Những cơ hội đối với hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam và giải pháp để cơ hội

LỜI NÓI ĐẦU Trong thế giới hiện nay, xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu, có tính biện chứng của các nền kinh tế cá thể, đơn lẻ đã phát triển đến một trình độ nhất định. Xu thế này là không thể tránh khỏi và cũng không nên né tránh. Quan hệ kinh tế quốc tế và thương mại quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng. Đối với Việt Nam, câu hỏi có nên hội nhập không? Hội nhập ở mức độ nào giờ đây đã không còn mang tính thời sự nữa. Sau sự kiện Việt

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những cơ hội đối với hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam và giải pháp để cơ hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề quan tâm hàng đầu hiện nay là khi hội nhập, khi tham gia thương mại quốc tế, Việt Nam sẽ đối mặt với những cơ hội và thách thức gì? Và giải pháp để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đảm bảo phát triển bền vững ra sao? Xuất phát từ ý tưởng đó, cộng với sự tìm hiểu thực tiễn sinh động bằng các phương pháp khoa học, tác giả bài viết đã lựa chọn đề tài : “Những cơ hội đối với hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam và giải pháp để khai thác cơ hội”. Với mục đích của nghiên cứu của tác giả, phạm vi đề tài chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu cán cân xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (chủ yếu là xuất khẩu) của Việt Nam, trong đó tập trung vào những ngành hàng mà theo tác giả là có lợi thế của Việt Nam so với các nước khác trong tương quan thương mại quốc tế. Kết cấu của đề tài, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, nội dung chính của đề tài bao gồm: Chương I: Lý thuyết về hoạt động thương mại quốc tế và cơ hội trong hoạt động thưong mại quốc tế. Chương II: Hoạt động thương mại quốc tế và cơ hội của Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu khai thác cơ hội trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam. Do trình độ nghiên cứu hạn chế, đề tài này chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải góp ý, sửa đổi, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Tác giả xin chân thành cám ơn thầy giáo, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng đã giúp tác giả hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG II LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CƠ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ I.THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ: 1. Cơ sở ra đời, tồn tại và phát triển của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế xuất hiện từ hàng ngàn năm nay do yêu cầu tất yếu của việc giao lưu quốc tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất vượt ra ngoài phạm vi biên giới của một quốc gia. Việc hình thành và phát triển của thương mại quốc tế dựa trên những cơ sở lý thuyết và thực tiễn nhất định. Ban đầu, chủ yếu và trước hết là do thực tiễn đòi hỏi, người ta tổ chức và triển khai các quan hệ thương mại quốc tế một cách tự phát. Càng về sau này, việc phát triển các quan hệ thương mại quốc tế đòi hỏi một cơ sở lý luận vững chắc với sự chứng minh về những lợi ích đem lại từ thương mại quốc tế cũng như các hoạt động kinh tế quốc tế khác. Các học thuyết quốc tế đề cập đến nguồn gốc thương mại quốc tế bao gồm chủ nghĩa trọng thương, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, lý thuyết lợi thế tương đối của Davi Ricardo, lý thuyết về sự cân bằng giữa các yếu tố sản xuất của Heckscher – Ohlin, các lý thuyết hiện đại về chu kì sống quốc tế của sản phẩm, về hiệu suất theo quy mô, về làn sóng công nghệ... Thương mại quốc tế ra đời là một tất yếu khách quan của thực tiễn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong hệ thống phân công lao động quốc tế: - Ban đầu, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia như đất đai, khi hậu, khoáng sản... đưa đến tình trạng mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một số loại sản phẩm nào đó và họ phải trao đổi cho nhau nhằm cân bằng phần dư thừa về sản phẩm này với sự thiếu hụt về loại sản