BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-----------------------
NGUYỄN THỊ THANH MAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾNTRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-------------------------
NGUYỄN THỊ THANH MAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI H
170 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Những chuyển biến trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa ngữ văn, Phòng công nghệ sau đại học, Thư viện
Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tài liệu… cho chúng tôi học tập tốt.
Xin gửi lời cảm ơn tới các quý thầy cô đã tận tình giảng dạy, cung cấp tài
liệu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới thầy hướng dẫn
trực tiếp luận văn của tôi: Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi. Thầy đã tận tình chỉ bảo,
gợi ý, dẫn dắt, cung cấp tài liệu và sửa chữa cho tôi trong suốt quá trình làm đề
tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã tạo điều kiện mọi mặt để tôi có
thể hoàn thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, đồng nghiệp Trường THPT Nhơn
Trạch – Đồng Nai đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập.
TP. Hồ Chí Minh ngày 28/4/2008
Người viết
MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài:
Ma Văn Kháng xuất hiện trong văn học hiện đại Việt Nam như một hiện
tượng đặc sắc. Khối lượng tác phẩm đồ sộ với hàng chục tập truyện ngắn, gần hai
chục cuốn tiểu thuyết có giá trị đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Đặc biệt những năm 80, khi đất nước chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị
trường, một số tiểu thuyết của ông như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn,
Đám cưới không có giấy giá thú... thu hút sự chú ý của độc giả và các nhà nghiên
cứu, phê bình. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, tranh luận gay gắt cần
được tiếp tục phân tích, lý giải xác đáng.
Hai giai đoạn sáng tác của Ma Văn Kháng có dấu mốc rõ nét mà khi nghiên
cứu một mặt ta sẽ hiểu đúng hơn những đóng góp của ông, mặt khác ta sẽ thấy
được sự chuyển biến của các nhà văn khác trong sự vận động của văn học.
Một số tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim, được đưa vào
chương trình giảng dạy ở phổ thông như Mùa lá rụng trong vườn, Người giúp
việc, Xa phủ ... Do đó, luận văn sẽ góp phần tìm hiểu, khẳng định vị trí của nhà
văn trong văn học hiện đại Việt Nam.
Mục đích của luận văn là tìm hiểu, phân tích một cách có hệ thống hai
chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong sự vận động phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam để thấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiểu
thuyết Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung vào những tác
phẩm sau đây:
Đồng bạc trắng hoa xòe
Vùng biên ải
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
Mưa mùa hạ
Mùa lá rụng trong vườn
Đám cưới không có giấy giá thú
Ngược dòng nước lũ
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử: Xem xét sự vận động phát triển của văn học Việt
Nam nói chung, sáng tác của Ma Văn Kháng nói riêng trong dòng chảy ấy. Qua đó
thấy được những đóng góp của nhà văn trong việc đổi mới văn xuôi hiện đại.
Phương pháp hệ thống: Xem xét sáng tác của nhà văn trong tính hệ thống
với nhiều cấp độ khác nhau..
Phương pháp loại hình: Xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình
thể tài, loại hình văn xuôi nghệ thuật...
Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
với tiểu thuyết của một số nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu... để chỉ
ra sự tương đồng, khác biệt về một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của văn học.
Bên cạnh đó là sự so sánh về nội dung và nghệ thuật ở hai chặng đường sáng tác
của chính tác giả để nhận thấy sự chuyển biến có ý nghĩa đổi mới.
4. Lịch sử vấn đề:
Ma Văn Kháng là một nhà văn có quá trình sáng tác dài và liên tục đã gần
nửa thế kỉ. Số lượng truyện ngắn, tiểu thuyết khá đồ sộ. Đặc biệt, tiểu thuyết của
ông có sự chuyển biến rõ rệt về cả nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, đã có
nhiều những bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét. Lấy mốc chuyển biến trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng là cuốn “Mùa lá rụng trong vườn”, luận văn sẽ đi vào
khảo sát lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng theo hai chặng đường
sáng tác: Trước và sau “Mùa lá rụng trong vườn” đặc biệt là những phát hiện
cách tân trong tiểu thuyết của nhà văn thời kì đổi mới.
