Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ Nguyễn Văn Công NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ TƯ TƯỞNG VÀ BÚT PHÁP TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh – 2011 LỜI CẢM ƠN Luận văn này là kết quả học tập, nghiên cứu của tác giả khi kết thúc khóa đào tạo Cao học tại Trường ĐHSP Tp.HCM. Đ

pdf105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3996 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể hoàn thành luận văn, người viết đã nhờ đến sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều thầy cô, bạn bè và người thân. Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Thành Thi – người đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này. Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã tận tình chỉ dạy trong suốt khóa học. Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè đồng môn trong suốt thời gian qua. Nguyễn Văn Công MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, với sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đất nước ta bước vào một thời kì mới, hòa bình, ổn định nhưng đồng thời cũng đối diện với nhiều khó khăn thách thức của thời hậu chiến. Cuộc sống mới với nhiều đổi thay đòi hỏi văn học cũng phải có sự chuyển mình biến đổi để kịp thời đáp ứng những yêu cầu của thời đại. Từ một nền văn học “chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước” suốt trong những năm tháng chiến tranh từ 1945 đến 1975, văn học Việt Nam sau 1975 đã từng bước chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt kể từ năm 1986, hòa cùng công cuộc đổi mới của đất nước, văn học Việt Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều phương diện để làm nên một diện mạo mới cho văn học nước nhà, trong đó sự vận động theo “khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc” trở thành một đặc điểm nổi bật. Trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam qua hai giai đoạn nêu trên, Nguyễn Minh Châu có vinh dự trở thành một trong số ít những nhà văn mà sáng tác đã trở thành hiện tượng tiêu biểu cho văn học ở cả hai chặng đường. Đến với văn học vào thời điểm mà cả dân tộc đang dồn sức cho cuộc chiến đấu chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu nhanh chóng khẳng định chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc qua một loạt tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống chiến tranh và cách mạng. Những Cửa sông, Dấu chân người lính, Những vùng trời khác nhau… đã góp thêm cho văn học trước 1975 những trang viết hào sảng về những tháng ngày hào hùng của lịch sử đất nước. Không chỉ là cây bút văn xuôi có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu còn thuộc trong số những người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975. Trong cuộc chuyển mình đầy khó khăn của văn học những năm đầu thời kì đổi mới, bằng một sự “dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), ông đã đã từng bước thay đổi lối nghĩ, lối viết, lặng lẽ nhận lãnh vai trò của một người lính tiên phong trong việc vượt lên chính mình, tìm một hướng đi mới cho mình và cho cả một nền văn học. Những tập truyện ngắn của ông ra đời trong những năm 80 của thế kỉ XX đã trở thành một hiện tượng văn học thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận. Là nhà văn có quá trình sáng tác tiêu biểu cho sự chuyển mình của văn học Việt Nam qua hai giai đoạn, 1945 – 1975 và sau 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đương nhiên có những chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp. Đó là những chuyển biến như thế nào? Phải chăng có một mối quan hệ nhân – quả giữa chuyển biến về tư tưởng (nhân) và chuyển biến về bút pháp (quả) trong sáng tác của nhà văn này? Việc tìm hiểu và trả lời một cách thỏa đáng những câu hỏi này sẽ giúp ích nhiều cho nhà nghiên cứu trong việc tìm kiếm sự vận động mang tính qui luật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu nói riêng và các nhà văn thế hệ ông nói chung. Nguyễn Minh Châu cũng là tác giả có tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học (trước đây là Bức tranh – THCS, Mảnh trăng cuối rừng – THPT; sau này là Bến quê – THCS, Chiếc thuyền ngoài xa – THPT). Việc nghiên cứu bước chuyển trong tư tưởng và bút pháp của ông sau 1975 sẽ giúp cho việc giảng dạy phân tích tác phẩm truyện ngắn của ông trở nên đúng hướng, sâu sắc, thỏa đáng hơn. Đây cũng chính là những lý do chủ yếu khiến người viết lựa chọn đề tài “Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” để thực hiện luận văn cao học của mình. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Là một trong những tác giả có vị trí quan trọng trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới, Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông đã được các nhà nghiên cứu chú ý tìm hiểu trên nhiều phương diện. Tính cho đến nay, đã có hàng trăm bài viết đăng trên các báo và tạp chí cùng rất nhiều những chuyên luận, công trình nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm của ông. Theo cuốn sách Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm, thư mục tài liệu nghiên cứu tác gia, tác phẩm Nguyễn Minh Châu ghi nhận có đến 150 bài viết và công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp bậc đại học, cao học. Trên cơ sở khảo sát những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi nhận thấy các bài viết về Nguyễn Minh Châu đã tiếp cận khá kĩ lưỡng cả hai phương diện con người và tác phẩm của nhà văn. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, sau đây, chủ yếu người viết sẽ chỉ điểm qua những ý kiến và công trình nghiên cứu có liên quan đến truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Như đã nêu, cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn là thể loại đem lại nhiều thành tựu cho sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của từng thiên truyện ngắn đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu đi sâu phân tích, mổ xẻ, đánh giá…Trong số những bài viết quan tâm đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, có thể kể đến những ý kiến đáng chú ý của Nguyễn Kiên, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Long, Lại Nguyên Ân, Phạm Vĩnh Cư, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Trọng Hoàn, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết, Huỳnh Như Phương, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Thị Văn,… Về các tác phẩm trong đó có truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì chống Mĩ, các ý kiến tỏ ra khá thống nhất khi đánh giá về cảm hứng sáng tác và bút pháp của tác giả thể hiện trong các tác phẩm. Tiêu biểu là ý kiến của Mai Hương trong Lời giới thiệu Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nxb Văn học, H.,2001) : “Suốt trong những năm chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn nửa đời văn của mình đi sâu khám phá, phản ánh những “đề tài sinh tử” trong mảng hiện thực chiến tranh và người lính cách mạng… Những tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống, như còn sặc mùi thuốc súng, khói bom…đã phản ánh được khát vọng tinh thần cháy bỏng của của cả dân tộc, thời đại – khát vọng độc lập, tự do – góp phần tái hiện bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại… Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong chiến tranh thường nghiêng về vẻ đẹp hào hùng và tươi tắn của cả cộng đồng, nghiêng về những sự kiện vĩ đại, những người anh hùng và được thể hiện với bút pháp trữ tình đậm đà, giàu chất thơ. Ở đó, cảm hứng trữ tình hòa nhập, giao thoa nhuần nhị với cảm hứng anh hùng”. Truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng sáng tác ở giai đoạn này cũng thu hút được nhiều ý kiến giảng bình mà trong đó đa phần là nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn con người trong chiến tranh và chất thơ trữ tình của thiên truyện. Đặc biệt, trong những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã thu hút được sự quan tâm sâu rộng từ phía bạn đọc và giới nghiên cứu. Vào tháng 6 năm 1985, báo Văn nghệ đã tổ chức một cuộc Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm gần đây. Trong cuộc hội thảo này, có những ý kiến vẫn còn tỏ ra băn khoăn, nghi ngờ về những tìm tòi đổi mới của ông, cho rằng trong tác phẩm còn có điều gì đó “mung lung”, “hụt hẫng”, “khó nắm bắt”, “kém đi vẻ chân thực sinh động”. Nhiều ý kiến khác thì đánh giá cao những tìm tòi, trăn trở trong ngòi bút của ông, ghi nhận tác phẩm của ông “có nhiều thành tựu, có nhiều đóng góp rất đáng quý” [58, tr.288-311]. Sau cuộc hội thảo, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn luận về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, dần dần đi tới những thống nhất trong đó có sự khẳng định quá trình đổi mới tích cực và đầy hiệu quả của ông. Về những tập truyện ra đời trong giai đoạn sau này, có thể kể đến những ý kiến của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,... Trần Đình Sử nhận xét rằng: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới… Đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là sự thể nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu…, phát hiện các hiện tượng đời sống trong chiều sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với chính mình và với ý thức của mình… Có thể nói thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín là một đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu” [78, tr.505-508]. Lại Nguyên Ân, “khi nhận xét về xu hướng triết lí nhận thức trong những truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu”, đã tạm xếp thử các truyện ấy vào một số dạng chính, “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm thường là một nhân vật đang sám hối,…nhà văn chuyển sang thể nghiệm loại truyện tuy có dạng thức tự nhiên khách quan nhưng phê phán gay gắt những lối sống vô ý thức… Thêm một mức nữa, nhà văn đi tới loại truyện cũng có dạng khách quan tự nhiên, nhưng không phải để lên án phê phán đối tượng cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế, những khía cạnh trái ngược vốn có trong đời sống con người…” [58, tr.269]. Một số ý kiến khác như của Ngọc Trai, khi nhận xét đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đã cho rằng: “Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề - những luận đề về đạo đức, nhân văn, về tâm lí xã hội…” [58, tr.325]. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết khác đi vào bình giá, phân tích giá trị của từng truyện ngắn cụ thể, trong đó có sự ghi nhận những tìm tòi đổi mới của nhà văn ở cả hai phương diện tư tưởng và bút pháp thể hiện. Những năm sau khi Nguyễn Minh Châu mất, trong số những bài viết tiếp tục nghiên cứu về truyện ngắn của ông, có nhiều bài viết đi theo một lối tiếp cận mới mà theo đánh giá của Đỗ Lai Thúy (trong Phê bình thi pháp học như là sự thay đổi hệ hình) thì “bài viết về Phiên chợ Giát của Đỗ Đức Hiểu có ý nghĩa mở đường” [45, tr.109]. Đỗ Đức Hiểu đánh giá rất cao về truyện ngắn cuối cùng của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “ Phiên chợ Giát có một tầm cỡ lớn”;…“một truyện mở; từ cái logic của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ biểu tượng xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, những nghịch lí, tức là một thế giới quyện nhòe giữa hư và thực… Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng / Khoang Đen, sự phân đôi nhân cách ấy, sự kết hợp hai ý thức con người / con vật ấy, là bi kịch của nhân vật, của thời đại…” [30, tr.256]. Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Truyện này là một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận người nông dân…” [26, tr.237]. Có nhiều bài viết đi vào khai thác về một khía cạnh nào đó trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như không gian nghệ thuật (Lê Văn Tùng), những hình ảnh biểu tượng (Dương Thị Thanh Hiên)… Dưới góc độ thi pháp thể loại, Bùi Việt Thắng đi vào tìm hiểu cấu trúc và tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, phân chia ra các dạng cơ bản là tình huống – tương phản, tình huống – thắt nút, tình huống – luận đề [58, tr.313]. Cũng nhìn dưới góc độ thể loại, Phạm Vĩnh Cư phát hiện ra “những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” [58, tr.346]. Thời gian gần đây, tiếp tục có những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Trọng Hoàn, trong bài Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu [58], đã dành nhiều trang viết về truyện ngắn của ông và nhìn chung là các ý kiến ở đây khá nhất quán với những nhận định đã có trước đó. Trong công trình Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp – chân dung do Phan Cự Đệ chủ biên, in 2007, khi viết về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, người viết đã khái quát lại trong hai luận điểm lớn. Đó là: - Xu hướng ôm trùm những thể loại lớn - Chất luận đề tan hòa vào tình huống và nhân vật Theo chúng tôi, đây là những gợi mở đáng chú ý, có thể suy nghĩ để nghiên cứu thêm. Ngoài những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn nêu trên, không thể không nhắc đến hai chuyên luận nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu là Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (Nxb KHXH, 2002) của tác giả Tôn Phương Lan và Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 (Nxb ĐHSP, H. 2007) của các tác giả Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu Tuyết. Những công trình này, dù có đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, nhưng đều dành nhiều dung lượng cho phần nghiên cứu mảng truyện ngắn. Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, như tên gọi của nó, không phải là công trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn, nhưng rõ ràng để khái quát và nhận diện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, không thể không nghiên cứu truyện ngắn. Trong công trình này, Tôn Phương Lan đã đi vào tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật cũng như quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu hệ thống nhân vật cũng như nghệ thuật trần thuật, những đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu…, từ đó phác họa được những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật của nhà văn. Cuốn Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đặt vấn đề nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại (chủ yếu từ 1975 trở đi). Người viết đã cố gắng chỉ ra quá trình vận động đổi mới của sáng tác Nguyễn Minh Châu, tất nhiên trong đó có cả truyện ngắn, trên ba bình diện: -Về quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật mà trọng tâm là quan niệm nghệ thuật về con người: từ con người được thể hiện chủ yếu ở bình diện xã hội trong những mô hình giản đơn và vận động xuôi chiều đến con người cá nhân trong đời thường với những mối quan hệ phức tạp, đa dạng. -Về thế giới nhân vật: Trước 1975, chủ yếu là dạng nhân vật loại hình, sau 1975, có các dạng nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật thế sự. Nghệ thuật xây dựng nhân vật được đổi mới nhờ vào các thủ pháp tăng cường độc thoại nội tâm; miêu tả nhân vật qua những chi tiết tâm lí chân thực, tinh tế; khắc họa nhân vật qua những chi tiết ngoại hình sinh động -Về đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật: từ cốt truyện có hành động bên ngoài chiếm ưu thế (trước 75) chuyển sang cốt truyện không có biến cố; một số đổi mới ở các hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất; một số đổi mới về nhịp điệu trần thuật, giọng điệu trần thuật… Như vậy, có thể nói hai cuốn sách trên đã đề cập đến được nhiều phương diện trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, tuy nhiên, chúng không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về thể loại truyện ngắn. Những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng được đề cập khá nhiều trong luận án tiến sĩ “Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90” (2001) của Hoàng Thị Văn, trong chuyên luận “Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000” của Nguyễn Văn Kha (Nxb ĐHQG, 2006). Ngoài ra cũng còn có nhiều ý kiến nhắc đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong những bài nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 mà luận văn không thể nêu hết. Những công trình nêu trên đã cho thấy sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu đến sáng tác Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của tác phẩm Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là mảng truyện ngắn chắc chắn sẽ còn cần thêm nhiều công trình nghiên cứu khác quan tâm làm rõ. 3. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà tác giả luận văn đã nêu ở phần trên, nhìn chung đã khai thác được khá đầy đủ nhiều phương diện trong truyện ngắn của ông. Tuy nhiên, những bài viết trên, do chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nào đó hay chỉ đi sâu vào một vài tác phẩm cụ thể nên chưa nói hết được những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu một cách đầy đủ, cũng như chưa có một sự đánh giá toàn diện về những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn của ông sau 1975. Những công trình nghiên cứu về phong cách nghệ thuật hay sự đổi mới trong sáng tác Nguyễn Minh Châu đã nêu cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể những đặc trưng của thể loại truyện ngắn như là một vấn đề nghiên cứu chuyên biệt. Đặt vấn đề nghiên cứu đề tài “Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975”, luận văn muốn đi vào tìm hiểu truyện ngắn của ông dưới góc độ thể loại, thấy được những nét chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật qua quá trình vận động và đổi mới suốt chiều dài sự nghiệp sáng tác, đồng thời góp phần hiểu rõ hơn những đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Với định hướng như vậy, trong phạm vi của đề tài, luận văn sẽ tập trung vào việc xem xét, đối chiếu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975, từ đó làm rõ quá trình vận động chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật và phương thức biểu hiện trong truyện ngắn của nhà văn giai đoạn sau 1975 cùng những đóng góp của ông cho văn học thời kì đổi mới. Trên cơ sở đào sâu những phát hiện của những nhà nghiên cứu đi trước, luận văn cố gắng hệ thống hóa và phân tích kĩ một số đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975, thấy được những đổi mới trong cách cảm nhận hiện thực và con người, thấy được cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật là sự thay đổi từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa, thấy được những đóng góp của nhà văn về phương diện nghệ thuật biểu hiện cho thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp xã hội học được dùng để làm rõ sự tác động cũng như ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội đối với quá trình vận động đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975. Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác định đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong từng giai đoạn. Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí truyện ngắn của ông trong tiến trình vận động của văn xuôi Việt Nam qua hai giai đoạn. Phương pháp so sánh được dùng như là một phương pháp chủ yếu để thấy được những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 so với giai đoạn trước đó. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thi pháp học, tự sự học và các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như thống kê, phân tích, tổng hợp... 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Luận văn, ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tham khảo, Phụ lục, được tổ chức triển khai thành 3 chương: Chương 1: Truyện ngắn trong sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu Chương 2 : Những chuyển biến về quan niệm nghệ thuật và nội dung tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (sau 1975) Chương 3 : Những chuyển biến về kĩ thuật thể loại, phương thức tự sự và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (sau 1975) Trong đó, chương 2 và chương 3 tập trung giải quyết một số nội dung chuyên sâu. Chương 2 tập trung giải quyết hai nội dung chính: - Bước chuyển về quan niệm nghệ thuật: khước từ văn chương “minh họa” để đến với văn chương thực sự là cây đời; từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến đến hứng thú với con người thường nhật phức tạp, bí ẩn chưa biết hết,… - Bước chuyển về nội dung tự sự: từ tự sự về “bài ca ra trận” của cộng đồng với những phẩm chất huyền thoại của người anh hùng đến tự sự về những bi kịch, những nỗi đau, những lời sám hối, những khủng hoảng, và cả hoài nghi… Chương 3 tập trung làm rõ ba nội dung: - Chuyển biến về kĩ thuật thể loại (tiểu thuyết hóa, phức thể hóa truyện ngắn) - Chuyển biến về phương thức tự sự: phương thức khắc họa nhân vật, phương thức sử dụng biểu tượng nghệ thuật, phương thức trần thuật (dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, vai kể,…) - Chuyển biến trong cách sáng tạo ngôn từ: đa dạng hóa, phức điệu hóa lời văn nghệ thuật (các loại diễn ngôn kể, diễn ngôn thoại, diễn ngôn trữ tình ngoại đề; tổ chức lời văn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật…). Chương 1 TRUYỆN NGẮN TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU 1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu 1.1.1. Cuộc đời nhà văn Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930 tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải, thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ, Nguyễn Minh Châu đã được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Học ở quê rồi vào Huế, học tiếp đến năm 1945 thi đỗ bằng Thành Chung. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội, theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Sau đó, Nguyễn Minh Châu về công tác ở sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn. Từ năm 1962 cho đến khi mất, Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông mất ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội. Vốn là một sĩ quan tham mưu trong quân đội, Nguyễn Minh Châu sống và làm việc trước hết với tư cách là một người lính, nhưng lại là một người lính viết văn. Cũng như đối với nhiều nhà văn mặc áo lính cùng thời, công việc sáng tác đòi hỏi người cầm bút phải có nhiều lăn lộn thực tế ở những nơi đầu sóng ngọn gió, ông đã tham gia nhiều chiến dịch, đã từng trải qua những khó khăn gian khổ ở rừng Trường Sơn. Hòa bình lập lại, ông cũng đi nhiều nơi, vào thành phố Hồ Chí Minh rồi trở ra Hà Nội, nhưng có lẽ dải đất miền Trung mới là miền đất để lại cho ông nhiều yêu thương nhất. Hình ảnh cái làng quê nghèo ven biển miền Trung cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Những năm cuối đời, ông còn ấp ủ dự định viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị, rất tiếc nó không thể hoàn thành vì ông đã đột ngột ra đi khi đang ở giai đoạn tài năng chín muồi nhất. Sau hơn một năm trời vật lộn với cơn bệnh ung thư máu hiểm nghèo, ông đã vĩnh viễn chia tay với cuộc đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Viện Quân y 108 Hà Nội. Những người thân, những người bạn của ông cùng với nhiều người trong giới nghiên cứu đương thời luôn dành cho ông một sự yêu quý và kính trọng sâu sắc. Họ nhìn thấy ở ông “một sự dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), “một chiến sĩ chiến đấu đến cùng cho điều mình nhận thức là đúng” (Thái Bá Lợi), với vẻ ngoài “hiền lành, có khi lại còn nhút nhát nữa, nhưng bên trong dường như có một ngọn lửa, ngọn lửa ấy luôn luôn tạo ra sức nóng ở nơi đầu ngọn bút” (Ngô Vĩnh Bình)… Đọc những bài viết của họ về ông, ta hình dung ra một Nguyễn Minh Châu thâm trầm lặng lẽ, ít nói nhưng giàu lòng thương yêu, luôn sống trung thực với chính mình và mọi người. Ông không thích ồn ào, không thích bon chen tranh đoạt mà lặng lẽ nhẫn nại theo đuổi những công việc và mục đích mình đã lựa chọn. Có cảm giác như ông luôn ngơ ngác giữa dòng đời xuôi ngược đầy những hệ lụy phiền toái. Nhưng ông rất nhạy cảm và quyết liệt với những gì được coi là cái xấu, cái ác, làm tổn hại đến con người. Và trên hết, Nguyễn Minh Châu là một người có ý thức sâu sắc về thiên chức của nhà văn, về trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút. Ở góc độ một công dân, ông đã làm hết sức mình để sống một cuộc sống có ích cho xã hội và những người xung quanh mình. Ở góc độ một nhà văn, bằng tài năng và tấm lòng nhiệt tình yêu nghề, với thái độ điềm đạm nhưng cũng hết sức dũng cảm, ông cũng đã dành trọn cuộc đời mình để cống hiến hết thảy cho những mục tiêu cao đẹp của văn chương nghệ thuật, xứng đáng là “niềm hãnh diện của những người cầm bút về một đời văn trong sáng và trọn vẹn” (Nguyễn Khải). 1.1.2. Sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu Con đường sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu bắt đầu tương đối muộn, mãi đến năm 1960 mới bắt đầu có sáng tác đầu tiên, và chỉ thực sự được bạn đọc biết đến với tiểu thuyết Cửa sông in năm 1967. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu đã để lại 9 cuốn tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn, 1 tập tiểu luận phê bình và một số bút kí, truyện ngắn khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí. Các tác phẩm đã xuất bản gồm : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1974), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1981), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1985), Bến quê ( tập truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu ( tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (tập truyện, 1989), tập tiểu luận phê bình Trang giâý trước đèn... Có thể nói với một khối lượng sáng tác tương đối dày dặn như trên, Nguyễn Minh Châu đã kịp ghi tên mình vào lịch sử văn học Việt Nam hiện đại như một tên tuổi hết sức quan trọng. Là một nhà văn quân đội, tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết nhiều về đề tài chiến tranh như là một điều tất yếu. Tác phẩm “Dấu chân người lính” của ông từ lúc mới ra đời đã được bạn đọc và giới nghiên cứu đánh giá cao, được xem như là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh chống Mĩ. Bám sát hiện thực đời sống những năm chiến tranh, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 (Cửa sông, Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính…) đã cho chúng ta một cái nhìn tương đối trọn vẹn về một thời kì hào hùng của cả dân tộc. Sau 1975, hiện thực cuộc sống mới đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận toàn diện và thấu đáo hơn. Là một nhà văn luôn có ý thức gắn bó với đời sống, nhạy cảm với những đổi thay của thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những vấn đề mới của đất nước ngay vào thời điểm chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. Trong các tiểu thuyết Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu…, mảng hiện thực quen thuộc về chiến tranh cách mạng và người lính vẫn tiếp tục được ông quan tâm nhưng các vấn đề đặt ra trong tác phẩm đã cho thấy ở nhà văn một cách nhìn khác trước. Ngòi bút nhà văn hướng đến nhiều vấn đề đặt ra ở thời kì hậu chiến như việc tổ chức lại cuộc sống và làm ăn kinh tế trong thời kì mới, vấn đề giải quyết hậu quả và hàn gắn những vết thương chiến tranh, vấn đề chống lại những tiêu cực mới nảy sinh trong cuộc sống hôm nay… Trước đây, ngay trong những năm tháng chiến đấu chống Mĩ ác liệt, Nguyễn Minh Châu đã từng băn khoăn : “Ngòi bút của chúng ta sẽ trở nên phản bội người chiến sĩ nếu chỉ biết cái lúc họ vác súng ra mặt trận với một tâm hồn phơi phới mà không biết cái lúc buồn bã, đau đớn, những lúc đói rét, những lúc nằm giữa đồng đội chết và bị thương, trong bùn lầy, trong mưa bom bão đạn…” [14, tr.190]. Sau chiến tranh, cái nhìn sử thi lí tưởng hóa về con người của văn học một thời tỏ ra không còn phù hợp khi đối mặt với thực tế bộn bề, phức tạp của cuộc sống thường nhật. Ý thức hướng tới một thứ văn chương sâu sắc hơn đã trở thành một nhu cầu hết sức bức xúc trong ông, đòi hỏi ở ông một sự thay đổi quyết liệt hơn. Với tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” (1987), Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn đề nghị đoạn tuyệt với lối văn chương minh họa “chỉ quen với công việc cài hoa kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn”, quyết tâm chọn cho mình một hướng đi mới, tiếp cận đời sống và con người dưới góc độ nhân bản. Nhà văn lặng lẽ và kiên trì thực hiện một loạt những cuộc đối chứng lại với quá khứ để nâng tầm tác phẩm, tạo ra trong tác phẩm của mình một chiều sâu suy nghĩ và nhận thức mới về con người. Ông muốn tác phẩm văn chương phải làm “hiện lên những mẫu người của xã hội với tất cả da thịt và hơi thở, với tất cả những mầu vẻ của những mối quan hệ xã hội bên ngoài và những gì đang được giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bên trong: những lý tưởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những phần con người ý thức được và những phần vô thức của con người mà chỉ ngòi bút nhà văn mới có thể soi sáng, lý giải và báo hiệu” [14,tr.345]. Bằng tài năng và tâm huyết của một nhà văn luôn trăn trở với sự nghiệp văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những thay đổi trong tư duy nghệ thuật của mình qua một loạt tác phẩm có nhiều tìm tòi, khám phá. Những truyện ngắn viết vào những năm 80 của thế kỉ XX in trong các tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau của ông đã tạo nên một hiện tượng mới lạ trong văn học đương đại. Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Minh Châu như một cây bút tiểu thuyết tên tuổi giờ đây còn phát hiện ở ông một tài năng viết truyện ngắn hết sức tài hoa, độc đáo. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu đối với văn học sau 1975, nhà văn Nguyên Ngọc trân trọng khẳng định: “Thời gian, nhà phê bình nghiêm khắc và công bằng ấy rồi sẽ xác định lại đúng đắn hơn nữa vị trí của Nguyễn Minh Châu. Song tôi nghĩ, hôm nay có lẽ cũng đã có thể nói không sai rằng Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Không chỉ trong sáng tác, ông còn lưu lại dấu ấn cá nhân của mình qua những trang tiểu luận phê bình hết sức sâu sắc được viết rải rác suốt một khoảng thời gian dài, sau này được tập hợp lại trong cuốn Trang giấy trước đèn. Các bài tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trong quá trình văn học: từ tác dụng của văn học đến mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiến tranh cách mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – bạn đọc, vai trò và trách nhiệm của người cầm bút, chân dung nhà văn, kinh nghiệm sáng tác… Những bài viết của ông cũng đã góp phần không nhỏ vào việc tạo nên một không khí sôi nổi trong đời sống văn học những năm cuối thế kỉ XX, đồng thời giúp cho người đọc hôm nay hiểu thêm về con người và sáng tác của ông, một tron._.g những nhà văn đi đầu công cuộc đổi mới văn học. Các bài phê bình, tiểu luận cùng với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao ra đời trong thập kỉ 80 là minh chứng rõ nét cho bước chuyển âm thầm mà quyết liệt của hành trình đổi mới ở Nguyễn Minh Châu, đem đến cho ông một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của văn học Việt Nam sau 1975. Đời văn của Nguyễn Minh Châu được khép lại với thiên truyện ngắn nổi tiếng Phiên chợ Giát. Được viết trên giường bệnh trong những ngày cuối đời, thiên truyện đặt dấu chấm hết cho một đời văn đầy nhọc nhằn nhưng cũng rất đáng tự hào của ông. Với những đóng góp sau ba mươi năm miệt mài cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã vinh dự được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (đợt II, năm 2000). 1.2. Truyện ngắn và hành trình đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.2.1. Truyện ngắn và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.2.1.1. Truyện ngắn (khái niệm – đặc trưng – ưu thế thẩm mĩ) Truyện ngắn hiện đại là một thể loại hết sức quen thuộc và gần gũi nhưng để tìm một định nghĩa duy nhất, đầy đủ và chính xác về nó thì không dễ. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được xác định như sau: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [23, tr.370]. Mục Truyện ngắn trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng ghi nhận đây là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi… Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng…” [1, tr.345]. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận dạng truyện ngắn trước hết ở dung lượng và tính chất của nó. “Hình thức tự sự nhỏ, ngắn” trở thành đặc điểm hàng đầu và cũng là dấu hiệu đầu tiên để người đọc nhận ra diện mạo của truyện ngắn. Cũng chính do dung lượng ngắn là yếu tố thuộc về bản chất nên khác với các hình thức tự sự cỡ lớn, truyện ngắn có tính cô đọng, hàm súc cao. Với dung lượng câu chữ giới hạn, truyện ngắn giúp người đọc có thể tiếp nhận liền mạch trong một khoảng thời gian ngắn. Đây cũng là thế mạnh của những hình thức tự sự cỡ nhỏ, tỏ ra hết sức phù hợp với xu thế của thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Thông thường, một truyện ngắn có thể kéo dài từ vài ba trang đến mấy chục trang. Số chữ trung bình trong một truyện ngắn khoảng từ 10.000 đến 12.000 chữ nhưng có thể nhiều hoặc ít hơn. Trong cuốn Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, tác giả Lê Huy Bắc có ghi nhận là : “Dung lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến khoảng 20.000 chữ” [3, tr.28]. Bên cạnh đặc điểm “ngắn”, các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện ngắn ở tính chất giới hạn trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ thuật mà nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần gũi là tiểu thuyết. Cùng thuộc về loại hình tự sự hư cấu bằng văn xuôi, truyện ngắn và tiểu thuyết tuy gần gũi nhưng vẫn có những đặc trưng thẩm mĩ khác nhau. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn ít nhiều bị hạn hẹp trong khuôn khổ của một không gian, thời gian có tính giới hạn. “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phác họa một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người…” [23, tr. 370]. So với truyện ngắn, tiểu thuyết thường có cấu trúc phức tạp với nhiều nhân vật trung tâm, nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện đan xen nhau. Trong khi đó, mỗi truyện ngắn thường xoay quanh một chủ đề tập trung, có xu hướng ưu tiên cho những cốt truyện có quy mô nhỏ, có tính khám phá, gợi vấn đề, số lượng nhân vật cũng ít hơn. Chỉ là một “lát cắt đời sống”, nhiệm vụ chính của truyện ngắn cũng không phải là trình bày đầy đủ một bức tranh xã hội rộng lớn mà chủ yếu là tập trung thể hiện một khoảnh khắc, một bước ngoặt quan trọng nào đó của đời sống, của đời người. Do vì ngắn mà vẫn không phải là tiểu thuyết rút ngắn nên chất lượng nghệ thuật của truyện ngắn thường được yêu cầu cao ở sự chọn lọc, cô đúc, tiết kiệm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn vẫn có thể có những đoạn tầm thường, những phần dàn trải nhưng truyện ngắn thì không được phép như thế. Ở đây, mỗi chữ mỗi câu, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều phải đáng giá. Vì thế khi sáng tác truyện ngắn, nhà văn cần chọn lựa ngôn từ, tìm kiếm các chi tiết tiêu biểu có giá trị biểu đạt cao nhằm tạo nên một chiều sâu chưa nói hết cho nhân vật, cho tác phẩm. Kết cấu của một truyện ngắn hay đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, đảm bảo sự thống nhất cao độ để có thể tạo nên một hiệu quả nghệ thuật duy nhất, từ đó tạo nên một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nói như Nguyễn Minh Châu : “Chỉ cần ít trang văn xuôi… có thể làm nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán” [14, tr.313]. Là thể loại có khả năng cập nhật và thích ứng linh hoạt, trong quá trình phát triển của mình, truyện ngắn hiện đại cũng đã dung chứa và bao hàm những đặc điểm của nhiều thể loại khác. Nhìn sang tiểu thuyết, kịch, thơ trữ tình, bút kí…, truyện ngắn đã biết chọn cho mình mọi kiểu dung lượng, mọi phong cách khác nhau để làm tròn vai trò của một thể loại nhanh nhạy, đi đầu trong việc đáp ứng những yêu cầu của đời sống xã hội. 1.2.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp văn học của ông Như đã nêu, nếu xét về số lượng trang viết, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu nghiêng về thể loại tiểu thuyết hơn là thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, không vì thế mà nói rằng truyện ngắn ít có vai trò hơn trong việc làm nên tên tuổi của ông. Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư, trong một bài viết của mình về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy không phủ nhận những thành tựu của mảng tiểu thuyết nhưng vẫn cho rằng: “…cái mà nhà văn để lại cho đời lại không phải là những tác phẩm dài hơi ấy, mà là dăm ba truyện ngắn in rải rác trên báo chí, trong các tập truyện cuối đời của anh” [58, tr.346]. Đi vào tìm hiểu sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn, nhất là giai đoạn sau 1975, ta thấy truyện ngắn có một vị trí đặc biệt trên nhiều bình diện: lượng, chất, nhịp độ chuyển biến, khả năng thể hiện tư tưởng nghệ thuật đáp ứng tinh thần “tiên phong” trong hoạt động sáng tác của nhà văn,… Khảo sát hành trình đổi mới trong sáng tác Nguyễn Minh Châu, chỉ cần nhìn vào quá trình sáng tác ở mảng truyện ngắn, ta đã có thể nhận thấy được một cách rõ nét những chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp của nhà văn qua hai giai đoạn trước và sau 1975, nếu không nói là nổi bật và dễ nhận thấy hơn là ở mảng tiểu thuyết. Nguyễn Minh Châu mở đầu nghiệp văn của mình bằng một truyện ngắn và kết thúc cũng bằng một truyện ngắn. Truyện ngắn đầu tay “Sau một buổi tập” của Nguyễn Minh Châu được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội vào năm 1960. Tiếp sau đó là một loạt các truyện ngắn khác cũng được đăng trên tạp chí này. Theo tài liệu mà người viết có trong tay, tính đến 1975, ông có tất cả 19 truyện ngắn, gồm 7 truyện in trong tập “Những vùng trời khác nhau”, 11 truyện khác đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội (Xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5, Nxb Văn học, 2001) và 1 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) nhưng thời gian sáng tác là năm 1967 (truyện Mùa hè năm ấy). Ngoài ra còn phải kể thêm “Ký sự hai bờ đất” mà tác giả luận văn cho là có tính chất của một truyện ngắn hơn là một bài kí. Nhìn chung, chất lượng của các truyện ngắn giai đoạn này không đồng đều. Những truyện ngắn ở giai đoạn đầu như Sau một buổi tập, Con đường đến trường học, Buổi tập cuối năm…chỉ có tính chất thử nghiệm, chất lượng nghệ thuật chưa cao. Những truyện hay hơn đã được tuyển chọn vào tập Những vùng trời khác nhau, trong số đó có Mảnh trăng cuối rừng được xem là truyện hay nhất và cũng tiêu biểu nhất cho cảm hứng và bút pháp trữ tình, lãng mạn của nhà văn. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu có 23 truyện ngắn, gồm 8 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, 9 truyện in trong tập “Bến quê”, 3 truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội (Chú chim, Chợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha – xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5). Điểm qua quá trình sáng tác truyện ngắn của ông, ta có thể nhận thấy số lượng truyện ngắn viết sau 1975 dù không nhiều hơn bao nhiêu nhưng có chất lượng vượt trội so với các truyện viết trước 1975. Những truyện được đánh giá cao như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát…đều thuộc về giai đoạn thứ hai này. Căn cứ vào thời gian ra đời và những chuyển đổi trên nhiều phương diện nghệ thuật, có thể coi Bức tranh là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975. Thiên truyện này được viết từ 1976, ngay sau khi kết thúc chiến tranh nhưng mãi đến 1982 mới được in. Dù không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu nhưng truyện ngắn này đã cắm một cột mốc quan trọng trong hành trình sáng tạo văn học của nhà văn, dự báo cho sự ra đời những tác phẩm tiếp theo với một quan niệm, một mô hình, một bút pháp hoàn toàn mới. Từ đây, cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng tiến gần đến sự thực hơn, quan tâm nhiều hơn đến hiện thực đời thường với số phận của con người cá nhân. Xuất phát từ mối quan tâm lo lắng của nhà văn về những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc sống mới thời hậu chiến, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì này thường ngầm chứa một bức thông điệp nào đó về đạo đức, lối sống, về quan niệm nhân sinh. Cùng với Bức tranh, một loạt truyện ngắn ra đời sau đó đã cho người đọc thấy được nhiều ưu tư trăn trở của ông về cuộc sống và con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về sự thức tỉnh của lương tâm để hướng tới cái đẹp và sự hoàn thiện nhân cách. Ông lưu ý mọi người về sự độc ác hồn nhiên ngoài ý muốn (Đứa ăn cắp), nhắc nhở về lối ứng xử của con cái đối với cha mẹ (Mẹ con chị Hằng), cảnh báo về hậu quả của lối sống gia trưởng (Giao thừa), ông day dứt về hậu quả của sự đánh mất bản thân mình (Sắm vai), mong muốn mỗi người hãy luôn tự đối chứng, tự vấn lương tâm (Bức tranh, Hạng)… Tiếp theo những thể nghiệm bước đầu trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, các tập Bến quê, Cỏ lau ra đời sau đó càng được dư luận đặc biệt chú ý, được xem “như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới”. Lấy số phận con người làm tiêu điểm cho lăng kính nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đi sâu khám phá những tầng vỉa sâu thẳm của thế giới bên trong con người. Trong các truyện ngắn của ông, xu hướng triết lí nhận thức ngày càng rõ nét hơn, con người trong tác phẩm luôn khao khát nhận thức, chiêm nghiệm đời sống, tự đối thoại và tự nhận thức mình trong mối tương quan với tự nhiên và xã hội. Đằng sau những câu chuyện đời thường trong Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng… là những chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ đời, là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Các truyện như Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… còn như muốn bao quát thêm nhiều vấn đề có tính lịch sử vào trong cái nhỏ bé của một đời người. Về nội dung phản ánh, ở các truyện này vấn đề không chỉ là “một lát cắt của đời sống” mà đã có tham vọng muốn tái hiện diễn tiến của một cuộc đời, một số phận với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Nhà văn dường như muốn thông qua câu chuyện về một cuộc đời mà gợi lên những vấn đề có tầm vóc dân tộc, thời đại. Muôn mặt đời thường đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, đem lại cho tác phẩm của ông sự đóng góp quan trọng trong việc nỗ lực lấp đầy một khoảng trống của văn chương trước đó bằng cái hằng ngày, bằng những số phận cá nhân trong đời sống cộng đồng. Ông quan niệm: “Con người vừa dễ hiểu vừa đầy bí ẩn. Chúng ta đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người đất nước mình thì sẽ gặp con người nhân loại, sẽ gặp cái nhân bản của nhân loại, con người Việt Nam sẽ giao hòa với nhân loại” [14,tr.144]. Việc tìm tòi, khám phá, đào sâu vào bản chất con người cũng là con đường để tác phẩm của ông vươn đến tiếp cận với những giá trị vĩnh hằng của cuộc đời. Song song với việc mở rộng diện phản ánh dưới một góc nhìn mới, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng có nhiều thay đổi về bút pháp thể hiện. Quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi tất yếu kéo theo nhiều sự thay đổi về nghệ thuật biểu đạt: từ nhân vật đến cốt truyện, tình huống, giọng điệu, ngôn ngữ … Một điều đáng ghi nhận nữa là về mặt dung lượng, một số truyện ngắn sau 1975 có xu hướng mở rộng số trang nhiều hơn thông thường. Có khá nhiều truyện dài trên 60 trang (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát ), đặc biệt có truyện dài đến cả 100 trang như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Có lẽ vì vậy mà nhiều người đã gọi những truyện này là truyện vừa chứ không phải truyện ngắn. Để lí giải cho việc Nguyễn Minh Châu chuyên tâm về thể loại truyện ngắn trong giai đoạn thập niên 80, ta cần phải nhắc đến ý kiến của ông trong cuộc trao đổi do tuần báo Văn nghệ tổ chức: “Cái đời sống của ngày hôm nay nó bắt tôi phải quan tâm…, tôi muốn dùng ngòi bút tham gia trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu bên trong mỗi người…”. Và theo như lời ông nói: “Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sống hoặc báo động một điều gì” [58, tr.294]. Như vậy, lí do chính nằm ở tính kịp thời và khả năng tác động mạnh mẽ của truyện ngắn trong việc thể hiện những vấn đề nóng hổi của cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, tính hàm súc và khả năng khái quát ở chiều sâu của truyện ngắn giúp cho nhà văn vẫn có thể biểu hiện được những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn qua những câu chuyện đời thường. Phát huy thế mạnh của thể loại, truyện ngắn chính là nơi chuyên chở những tư tưởng nghệ thuật mới của Nguyễn Minh Châu. Sự đầu tư của ông cho thể loại truyện ngắn đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp, đồng thời góp phần tạo nên một diện mạo mới cho văn học nước nhà. 1.2.2. Hành trình đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong hành trình đổi mới văn xuôi Việt Nam (từ văn học thời chiến sang văn học thời hậu chiến và thời hội nhập) 1.2.2.1. Văn xuôi Việt Nam – từ văn học thời chiến sang văn học thời hậu chiến (sau 1975) Năm 1975 là một mốc son lịch sử đánh dấu một thời kì mới của đất nước. Chiến tranh đã đi qua và đất nước bước vào thời kì xây dựng trong hòa bình. Văn học cũng như nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác đứng trước yêu cầu cần phải có sự thay đổi để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống sau chiến tranh. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến; từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. Những năm đầu sau 1975, văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và những cảm hứng chủ đạo trong thời kì chiến tranh trước đó. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giao thời này, ở một số cây bút nhạy cảm với những vấn đề của đời sống, ý thức muốn đổi mới đã bộc lộ qua việc thay đổi cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống. So với thơ ca, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển, Cù lao Tràm), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê)… ra đời và được bạn đọc hoan nghênh đón nhận. Các sáng tác nói trên đã khởi ra một hướng tiếp cận mới, chú ý nhiều đến mảng hiện thực đời thường, đặc biệt là các vấn đề đạo đức – thế sự. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), văn học thật sự bước vào thời kì đổi mới. Đường lối đổi mới của Đảng đã tạo động lực lớn lao cho sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Không khí dân chủ được đề cao hơn. Văn xuôi tiếp tục khởi sắc với nhiều tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao như Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp…Tiếp tục hướng đi đã được khai mở ở chặng trước, nhiều cây bút đã đi vào “thể hiện mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng” [45, tr.12]. Hiện thực đời sống được khám phá trên nhiều phương diện, nhất là đời sống nội tâm con người với những trăn trở, khát vọng thầm kín mà trước đây văn học thời chiến tranh chưa có điều kiện nói đến. Tinh thần nhân văn, ý thức cá nhân đã trở thành cảm hứng sáng tạo cho các văn nghệ sĩ. Cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã có nhiều tìm tòi đổi mới về những phương diện nghệ thuật. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng các thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh, đa giọng điệu… Nhìn chung, văn học Việt Nam từ sau 1975 trong đó có văn xuôi đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, đổi mới các quan niệm về văn học, quan niệm nghệ thuật về con người, phát huy cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới về nghệ thuật. 1.2.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa có tính tổng hợp cao Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phân loại truyện ngắn. Dựa vào tiêu chí phân loại là tư duy nghệ thuật, có thể chia truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 theo các loại hình truyện ngắn sử thi hóa và loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa. Khảo sát sơ bộ về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong quá trình sáng tác, có thể thấy trong giai đoạn đầu, truyện ngắn của ông được sáng tác theo hướng sử thi hóa, chuyển sang giai đoạn sau 1975 là những truyện ngắn được sáng tác theo hướng tiểu thuyết hóa. Cũng như nhiều sáng tác của giai đoạn 1945 – 1975, một giai đoạn mà văn học “có đặc điểm gần gũi và mang “tính tương đồng” về chất liệu và nội dung phản ánh hiện thực” [19, tr.314], truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mang đậm tính chất sử thi trên nhiều phương diện. Nói đến truyện ngắn sử thi hóa không phải là muốn đề cập đến quy mô sử thi của tác phẩm mà chủ yếu muốn nói đến tính chất sử thi trong tư duy nghệ thuật, trong cách nhìn nhận con người và đời sống hiện thực. Biểu hiện của truyện ngắn sử thi hóa là ở sự chiếm lĩnh và bao quát những vấn đề hiện thực lớn lao của dân tộc, của đất nước; giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm là ngợi ca, khẳng định; nhân vật được khai thác chủ yếu ở những nét đẹp tiêu biểu cho phẩm chất và ý chí của cộng đồng; trong truyện luôn tồn tại một “khoảng cách sử thi” [2, tr.35,38] giữa nhân vật và chủ thể trần thuật… Hoàn cảnh đất nước ta trong giai đoạn 1945- 1975 là một hoàn cảnh đặc biệt. Đối mặt với hai cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và chống Mĩ, vấn đề được quan tâm hàng đầu là sự sống còn của cả dân tộc. Yêu cầu đặt ra cho tất cả mọi người lúc này là phải lấy trách nhiệm công dân, nghĩa vụ đối với đất nước làm phương châm hành động, là thước đo cao nhất để định giá mọi giá trị. Văn học giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy việc phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng làm nhiệm vụ hàng đầu. Ý thức công dân cùng với nhiệt tình của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng đã thúc giục các nhà văn hòa mình vào cuộc sống chiến đấu lao động của nhân dân, kịp thời phản ánh và biểu dương những việc làm tốt, những tấm gương anh hùng. Những vấn đề khác trong cuộc sống của con người tạm thời được gạt sang một bên, hoặc có được đề cập đến thì cũng chỉ là để thêm chút “gia vị” làm cho hình ảnh “con người mới” thêm sinh động. Những vấn đề của cuộc sống đời thường được nâng lên tầm sử thi, được soi chiếu theo góc nhìn của các quan hệ chính trị. Xét truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975, ta thấy nhà văn đề cập chủ yếu đến hai mảng hiện thực lớn là cuộc sống chiến đấu chống giặc ngoại xâm, công cuộc xây dựng chế độ mới và những khoảnh khắc đời thường của con người trong bối cảnh của cuộc sống thời chiến. Không khí chiến trường không chỉ có ở nơi tiền tuyến mà còn hiện diện ở cả hậu phương, trong thao trường huấn luyện và cả trong những giây phút riêng tư của cuộc sống gia đình. Có thể nói đây cũng là những không gian mang màu sắc sử thi của thời đại. Bám sát hiện thực đời sống chiến tranh, Nguyễn Minh Châu kịp thời có nhiều truyện ngắn viết về đủ loại quân binh chủng, từ những người lính phòng không (Những vùng trời khác nhau, Câu chuyện trên trận địa…), những chiến sĩ hải quân (Lá thư vui), bộ đội giao thông, thanh niên xung phong (Mảnh trăng cuối rừng)… Bên cạnh những truyện ngắn viết về cuộc chiến chống Mĩ cứu nước, nhà văn cũng còn mở rộng sang những mảng đề tài khác như câu chuyện về cuộc nổi dậy của những người dân quê năm đói Ất Dậu (Những hạt thóc lép), một người phụ nữ với cuộc đời mới ở một nông trường khai hoang (Đất rừng)… Dù viết về đề tài gì thì chung quy lại vẫn không nằm ngoài những vấn đề được quan tâm hàng đầu của cả đất nước lúc bấy giờ. Qua những câu chuyện dù bình thường hay bất ngờ, đầy kịch tính, cái đích cuối cùng vẫn là biểu dương vẻ đẹp của con người sống hết mình cho lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Các nhân vật như Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng), Sơn, Lê (Những vùng trời khác nhau), Ngạn (Nguồn suối),…được xây dựng như là những biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời đại. Họ đều là những con người giàu lòng yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng. Cuộc đời riêng của họ hòa vào cuộc đời chung của dân tộc. Những suy nghĩ riêng tư của họ nếu có thì cũng hướng về cái chung, vì lợi ích của tập thể, của số đông. Những câu chuyện của họ cũng là của nhiều người, bên cạnh họ luôn có sự hiện diện của tổ chức, của đồng đội, của nhân dân sẵn sàng ủng hộ, giúp đỡ. Tính cách của nhân vật vì vậy có tính nhất quán, được khai thác chủ yếu ở các khía cạnh tích cực. Nhà văn dùng những lời lẽ hết sức trân trọng để ca ngợi vẻ đẹp của họ. Giọng điệu chính trong tác phẩm là giọng ngợi ca, tự hào, khẳng định. Trong những truyện ngắn sử thi này, chiều hướng vận động của cốt truyện nhìn chung đều phát triển theo mô hình đơn nhất. Số phận của nhân vật thường trải qua những biến cố bất lợi ban đầu nhưng cuối cùng đều kết thúc trong thắng lợi hoặc tạo ra một niềm tin lạc quan về sự chiến thắng. Chính điều này cũng góp phần tạo nên âm hưởng lãng mạn hào hùng cho hầu hết các tác phẩm. Một điều đáng lưu ý là bên cạnh những truyện ngắn đậm chất sử thi được đánh giá cao như Mảnh trăng cuối rừng, ở một số truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này còn xuất hiện màu sắc đời tư rõ nét. Ở các truyện như Chuyện đại đội, Lá thư vui, Đất rừng, chất đời tư thể hiện qua những chi tiết gần gũi ấm áp tình người, những cảm xúc cùng sự quan tâm mà con người dành cho nhau. Đấy là những chi tiết xoay quanh sự ra đời của chú nghé con trong doanh trại của một đại đội, chi tiết về những giây phút hồi hộp đầy thương yêu của cô trò lớp mẫu giáo khi nhận được nhhững bức thư từ tiền tuyến, chi tiết về cảnh ngộ éo le trước khi lên công trường khai hoang của cô Ngàn trong Đất rừng. Chất đời tư trong những tác phẩm này một mặt có tác dụng điểm xuyết để câu chuyện thêm sinh động, mặt khác làm cho chất sử thi trong truyện mang một nét mới không còn giống với đặc điểm sử thi truyền thống. Riêng trong truyện Đất quê ta, cách nhìn cùng vấn đề mà tác giả đặt ra hoàn toàn khác các tác phẩm vừa nêu. Qua câu chuyện về cô diễn viên điện ảnh tên Hương mải mê chạy theo những ảo ảnh phù hoa để rồi gia đình tan vỡ, tác giả muốn đặt ra vấn đề về sự tha hóa trong nhân cách con người, sự lựa chọn của mỗi người để đem lại hạnh phúc cho mình và người thân. Dĩ nhiên truyện ngắn này trở thành tiếng đàn lạc điệu trong dàn đồng ca sử thi thời ấy, nhưng đã hé lộ một hướng đi sẽ được nhà văn triệt để khai thác sau này. Khác với tư duy sử thi, tư duy tiểu thuyết “là một cách nhìn, cách tiếp cận với thế giới và con người hết sức tỉnh táo, phi huyễn hoặc, phi thành kính, xóa bỏ mọi khoảng cách, đó là sự cảm thụ sống động tính phức tạp vô tận, tính mâu thuẫn nội tại và sự biến động liên tục của sinh tồn, đó là sự phát hiện ra con người nhiều chiều, con người không đồng nhất với chính mình, không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã hội – lịch sử hiện hữu của mình, với những mối quan hệ biện chứng chằng chịt giữa tính cách và hoàn cảnh của nó” [58, tr.348]. Trong giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chuyển dần sang xu hướng tiểu thuyết hóa mà biểu hiện chủ yếu là sự quan tâm đến những vấn đề của đời thường, của số phận con người trong những mối quan hệ đa dạng, phức hợp của đời sống; cảm hứng ngợi ca, khẳng định được thay bằng cảm hứng suy tư, chiêm nghiệm; nhân vật được khám phá ở chiều sâu tâm lí cùng với những mâu thuẫn giằng xé phức tạp; khoảng cách trần thuật giữa nhân vật và chủ thể trần thuật dần thu hẹp; tính thống nhất sử thi đã bị phá vỡ, thay vào đó là sự đa giọng điệu với nhiều tiếng nói khác nhau… Lấy thể tài đời tư, đời thường làm trung tâm cho cảm quan nghệ thuật, nhà văn hướng cái nhìn của mình vào hiện thực bề sâu trong số phận con người. Những vấn đề lớn lao của cuộc sống sau chiến tranh được xu hướng tiểu thuyết hóa kéo xuống mặt bằng đời thường. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được khai thác nhưng bắt đầu được nhìn với những góc độ khác trước. Trong Bên đường chiến tranh, dù vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp trữ tình quen thuộc trước đó nhưng câu chuyện tình của An và Hạnh đã mang một sắc thái khác. Chiến tranh đã để lại một dấu ấn buồn lên cuộc tình đẹp của họ trong sự chờ đợi mỏi mòn đến tận cuối đời của nhân vật. Đến Cơn giông, Cỏ lau… bộ mặt chiến tranh còn hiện ra ở cả mặt trái khốc liệt của nó với những mất mát, đau thương không gì bù đắp nổi, con người hiện ra không chỉ với lòng dũng cảm cao thượng mà còn ở những ích kỉ nhỏ nhen, cả ở sự phản bội. Những vấn đề đời tư tạm gác lại trong giai đoạn trước, bây giờ lại được đặt ra cụ thể với sự thôi thúc quyết liệt hơn. Đó là các vấn đề hạnh phúc cá nhân, những cô đơn, nỗi buồn của con người, những nguyên tắc ứng xử giữa con người trong mối quan hệ phức tạp của đời thường…Nhà văn quan tâm đến mọi chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày như trong các truyện Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K…Nhà văn nhập thân vào nhân vật, nói lên tiếng nói bên trong của nhân vật với nhiều suy tư ngẫm ngợi về bản thân và cuộc đời. Nhân vật không còn là những mô hình trùng lặp mà trở nên sinh động hơn trong tính toàn vẹn chỉnh thể của nó và cũng chính vì vậy mà không hề đơn giản dễ hiểu. Các nhân vật như Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), lão Khúng (Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát) sẽ còn tiếp tục làm nhiều thế hệ người đọc phải tranh luận mà không dễ đi đến những thống nhất. Trong cái nhìn không còn bị ngăn cách bởi những quan niệm, định kiến cũ kĩ, nhà văn nhìn thấy trong mỗi con người là một thế giới riêng với biết bao điều vừa giản dị vừa phức tạp, vừa tầm thường vừa hết sức cao thượng, đẹp đẽ. Bên cạnh sự chuyển đổi từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 còn có xu hướng tổng hợp vào bản thân mình đặc điểm của các thể loại khác. Có thể gọi đây là xu hướng phức thể hóa, tức là ngoài những yếu tố thuộc về bản chất của thể loại, truyện ngắn còn pha trộn thêm các yếu tố của tiểu thuyết, trữ tình, kịch… Rõ nét nhất là sự pha trộn với chất tiểu thuyết mà biểu hiện trước hết là sự nới rộng về kích thước và phạm vi phản ánh. Phạm vi cuộc sống được phản ánh không còn bó hẹp trong một không gian, thời gian giới hạn. Dung lượng truyện nở rộng cho phép tái hiện không chỉ là một khoảnh khắc của đời sống mà còn là câu chuyện về một đời người, một thế hệ, một dòng họ… Lấy Phiên chợ Giát làm ví dụ. Đọc truyện này ta dễ dàng nhận thấy nó không đơn giản chỉ là một “lát cắt” của cuộc đời, mà là một cuộc đời thật sự, vắt mình qua nhiều giai đoạn của lịch sử đất nước. Nhiều vấn đề có ý nghĩa tầm cỡ đã được gợi lên từ câu chuyện của một gia đình nông dân, không chỉ là chuyện một đời, một người mà còn là chuyện của một thời, một đất nước. Tuy nhiên, tác phẩm này không là tiểu thuyết mà vẫn là một truyện ngắn nhờ vào cách tổ chức có tính dụng ý của tác giả. Nội dung câu chuyện có thể mở ra nhiều chiều kích đa dạng nhưng vẫn được khéo léo khuôn vào trong một tình huống cụ thể – cái tình huống của hành trình giải thoát cho con Khoang đen chợt nảy lên trong suy nghĩ bất chợt của lão Khúng có được từ những giấc mơ đầy ám ảnh. Và khi gấp sách lại, người đọc vẫn không thể nào dứt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh cái giây phút trớ trêu khi người chủ và con bò nhìn nhau ảo não, phiền muộn. Chính tình huống truyện và cái ấn tượng mạnh mẽ mà nó đem lại đã đảm bảo cái chất “ngắn” cho thiên truyện. Nói cách khác, truyện mang trong mình cái tham vọng của tiểu thuyết muốn khái quát cuộc đời ở một tầm vóc lớn lao hơn nhưng về cấu trúc vẫn có tính chặt chẽ của một truyện ngắn. Tầm khái quát được nâng lên một mặt đòi hỏi truyện ngắn phải tăng cường độ nén để có thể ôm chứa được nh._.trong phương thức trần thuật, những đổi mới trong lời văn nghệ thuật cũng đã góp phần đem đến cho truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu những gam màu giọng điệu mới. Những thay đổi về hệ thống ngôn từ cũng như việc tổ chức lời văn làm cho truyện của ông dần trở nên thân mật, gần gũi hơn, chất suy tư triết luận cũng nhiều hơn. Như đã đề cập ở phần trước, bên cạnh sự trang nghiêm, chuẩn mực thường thấy, trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 75, bắt đầu xuất hiện thứ ngôn ngữ thân mật, suồng sã của đời thường. Các thành phần khẩu ngữ, cảm thán, các từ ngữ xưng hô, những câu văn như lời trò chuyện dân dã… góp phần tạo cho những câu chuyện đời thường có được nét tự nhiên, sinh động. Cũng từ đây, ta có thể bắt gặp trong truyện của ông chất giọng bỗ bã trong lời của các lão nông như lão Khúng, lão Đất (Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, Chợ Tết), chất giọng hồn nhiên tinh nghịch trong lời của các cô bé Hương, Phai (Hương và Phai), chất giọng xuề xòa vô tư trong lời cô Hoằng (Lũ trẻ ở dãy K)… Ngôn ngữ đậm sắc thái cảm xúc cá nhân của các nhân vật góp phần làm sinh động cho hình tượng đồng thời giúp tác phẩm có thêm các chất giọng thân mật của đời thường. Một biến thái của giọng điệu thân mật, gần gũi đời thường là giọng điệu hài hước và giễu nhại trong một số truyện ngắn như Sắm vai, Lũ trẻ ở dãy K, Phiên chợ Giát… Tuy nhiên, đấy là sự hài hước kín đáo và giễu nhại nhẹ nhàng, không có cái riết róng cay độc của một tác phẩm trào phúng thường thấy. Trong Lũ trẻ ở dãy K, hình ảnh cô Hoằng được phác họa bằng những nét vẽ có pha chút cường điệu: “Đến ngày đứa con độc nhất bước lên máy bay cô chỉ còn chưa đầy 50 cân. Những ký thịt đã tan ra thành nước mắt”, “cô đi tới, những múi thịt béo bễu núng níng đều hớn hở cả lên sau lần vải vàng nhạt, hay hồng nhạt, hay xanh nhạt…” [13, tr.288]. Ẩn sau lối miêu tả ngoại hình, tính cách cô Hoằng cũng như cái cách thổi phồng lên sự lo lắng của mọi người, từ ông lão nghiêm nghị đến đứa trẻ ngây thơ trước thông tin “bệnh dại”, ta thấy hiện lên một nụ cười kín đáo của tác giả trước sự hồn nhiên thái quá của con người. Trong Sắm vai, chất giọng hài hước giễu nhại thể hiện qua lời của nhân vật người kể chuyện khi quan sát nếp sống công thức đã thành thói quen của những người trong khu tập thể. Ở đây, thủ pháp tăng cấp đã được tác giả sử dụng triệt để. Bắt đầu từ hình ảnh mọi người thức dậy và cùng làm mọi việc theo một “cái thời khóa biểu tự giác và vô cùng nghiêm ngặt”. Đặc biệt hài hước là hình ảnh: “vào khoảng sáu giờ sáng hoặc trễ hơn mấy phút,… có một nhà ông đầu hói bóng không còn một sợi tóc nào, vậy mà đến cái giờ đó cũng cầm một cái lược chải lật những sợi tóc tưởng tượng” [13, tr.259]. Giọng điệu giễu nhại cũng hiện rõ trong việc miêu tả tình thế oái ăm của nhà văn T., bắt đầu bằng việc anh thức dậy cùng mọi người, rồi việc “đi lắp một hàm răng giả”, “mái tóc đã được nhuộm”, rồi đến cái điệu cười “cười hết cỡ, lúc thì cười mỉm, lúc cười duyên, lúc cười chua chát…” cũng là giả tạo nốt. Lối kể chuyện đã tạo ra cho tác phẩm những nét hài hước nhưng đằng sau vẻ ngoài trào lộng, tác giả chỉ có ý phê phán nhẹ nhàng. Cũng vậy, trong Phiên chợ Giát, sự giễu nhại trong lời lão Khúng khi đối thoại với các vì sao hay đánh giá về thành tích của ông bí thư huyện ủy có cái nhẹ nhàng nhưng thâm thúy. Nhìn những ông sao – “vua chúa hoặc đại thần danh tiếng của thời nay”, lão Khúng buồn cười khi thấy “ngôi sao nào cũng cứ ngỡ mình đang soi sáng mặt đất… các chư vị đang thi nhau nhấp nháy, đang toát mồ hôi hột để rặn ra ánh sáng như đàn bà rặn đẻ…thế mà mặt đất thì vẫn tối thui tối mò” [13,tr.594]. Trong lời của nhân vật, sự đối lập khi đặt cạnh nhau các từ ngữ trịnh trọng (vua chúa, đại thần danh tiếng, chư vị, ánh sáng) và suồng sã (toát mồ hôi để rặn, như đàn bà rặn đẻ, tối thui tối mò) đã giúp tạo nên chất giọng giễu nhại độc đáo. Lão và con Khoang không cần đến ánh sáng của các vị vẫn có thể đi trong đêm tối mà không bị lạc. Tương tự như vậy là nét hài hước giễu cợt được tạo nên bởi lối nói trịnh trọng một cách cố ý khi kể về cái cách bò Khoang đối đãi với ông Bời, đặc biệt ở chi tiết: “nó đá vị chủ tịch huyện một phát vào giữa bụng khiến cho ông ta bổ nhào, úp cả khuôn mặt phương phi đầy cởi mở vào giữa đám ruộng” [13, tr.603]. Trong suốt hành trình tìm kiếm và phát hiện những “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, vẫn còn đó trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chất giọng trữ tình đôn hậu ấm áp nhưng sắc thái ngợi ca đã được hòa lẫn vào những suy tư, ngẫm ngợi, trở nên sâu lắng hơn bởi sự từng trải của nhà văn. Thái độ tin yêu, trân trọng hòa lẫn vào giọng điệu thâm trầm khắc khoải trước những nỗi đau, những bất hạnh mà con người phải gánh chịu trong cuộc đời. Trong Bên đường chiến tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Sống mãi với cây xanh…, nhà văn vẫn dành cho nhân vật của mình, nhất là những nhân vật nữ, một sự trân trọng kín đáo. Tuy nhiên sự ngợi ca ở đây có thêm chất giọng độ lượng, cảm thông, nếm trải. Quan sát giây phút biến động trong tâm hồn cô y sĩ Quỳ, tác giả dành cho chị một lời văn hết sức cảm thông, thấu hiểu: “Thật khó diễn tả cho thật chính xác cái nét buồn trên khuôn mặt Quỳ lúc bấy giờ. Nó có cái gì giống như khuôn mặt của một kẻ biết mình phạm tội, vừa thật thà, chân thành đến tội nghiệp lại vừa ngấm ngầm kiêu hãnh đến khó hiểu. Những người đàn bà như Quỳ… hoặc thống trị đàn ông hoặc bị đàn ông thống trị, thì mới tìm được sự yên ổn”(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) [13, tr.145]. Giọng điệu cảm thông chia sẻ của tác giả làm cho nhân vật dù vẫn có những nét lí tưởng, trở nên gần gũi hơn. Trước những vấn đề đa dạng của đời sống, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 có nhiều sắc thái phong phú và thân mật gần gũi hơn so với trước. Tuy nhiên những giọng điệu hài hước giễu nhại hay dung tục bỗ bã xuất hiện không nhiều. Chủ âm trong truyện của ông có lẽ vẫn là giọng điệu suy tư ngẫm ngợi giàu tính triết lí. Giọng điệu suy tư triết lí này phần lớn được tạo nên bởi những ý nghĩ nội tâm của nhân vật và những đoạn trữ tình ngoại đề xuất hiện rất nhiều trong mạch truyện. Trong Bến quê, lắng đọng lại ở cuối mạch suy tư âm thầm nhưng đau xót của nhân vật Nhĩ là những suy ngẫm mang tính trải nghiệm sâu sắc về giá trị đích thực của cuộc sống con người. Cũng ở tình thế của người cuối đời nhìn lại, ông lão thủ môn trong Dấu vết nghề nghiệp có điều kiện để tổng kết, chiêm nghiệm về những được mất của đời mình. Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhân vật không chỉ suy tư về quá khứ của bản thân mình, trong dòng hồi ức của nhân vật còn có những chiêm nghiệm sâu sắc về khát vọng hạnh phúc, về thiên tính nữ, về những giá trị tinh thần kết đọng “trí tuệ và tài năng trác tuyệt của nhân dân, và mang trong lòng tất cả khát vọng cháy bỏng của nhân dân”…Trong Cỏ lau, bên cạnh nỗi khắc khoải về sự cô đơn, mất mát, những sám hối muộn màng, sự lo lắng khi chứng kiến “cái ác nó mọc ra từ trong máu, trong thịt mình”, còn có cả những suy tư đầy triết lí về đất đai, về chiến tranh, về hình ảnh những “hòn vọng phu đứng nhan nhản”…Tất cả tạo nên một giọng điệu trầm buồn da diết thấm vào lòng người. Có khi chất giọng suy tư được đẩy lên thành nỗi trăn trở nhức nhối như trong Mùa trái cóc ở miền Nam thành một “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người”. Chất suy tư ngẫm ngợi cũng là âm hưởng chính trong rất nhiều truyện khác, đặc biệt rõ trong giọng điệu của những nhân vật tư tưởng là nhà văn, nhà báo, người nghệ sĩ… đóng vai người quan sát và kể lại câu chuyện. Trong nhiều truyện, cũng có khi tác giả đưa triết lí vào lời của những nhân vật không phải là trí thức như lão Khúng, lão Đất, người đàn bà hàng chài, ông lão đi khai hoang…, làm cho những suy tư ngẫm ngợi của nhân vật có thêm màu sắc triết lí dân dã – sự triết lí được đúc rút từ trải nghiệm trong sự va chạm với cuộc đời của người lao động. Ngay cả trong nhóm truyện về đời tư như Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Lũ trẻ ở dãy K, Hương và Phai, đằng sau thái độ tưởng chừng như bình thản, khách quan của người kể chuyện luôn ẩn chứa một sự ưu tư, day dứt. Xen vào mạch truyện, thường luôn có những lời bình luận ngoại đề trong đó ngầm chứa tinh thần phê phán, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của tác giả về những vấn đề đạo đức, lối sống của con người. Hướng tới việc thể hiện một cái nhìn đa chiều về cuộc đời, nhà văn đã tạo cho truyện ngắn của mình nhiều giọng điệu khác nhau, tuy nhiên, chất giọng suy tư ngẫm ngợi giàu tính triết lí vừa nêu dường như thích hợp nhất với “tạng’ người của ông, góp phần làm nên một Nguyễn Minh Châu thâm trầm, điềm đạm, giàu lòng thương yêu đối với con người. KẾT LUẬN Văn học cũng như cuộc đời, luôn là một dòng chảy liên tục bất tận, có lúc mạnh mẽ, mãnh liệt, có lúc quanh co, lắng dịu nhưng không bao giờ đứt đoạn. Trong những khúc quanh ngập ngừng của dòng chảy ấy, rất cần có những xung lực đột phá để khơi dòng, để tìm một hướng đi mới. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam từ sau 1975, giữa lúc nền văn học có dấu hiệu “chững lại và không ít người lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác” [45, tr.10], cùng với sáng tác của một số nhà văn khác, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã trở thành một thứ xung lực góp phần khơi dòng cho văn học của thời kì đổi mới. Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong công cuộc đổi mới văn học Việt Nam những năm sau 1975 là một điều đã được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất nhận định. Sáng tác của ông chắc chắn đã có nhiều ảnh hưởng đối với những nhà văn cùng thời và thế hệ sau, nhưng ảnh hưởng như thế nào và với mức độ nào, luận văn này chưa có điều kiện để làm rõ. Tuy nhiên, có một điều khẳng định là: những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong sáng tác của ông đã góp phần không nhỏ cho quá trình vận động biến chuyển chung của văn học Việt Nam từ giai đoạn 45 – 75 sang giai đoạn của thời kì đổi mới và hội nhập. Đặt vấn đề nghiên cứu những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, luận văn giới hạn việc khảo sát chỉ đối với mảng truyện ngắn, thể loại có sự chuyển biến rõ nét nhất, tiêu biểu nhất và cũng đạt được nhiều thành tựu hơn cả trong sáng tác của ông sau 1975. Qua khảo sát, luận văn đi đến một số kết luận sau: 1.Trong xu thế vận động chung của văn học Việt Nam sau 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ khuynh hướng sử thi dần chuyển sang góc độ đời tư – thế sự. Trước những yêu cầu thúc bách của đời sống, ngòi bút đầy ý thức trách nhiệm của Nguyễn Minh Châu đã có nhiều thay đổi, nhà văn đã mạnh dạn vượt lên chính mình, khước từ lối “văn chương minh họa” để tìm đến một hướng đi mới, một lối viết mới. Đó là bám sát hiện thực của “cái ngày hôm nay”, “đào bằng ngòi bút cho đến tận cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn” trong đời sống con người, để từ đó có thể nói lên được một cách đầy đủ nhất những quan tâm, lo âu trăn trở, những khát khao hạnh phúc của mỗi cá nhân trong cuộc đời. Truyện ngắn, với những ưu thế của một “hình thức tự sự nhỏ gọn” đã giúp nhà văn kịp thời chuyển tải được những ý đồ nghệ thuật mới mẻ của mình. Từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến trong những truyện ngắn giai đoạn trước 1975, ngòi bút nhà văn chuyển hướng quan tâm đến con người thường nhật phức tạp, bí ẩn chưa biết hết… Đó là con người cá nhân với những thăng trầm của số phận, những diễn biến phức tạp của tính cách, những góc khuất bí ẩn trong tâm hồn, những giây phút ưu tư trĩu nặng… Cái nhìn đa chiều giúp cho nhà văn có điều kiện đào sâu phát hiện những mạch ngầm bí ẩn trong thế giới tinh thần của con người, soi rọi cả vào những khoảng tối khuất lấp của tâm linh… Trong hành trình tự ý thức, con người cá nhân trong truyện của ông hiện diện ngày càng đa dạng và đẹp đẽ hơn trong chiều sâu nhân bản đích thực. Quan tâm đến số phận cá nhân của con người trong cuộc sống đời thường, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 vừa có sự mở rộng về biên độ phản ánh, vừa có sự thay đổi trong cách nhìn nhận, lí giải vấn đề. Bên cạnh việc thay đổi cách nhìn đối với số phận con người trong chiến tranh, ngòi bút nhà văn còn hướng đến những vấn đề bức xúc của cuộc sống nhân sinh thế sự. Đó là những vấn đề về đạo đức, lối sống, về những mối quan hệ phức tạp trong đời thường, về những cảnh đời vất vả, éo le,… Xuất phát từ “nỗi lo âu lớn lao và đầy khắc khoải về con người”, truyện của ông giờ đây nói nhiều đến những bi kịch, những nỗi đau, những lời sám hối, những khủng hoảng và cả những hoài nghi… Tuy nhiên, dù viết về điều gì, truyện của ông vẫn toát lên một cái nhìn hết sức cảm thông và thấu hiểu, xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Việc quay về với mạch ngầm nhân bản vốn có của văn học dân tộc đã làm cho những đổi mới của ông không rơi vào cực đoan, những đóng góp của ông sẽ vẫn còn nguyên vẹn giá trị cho đến cả những thời gian sau. 2.Cùng với sự thay đổi trong cảm hứng sáng tác và quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu là quá trình vận động và biến đổi trong nghệ thuật thể loại. Từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa theo xu hướng chung của giai đoạn 1945 - 1975, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã từng bước chuyển sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa mang tính tổng hợp cao.Từ những thể nghiệm ban đầu, sự chuyển đổi này dần kết tinh lại ở giai đoạn cuối đời, đem lại cho sự nghiệp sáng tác của ông nhiều truyện ngắn xuất sắc như Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… Bên cạnh sự vận dụng các yếu tố của tiểu thuyết, sự tổng hợp vào bản thân các yếu tố trữ tình triết luận, kịch, tự truyện… đã giúp cho truyện ngắn sau 1975 của ông khả năng phản ánh đời sống một cách phong phú, linh hoạt và sâu sắc hơn. Trong quá trình tổng hợp thể loại đó, xu hướng tiểu thuyết hóa là chủ yếu, có vai trò chi phối các mối quan hệ tương tác còn lại. Những thay đổi về quan niệm nghệ thuật, sự chuyển đổi về loại hình đã chi phối làm thay đổi các phương diện trong nghệ thuật thể hiện, từ đó có sự chuyển biến về kĩ thuật thể loại, về phương thức tự sự và sự sáng tạo trong lời văn nghệ thuật: Nếu như kết cấu truyện ngắn trước 1975 thường được tổ chức thông qua những cốt truyện, tình huống có “hành động bên ngoài” chiếm ưu thế thì sau 1975, kết cấu truyện ngắn của ông đã thay đổi, thể hiện ở những cốt truyện, tình huống chủ yếu dựa vào “hành động bên trong” của nội tâm nhân vật, những trạng thái tâm lí, cảm xúc…, ở đó sự vận động nội tâm là cơ sở chủ yếu để phát triển cốt truyện. Trong quá trình vận động biến đổi, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng có sự thay đổi về nòng cốt thể loại. Không khuôn theo một mô hình chặt chẽ, cố định, đầy đủ các thành phần như yêu cầu của cốt truyện truyền thống, truyện của ông có sự đa dạng về kết cấu, từ đơn tuyến đến phức hợp, đan xen, chống lấn các mạch chuyện. Ngay từ trước 1975, sự linh hoạt này đã được thể nghiệm trong một số truyện như Câu chuyện trên trận địa, Mảnh trăng cuối rừng. Sau 1975, xu hướng tiểu thuyết hóa tạo điều kiện cho nhà văn thể nghiệm những cách tân của mình về kĩ thuật truyện ngắn. Cấu trúc nòng cốt của truyện ngắn truyền thống đã bị phá vỡ, chủ yếu theo hai hướng. Ở hướng thứ nhất, cốt truyện trở nên mờ nhạt, ít sự kiện, ít xung đột, thường khuôn vào những tình huống chiêm ngiệm, đầy ắp suy tư về nhân sinh, thế sự. Ở hướng thứ hai, hướng chủ yếu, ta thấy truyện có sự nở rộng về dung lượng, hiện thực phản ánh cũng mở rộng ra nhiều chiều với nhiều vấn đề hơn. Trong những truyện loại này, nòng cốt truyện đã được biến đổi, từ đơn tuyến đến đa tuyến, từ một tình huống chủ yếu đến nhiều tình huống đan xen. Nhà văn sử dụng thường xuyên hơn các kĩ thuật nối kết, lắp ghép, lồng truyện, phân rã cốt truyện… của kĩ thuật tiểu thuyết. Những tuyến sự kiện thường được xâu chuỗi thông qua mạch vận động tâm lí của nhân vật trung tâm, những mảng thời gian, không gian bị phân cắt thường được nối kết thông qua những đoạn hồi ức của nhân vật, nhờ vậy truyện vẫn đảm bảo có một sự thống nhất chặt chẽ. Cùng với những chuyển biến về kĩ thuật thể loại, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng có nhiều thay đổi về nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng biểu tượng, về phương thức trần thuật... Nghệ thuật xây dựng nhân vật chuyển biến theo hướng đi sâu miêu tả thế giới nội tâm phức tạp bên trong con người. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm xuất hiện ngày càng đậm đặc trong mạch trần thuật. Tăng cường độc thoại nội tâm trở thành phương thức nghệ thuật hữu hiệu để diễn tả quá trình tự ý thức của nhân vật và cho phép đi sâu khám phá thế giới bên trong đầy bí ẩn của con người. Bên cạnh đó, nhà văn cũng chú trọng việc khắc họa nhân vật thông qua những chi tiết tâm lí xác thực, tinh tế và những chi tiết ngoại hình gắn với ý thức và quá trình tự ý thức của nhân vật. Hệ thống hình ảnh biểu tượng được dùng như những tín hiệu thẩm mĩ giàu sức truyền cảm và đa nghĩa, thường xuất hiện như là một phần không thể thiếu trong truyện của Nguyễn Minh Châu, nay cũng có sự thay đổi về tính chất. Những hình ảnh biểu tượng trong giai đoạn sau 1975 có ý nghĩa phong phú hơn, cách sử dụng cũng linh hoạt hơn trong cái nhìn đa chiều của nhà văn về đời sống hiện thực. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng có nhiều thay đổi quan trọng mà biểu hiện trước hết là ở việc dịch chuyển, phối hợp linh hoạt các điểm nhìn, vai kể, ở sự rút ngắn khoảng cách trần thuật giữa người kể chuyện và nhân vật. Truyện không còn bị chi phối bởi một quan điểm trần thuật duy nhất. Vang lên trong mạch trần thuật là nhiều tiếng nói khác nhau, tính đối thoại của tác phẩm cũng được thể hiện rõ nét hơn. Sự dịch chuyển linh hoạt các điểm nhìn trần thuật cũng làm cho hiện thực được tái hiện đa chiều ở nhiều góc cạnh, không chỉ thể hiện được những bí ẩn sâu kín trong tâm hồn con người mà còn hướng cái nhìn đến nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống nhân sinh. Tính chất các loại diễn ngôn trong truyện ngắn của ông cũng thay đổi trong mối quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc. Bên cạnh sự mực thước, trang trọng vốn có, lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn của ông giờ đây có thêm sự đa dạng của các chất giọng đời thường, thể hiện trong hệ thống ngôn từ, trong cấu trúc diễn đạt… Bên cạnh giọng điệu ngợi ca đậm chất trữ tình hồn hậu, giờ có thêm các giọng thân mật, suồng sã, hài hước, giễu nhại…, trong đó nổi lên chủ âm là một giọng điệu suy tư ngẫm ngợi giàu tính triết lí. 3.Trên nhiều phương diện, sự đổi mới trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã góp phần xác định vị trí tiên phong cũng như những đóng góp không nhỏ của ông cho sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975. Tuy nhiên đây không phải là quá trình thay đổi có tính chất đứt đoạn. Từ bên trong, đó là một quá trình chuyển tiếp có sự điều chỉnh, tiếp nối những tìm tòi thể nghiệm từ giai đoạn trước. Xét trong cả quá trình vận động và phát triển qua hai giai đoạn, người đọc vẫn nhận ra được một Nguyễn Minh Châu hết sức nhất quán trong lối nghĩ, lối viết. Đó là một khả năng quan sát sắc sảo, biết nắm bắt và khái quát vấn đề từ những chi tiết nhỏ nhặt của đời thường, năng lực phân tích tâm lí tinh tế, lối trần thuật đậm chất triết lí…, và trên hết là một tấm lòng nhân hậu đối với con người và cuộc đời, ý thức trách nhiệm của một ngòi bút luôn lo âu trăn trở về những vấn đề đặt ra trong cuộc sống… Với những thành tựu đạt được trong thể loại truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu đã đi được một chặng đường dài trong quá trình đổi mới nghệ thuật của mình. Từ đó cũng đặt một phiến đá mở đường cho những thay đổi của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam giai đoạn thời hậu chiến và hội nhập. Những vấn đề mà nhà văn nêu ra trên từng trang viết của mình, cho đến tận ngày hôm nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, vẫn có sức lay động mạnh mẽ đối với tâm hồn người đọc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 2. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 3. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Lê Huy Bắc (2003), Ernest Hemingway núi băng và hiệp sĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Bình (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường – Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nxb Giáo dục, TpHCM. 6. Nam Cao (2000), Truyện ngắn tuyển chọn, Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nguyễn Minh Châu (1970), Những vùng trời khác nhau, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu (1984), Mảnh trăngcuối rừng, Nxb Văn học, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu (2005), Dấu chân người lính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 12. Nguyễn Minh Châu (1987), Chiếc thuyền ngoài xa, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 13. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 15. Phạm Vĩnh Cư (2007), Sáng tạo và giao lưu, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Trần Ngọc Dung (2004), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam những năm 1930 – 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 18. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 19. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 20. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt nam, lịch sử - thi pháp – chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 21. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Nguyễn Thị Hồng Giang,Vũ Lê Lan Hương,Võ Thị Thanh Hà (2007), Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học – vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 25. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lí luận văn học Trung Quốc, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, TpHCM. 26. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường vào văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 28. Bùi Hiển (2001), Nằm vạ (tập truyện ngắn), Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 29. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 30. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 31. Nguyễn Thái Hòa (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Nguyễn Thái Hòa (2006), Từ điển tu từ - phong cách – thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Đỗ Kim Hồi, Trần Đăng Xuyền (1994), Giảng văn văn học Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 34. Nguyễn Văn Kha (2002), Văn học cảm nhận và suy nghĩ, Nxb KHXH, TpHCM. 35. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000, Nxb ĐHQG, TpHCM. 36. Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 37. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb Giáo dục, TpHCM. 38. Nguyễn Trọng Khánh (2006), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 39. M. B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội. 40. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945-1975, Nxb ĐHQG Hà Nội. 41. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb KHXH, Hà Nội. 42. Kim Lân (2008), Vợ nhặt (tập truyện), Nxb Văn học, Hà Nội. 43. Nguyễn Văn Long (2003), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 44. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 45. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 46. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam… (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Phương Lựu (2005), Lí luận văn học hiện đại phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 48. Phương Lựu (2005), Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 49. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Muốn viết được bài văn hay, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 52. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân (1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 53. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX cho tới 1945, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 54. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 55. Nhiều tác giả (1986), Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 56. Nhiều tác giả (1981), Văn 1957 – 1982 tạp chí Văn nghệ quân đội, Nxb VNQĐ, Hà Nội. 57. Nhiều tác giả (2000), Phân tích bình giảng văn học chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội. 58. Nhiều tác giả (2007), Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 59. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: Tác phẩm – Phê bình – Nhận định, Nxb Đồng Nai. 60. Nhiều tác giả (2004), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 61. Nhiều tác giả (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 62. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại và văn học, Nxb Đại học Quốc gia, TpHCM. 63. Nhiều tác giả (2008), Bình luận văn học – niên giám 2007, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TpHCM. 64. Nhiều tác giả (2005), Lí luận phê bình văn học thành phố Hồ Chí Minh 1975 – 2005, Nxb Hội Nhà Văn, Hội Nhà văn TpHCM. 65. Nhiều tác giả (2005), Văn mới 5 năm đầu thế kỉ - Hợp tuyển truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 66. Nhiều tác giả (2007), Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, Nxb Công an nhân dân, TpHCM. 67. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 68. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn chọn lọc viết về các nhà văn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 69. Nhiều tác giả (2008), Truyện ngắn 50 cây bút nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 70. Nhiều tác giả (2000), Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 71. Nhiều tác giả (2008), Bút máu (tập truyện ngắn chọn lọc), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 72. Nhiều tác giả (2006), Giảng văn văn học Việt nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 73. Nhiều tác giả (2006), Bình luận văn chương (văn học trong nhà trường), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 74. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội. 75. Vũ Trọng Phụng (1999), Toàn tập – tập 5: Truyện ngắn, Kịch, Dịch thuật, Tiểu luận, Tạp văn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (2003), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 77. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường ĐHSP TpHCM. 78. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, tập 2, Những công trình lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng, La Khắc Hòa, Lê Lưu Oanh (2004), Giáo trình Lí luận văn học, Nxb ĐHSP, Hà Nội. 80. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb ĐHQG Hà Nội. 81. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 82. Phạm Thị Thật (2009), Truyện ngắn Pháp cuối thế kỉ XX – một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 83. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục, TpHCM. 84. Nguyễn Huy Thiệp (2007), Truyện ngắn, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TpHCM. 85. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 86. Đỗ Lai Thúy (2002), Chân trời có người bay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 87. Tzevan Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kì ảo, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 88. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục, TpHCM. 89. Nguyễn Tuân (2004), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 90. Nguyễn Duy Từ (2004), Truyện ngắn Nam Cao từ lãng mạn đến hiện thực, Nxb Thuận Hóa, Huế. 91. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90, Luận án tiến sĩ ngành Ngữ văn, Trường ĐHSP TpHCM. … PHỤ LỤC DANH SÁCH CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU ĐƯỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN Trước 1975 Sau 1975 STT Tên truyện STT Tên truyện 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 Sau một buổi tập Con đường đến trường học Buổi tập cuối năm Gốc sắn Đôi đũa trúc Đất rừng Đất quê ta Trên vùng đất sỏi Những hạt thóc lép Vừng sáng ở chân trời Câu chuyện trên trận địa Nguồn suối Nhành mai Lá thư vui Những vùng trời khác nhau Chuyện đại đội Người mẹ xóm nhà thờ Mảnh trăng Ký sự hai bờ đất Mùa hè năm ấy 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 Mẹ con chị Hằng Bên đường chiến tranh Hạng Bức tranh Đứa ăn cắp Sắm vai Giao thừa Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Cơn giông Hương và Phai Dấu vết nghề nghiệp Lũ trẻ ở dãy K Bến quê Chiếc thuyền ngoài xa Một lần đối chứng Khách ở quê ra Sống mãi với cây xanh Cỏ lau Mùa trái cóc ở miền Nam Phiên chợ Giát Chú chim Chợ Tết Sân cỏ Tây Ban Nha ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5452.pdf
Tài liệu liên quan