phẩm khác. - Tiếp theo, do sự phát triển không đồng đều về kinh tế và khoa học - kỹ thuật giữa các quốc gia đưa đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất giữa chúng, thí dụ khác nhau về nguồn vốn, về trình độ kỹ thuật, về bí quyết công nghệ, về nguồn nhân lực và cả trình độ quản lý... Điều đó đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế sang các yếu tố nói trên: di chuyển về vốn, về sức lao động, về công nghệ... Khi ấy đối tượng tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng hơn nhiều. - Quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến phân công lao động. Sự phân công này dần dần vượt ra ngoài biên giới quốc gia, đưa đến sự chuyên môn hóa và sự hợp tác hóa lẫn nhau giữa các công ty thuộc các quốc gia khác nhau. Điều đó càng làm mở rộng đối tượng và phạm vi trao đổi quốc tế sang các bán thành phẩm, nguyên liệu, chi tiết sản phẩm. - Đặc biệt, xuất hiện một yêu cầu khách quan là cần phải tiến hành chuyên môn hóa giữa các quốc gia nhằm đạt tới quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Điều này có nghĩa là, không phải mỗi nước đều tự mình sản xuất mọi thứ hàng hóa để đáp ứng cho nhu cầu của mình kể cả trường hợp họ có đầy đủ nguồn lực để làm điều đó. Trái lại, chính dung lượng của thị trường thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia phải biết tập trung vào một số ngành và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu. Thí dụ như ngành chế tạo máy bay chở khách đòi hỏi và cho phép chỉ nên tập trung chuyên môn hóa một số hãng nhất định, không thể dàn trải ra nhiều quốc gia được. Đây cũng là một căn cứ quan trọng để thương mại quốc tế ngày càng phát triển về bề sâu. - Sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia là một cơ sở quan trọng của việc phát triển các quan hệ thương mại quốc tế. Khi đời sống kinh tế ngày càng phong phú thì người tiêu dùng tìm đến các mặt hàng phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của họ. Chính điều này giải thích nguồn gốc về quy mô trao đổi thương mại hết sức lớn giữa các nước công nghiệp phát triển (khoảng 70% tổng kim ngạch thương mại quốc tế). Như vậy cơ sở của sự phát triển thương mại quốc tế không chỉ là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, về trình độ phát triển, về các nguồn lực sẵn có giữa các quốc gia mà còn ở sự đa dạng hóa về nhu cầu, ở sự ưu việt về chuyên môn hóa, hợp tác hóa và ưu thế của quy mô tối ưu trong sự phân công lao động quốc tế. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế ngày càng rộng, tính chất của chúng ngày càng phức tạp, trình độ phát triển của chúng ngày càng cao; quan hệ giữa các quốc gia ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, sự phân công lao động diễn ra ở tầm quốc tế, các doanh nghiệp tìm cách mở rộng thị trường ra bên ngoài, trên cơ sở đó đưa thương mại quốc tế lên một tầm cao mới. 2. Thương mại quốc tế: 2.1. Khái niệm Có nhiều cách tiếp cận thuật ngữ “thương mại quốc tế”: Luật Thương mại (1995) CHXHCNVN: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hội”. Luật Thương mại (Điều 3, khoản 1) năm 2005 đưa khái niệm: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Theo UNCITRAL “Khái niệm thương mại cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hàn đối với các giao dịch sau đây: bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li-xăng, đầu tư, nhân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”. Các khái niệm khác: “Thương mại là hoạt động mua bán các hàng hóa hữu hình và vô hình”. Nhìn chung, các khái niệm tuy có khác nhau về phạm vi nội dung nhưng đều nêu được bản chất thương mại là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, trong đó khái niệm của UNITRAL là cụ thể và đầy đủ nhất. Thương mại quốc tế là việc trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt ra ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá. Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Sở dĩ thương mại quốc tế có vai trò quan trọng như vậy bởi vì kết quả của các quan hệ kinh tế quốc tế khác cuối cùng được thể hiện tập trung trong thương mại quốc tế và quan hệ hàng hóa - tiền tệ vẫn là quan hệ phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao gồm: - Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng...). Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. - Xuất và nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết bị kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác...). Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. - Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công: Gia công quốc tế là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tuỳ theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kì gia công thường rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là một bộ phận trong hoạt động ngoại thương. - Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành nhập khẩu sang một nước thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản... - Xuất khẩu tại chỗ: Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, cho khách du lịch quốc tế... Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ. 2.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế: Việc làm rõ những đặc điểm cơ bản của thương mại quốc tế giúp cho việc xác định rõ hơn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của thương mại quốc tế. Một là, thương mại quốc tế là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện giữa các quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Nó chỉ có thể phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi thông qua các hợp đồng kinh tế với sự chấp nhận của các bên. Có thể phát triển thương mại quốc tế giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau nếu biết đáp ứng và khai thác nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhau, đảm bảo sự cân bằng lợi ích và giữ vững chủ quyền của các bên. Hai là, thương mại quốc tế diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế cho nên cần tôn trọng và vận dụng thành thạo các quy luật này ( ví dụ quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.. ) để phát triển thương mại quốc tế. Quyền lợi quốc gia và quyền lợi dân tộc chỉ có thể được xử lý một cách hài hòa và phù hợp trên cơ sở vận dụng đúng đắn yêu cầu của các quy luật thị trường. Ba là, thương mại quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý khác nhau, của các chính sách, luật pháp, thể chế của từng quốc gia cũng như của các điều ước quốc tế. Khi tổ chức các hoạt động thương mại quốc tế, tất yếu diễn ra sự gặp gỡ, va chạm giữa các hệ thống quản lý cũng như giữa các chính sách, luật pháp và thể chế của từng quốc gia. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là một mặt phải thực hiện đúng các yêu cầu của luật pháp và chính sách trong nước, mặt khác cũng phải biết tôn trọng và vận dụng phù hợp với yêu cầu của luật pháp và chính sách của các quốc gia có liên quan. Chính vì vậy, việc am hiểu luật pháp của nước mình và cả của quốc gia có liên quan là hết sức cần thiết, đồng thời cần phải từng bước nâng cao tính tương thích giữa hệ thống luật pháp trong nước với luật pháp và thông lệ quốc tế. Việc tích cực đóng góp vào xây dựng các điều ước quốc tế là một yêu cầu quan trọng trong việc phát triển các quan hệ thương mại quốc tế. Bốn là, thương mại quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và chuyển đổi giữa các loại đồng tiền. Sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong một quốc gia được mở rộng ra phạm vi quốc tế. Quan hệ tiền tệ quốc tế vừa là phương tiện phục vụ cho việc phát triển các quan hệ thương mại quốc tế nói chung, vừa tuân theo quy luật vận động riêng của thị trường tiền tệ quốc tế. Bởi vậy, vấn đề tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế và việc quản lý ngoại hối trở thành những nội dung quan trọng trong quá trình phát triển các quan hệ thương mại quốc tế. Trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, khủng hoảng tài chính - tiền tệ trở thành vấn đề đáng quan tâm trong chính sách của các chính phủ cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế. Năm là, các khoảng cách về không gian - địa lý tác động trực tiếp đến quá trình phát triển các quan hệ thương mại quốc tế vì nó ảnh hưởng đến thời gian và chi phí vận tải. Những điều này ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tổ chức, triển khai các hoạt động thương mại quốc tế, từ khâu nghiên cứu thử nghiệm đến khâu sản xuất và tiêu thụ. Bởi vậy, vấn đề về khoảng cách không gian - địa lý cần phải được chú ý thoả đáng khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiến hành chuyên môn hóa và hợp tác hóa, tổ chức hoạt động đầu tư cũng như xâm nhập thị trường. Trong điều kiện hiện nay, thương mại quốc tế còn có thêm một số đặc điểm mang tính chất thời sự sau: Một là, quy mô thương mại mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu (Tổng kim ngạch của thế giới về hàng hóa và dịch vụ đạt khoảng 10.000 tỷ USD (2004), số lượng, chủng loại mặt hàng, dịch vụ đa dạng, thương mại điện tử phát triển mạnh). Hai là, phạm vi thương mại được mở rộng trên toàn cầu với khoang 6 tỷ người (WTO chiếm 95% thương mại toàn cầu), tạo lợi thế theo quy mô và có khả năng thu lợi rất lớn. Ba là, cạnh tranh thương mại diễn ra gay gắt (giá cả, chất lượng, dịch vụ, kiểu dáng, hậu mãi...), bảo hộ thương mại tinh vi (rào cản kỹ thuật, thương hiệu, chống bán phá giá, tìn báo kinh doanh, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ...) Bốn là, tự do hóa thương mại là xu hướng vận động cơ bản của thương mại thể hiện ở quá trình giảm thiểu và nới lỏng dần các rào cản thương mại để đạt tới một nền thương mại tự do, minh bạch và công bằng. Năm là, các nguyên tắc tự do hóa thương mại (WTO) trở nên hết sức chặt chẽ. Như vậy, việc xem xét và nghiên cứu những đặc điểm trên, nhất là năm đặc điểm sau cùng là rất quan trọng, có ý nghĩa sống còn, quyết định thành bại trong hoạt động thương mại quốc tế của các quốc gia và các tổ chức kinh tế. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại quốc tế: - Điều kiện tự nhiên. - Trình độ phát triển kinh tế. - Hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế, tập quán và cam kết quốc tế. - Hệ thống chính trị. - Lợi thế so sánh quốc gia. - Các nguồn lực phát triển. - Chính sách tài chính - tiền tệ. - Trình độ nghiệp vụ và kỹ năng của đội ngũ cán bộ. - Tình trạng cạnh tranh và khả năng cạnh tranh quốc gia... 2.4.Vai trò của thương mại quốc tế: - Đem lai sự thay đổi to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội. - Giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn hiệu quả. Qua đó nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng khối lượng. số lượng, tỷ trọng những ngành sản xuất các mặt hàng mà quốc gia có ưu thế, giảm các ngành không có ưu thế. Qua đó đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa, giúp cho việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực của đất nước một cách tối ưu nhất. - Đem lại nguồn thu đáng kể cho đất nước từ xuất khẩu và các dịch vụ thương mại, cho ngân sách Nhà nước từ thuế, cho các bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. - Nâng cao năng lực kinh doanh của các công ty. Hình thành nên một thế hệ doanh nhân cũng như một thế hệ nguời lao động mới với những phẩm chất vượt trội đáp ứng được yêu cầu của thời đại. - Tiếp thu được những thành tựu kinh tế, khoa học - công nghệ của thế giới, giúp cho quá trình đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế đất nước. - Làm thị trường hàng hóa trong nước phong phú, giá cả cạnh tranh đem lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng và xã hội. .... II. CƠ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG M ẠI QUỐC TẾ 1. Khái niệm cơ hội: Cơ hội có thể được hiểu tương đương như thuật ngữ “khả năng tốt” trong triết học. Do vậy có thể hiểu cơ hội là cái “tốt đẹp” (tốt đẹp theo cách hiểu, theo mong muốn của chủ thể tiếp nhận) hiện chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Điều kiện thích hợp ở đây bao gồm điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế, cơ hội không chỉ hoàn toàn là khả năng tốt. Nó chỉ là khả năng tốt khi ta biết tận dụng và biến nó thành hiện thực, nếu để các đối thủ khác tận dụng được thì nó lại trở thành khả năng xấu. Để có thể nhận biết được cơ hội, chúng ta phải nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn trong việc tìm ra những cơ hội trong thương mại quốc