Trước “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài miền
núi:
Với những tác phẩm viết về cuộc sống con người miền núi, nhà văn được
nhận định là người có công khai phá đề tài miền núi, đã thành công trong việc
phản ánh hiện thực, làm bật lên hình ảnh cao đẹp, sự hi sinh hết mình của các cán
bộ miền xuôi trong công cuộc giải phóng vùng biên ải, những con người miền núi
thuần hậu mang trong mình nỗi cay đắng tủi nhục, chịu áp bức, bóc lột, phong tục
lạc hậu, sự hèn kém mê muội... và trên hết là một dân tộc bị áp bức luôn khao khát
tự do. Những bài viết giới thiệu, đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê
bình về những tác phẩm này khá nhiều, được đăng rải rác trên các báo, tạp chí như
Hoàng Tiến, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Ngọc Thiện...
Bút pháp miêu tả đặc sắc, hấp dẫn là lời nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu
đối với các tiểu thuyết về miền núi. Nhà văn Hoàng Tiến đã nhận xét rằng
(ĐBTHX) mang một bút pháp đặc sắc, hấp dẫn lôi cuốn người đọc:
Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long
trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây chỉ lộ ra những khúc lượn vàng
son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ, thanh
thoát của toàn bộ con rồng, lối “uống rượu sớm mai”. Độ rượu đủ để ngây ngất,
quá nửa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất
mới là người biết uống rượu[102].
Điều đó có nghĩa là tác phẩm hay, xuất sắc ở những nốt nhấn, và những nốt
nhấn ấy được đặt đúng chỗ, đúng thời điểm nên trong tổng thể nó đã tạo nên vẻ
đẹp toàn diện cho một tác phẩm tương đối đồ sộ. Tác phẩm có ý nghĩa lớn khi nhà
văn đã tái hiện được một giai đoạn lịch sử mà: “Lần đầu tiên được đưa vào trong
tiểu thuyết”[102], đã đốt lên những đốm lửa cách mạng trên vùng núi non trùng
điệp.
Tiểu thuyết (VBA) nối tiếp cuốn (ĐBTHX) được Trần Đăng Suyền đánh
giá là đã thành công trong việc khắc họa tính cách người Hmông và “Ngòi bút
giàu chất thơ của Ma Văn Kháng khi chấm phá những cảnh vật đã vẩy hồn mình
vào đấy khiến cho cảnh vật hiện lên lung linh màu sắc, lộng lẫy rực rỡ, khi vui khi
buồn đều như nhuốm thêm màu sắc tâm trạng của con người ”[77]. Bên cạnh đó
nhà văn Ma Văn Kháng đã chứng minh rằng: “Đồng bào các dân tộc ít người mặc
dù bị chìm đắm trong đau khổ, tối tăm nhưng đều có mầm mống, khả năng cách
mạng”[75]. Bằng hình tượng nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã diễn tả con đường đến
với cách mạng của người nông dân miền núi như Pao, một chàng trai có nhiều
phẩm chất tốt đẹp, như Seng, Tếnh, A Sinh... Công sức của tác giả cũng không
nhỏ khi toàn bộ những biến cố được thể hiện qua gần sáu trăm trang sách ngồn
ngộn những sự kiện, những tư liệu lịch sử.
Với tiểu thuyết (GGƠLPT), mặc dù tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau nhưng
cùng với (ĐBTHX) và (VBA) nó được coi là “bộ ba” (Từ dùng của Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Thiện) tiểu thuyết xuất sắc về đề tài miền núi. Giáo Sư Nguyễn
Ngọc Thiện cho rằng tác phẩm là một “Bức tranh đời sống hiện thực mang tính
chất sử thi về con đường của các dân tộc miền núi phía Bắc làm cuộc đổi đời, đi
theo cách mạng và phát huy được phẩm cách của mình...”[96], “tạo thành một
chùm tiểu thuyết độc đáo làm sáng lên bức tranh lịch sử xã hội hào hùng, bi tráng
của một vùng núi phía tây Bắc nước ta trọn một thế kỉ” [96].
