Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 1999

Lời nói đầu Đại hội VI 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nhằm cụ thể hoá đường lối chung, ngày 21/12/1990 Quốc hội đã thông qua 2 đạo luật quan trọng là luật Doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty. Sự ra đời của 2 đạo luật này đã góp phần to lớn vào việc thể chế hoá nguyên tắc quyền tự do kinh doanh nhằm thiết lập những

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện pháp lý khung cho quá trình thành cơ chế thị trường nền kinh tế nước ta. Trong gần 10 năm tồn tại luật Doanh nghiệp tư nhân, luật công ty đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển thành phần kinh tế tư doanh, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh. Song hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, Luật Doanh nghiệp tư nhân đặc biệt Luật Công ty đã bộc lộ những bất cập thậm chí còn đang là những vật cản đối với quá trình phát triển của các hình thức biểu hiện tự do kinh doanh vào cuộc sống thực tiễn của cơ chế thị trường hiện đại. Vì lẽ đó dưới ánh sáng của nghị quyết hội nghị lần thứ IV và nghị quyết hội nghị lần thứ VI - BCH TW Đảng khoá VIII, luật Doanh nghiệp mới được soạn thảo và được Quốc hội khoá X thông qua ngày 12-06-1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000. Ngay từ những ngày đầu luật Doanh nghiệp đã được chào đón nồng nhiệt của mọi tầng lớp dân cư nói chung và của giới doanh nhân nói riêng. Những qui định mới của luật Doanh nghiệp đang thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực của nó trong giai đoạn cách mạng ngày nay, giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn đang tồn tại nảy sinh những mặt yếu kém, cần được khắc phục trong thực tiễn thi hành luật Doanh nghiệp. Sau khi học xong môn Luật kinh tế chuyên ngành em quyết định chọn đề tài “Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 1999". Đây là vấn đề rất mới mẻ, thời gian nghiên cứu không nhiều cùng với lượng kiến thức còn hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô trong Bộ môn để bài viết được hoàn thiện hơn. Nội dung I. Sự ra đời luật doanh nghiệp Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã thể hiện bước đột phá, đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta. Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân quy định các vấn đề pháp lý về tổ chức và hoạt động của hai loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là công ty (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần) và doanh nghiệp tư nhân. Qua gần 10 năm áp dụng, hai đạo luật này đã góp phần to lớn vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Những thành tựu mà hai đạo luật trên đem lại là không thể phủ nhận, song trong quá trình thi hành cũng dần xuất hiện các bất cập lớn cần phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời: (i) Thủ tục thành lập doanh nghiệp qua hai giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh đã tạo ra một quá trình “xin-cho” gây rất nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư. Đây chính là một bất cập lớn nhất làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, với những phiền hà không đáng có gần như là ở tất cả các giai đoạn của quá trình xin cho trên thực tế đã làm nản lòng bất cứ một nhà đầu tư nào; (ii) Các quy định về vốn pháp định, tức mức vốn tối thiểu mà các chủ đầu tư bắt buộc phải có khi muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân hay công ty, đã ngăn cản một số lượng đáng kể các chủ đầu tư tham gia vào hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp. Mặc dù, mục tiêu của các nhà lập pháp khi đặt ra quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của các chủ nợ, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững nhưng trên thực tế, quy định này đã có những tác dụng theo chiều hướng ngợc lại. Sự can thiệp một cách thái quá của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh không những không bảo vệ được lợi ích cho các chủ nợ, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế mà vô hình chung còn góp phần tạo nên những doanh nghiệp ma, nơi mà số vốn thực có thấp hơn vốn pháp định rất nhiều; (iii) Việc quy định một cách thiếu rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này