tế. Muốn thấy được cơ hội trong thương mại quốc tế, phải hiểu được bản chất của thương mại quốc tế cũng như phải nhận thức được vị trí, khả năng của mình trong hệ thống thương mại đó. Một trong những cơ sở giúp cho việc nhận thức là các lý thuyết thương mại quốc tế. 2. Các lý thuyết thương mại quốc tế: 2.1. Lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế: * Chủ nghĩa trọng thương: Quan điểm cơ bản là coi sự giàu có của một quốc gia thể hiện ở khối lượng vàng và kim khí tích lũy được. Một quốc gia nên coi trọng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, Chính phủ cần đóng vai trò quan trọng để đạt được các mục tiêu bằng các rào cản, biện pháp và quy định. Quan điểm này có ưu điểm là sớm nhận thức được tầm quan trọng của thương mại và vai trò của Nhà nước trong điều tiết hoạt động thương mại. Tuy nhiên nó cũng chứa đựng rất nhiều hạn chế, chẳng hạn việc coi vàng bạc là hình thức của cải duy nhất của các quốc gia, đánh đồng mức cung ứng tiền tệ cao với sự thịnh vượng của quốc gia, nhìn nhận thương mại quốc tế như một trò chơi có tổng lợi ích bằng không (tức là chỉ một bên có lợi mà thôi), là những quan điểm hoàn toàn sai lầm. * Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Adam Smith cho rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc gia, và chính phủ nên thực hiện chính sách “không can thiệp” vào hoạt động thương mại quốc tế nói riêng, và các hoạt động kinh tế nói chung. Ông cho rằng thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực thế giới có hiệu quả hơn, từ đó tạo ra lợi ích cho từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán ; một quốc gia nên xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối (chi phí sản xuất thấp hơn tuyệt đối so với quốc gia khác, chi phí sản xuất được tính bằng hao phí lao động, chưa tính vốn, khoa học – công nghệ, thương hiệu...) * Lý thuyết lợi thế so sánh của Davi Ricardo: Tư tưởng chính của lý thuyết này là một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể tham gia vào thương mại nếu dựa vào lợi thế so sánh. Mặt hàng có lợi thế so sánh là mặt hàng có chi phí sản xuất thấp hơn tương đối so với các mặt hàng khác. Nhìn chung, có thể thấy các lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối đều nhấn mạnh yếu tố cung, coi quá trình sản xuất trong mỗi nước là yếu tố quy định thương mại quốc tế. Trong các lý thuyết này giá cả từng mặt hàng không được biểu thị bằng tiền, mà được tính bằng số lượng hàng hóa khác, và thương mại giữa các nước được thực hiện theo phương thức hàng đổi hàng. Những giả định này khiến cho sự phân tích trở nên đơn giản hơn nhưng đồng thời vẫn giúp chỉ ra được nguồn gốc sâu xa của thương mại quốc tế. Về mặt chính sách, các học giả cổ điển cho rằng thương mại tự do là công cụ để mỗi nước cũng như thế giới nói chung, gia tăng sự thịnh vượng. Sự can thiệp của Nhà nước chỉ dẫn đến làm giảm lợi ích tiềm năng từ thương mại. Quá trình chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi chỉ có thể đem lại lợi ích tối đa nếu như nguồn lực được di chuyển trong phạm vi quốc gia Theo đánh giá của các nhà kinh tế, hạn chế cơ bản nhất của lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế là ở chỗ nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết về giá trị lao động, theo đó lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và đồng nhất trong tất cả các ngành sản xuất. Do tính chất phi thực tế của học thuyết về giá trị lao động cho nên lý thuyết lợi thế so sánh có nguy cơ bị bác bỏ. Tuy nhiên, vào năm 1936, G. Haberler đã trình bày lại lý thuyết này trên cơ sở vận dụng lý thuyết chi phí cơ hội. * Lý thuyết chi phí cơ hội: Theo Haberler, chi phí cơ hội của mặt hàng X là số lượng mặt hàng Y cần được cắt giảm để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa X. Trong hai quốc gia thì quốc gia nào có chi phí cơ hội của X thấp hơn thì sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng này. Về thực chất chi phí cơ hội chỉ là cách phát biểu khác của giá cả hàng hóa tương quan. * Lý thuyết Heckscher-Ohlin: Định lý H-O phát biểu “Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào ở quốc gia đó. Dựa