Như vậy, với cuốn tiểu thuyết đóng vai trò tạo nên “bộ ba” hoàn thiện về
đề tài miền núi thì Ma Văn Kháng:
Đã bắt đầu kì vọng về một thứ tiểu thuyết là “nền tảng của một nền văn
học”, là “cỗ đại bác chủ lực” không phải chỉ chuyên chở một dung lượng chất
liệu nghệ thuật lớn, phản ánh một hiện thực lớn... mà hơn nữa, chủ yếu còn là vì
nó đặt ra những vấn đề thiết cốt của nhân sinh, nhân quần, nó tái hiện số phận
con người và cuộc sống; và do vậy gây hứng thú lâu dài, làm giàu có nhân tâm...
đạt tới cõi bí ẩn của văn xuôi là tạo được một âm hưởng sâu xa[96].
Những nhận xét, những đánh giá khách quan, những lời động viên chân
thành là động lực lớn cho nhà văn vững bước trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Nếu như chỉ dừng lại với những sáng tác về đề tài miền núi thì Ma Văn
Kháng cũng đã có công lớn cho nền văn học Việt Nam. Nhưng không chỉ có vậy,
một loạt những tiểu thuyết về thành thị ở giai đoạn sau của ông đã gây ồn ào trong
dư luận. Nhiều ý kiến đánh giá khác nhau càng khẳng định chỗ đứng của nhà văn
trong việc khám phá bản chất cuộc sống con người trong giai đoạn mới.
Sau “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài thành
thị:
Trước những năm 80, văn học Việt Nam bao trùm khuynh hướng sử thi,
cảm hứng lãng mạn ngợi ca. Nhưng từ sau những năm 80, trước nhu cầu “Đổi mới
tư duy tiểu thuyết” mỗi nhà văn phải tự chuyển mình. Một cuộc bứt phá lớn tạo đà
cho hàng loạt các nhà văn tâm huyết khẳng định mình. Ma Văn Kháng là một nhà
văn dồi dào năng lực sáng tạo, một trong những tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy,
tìm một hướng đi mới trong sáng tạo nghệ thuật giai đoạn này.
Với bề dày kinh nghiệm, sự từng trải chiêm nghiệm cuộc đời một cách sâu
sắc và hòa trong không khí đổi mới của văn học nhà văn đã cho ra đời những tác
phẩm có giá trị cao, tác động mạnh vào con người, xã hội giai đoạn đầy biến động.
Tuy có những sự trùng lặp ở nhiều tác phẩm, những lời triết lý, chiêm nghiệm gây
cảm giác nặng nề cho người đọc, những cái kết còn bỏ lửng... nhưng những thành
công đã lấn át tất cả những hạn chế ấy.
Khi thâm nhập vào đề tài về cuộc sống con người thành thị, các nhà nghiên
cứu đã nhận thấy một sự chuyển biến đáng nể phục ở con người này. Bên cạnh
những ý kiến đánh, giá nhận xét sự thành công của tác phẩm thì nhiều nhà nghiên
cứu phê bình còn khẳng định Ma Văn Kháng đã có những cách tân lớn góp phần
cho sự phát triển của văn học, thể hiện rõ thái độ và trách nhiệm lương tâm của
một người cầm bút trước những cái xấu trong cuộc sống. Tiêu biểu có Trần Bảo
Hưng, Hồ Anh Thái, Bích Thu, Nguyễn Thị Huệ, Vân Thanh...