trong 2 đạo luật trên cũng như trong văn bản luật chuyên ngành đã tạo ra một cơ chế quản lý Nhà nước “mạnh ai người nấy được”, không ai đứng ra chịu trách nhiệm khi có những khó khăn, vướng mắc cần được giải quyết; (iv) Bên cạnh đó, trong hơn 10 sau đổi mới, khung khổ pháp lý nói chung và khung khổ pháp lý về doanh nghiệp nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp và các Luật khác về doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp Nhà Nước, Luật Hợp tác xã đã được ban hành. Luật đầu tư nước ngoài cũng đợc sửa đổi bổ sung theo hướng thu hẹp sự khác biệt, tiến tới tiến trình hình thành một khung khổ pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia ASEAN, AFTA, APEC, kí kết hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và đang tiến hành đàm phán để gia nhập WTO. Với tính thời sự và tầm quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đề ra và quan tâm thực hiện, những quy định trong Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây tỏ ra không còn thích hợp với nội dung tương ứng của một số Luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Luật thương mại… Ngoài ra, cũng phải kể đến trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay đã đạt được mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trước đây. Chính sự phát triển đó đã tạo ra lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, nội dung đầy đủ bao quát hơn, phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng hoá hình thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Quan điểm chủ đạo xây dựng Luật doanh nghiệp là nhằm đạt được mục tiêu: “ giải phóng và phát triển mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khắc phục sự giảm sút của khu vực kinh tế này”. Để đạt được mục tiêu nói trên, Luật doanh nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở bám sát các tư tưởng chỉ đạo sau đây: Một là, Quán triệt đầy đủ tư tưởng, nội dung, tinh thần của Nghị quyết hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 khóa VIII về tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật. Hai là, Hiến pháp năm 1992, các Bộ Luật, Luật đã ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp. Ba là, Nội dung luật doanh nghiệp trước hết phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi, giải quyết những vướng mắc của đời sống kinh tế đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh nội lực. Bốn là, Kế thừa những kinh nghiệm quý báu đúc kết được trong quá trình thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cũng như học tập tham khảo kinh nghiệm của các nước để xây dựng Luật doanh nghiệp hiện đại góp phần thích nghi và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới. Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X ngày 12/6/1999, Luật doanh nghiệp đã được thông qua, đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng hơn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhằm “góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”. II. Những điểm mới của luật Doanh nghiệp Luật DN được ban hành xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế nhằm thay thế luật DNTN và luật Công ty ngày 21 tháng 12 năm 1990. Luật Doanh nghiệp ra đời vào ngày 12-6/1999 và có hiệu lực thi hành ngày tháng 1 năm 2000. Luật DN ra đời là cả một quá trình tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu thực tế, từ những sai lầm, thiếu sót trong công tác làm luật trước đây, từ những bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới. 1. Mục tiêu của Luật Doanh nghiệp Hoạt động của con người, theo Mác: Đó là hoạt động có ý thức bởi vậy trước khi thực hiện một hành vi, một công việc cón người luôn xác định cái mà mình mong muốn đạt được thông qua hành vi hay công việc đó. Mỗi một quy phạm pháp luật được ban hành ra nó trở thành khuôn mẫu, mực thước mang tính cưỡng chế đối với các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đó. Do đó quá trình ban hành văn bản pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ có như vậy sản phẩm tạo ra mới thực sự có hiệu quả nâng đỡ, bảo vệ các quan hệ xã hội được nó điều chỉnh, vì đặc trưng này của các quy phạm pháp luật, lên trước khi tiến hành soạn thảo, nhà làm luật phải luôn xác định muc tiêu cần