trên lý thuyết H-O thì có thể hình dung rằng những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ là những nước xuất khẩu chúng trên thị trường. Chẳng hạn như Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nông sản, các mặt hàng sử dụng nhiều lao động... Ngoài định lý H-O, lý thuyết H-O còn có một số mệnh đề bổ sung khác liên quan đến mối liên hệ giữa mức độ trang bị các yếu tố, thương mại quốc tế, giá cả hàng hóa và giá cả các yếu tố, tác động của sự gia tăng mức cung các yếu tố, và vấn đề phân phối thu nhập: - Định lý cân bằng các yếu tố sản xuất: Thương mại tự do sẽ làm cho giá cả các yếu tố sản xuất có xu hướng trở nên cân bằng, và nếu hai quốc gia tiếp tục sản xuất cả hai mặt hàng (tức thực hiện chuyên môn hóa không hoàn toàn) thì giá cả các yếu tố sẽ thực sự trở nên cân bằng. - Định lý Rybezynski: Tại mức giá hàng hóa tương quan không đổi thì sự gia tăng mức cung của một yếu tố sản xuất sẽ làm tăng sản lượng mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố đó, và làm giảm sản lượng mặt hàng kia. - Định lý Stolper – Samuelson: Nếu giá tương quan của một mặt hàng nào đó tăng lên thì giá tương quan của yếu tố được sử dụng nhiều một cách tương đối để sản xuất ra mặt hàng đó sẽ tăng lên, còn giá tương quan của yếu tố kia sẽ giảm xuống. 2.2. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế * Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô: Sản xuất được coi là có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. * Lý thuyết về khoảng cách công nghệ: Một quốc gia sẽ có lợi thế tuyệt đối tạm thời mặt hàng mà minh phát minh, sáng chế ra. Lý thuyết này có thể giải thích cho hai dạng thương mại. Thứ nhất, cả hai quốc gia có tiềm năng công nghệ như nhau nhưng mỗi nước tiên phong trong một lĩnh vực thì vẫn có thể hình thành quan hệ thương mại. Thứ hai, nếu một nước tỏ ra năng động hơn về công nghệ so với nước kia thì thương mại quốc tế sẽ diễn ra theo chiều hướng nước thứ nhất thường xuất khẩu những mặt hàng mới và phức tạp để đổi lấy những mặt hàng đã được chuẩn hóa từ nước thứ hai. * Lý thuyết vòng đời sản phẩm: Các nhân tố cần thiết cho việc sản xuất một sản phẩm mới sẽ thay đổi tuỳ theo vòng đời của sản phẩm đó. Ngoài ra còn một số lý thuyết khác như lý thuyết thương mại liên quan đến cầu, lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow, lý thuyết về cú huých lớn từ bên ngoài, lý thuyết vòng luẩn quẩn, lý thuyết thương mại mới, lý thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia, lý thuyết không gian tiền tệ tối ưu... Tóm lại, việc nghiên cứu những lý thuyết trên là tiền đề, định hướng cho sự nhận thức đúng đắn thực tiễn sinh động của thương mại quốc tế, nếu biết đánh giá đúng khả năng của quốc gia mình thì sẽ chọn được cho mình những cơ hội để tham gia thành công vào thương mại quốc tế. CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM I. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM: 1. Những nét tổng quát: 1.1. Xuất nhập khẩu của Việt Nam trước năm 2006: Nói đến hoạt động thương mại quốc tế thì điều thu hút được sự quan tâm nhiều nhất chính là sự lưu chuyển hàng hóa - dịch vụ của Việt Nam với phần còn lại của thế giới. Điều này chủ yếu được thể hiện thông qua cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam. Một số thông tin về xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2005 trở về trước được thể hiện trong phần Phụ lục, sau đây là một số nhận xét: Thứ nhất, theo tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa các giai đoạn 1990-1995 (là giai đoạn thương mại quốc tế của Việt Nam chưa phát triển), giai đoạn 1996-2000 (là giai đoạn Việt Nam bắt đấu tham gia vào các tổ chức và diễn đàn của khu vực như ASEAN, APEC) và giai đoạn 2001-2006 (thương mại quốc tế đã có sự khởi sắc), có thể thấy giá trị xuất nhập khẩu tăng lên qua từng năm, càng về sau tăng càng mạnh. Mức tăng này gắn liền với mức độ tham gia hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam, điều này cho thấy được tầm quan trọng của thương mại quốc tế. Thứ hai, số lượng các mặt hàng ngày càng nhiều, các hàng không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về