Tiểu thuyết đầu tiên trong giai đoạn này là (MMH). Tác phẩm được Vân
Thanh đánh giá cao vì “Đã thể hiện cách nhìn, thái độ của các nhân vật trước
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Lương tâm, lẽ sống của mỗi người đều bị
thử thách... trước lưới bủa vây của tệ nạn tiêu cực, trong vòng bức bách của vấn
đề cơm áo hàng ngày có khi những quan niệm đạo lý thông thường bị xáo trộn,
gây nên sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người”[87]. Chính vì thế mà từ trong những
trang sách vang lên một tiếng giục giã, đánh thức lương tâm, trách nhiệm của mỗi
người: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn kịp thời những tổ mối tiêu cực
đang sinh sôi nảy nở trong đời sống nếu không chúng sẽ đục ruỗng xã hội và hủy
hoại những giá trị tinh thần vốn đã thành truyền thống của dân tộc”[87]. Điều đó
thể hiện ý thức trách nhiệm của Ma Văn Kháng đối với cuộc sống hiện nay.
Tiểu thuyết (MLRTV) ra đời được coi là đỉnh cao, là dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự chuyển biến của nhà văn vì có nhiều đóng góp cả về nội dung và hình
thức nghệ thuật, đã chứng tỏ sự thâm nhập vững vàng của nhà văn vào xã hội
thành thị đang biến động nơi có những con người đang dần biến chất, tha hóa. Vân
Thanh nhận xét rằng:
Có thể xem Mùa lá rụng trong vuờn là một tiếng nói của tác giả trước hiện
thực hôm nay: Một tiếng nói về quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội, về trách
nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống và cộc sống dành cho mỗi người... tác
phẩm đã khơi được vào dòng chảy của cuộc sống chúng ta hôm nay, đã lẩy ra
được một mảng tươi nguyên của cuộc sống đó, gợi cho ta biết bao suy nghĩ về nó,
lo lắng, băn khoăn về nó, và cũng hi vọng, tin yêu ở nó. Từ đó đặt ra cho mỗi
chúng ta một thái độ sống, một trách nhiệm sống[88].
Ở đó, mỗi con người cần có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của các thành
viên, của gia đình và của cả xã hội.
Tác phẩm cũng đưa ra một cách nhìn mới của nhà văn đối với truyền thống
dân tộc bao đời của người Việt. Truyền thống văn hóa gia đình là cội nguồn nuôi
dưỡng tinh thần, bảo vệ con người tránh xa điều xấu nhưng nay xã hội đã đổi mới
chúng ta cần giữ gìn những cái tốt đẹp và cũng cần loại bỏ những gì không phù
hợp. Trần Bảo Hưng đã khẳng định rằng: “Cần giữ gìn truyền thống văn hóa dân
tộc và truyền thống nếp sống của gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng
của nó trong xã hội mới. Tuy nhiên giữ vững tất cả sẽ không tránh khỏi đổ vỡ, sứt
mẻ, nhưng muốn thoát ly truyền thống, phá vỡ tất cả cũng sẽ dẫn tới bi kịch” [30].
Ở tác phẩm này, với cách nhìn mới về con người nhà văn đã thể hiện thành
công kiểu nhân vật có đời sống nội tâm phong phú, tính cách đa chiều, hấp dẫn
như Lý: “Hình tượng nhân vật khá độc đáo, hấp dẫn. Lý là nhân vật độc đáo hấp
dẫn nhất. Con người này hễ có mặt ở dâu là có khả năng làm cho nơi ấy có không
khí, sinh động hẳn lên”[30]. Những con người ấy chỉ vì dục vọng lại gặp những
nhân tố kích thích nên mới dần bị tha hóa. Vì thế bao trùm toàn tác phẩm là cái
nhìn nhân hậu vị tha của nhà văn.
Sức hấp dẫn của tiểu thuyết này còn ở chỗ: bên cạnh việc làm nổi bật
những nhân vật tha hóa về nhân phẩm thì nhà văn đã đưa ra được “Những hình
ảnh rất đẹp của truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc. Chị Hoài, cô Phượng,
Vân, bà lang Chí... là những tấm lòng trong sáng ngọt ngào, ấm áp, chan chứa
nghĩa tình”[30]. Đồng ý với nhận định này, Trần Cương cho rằng các nhân vật
như chị Hoài, Phượng, Vân... tuy nhà văn dành ít số trang nhưng: “Là những
trang viết cảm động. Nâng niu trân trọng và đồng cảm sâu xa từ trong mỗi việc
làm, mỗi ý nghĩ, mỗi hành vi nho nhỏ ở những nhân vật này, ngòi bút của tác giả
đã tỏ ra tinh tế, làm gia tăng chất nhân văn vốn đã là nền tảng của tác phẩm
này”[11].