đạt được của dự luật mà mình định ban hành, trên cơ sở muc tiêu đả được xác định, nó sẽ quyết định phương hướng ban hành văn bản pháp luật. Luật DN cũng không nằm ngoài quy luật trên, tư tưởng chỉ đạo của luật DN là nhằm đạt được các mục tiêu sau: Xuất phát từ thực tế nền kinh tế, kế thừa những bài học kinh nghiệm qua việc thi hành luật DNTN, luật Cty, nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển nền kinh tế thời gian tới. Luật DN cần phải cởi bỏ những hạn chế, kìm hãm đối nền kinh tế nói chung, đối các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, giải phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi thành phần, mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh kế tư nhân phát triển. Đây là mối quan hệ cơ bản trong một phương thức sản xuất, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng có tính quyết định đến tính chất,hình thức kiến trúc thượng tầng, song đến lượt nó, kiến trúc thượng tầng lại tác động ngược trở lại. Do đó mục đích đầu tiên mà luật DN hướng tới không phải là cái gì khác, mà chínhlà hiện thực của nền kinh tế và xu hướng tiến triển của các mối quan hệ kinh tế. Như chúng ta đã biết con người trong xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể cải tạo xã hội, vừa là mục tiêu của cải tạo, do đó trong đường lối chính sách của mình đảng luôn đặt vấn đề cón người lên vị chí hàng đầu, làm sao để mọi người trong xã hội đều có cơ hội phát huy mọi năng lực của mình để tạo ra của cải cho bản thân, cho gia dình và cho xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống người lao động. Luật DN cũng vậy với việc quy định những loại hình doanh nghiệp mới, đồng thờivới việc đơn giản hoá thủ tục hành chính, cùng với việc bãi bỏ các loại giấy phép không cần thiết là điều kiện để huy động tối đa nguôn lực trong xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. 2. Những nội dung mới được quy định trong luật Doanh Nghiệp . Luật DN đươc chia thành 10 chương và 124 điều. Quy định địa vị pháp lý của các loại hình DN: quyền, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức của mỗi loại hình đó... Luật DN là văn bản kế thừa và phát triển của hai đạo luật, luật DNTN, luật Cty nó không phủ định sạch trơn các chế định trong hai đạo luật này, trên cơ sở giữ lại những quy định phù hợp, sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp, đồng thời bãi bỏ những quy định đã lỗi thời, lạc hậu không đáp ứng dược yêu cầu nền kinh tế trong giai đoạn mới, giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. So với pháp luật kinh doanh trước đây luật Doanh Nghiệp có những nội dung mới cơ bản sau đây: 2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập. Trong thời gian qua do kế thừa tư duy quản lý kinh tế cũ: bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả, thủ tục nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung do đó tệ giấy tờ, quan liêu của một số cá bộ gây lên sự bất bình trong các tầng lớp nhân dân . Đại hội VIII đã nhấn mạnh vấn đề cải cách nền hành chính nước ta là nhiệm vụ bức thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, trong đó cải cách thủ tục hành chính được coi là trọng tâm, cốt lõi trong cải cách hành chính quốc gia . Để thực hiện Nghị Quyết trên, đồng thời đáp ứng những mong muốn thiết thực của giới kinh doanh, phù hợp với sự phát triển mới của nền kinh tế đất nước, phù hợp với thông lệ quốc tế, luật Doanh Nghiệp qui định bỏ giai đoạn xin giấy phép thành lập. Trước đây trong luật Công ty, luật DNTN qui định trước khi thành lập, người muốn lập doanh nghiệp phải gửi hồ sơ xin phép thành lập đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hồ sơ xin giấy phép phải bao gồm các dữ liệu về thân nhân người muốn thành lập, các điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh, phương án kinh doanh ... Trong một chừng mực nào đó việc qui định như vậy cũng có một ý nghĩa nhất định : giúp nhà nước có khả năng quản lý được các doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sắp được thành lập, nắm được qui mô cũng như lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho các nhà đầu tư khi góp vào công ty. Doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép thành lập phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh phải có phương án kinh doanh khả thi ... đây là bước nặng nề nhất đối với doanh nghiệp bởi vì với qui định như vậy, người muốn thành lập phải xin nhiều loại giấy tờ, chứng thực khác nhau. Lợi dụng sơ hở đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều loại giấy phép chuyên ngành, lĩnh vực mà mình quản lý tạo ra nhưng tiêu cực không đáng có trong xã hội, nạn cửa quyền,tham nhũng có đất tồn tại. Sau khi được cấp giấy phép thành lập, người muốn thành lập phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại sở Kế Hoạch-Đầu Tư, nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính. Việc quy định các cơ quan khác nhau cùng có thẩm quyền liên quan đến việc xem xét hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp, trong khi các cơ quan độc lập với nhau, chỉ xem xét phần việc của mình do đó thời gian hoàn thành việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh mất rất nhiều thời gian thường từ bốn đến sáu tháng, cùng với một khoản lệ phí không nhỏ. Xét về mặt quản lý trong giai đoạn ngày nay, khi mà Đảng và Nhà nước đang có chủ trương cải cách thủ tục hành chính, thì quy định như vậylà không hợp lý và đi ngược lại với đường lối, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng ngày nay. Xét về mặt hiệu quả, quy định như vậy không tạo ra hiệu quả trong công tác quản lý, vì có quá nhiều cơ quan tham gia vào cùng một vấn đề, trong khi đó khong có một cơ quan nào chịu trách nhiệm chính dẫn đến nhà nước rất khó quản lý một cách tập trung các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa quy định như vậy không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh bởi thủ tục quá rườm rà dẫn đến tốn kém thời gian, tiền của ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của nhà đầu tư. Xuất phát từ những lý do đó, luật DN quy định trình tự thành lập doanh nghiệp chỉ còn bước đăng ký kinh doanh, trong bước này, người muốn thành lập doanh nghiệp tiến hành lập hồ sơ gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền- phòng ĐKKD cấp tỉnh thuộc sở Kế hoạch - Đâu tư. Luật DN không chỉ bỏ bước xin phép thành lập, mà ngay trong bước ĐKKD luật quy định rõ ràng: cơ quan ĐKKD không được yêu cầu, đòi hỏi những giấy tờ khác ngoài những giấy tờ quy định trong luật DN bao gồm: đơn đăng ký kinh doanh; điều lệ đối công ty; tên chủ sở hữu đối DNTN, danh sách đối công ty; đối ngành nghề kinh doanh đòi hỏi có vốn pháp định thì phải có giấy tờ chứng thực nguồn vốn đó. Rõ ràng với việc quy định cụ thể các loại giấy tờ mà người muốn thành lập doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ của mình là một bước tiến trong cải cách thủ tục hành chính, tránh được hiện tượng các cơ quan nhà nước tuỳ tiện ban hành các loại giấy phép cón gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra với quy định như vậy thì trách nhiệm của nhà nước phần nào được giảm nhẹ, theo quy định tại khoản, điều 12 cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD, còn về các lĩnh vưc khác liên quan đến tình hình tài chính, hoạt động của các doanh nghiệp... thì buộc các nhà đầu tư phải tự tìm hiểu, nếu muốn cùng nhau hợp tác kinh doanh, điều này khác với trước đây, khi mà các doanh nghiệp thường thông qua sự xác nhận của nhà nước để đánh giá tình hình kinh doanh của các đối tác, bạn hàng từ đó xuất hiện tư tưởng dựa dẫm, trông chờ vào các cơ quan nhà nước dẫn đến tình trạng, thông tin thiếu chính xác, không cập nhập và còn là cơ sở phát sinh các tệ nạn trong quản lý hành chính nhà nước. Để việc tìm hiểu được dễ dàng, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết về các doanh nghiệp cho những đơn vị, cá nhân có yêu cầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm được bạn hàng phù hợp nhất với mình. 2.2. Luật Doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành nghề kinh doanh Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất quan trọng nhất để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh, hơn nữa vốn còn là bảo đảm về mặt tài chính của doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Do đó luật DNTN, luật Công ty quy định vốn pháp định là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để có thể thành lập doanh nghiệp. Điều này có nghĩa: vốn đầu tư ban đầu mà