mặt giá trị. Thứ ba, trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thì xuất khẩu vào thị trường APEC là lớn nhất, tiếp đến là thị trường ASEAN, tiếp đến là EU, OPEC và các thị trường khác. Điều này được lý giải là do Việt Nam đã gia nhập ASEAN và APEC trước, có được sự thông hiểu trong thương mại quốc tế đối với các thị trường này ; hai đối tác lớn nhất của Việt Nam và cũng là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới là Hoa Kỳ và Nhật là thành viên của APEC ; thêm vào đó, do thuận lợi về các yếu tố khu vực nên mức độ tự do mậu dịch của các thị trường này cũng cao hơn. Thứ tư, trong cơ cấu giá trị các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương thì xuất khẩu chủ yếu là hàng thô hoặc mới qua sơ chế, nhập khẩu thì ngược lại, chủ yếu là hàng chế biến hoặc đã qua tinh chế. Thứ năm, trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện đất nước, Việt Nam đã có một số sản phẩm phát triển mạnh, chiếm vị trí trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới. Những mặt hàng này đa phần là những mặt hàng tận dụng được lợi thế của Việt Nam về điều kiện tự nhiên (khoáng sản; nông, thuỷ sản), về giá lao động (giày da, dệt may) và về vị trí trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (gia công, lắp ghép, sản xuất máy móc nhỏ, phụ tùng...) Thứ sáu, nhờ thương mại quốc tế, Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, tập trung, chuyên môn hóa vào một số ngành có lợi thế để sản xuất sản phẩm xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Tỷ trọng của các ngành này trong nền kinh tế ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã lựa chọn những mặt hàng bất lợi thế để nhập khẩu (chủ yếu là hàng tiêu dùng). Điều này giúp cho Việt Nam sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực của đất nước. Thứ bảy, qua hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam đã thu hút được rất nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thường là khu vực hoạt động hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu, đóng góp không nhỏ vào giá trị xuất khẩu của đất nước. Tỷ trọng của khu vực này trong nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng cả về chất và lượng. Thứ tám, giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP (%) ngày càng tăng, điều đó chứng tỏ quá trình tham gia thương mại quốc tế của Việt Nam không chỉ tăng về lượng mà còn biến đổi cả về chất. Thứ chín, qua hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam đã học được rất nhiều kinh nghiệm trong quản lý, kinh doanh, tiếp thu được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để ứng dụng vào sản xuất, điều đó thể hiện ở giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu ngày càng tăng. 1.2. Xuất nhập khẩu của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2006 1.2.1. Xuất khẩu Trong 10 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 24,2%, đây là một điểm sáng của nền kinh tế, là kết quả của những nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp và qua đó có thể khẳng định, nền sản xuất hàng hóa đang phát triển và nâng cao được khả năng cạnh tranh, tạo đà cho những bước đi vững chắc trong năm tới, khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mười tháng qua, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may, một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đã đạt 4,969 tỷ USD, tăng khoảng 28% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch dệt may đã đạt hơn 90% kế hoạch xuất khẩu của cả năm và có khả năng đạt kim ngạch 5,8-5,9 tỷ USD nếu khai thác tốt hạn ngạch dệt may còn lại vào thị trường Hoa Kỳ trong 2 tháng cuối năm. Trái với dự đoán khó khăn của ngành da giày khi Liên minh châu Âu (EC) điều tra và áp đặt thuế bán phá giá đối với mặt hàng giày mũ da vào thị trường này, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trưởng tốt. Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành da giày và EU cũng là thị trường chủ lực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước đã nhanh chóng chuyển hướng mặt hàng giày thể thao mũ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35747.doc