Khi tiểu thuyết (ĐCKCGGT) ra đời -1989 một lần nữa tác phẩm của ông lại
được đưa ra để xem xét. Có nhiều sự khen chê, đánh giá khác nhau. Báo văn nghệ
đã phải tổ chức một hội thảo riêng về tác phẩm này.
Phải khẳng định rằng Ma văn Kháng đã dũng cảm khi đặt bút lật xới mặt
trái của xã hội trong một môi trường vẫn được xem là trong sạch nhất. Phải chăng
xuất phát từ sự bức xúc của một nhà giáo từng đứng trên bục giảng nay thấy quá
nhiều những cái xấu, sự bất công nên nhà văn đã mạnh dạn lên tiếng phê phán gay
gắt vào nơi vốn được coi là chốn thiêng liêng cao cả, vào hình ảnh của những
người thầy vốn được coi trọng đề cao. Nhưng thực chất cuốn sách không chỉ bó
hẹp ở phạm vi một ngôi trường, ở những người thầy mà nó còn mang ý nghĩa sâu
rộng hơn, ở nhiều tầng lớp người khác nhau, ở phạm vi toàn xã hội. Giáo sư Phan
Cự Đệ nhận xét về cuộc đời thầy giáo Tự:
Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng
đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một trí thức: anh ta lúc thì đóng
vai một nhà hiền triết, nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một
môi trường mà các già trị tinh thần đang bị đảo lộ, một môi trường bị ô nhiễm, bị
băng hoại về đạo đức và nhân phẩm...[70].
Bên cạnh những đánh giá nhận xét chung về tác phẩm, nhiều nhà nghiên
cứu đã phát hiện ra một số cách tân trong tiểu thuyết của ông. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức trong “Hội thảo về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú” cho
rằng nhiều tác phẩm có giá trị, có chiều sâu nhưng vẫn bộc lộ nhược điểm là chất
chính luận, triết luận tuy sắc sảo nhưng còn bị lạm dụng, nhiều chỗ nên tạo cho
độc giả sự nặng nề. Tuy vậy ông cho rằng “Ma Văn Kháng đã là một trong những
tác giả đổi mới đầu tiên trong văn xuôi, viết về nhà trường nhưng thực ra ông
muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Nhiều trang viết về người thầy
giáo thật xúc động. Anh nêu lên thực trạng đáng buồn đáng giận ấy với tinh thần
trách nhiệm và rất tâm huyết để bảo vệ cái tốt đẹp”[70].
Trong bài viết “Một vài nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau
1975”, Nguyễn Thị Bình nhận xét rằng: “Văn xuôi giai đoạn này có sự thay đổi
trong mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật”[4]. Nhân vật được quyền bình đẳng
về kinh nghiệm sống, phá vỡ các quy ước ta - địch trong văn học trước với một
loạt tác phẩm. Trong đó có nhiều tác phẩm của Ma Văn Kháng. Nhân vật được
trao cho quyền phán xét do đó khó có thể nhận ra đâu là phát ngôn tư tưởng thật sự
của tác giả trong tác phẩm. Bà cho rằng: “Kiểu nhân vật trí thức xuất hiện nhiều
trong giai đoạn này có lẽ do họ như là thước đo của dân trí và văn hóa, là nơi gửi
gắm thích hợp nhất cho sự tự ý thức”[4]. Xét những trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng thì loại nhân vật này chiếm số đông nhưng bên cạnh những trí thức thật sự
là những trí thức giả danh, trí thức dởm gây bao tai họa cho người khác, cho xã
hội.
Có lẽ Ma Văn Kháng hợp với loại truyện phanh phui, mổ xẻ, bức xúc trước
thực trạng xuống cấp của xã hội. Sau gần mười năm, năm 1998 nhà văn lại cho ra
đời một tiểu thuyết nổi đình đám: (NDNL). Cuốn tiểu thuyết này đã có sự cách tân
vượt bậc về nghệ thuật thể hiện.