doanh nghiệp bỏ ra phải phù hợp với quy mô, ngành nghề dự định kinh doanh. Số vốn này không được thấp hơn số vốn tối thiểu mà pháp luật quy định, tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và loại hình doanh nghiệp, đây là mức bảo đảm tối thiểu về tài sản của doanh nghiệp đối với khách hàng. Tuy nhiên trong khi thi hành hai đạo luật này, thì quy định về mức vốn pháp định không còn phát huy được hiệu quả như ý nghĩa ban đầu của nó, tức thể hiện khả năng kinh tế của doanh nghiệp và đảm bảo khả năng thanh toán cho chủ nợ. Thực tế cho thấy cả hai ý nghĩa trên đều không được đảm bảo, vì nhà nước không quản lý được nguồn vốn của doanh nghiệp sau khi được thành lập, dẫn đến có doanh nghiệp khi làm hồ sơ thành lập đã đi vay mượn toàn bộ số vốn pháp định để đủ điều kiện khi thành lập nhưng sau đó lại rút toàn bộ số vốn để trả nợ, thực tế là doanh nghiệp được thành lập mà không có vốn, đây chính là sơ hở để các doanh nghiệp lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhau. Bên cạnh đó việc quy định về mức vốn pháp định đã tạo điều kiện cho hiện tượng cửa quyền, tham nhũng phát triển làm giảm lòng tin của nhân dân, doanh nghiệp vào các chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Vì vậy luật DN quy định: các doanh nghiệp ĐKKD hầu hết các ngành nghề đều không cần tuân thủ quy định về vốn pháp định, trừ một số ngành nghề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự thăng trầm nền kinh tế dẫn đến đòi hỏi cần có sự đảm bảo về mặt tài chính như: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán... quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp, vừa giảm bớt thủ tục hành chính, vừa nâng cao trách nhiệm của chính doanh nghiệp trước khi giao kết hợp đồng kinh tế . Nhưng một câu hỏi đặt ra: Làm sao có thể bảo vệ được lợi ích của các chủ nợ, khi bỏ các quy định về vốn pháp định? giải pháp cho câu hỏi này trước tiên ở phía các nhà kinh doanh, để đảm bảo quyền lợi của mình đòi hỏi mỗi doanh nhân trước khi ký kết hợp đồng với khách hàng đều phải xem xét kỹ lưỡng năng lực tài chính của khách hàng đó tránh trường hợp lừa đảo, gian lận trong kinh doanh .Về mặt pháp luật để giải quyết vấn đề này trong luật Doanh Nghiệp đã quy định một loạt các nguyên tắc và nghĩa vụ của DN đối với vốn và tài sản. Với các loại hình công ty luật quy định: DN chỉ được giảm vốn điều lệ, thanh toán phần vốn góp hoặc cổ phần được mua lại, chia lợi nhuận, trả cổ tức,... Khi mà doanh nghiệp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các nghĩa vụ tài sản khác. Ngoài ra luật còn quy định các biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi các chủ nợ: Tài sản góp vốn nếu không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì phải được định giá và được thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Trong trường hợp định giá cao hơn so với giá trị tài sản tại thời điểm góp vốn, thì người góp vốn và người định giá phải góp đủ số vốn như trong biên bản định giá, nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có bằng chứng cho rằng tài sản đã được định giá sai so với giá trị thực của nó thì có quyền yêu cầu cơ quan ĐKKD buộc người định giá phải định giá lại giá trị tài sản góp vốn. Sở dĩ phải quy định như vậy, vì với các loại hình doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ trên tài sản hiện có của doanh nghiệp, thì việc định giá cao hơn giá trị thực của tài sản dễ làm cho khách hàng lầm tưởng khả năng thanh toán của doanh nghiệp dẫn đến ký kết hợp đồng, song thực tế tài sản của doanh nghiệp lại không đủ để bảo đảm khoản nợ đối khách hàng, đặc biệt khi doanh nghiệp bị phá sản khách hàng có thể mất một khoản tiền nào đó ứng với phần tài sản bị định giá sai. Đối loại hình Cty TNHH hai thành viên trở lên luật DN quy định, nếu không góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn đó được coi là nợ của thành viên đối công ty và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Bản thân người đại diện theo pháp luật còn phải báo cáo về trường hợp nói trên cho cơ quan ĐKKD trong thời hạn nhất định, kể từ thời điểm cam kết góp vốn, sau thời hạn này mà khong thông báo bằng văn bản đến cơ quan ĐKKD, thì người đại diện theo pháp luật của công ty phải liên đới chịu trách nhiệm cùng với