tình yêu đích thực giữa nam và nữ. Hai bên phải yêu thương nhau và đây cũng là động lực thúc đẩy hai bên đi đến kết hôn. Theo Ph. Ăng ghen thì "Sự luyến ái giữa đôi bên phải là lý do cao hơn hết thảy mọi lý do khác trong việc kết hôn”. Ph.Angghen “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước”. Khi đã xác định được hai bên thực sự có tình cảm yêu thương nhau và xuất phát từ tình cảm đó nên hai người mới mong muốn được trở thành vợ chồng để cùng nhau chung sống, để gắn bó với nhau, để chia ngọt sẻ bùi khi đó việc kết hôn của họ mới được coi là tự nguyện. Đối với những trường hợp kết hôn nhưng thiếu sự tự nguyện khi kết hôn thì Toà án có thể huỷ hôn nhân nếu có yêu cầu của người có quyền yêu cầu. Thiếu sự tự nguyện khi kết hôn là khi kết kết hôn có hành vi cưỡng ép hoặc hành vi lừa dối kết hôn. Luật HN - GĐ năm 1986 và Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN - GĐ năm 1986 không quy định cụ thể như thế nào là hành vi cưỡng ép kết hôn. Trong Thông tư 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc xử lý về dân sự những cuộc hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do luật định thì chỉ coi là hành vi cưỡng ép để xử huỷ hôn nhân " Trong trường hợp hành vi thực sự có tính chất cưỡng ép như đã dùng bạo lực về vật chất hoặc tinh thần mạnh mẽ đến mức làm tê liệt ý chí của đương sự, làm mất hẳn sự tự nguyện của họ khi họ kết hôn". Hành vi dùng bạo lực về thể chất hoặc tinh thần mạnh mẽ đến mức làm tê liệt ý chí của đương sự có thể được hiểu là sự đe doạ trực tiếp của bên gia đình hoặc của người khác làm cho bên kia quá sợ hãi mà phải kết hôn nhằm tránh những hậu quả có thể xảy ra gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của bản thân người kết hôn hoặc của người thân của họ. Tuy nhiên hướng dẫn trên còn quá chung chung, nên khi vận dụng trong thực tế còn nhiều vướng mắc, mâu thuẫn. Luật HN - GĐ năm 2000 đã định nghĩa thế nào là cưỡng ép kết hôn để có cách hiểu thống nhất trong khi thi hành cũng như áp dụng pháp luật. Tại khoản 5 Điều 8 Luật HN - GĐ năm 2000 quy định "cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguỵên vọng của họ". Và Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN - GĐ năm 2000 có huớng dẫn cụ thể về cưỡng ép kết hôn: "Một bên ép buộc (ví dụ: đe doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất...) nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn. Một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép (ví dụ: Bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ, do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn trước với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau...) buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ". Như vậy Luật HN - GĐ năm 2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định về vấn đề cưỡng ép kết hôn tương đối cụ thể và rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng luật về hôn nhân gia đình trong thực tế. Và không bị coi là cưỡng ép kết hôn khi đồng ý kết hôn do bị dụ dỗ hoặc thuyết phục. Vấn đề thực tế đặt ra là đối với trường hợp một người vì tôn kính cha mẹ mà đã nghe theo cha mẹ để kết hôn với trái với ý muốn của họ thì có coi là hành vi cưỡng ép kết hôn kết không? Trong trường hợp này, không nên coi là thiếu sự tự nguyện khi kết hôn và không coi là hành vi cưỡng ép kết hôn. Bởi vì, dù nghe theo lời cha mẹ nhưng người kết hôn vẫn có quyền tự quyết định, chỉ khi nào người kết hôn phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ thì mới coi là hành vi cưỡng ép. Mặt khác, Luật HN - GĐ năm 2000 tại Điều 35 còn quy định: " Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, nắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình". Trong trường hợp trên, cha mẹ chỉ khuyên răn, thuyết phục mà không có hành vi dùng bạo lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất ép buộc, con vẫn có quyền quyết định. Thiếu sự tự nguyện khi kết hôn còn là hành vi lừa dối kết hôn. Vấn đề lừa dối kết hôn chưa được quy định cụ thể trong Luật HN - GĐ năm 1986. Trên thực tế, trong quá trình áp dụng Luật HN -GĐ năm 1986, hành vi lừa dối cũng được coi là yếu tố vi phạm sự tự nguyện. Theo Thông tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được coi là hành vi lừa dối khi " Một bên đã dùng thủ đoạn mưu trước gian xảo để lừa dối bên kia một cách nghiêm trọng như che dấu lý lịch tư pháp đặc biệt xấu hoặc che dấu lý lịch chính trị của mình làm cho họ bị mắc lừa mà đồng ý kết hôn thì cũng coi là việc vi phạm điều kiện tự nguyện kết hôn". Quy định trên còn có rất nhiều điểm không hợp lý bởi vì không biết lý lịch tư pháp đặc biệt xấu là gì? Thế nào là lừa dối một cách nghiêm trọng? Còn trong những trường hợp nói sai về tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình... thì có coi là lừa dối không hay chỉ coi là nhầm lẫn? Luật HN -GĐ năm 2000 đã qui định trong kết hôn không có sự lừa dối giữa các bên. Hướng dẫn qui định trên Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì có chỉ ra một số trường hợp coi là hành vi lừa dối như lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài; không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu, biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu... Trong từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội có định nghĩa: “Lừa dối để kết hôn là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai sự thật về nhân thân của mình, làm cho họ nhầm lẫn về việc đánh giá về mình nên đã đồng ý kết hôn. Có quan điểm khác cho rằng: “Lừa dối kết hôn là trường hợp một bên hoặc người thứ ba đã có hành vi cố ý nói sai sự thật về một người nhằm làm cho người kia hiểu sai lệch về bản thân người mà họ sẽ kết hôn”. Như vậy vấn đề lừa dối kết hôn là vô cùng phức tạp và đa dạng do vậy không thể đưa ra khái niệm lừa dối kết hôn mà chỉ đưa ra những trường hợp cụ thể coi là lừa dối. Bởi vậy khi áp dụng pháp luật cần có sự linh hoạt và nhạy bén của Thẩm phán trong từng trường hợp cụ thể để bảo vệ quyền lợi của đương sự. áp dụng vào trường hợp trên một bên nói sai về tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình... thì có coi là lừa dối không? Trường hợp trên không coi là lừa dối mà chỉ coi là nhầm lẫn, nếu sự nhầm lẫn không gây mẫu thuẫn vợ chồng, nếu có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án xử ly hôn chứ không thể xử hủy việc kết hôn trái pháp luật. Ngoài không có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối, sự tự nguyện trong kết hôn còn là không có kết hôn giả tạo. Sự tự nguyện thực sự của các bên nam nữ là điều kiện cần phải có khi kết hôn. Song sự tự nguyện của các bên phải nhằm đạt tới mục đích của việc kết hôn và cùng nhau chung sống xây dựng gia đình hạnh phúc lâu dài, dân chủ, hoà thuận. Nếu như nam nữ tự nguyện kết hôn nhưng không nhằm mục đích đó thì sự tự nguyện của họ cũng coi như không có giá trị pháp lý. Ví dụ: A yêu B, mong muốn kết hôn với B, B không yêu A và không mong muốn chung sống với A, những vì A có quốc tịch nước ngoài nên B đã đồng ý kết hôn với A chỉ nhằm mục đích có quốc tịch nước ngoài rồi sau đó ly hôn. Hoặc cả hai người thoả thuận kết hôn với nhau để nhằm mục đích nào đó rồi sau đó ly hôn khi đã thoả mãn được mục đích. ở trường hợp này, được coi là kết hôn giả tạo. Vì các bên nam nữ kết hôn nhưng không nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, Luật HN - GĐ năm 1986 không quy định cụ thể về vấn đề này nên gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng trên thực tế. Đến Luật HN - GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn. Theo khoản 2 Điều 4 Luật HN - GĐ năm 2000: "Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn, cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo, cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi". Việc quy định như vậy nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Nhưng vấn đề hôn nhân giả tạo lại không được quy định thành một điều kiện kết hôn. Như vậy cần có cách hiểu như thế nào về điều kiện kết hôn có bao gồm cả điều cấm kết hôn quy định tại Điều 4- Luật HN - GĐ năm 2000. iV Điều kiện về sức khoẻ của người kết hôn Sức khoẻ của người kết hôn là yếu tố quan trọng quyết định đến sự lành mạnh của giống nòi, thể lực, sức khoẻ của con cái đồng thời là yếu tố hết sức cần thiết để bảo vệ cũng như củng cố hạnh phúc gia đình. Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong mọi chế độ xã hội đều quy định những điều kiện cần thiết về sức khoẻ của người kết hôn. Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội, sự thay đổi về quan niệm và tâm lý chung của nhân dân, những bước tiến vượt bậc của y học mà điều kiện về sức khoẻ trong kết hôn được qui định ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Luật HN - GĐ năm 1959 quy định:" Những người sau đây không được kết hôn: bất lực hoàn toàn về sinh lý; mắc một bệnh trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi". Luật HN - GĐ năm 1986 quy định: " Người đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc mệnh hoa liễu thì không được kết hôn". Luật HN - GĐ năm 2000 quy định" Người mất năng lực hành vi dân sự thì không được kết hôn". Như vậy, Luật HN - GĐ năm 2000 đã có quy định rất mới về điều kiện sức khoẻ so với Luật HN - GĐ năm 1959 và Luật HN -GĐ năm 1986. Luật đã bỏ trường hợp người bị bệnh hoa liễu không được kết hôn, bởi vì xuất phát từ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, mặt khác với sự phát triển của y học trong vấn đề phòng bệnh, chữa bệnh thì bệnh hoa liễu là bệnh có thể chữa khỏi được. Đối với bệnh hủi, đây là bệnh lây chứ không phải bệnh di truyền, nếu những người này cách ly tốt thì không lây bệnh sang cho vợ (chồng) và con của họ. Do đó, Luật HN - GĐ năm 1986 và Luật HN - GĐ năm 2000 không cấm những người này kết hôn. Đối với người bất lực hoàn toàn về sinh lý, theo qui định của Luật HN - GĐ năm 1959 thì cấm họ không được kết hôn nhưng theo Luật HN - GĐ năm 1986 và Luật HN - GĐ năm 2000 thì họ được kết hôn. Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì trong xã hội ta hiện nay, có nhiều người có công với đất nước (như các thương bệnh binh) do hậu quả của chiến tranh nên bị mắc bệnh này. Nếu luật cấm kết hôn thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Đồng thời quan hệ hôn nhân là quan hệ tình cảm hết sức tế nhị. Trong quan hệ vợ chồng, quan hệ sinh lý có vai trò rất quan trọng nhưng chưa phải là vấn đề quan trọng nhất của hôn nhân. Mặt khác cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức pháp luật của nhân dân ngày càng được nâng cao, tự mỗi người sẽ quyết định có tham gia quan hệ hôn nhân hay không. Trong Luật HN - GĐ năm 1986 quy định " Người đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình thì không được kết hôn" thì đây là quy định căn cứ vào tình hình thực tế bệnh tật của người kết hôn, nghĩa là chỉ cần người đăng ký kết hôn mà bị bệnh tâm thần mà không có khả năng nhận thức hành vi của mình thì cơ quan có quyền thẩm quyền đăng ký kết hôn (cơ quan đăng ký kết hôn) sẽ không chấp nhận và không cho họ kết hôn. Đây là quy định cần thiết, phù hợp với quy luật tự nhiên của quan hệ hôn nhân đảm bảo hạnh phúc của vợ chồng. Trong trường hợp này, người bị bệnh không có khả năng tạo ra hạnh phúc cho vợ (hoặc chồng) của mình cũng như cho bản thân mình, không có khả năng gánh vác những quyền và nghĩa vụ do luật định, do đó họ không được kết hôn. Song thực tế ở nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau và một nguyên nhân chính đáng đó là hậu quả của chiến tranh mà họ mất khả năng nhận thức. Trong hoàn cảnh này, họ rất cần có người yêu thương chăm sóc và giúp đỡ trong cuộc sống. Nhà nước và xã hội cũng luôn quan tâm giúp đỡ làm giảm bớt phần nào những thiệt thòi mà họ phải gánh chịu. Vậy nếu có người yêu thương và sự gắn bó sâu sắc và tinh thần trách nhiệm sẵn sàng chia sẻ cuộc sống với họ tự nguyện gánh chịu những thiệt thòi của mình để bù đắp phần nào những tổn thất cho họ thì pháp luật có chấp nhận cuộc hôn nhân đó có hợp pháp không? Vấn đề này trong Luật HN - GĐ năm 1986 không nói cụ thể. Đây là vấn đề hết sức phức tạp liên quan đến vấn đề nhân đạo, đạo lý và tình cảm của con người Việt Nam. Theo chúng tôi, nên công nhận cuộc hôn nhân này, nếu người kết hôn có đủ năng lực hành vi hoàn toàn tự nguyện kết hôn với người mất năng lực hành vi (coi đây là trường đặc biệt). Điều đó hoàn toàn phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam và đồng thời cũng bảo đảm sự tôn trọng quyền tự do kết hôn của con người. Luật HN- GĐ năm 2000 quy định "người mất năng lực hành vi nhân sự" thì không được kết hôn. Theo Điều 24 Bộ Luật dân sự thì "khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền". Hiểu theo quy định của pháp luật dân sự thì một người chỉ coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của của Toà án có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa Toà án chỉ quyết định khi thoả mãn hai yếu tố: + Phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan; + Phải có kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền về tình trạng mất khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Vấn đề đặt ra là nếu một người trên thực tế bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình, nhưng không có quyết định của Toà án là mất năng lực hành vi dân sự, khi họ đi đăng ký kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn có đăng ký kết hôn cho họ không. Nếu hiểu theo luật dân sự thì cơ quan đăng ký kết hôn phải đăng ký kết hôn cho họ. Đây là vấn đề bất hợp lý vì người điên đi đăng ký kết hôn. Mặt khác thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự rất phức tạp và kéo dài do vậy mà ảnh hưởng đến quyền kết hôn của họ. Hơn nữa theo nghiên cứu khoa học thì có nhiều bệnh tâm thần khác nhau, mức độ ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi rất khác nhau do vậy để đánh gía vấn đề bệnh tâm thần rất phức tạp. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN - GĐ năm 2000 thì: "người mất năng lực hành vi là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự". Quy định này rất chung chung, không cụ thể dẫn đến những cách biểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất là căn cứ vào tình hình thực tế của người đăng ký kết hôn. Cách hiểu thứ hai là phải có một quyết định của Toà án có hiệu lực về mất năng lực hành vi dân sự của một người. Do vậy, vấn đề người mất năng lực hành vi dân sự cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để có cách hiểu thống nhất. Theo quan điểm của chúng tôi, vấn đề người mất năng lực hành vi dân sự không nhất thiết cứ phải căn cứ vào quyết định tuyên bố của Toà án có hiệu lực, mà chỉ cần có sự xác nhận của hàng xóm láng giềng và giấy khám sức khoẻ của bệnh viện, cơ quan y tế cấp có thẩm quyền là người đó mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì cơ quan đăng ký kết hôn không cho họ kết hôn. Một điều đáng quan tâm là quyền kết hôn của người nhiễm vi rút HIV/ AIDS. Theo Luật HN - GĐ năm 1986 thì không quy định: "người bị nhiễm HIV bị cấm kết hôn" nhưng trong Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (2/12/1993) tại Điều 6 quy định "Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn”. Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định tại Điều 5,6 và 7 của Luật HN- GĐ Việt Nam, không bị nhiễm HIV và được cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân xác nhận có đủ điều kiện kết hôn và việc kết hôn đó được pháp luật nước họ công nhận". Như vậy, việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài thì bên cạnh tuân theo các điều kiện kết hôn và cấm kết hôn mà còn thêm điều kiện họ không bị nhiễm HIV nếu việc kết hôn tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Quy định như vậy đã có sự phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài về điều kiện kết hôn. Mặt khác, quy định cấm người bị nhiễm HIV/ AIDS kết hôn có bảo đảm tính khả thi không, có đạt được mục đích ngăn chặn, phòng ngừa và giảm nguy cơ mắc bệnh hay không? Xung quanh vấn đề có nêu quy định cấm người bị nhiễm HIV/AIDS được kết hôn có một số vấn đề nảy sinh trong thực tế như sau: Thứ nhất: Đối với loại bệnh này bản thân người bị mắc bệnh cũng có khi không biết là mình bị nhiễm HIV hoặc đã bị nhiễm thì nhiễm từ lúc nào. Do không biết mình đã bị nhiễm HIV/AIDS nên họ có quan hệ với người khác, thậm chí đã kết hôn với người khác. Pháp luật chỉ có thể cấm người bị nhiễm HIV/AIDS kết hôn với người khác, nên họ không biết thì không thể coi là có lỗi được. Đây là đặc điểm riêng của quan hệ này. Nhiễm HIV ở người rất khó xác định và phát hiện vì thời gian ủ bệnh kéo dài từ 5 đên 10 năm. Người mắc bệnh chỉ biết khi thử máu để tìm kháng thể HIV. Do vậy, nếu pháp luật có quy định cấm người bị nhiễm HIV được kết hôn thì cũng chỉ là giải pháp có tính chất phòng ngừa chung mà thôi. Thứ hai: Theo Pháp lệnh về phòng chống nhiễm vi rút (HIV/AIDS) gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (30/5/1995) thì việc xét nghiệm tìm kháng thể HIV là hoàn toàn tự nguyện và không ai có thể bắt buộc người khác phải làm xét nghiệm trái với ý muốn của họ. Việc có đi xét nghiệm hay không là vấn đề có tính riêng tư và hoàn toàn thuộc quyền quyết định của mỗi người. Hơn nữa người bệnh có quyền giữ bí mật về tình trạng nhiễm bệnh của mình. Theo Nghị quyết số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn. nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài thì ở khoản 1 Điều 7 quy định: "Khi xin đăng ký kết hôn, mỗi bên phải làm tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định. - Kèm theo tờ khai có các giấy tờ sau đây: a. Bản sao giấy khai sinh. b. Giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước mà đương sự là công dân được cấp chưa qúa 3 tháng, xác nhận người đó hiện tại không có vợ hoặc không có chồng; c. Giấy xác nhận của tổ chức y tế được cấp chưa quá 3 tháng xác nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức độ không có khả năng nhận thức được hành vi của mình, không mắc bệnh hoa liễu, không bị nhiễm vi rút HIV". Quy định như vậy là chưa chặt chẽ. Trước hết, giấy xác nhận đó được cấp trong vòng 3 tháng trước ngày đăng ký kết hôn thì chỉ có thể xác nhận rằng trước ngày cấp giấy chứng nhận họ không bị nhiễm vi rút HIV, nhưng không thể chắc chắn rằng đến thời điểm kết hôn họ không bị nhiễm vi rút HIV. Do vậy, giấy xác nhận chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức, không thể coi là chứng cứ trực tiếp chứng minh về tình trạng không bị nhiễm HIV của người kết hôn. Mặt khác cần xem xét độ tin cậy của giấy chứng nhận đó như thế nào. Vì vậy, nếu yêu cầu các bên xuất trình giấy xác nhận không bị nhiễm HIV khi đăng ký kết hôn thì cũng chỉ mang tính chất hình thức mà thôi. Thứ ba: trong thực tế có thể xảy ra trường hợp là mặc dù biết rõ tình trạng nhiễm vi rút HIV của người kết hôn kia mà người kết hôn này vẫn tự nguyện và mong muốn kết hôn với người đó. Trong trường hợp này, người kết hôn có ý thức rất rõ về những gì mình làm. Họ tự chọn cho mình một phương pháp phòng bệnh thích hợp và tốt nhất, cách xử sự hay để đảm bảo hạnh phúc của gia đình. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Pháp lệnh phòng chống nhiễm vi rút HIV: " Người bị nhiễm HIV/AISD không bị phân biệt đối xử, được chăm sóc y tế, đối sử bình đẳng, được giúp đỡ kịp thời trong cuộc sống" Thứ tư: Mặc dù pháp luật có thể quy định cấm người bị nhiễm vi rút HIV/AISD được kết hôn nhưng lại không thể cấm họ có quan hệ với người khác. Do đó, người bị nhiễm HIV có thể không cần kết hôn nhưng vẫn có đầy đủ khả năng và điều kiện để truyền bệnh cho người khác một cách vô tình hay cố ý. Và như vậy hậu quả xấu vẫn không thể ngăn chặn được trong thực tế. Thứ năm: Việc ngăn cấm người bị nhiễm HIV được kết hôn trước hết có ý nghĩa và ảnh hưởng đến bản thân hai người kết hôn. Do đó mỗi người kết hôn đều có quyền được biết một cách cụ thể và trung thực về tình trạng sức khoẻ của người mà mình định kết hôn. Giải pháp hữu hiệu, đảm bảo độ tin cậy cao trong trường hợp này là cả hai bên đều đi xét nghiệm. Nhưng xét cho đến cùng, thì đó cũng là vấn đề hoàn toàn riêng tư của mỗi cá nhân, là quyền tự do của họ khi quyết định việc kết hôn. Từ những điều phân tích trên, việc cấm kết hôn đối với người bị nhiễm HIV trong Luật HN - GĐ là không cần thiết và nếu có qui định thì cũng không có tính khả thi trong thực tế. Và Luật HN - GĐ năm 2000 đã không cấm người bị nhiễm HIV được kết hôn trong một văn bản chung, tránh tình trạng phân biệt đối xử giữa người bị nhiễm HIV với người không bị nhiễm HIV, tránh tình trạng phân biệt giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Điều quan trọng hơn cả là tự bản thân mỗi người phải tự ý thức và có những phương pháp phòng bệnh thích hợp để bảo vệ sức khoẻ của chính mình, để xây dựng gia đình hạnh phúc. V Việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ họ hàng thân thuộc. Luật HN - GĐ năm 1959 tại Điều 9 quy định "Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ. Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi 5 đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán". Luật HN - GĐ năm 1986 quy định: "cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời". Luật HN - GĐ năm 2000 quy định "Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời". Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP ngày 20/1/1988; Luật HN - GĐ năm 2000 tại khoản 12, khoản13 - Điều 8; Nghị quyết số 02/2000/ NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 đều quy định: "Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ đối với con; ông bà đối với cháu nội và cháu ngoại. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba". Với những quy định trên, ta thấy Luật HN - GĐ năm 2000 đã quy định có sự chính xác hơn về ngôn ngữ. Bởi lẽ, nếu như Luật HN -GĐ năm 1959 đã đưa ra khái niệm anh chị em ruột quá hẹp (chỉ có anh chị em cùng cha mẹ), vì anh chị em ruột phải là anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha. Nếu quy định như Luật HN- GĐ năm 1986 thì có sự trùng lặp. Khi cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời thì đồng thời đã bao hàm cả quy định cấm kết hôn giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha rồi. Theo qui định tại Điều 9 - Luật HN -GĐ năm 1959 thì ngoài việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ thân thuộc về trực hệ, giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha thì “đối với những người khác có họ trong phạm vị 5 đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán”. Do qui định giải quyết theo phong tục tập quán nên giữa các địa phương không có sự thống nhất trong việc áp dụng điều kiện này. Song do thực tế lúc bấy giờ về quan hệ hôn nhân và gia đình nên Nhà nước ta qui định điều kết hôn có quan tâm và chiếu cố thích đáng đến phong tục tập quán của các địa phương. Đến Luật HN - GĐ năm 1986 và Luật HN - GĐ năm 2000 