Bích Thu phát hiện ra sự cách tân trong tác phẩm thể hiện ở cốt truyện lỏng
lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại và do đó “Tiểu thuyết vừa là tiếng nói
của ý thức, vừa là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ...”[100]. Có thể xem đây
là sáng tạo của nghệ thuật lắp ghép, truyện lồng trong truyện tạo ra sức lôi cuốn
cho bạn đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm có sự thâm nhập của các thể loại khác vào
trong tiểu thuyết như thơ, huyền thoại, cổ tích, điển tích... Nó là nhân tố làm giãn
cốt truyện, tạo ra tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết. Hình thức này xuất hiện
trong nhiều tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Thiện, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này: “Đã đạt đến trình độ điêu luyện trong ngôn ngữ kể và tả, đối thoại và
độc thoại, giọng điệu linh hoạt, khi gấp gáp, sôi nổi, cuồn cuộn, tung phá, lúc lại
thong thả, mềm mại, đằm thắm, hiền hòa, đã trở thành một thực thể sống động có
sức sống mạnh mẽ”[95]. Ma Văn Kháng đã thành công trong việc khám phá chiều
sâu tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ, coi nó như một thứ ngôn ngữ độc thoại
đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con người, xây dựng lên những bi kịch cá
nhân, đưa con người trở về với cuộc sống đời thường, với những khát vọng hạnh
phúc.
Khắc phục những phiến diện trong quan niệm về con người trong văn học
giai đoạn trước, Nguyễn Thị Huệ cũng đã nhận ra nhiều kiểu loại nhân vật trong
sáng tác của Ma Văn Kháng: “Phong phú, đa dạng hơn, phức tạp hơn không chỉ
có công nông binh mà còn có tầng lớp thị dân, đặc biệt là nhân vật trí thức đã như
một ám ảnh khôn nguôi, một trăn trở day dứt, một ma lực có sức hút lớn đối với
ngòi bút của Ma Văn Kháng”[28]. Không chỉ đánh giá cao những con người phức
tạp, có nội tâm phong phú, Ma Văn Kháng còn thể hiện thành công loại người
“thô sơ đơn giản”, nhìn nhận cái tốt cái xấu theo sơ đồ sẵn có, khuôn mẫu và giản
đơn như Đông (Mùa lá rụng trong vườn), Ông Chánh (Mưa mùa hạ), một loạt
công chức kì nhông như Quanh, Liệu (Ngược dòng nước lũ)”[85].
Bên cạnh việc phê phán cái xấu, cái ác, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này vẫn đậm chất trữ tình. Hồ Anh Thái nhận xét rằng: “Những trang hay
nhất đều là trữ tình: Khiêm đi về trung du giữa mùa lũ, hoan lên miền ngược tới
vùng trồng thuốc phiện... Anh cứ tách được nhân vật ra khỏi cái không khí văn
phòng đầy thịnh nộ thì bản thân anh như cũng linh hoạt, phơi phới hẳn lên” [85].
Như vậy, khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
chúng tôi nhận thấy rằng chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện nào
về tiểu thuyết, về những chuyển biến, cách tân trong tiểu thuyết của ông. Do đó
việc luận văn đi vào tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa.
5. Đóng góp mới của luận văn:
Luận văn chỉ ra những chuyển biến về nội dung và hình thức nghệ thuật
tương ứng trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới, những dấu hiệu và
nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến ấy.
Chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc cách tân thể loại tiểu thuyết
trong sự phát triển chung của văn xuôi Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được
chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Nhìn chung hai chặng đường sáng tác tiểu thuyết của
Ma Văn Kháng trong sự vận động phát triển của tiểu thuyết Việt Nam
từ sau cách mạng tháng Tám -1945 tới nay.