thành viên chưa góp đủ vốn về phần vốnchưa góp và thiệt hại phát sinh do số vốn đó gây ra. Quy định như vậycũng do xuất phát từ bản chất của loại hình Cty TNHH tức chỉ chịu trách nhiệm công nợ công ty trên cơ sở phần vốn góp, do đó số vốn thiếu của thành viên được chuyển sang nợ, tương đương một khoản tài sản mà công ty có, do vậy chủ nợ yên tâm hơn mặc dù tài sản đó không thực có tại Cty. Ngoài những nguyên tắc trên, để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư luật còn quy định chế độ hậu kiểm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối các doanh nghiệp thông qua chế độ thanh tra và kiểm tra, điều này khong những giúp cơ quan nhà nước tình hình các doanh nghiệp, mà còn có tác dụng cung cấp các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn khả dụng của các doanh nghiệp cho các khách hàng có nhu cầu. 2.3. Luật Doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một loại hình doanh nghiệp mới lần đầu tiên được đưa vào nước ta mặc dù nó đã được luật hoá từ lâu trên thế giới. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của giới kinh doanh, một số người trong số họ có vốn và đầu tư vào kinh doanh, song họ không muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân bởi tính rủi ro quá cao của nó, do DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, song họ cũng không muốn góp vốn vào công ty do không muốn chia sẻ quyền chủ động trong kinh doanh cũng như những khoản lợi mà doanh nghiệp có thể thu được. Trong thực tế những năm qua mặc dù pháp luật không quy định loại hình doanh nghiệp này nhưng lại mặc nhiên cho nó tồn tại dưới một số hình thức và tên gọi khác như: DNNN do nhà nước làm chủ sở hữu duy nhất, doanh nghiệp của các tổ chức trính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngoài ra còn tồn tai một thực tế là, hiện nay có nhiều công ty TNHH được thành lập và đang hoạt động trên danh nghĩa hai thành viên trở lên nhưng thực chất là công ty TNHH một thành viên, bởi các thành viên góp vốn có thể là vợ, chồng hoặc anh em bạn bè nhờ đứng tên cho đủ điều kiện đang ký kinh doanh theo quy định của pháp luật . Từ nhu cầu và thực tế đó cùng với việc xem xét kinh nghiệm các nước trên thế giới, luật DN đã đưu vào loại hình công ty TNHH một thành viên . Tại điều 46 luật DN quy định "công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu ,chủ sở hữu chịu trách nhiệm về công nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của công ty". Như vậy theo luật DN thì chỉ có các tổ chức mới đươc phép thành lập công ty TNHH một thành viên, đây là điểm khác biệt giữa pháp luật nước ta với pháp luật các nứơc trên thế giới và khác biệt với luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam. Điều khác biệt cơ bản công ty TNHH một thành viên với DNTN là ở việc quy định trách nhiệm của chủ sở hữu đối nghĩa vụ và các khoản nợ của doanh nghiệp, và đây cũng chính là yếu tố tạo lên ưu điểm của công ty TNHH một thành viên so với DNTN; việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn góp của công ty được thực hiện một cách dễ dàng, khác với loại hình DNTN chủ sở hữu chỉ được cho thuê hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp cho người khác. Công ty TNHH chuyển sang hoạt động theo cơ chế của công ty TNHH hai thành viên trở lên khi một phần vốn được chuyển nhượng cho người khác. Cũng như DNTN, công ty TNHH một thành viên không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào ra công chúng để huy động vốn. Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh . 2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh. Trên thế giới từ lâu đã tồn tại hai loại công ty: công ty đối nhân, công ty đối vốn. Việc chia làm hai loại hình công ty là căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp. Cty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, vốn là nhân tố thứ yếu. Đặc điểm cơ bản nhất của công ty đối nhân là: không có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản công ty và tài sản thành viên, các thanh viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ của công ty hoăc it nhât phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ đó. Hiện nay cty Đối nhân tồn tại dưói hai dạng cơ bản: công ty Hợp Danh và công ty Hợp Vốn Đơn Giản . Công ty Hợp Danh là công ty mà trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới cùng một doanh nghiệp và cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty. Vì tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên phải có sự hiểu biết rõ về thân nhân cũng như trình độ, chuyên môn và khả năng tài chính của nhau. Công ty Hợp Danh được thành lập khi có ít nhất hai thành viên thoả thuận với nhau trên cơ sở hợp đồng thành lập công ty. Chủ nợ có thể yêu cầu bất cứ thành viên nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với mình và thành viên đó không được quyền từ chối ,song có quyền yêu cầu các thành viên còn lại bồi hoàn.. Trong công ty hợp Danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân thành viên, sự chuyển dịch từ tài sản chung sang tài sản riêng được thực hiện một cách dễ dàngvà rất khó kiểm soát. Đối với công ty hợp vốn đơn giản thì ngoài thành viên hợp danh còn có thành viên góp vốn, cũng giống như công ty Hợp Danh, thành viên hợp danh của công ty Hợp Vốn Dơn Giản cũng phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty, còn thành góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trên phần vốn mà họ đóng góp. Như vậy, so với công ty Hợp Danh công ty Hợp Vốn Đơn Giản có khả năng thu hút được nguồn vốn lơn hơn, và rủi ro của các thành viên hợp danh cũng phần nào được san sẻ cho các thành viên góp vốn, vì thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ của công ty trên phần vốn mà họ đóng góp, do đó họ bị hạn chế quyền điều hành và quản lý công ty, cụ thể :họ không có quyền đại diện công ty trong các quan hệ đối ngoại, cũng như không có quyền tham gia biểu quyết trong các cuộc họp của công ty. Thực tế ở nước ta trong thời gian qua có một bộ phận dân cư có tiền, muón tham gia kinh doanh, nhưng họ không muốn góp vốn vào công ty cổ phần vì loại hình này chưa phát triển, và không phù hợp với tâm lý cộng đồng của người Việt Nam, hơn nữa thị trường chứng khoán ở nước ta chưa đi vào hoạt động. Đối với công ty TNHH thì qui định quá chặt chẽ về đối tượng tham gia thành lập công ty, đồng thời do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, nên nó không tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng đặc biệt là những dịch vụ mà hậu quả của nó có thể xảy ra rất nghiêm trọng như: dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn xây dựng ... Trong khi đó họ không muốn một mình gánh chịu rủi ro dưới hình thức DNTN, vì như vậy có thể dẫn tới sự khánh kiệt gia tài của họ . Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở luật Khuyến Khích Đầu Tư Tong Nước và chủ trương thu hút mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế. Luật DN đã qui định một loại hình doanh nghiệp mới đó là công ty hợp doanh. Công ty Hợp Doanh theo luật DN ngày 12/6/1999 nó không giống với loại hình công ty HD truyền thống của các nước trên thế giới, mà nó là sự hoà trộn giữa hai loại hình công ty HD và công ty hợp vốn đơn giản, tức là vừa có các thành viên hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ công ty, lại vừa có các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về công nợ công ty trên phần vốn mà mình đã góp. Việc qui định loại hình công ty HD trong luật DN là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở nước ta, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của giới kinh doanh mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, là loại hình doanh nghiệp phù hợp nhất đối với các ngành nghề đòi hỏi trách nhiệm cao của cá nhân với chất lượng của dịch vụ mà mình cung ứng . Trên đây là những nội dung mới, cơ bản mà luật DN đã đưa ra, ngoài ra luật DN còn qui định mới về đối tượng được quyền tham gia thành lập, quản lý và góp vốn vào các doanh nghiệp nhằm bảo đảm tnhs thống nhất giữa luật DN với các văn bản pháp luật khác như: Bộ Luật Dân Sự, luật Thương Mại, pháp lệnh Công Chức ... đồng thời góp phần phát huy tối đa mọi nguồn lực hiện có trong xã hội vào đầu tư và phát triển sản xuất, thúc đẩy mọi người làm giàu hợp pháp bằng tài năng và nguồn vốn của mình. Luật DN qui định mọi người đều được quyền quản lý và thành lập doanh nghiệp chỉ trừ các đối tượng sau: cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV185.doc
Tài liệu liên quan