đều qui định “Cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời”. Như vậy, diện những người cấm kết hôn với nhau đã thu hẹp hơn, Luật không cấm những người có họ ở đời thứ 4 và đời thứ 5, song lại được áp dụng thống nhất trong cả nước. Từ việc nghiên cứu trên cơ sở khoa học hiện đại và từ việc điều tra khảo sát trên thực tế, các nhà khoa học đã kết luận rằng không được kết hôn giữa những người có mối quan hệ huyết thống. Nếu những người này mà có quan hệ hôn nhân với nhau thì con cái sinh ra thường mắc nhiều bệnh tật và những dị dạng, thậm chí còn chết ngay sau khi sinh. Tỉ lệ bệnh tật và tử vong càng cao khi quan hệ huyết thống giữa bố mẹ càng gần. Xét về phong tục tập quán, việc cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời phù hợp với tâm lý dân tộc, đảm bảo thuần phong mĩ tục, củng cố được mối quan hệ trong gia đình. Nếu như Luật HN- GĐ năm 1986 chỉ quy định "cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi" thì Luật HN - GĐ năm 2000 còn quy định thêm: "cấm kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng". Và Nghị quyết số 02/2000/ NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích quy định như sau:" Đối với trường hợp quy định tại điểm 4 - Điều 10 cần hiểu là ngoài việc kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi thì điều luật còn cấm kết hôn: - Giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; - Giữa người đã từng là bố chồng với con dâu; - Giữa người đã từng là mẹ vợ với con rể; - Giữa người đã từng là bố dượng với con riêng của vợ; - Giữa người đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng". Việc quy định như vậy, xuất phát từ vấn đề thuần phong mĩ tục, từ truyền thống dân tộc và đạo đức của người Việt Nam. Từ trước đến nay, quan hệ giữa cha mẹ với con rể, cha mẹ chồng với con dâu được coi như quan hệ giữa cha mẹ và con. Do vậy mà không thể có việc kết hôn giữa mẹ vợ với con rể, bố chồng với con dâu, nó hoàn toàn trái với phong tục tập quán và truyền thống đạo đức của người Việt Nam. Mặt khác, theo Điều 38 Luật HN - GĐ năm 2000: Bố dượng mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục con riêng cùng sống chung với mình. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình như nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau. Như vậy, mối quan hệ giữa bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng như quan hệ cha mẹ và con. Do đó không thể có quan hệ hôn nhân giữa họ. vI.Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Đây là trường hợp cấm kết hôn lần đầu được quy định trong Luật HN - GĐ năm 2000 so với các văn bản trước đây. Điều kiện này nêu ra để chống các hiện tượng đồng tính luyến ái - một thứ bệnh hoạn của xã hội mà nhiều quốc gia coi là tội phạm, nhưng cũng có quốc gia công nhận và đăng kí kết hôn cho hai người cùng giới tính là vợ chồng. Đây là một hiện tượng xã hội không những trái với thuần phong mĩ tục, đạo đức xã hội của Việt Nam mà còn trái với chức năng, sứ mệnh xã hội có thể nói là thiêng liêng của gia đình là duy trì nòi giống. Mặt khác, nó còn trái với hay nói một cách khác là không đúng với khái niệm kết hôn nêu tại Khoản 2 - Điều 8 - Luật HN- GĐ năm 2000: "Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Như vậy, với hai người cùng giới không thể nói là kết hôn mà chỉ là chung sống với nhau mà thôi. Do vậy, về ngôn ngữ chưa thật chính xác, song luật quy định như vậy để cho mọi ngươi dễ hiểu. Theo ý kiến chúng tôi thì luật quy định như vậy mặc dù trái với khái niệm kết hôn, song không thể tìm ra ngôn từ nào có thể nói được chính xác hơn. Nếu quy định: "Cấm người cùng giới tính chung sống với nhau" thì vô lý vì đây là một trong những quyền cơ bản của con người. vii. đăng ký kết hôn. Đăng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2375.doc
Tài liệu liên quan