Trong chương này, luận văn đi vào khái quát sơ lược hai chặng đường vận
động của tiểu thuyết Việt Nam (1945- 1985) và (từ sau 1985 tới nay), sơ lược hai
chặng đường tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cùng dấu mốc chuyển biến để có cái
nhìn khái quát về tiểu thuyết nói chung, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói riêng.
Lý giải nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến trong tiểu thuyết của ông và
khẳng định vai trò, đóng góp của nhà văn trong văn học Việt Nam.
Chương 2: Sự chuyển biến về nội dung cảm hứng trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới.
Chương hai tìm hiểu những chuyển biến trong việc khám phá hiện thực,
quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở hai
chặng đường sáng tác.
Chương 3: Sự chuyển biến về hình thức nghệ thuật trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới.
Chương ba sẽ đi sâu vào những chuyển biến, cách tân trong kĩ thuật thể loại
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.
Chương 1
HAI CHẶNG ĐƯỜNG SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT
CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG SỰ VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 TỚI NAY
1.1. Hai chặng đường của tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 tới 1985:
1.1.1. Chặng đường 1945 - 1985:
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đã giải phóng dân tộc ta khỏi
ách nô lệ. Nhưng khi vừa giành được chủ quyền thì cũng là lúc toàn dân tộc lại
phải đương đầu với quân xâm lược mới: Đế quốc Mĩ. Đối với văn học, nó đã mở
ra một giai đoạn mới, một hướng nhìn, một lối đi đúng đắn cho một thế hệ các nhà
văn. Văn học giai đoạn này là văn học chiến tranh cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn anh chị em văn nghệ sĩ: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Nhiệm vụ của các nhà văn lúc này là ca ngợi,
động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc. Một nền văn học mới: “Văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học cách mạng”[13] ra đời. Một thế hệ các nhà
văn trưởng thành đến độ chín cả về tuổi đời cũng như tuổi nghề, hàng loạt những
cây bút mới đã thể hiện được năng lực của mình. Họ là những nhà văn đi đầu cho
“Một nền văn nghệ đậm chất cách mạng, tươi mới, sống động, đậm chất hiện
thực”[13].
Các tiểu thuyết trong thời kỳ này tập trung chủ yếu ở chủ đề: sức mạnh và
tinh thần yêu nước của nhân dân. Đề tài được đề cập tới hết sức đa dạng và phong
phú. Coi trọng và bám sát hiện thực là điều mà các nhà văn chú ý hướng tới vì
hiện thực là nguồn cảm hứng, là chất liệu để xây dựng lên tác phẩm. Đây là nét
độc đáo của nền “nghệ thuật anh hùng, là dáng đứng Việt Nam, tầm nhìn của thời
đại”[13].
Về nghệ thuật, tiểu thuyết giai đoạn này mang đậm cảm hứng sử thi lãng
mạn ngợi ca. Lã Nguyên nhận xét: “... các tác phẩm văn xuôi đầy ắp chất thơ và
câu văn xuôi của hầu hết các nhà văn luôn luôn ngân vang âm hưởng trữ tình”
[67]. Các nhà văn xây dựng thành công những chân dung điển hình, những tấm
gương anh hùng tiêu biểu của dân tộc. Điều này không những có giá trị nhận thức,
thẩm mỹ lớn mà còn có tác dụng giáo dục nhiều thế hệ.
Quy mô tác phẩm hoành tráng phản ánh được cả một quá trình chiến đấu,
diễn biến tâm lý, tình cảm của nhân dân dành cho cách mạng. Có sự hòa quyện
giữa tiểu thuyết và kí trong nhiều sáng tác. Tuy nhiên lồng vào những ghi chép
vẫn là những nhân vật điển hình xuyên suốt trong tác phẩm với những trăn trở, suy
tư, những hành động, những suy tính, những diến biến trong nội tâm khiến cho tác
phẩm vừa mang tính thời sự nóng hổi, vừa có diễn biến tâm lý, hành động của các
nhân vật.
Một loạt những tác phẩm được đánh giá cao về nội dung cũng như nghệ
thuật ra đời đáp ứng được yêu cầu: Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi
với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Trước giờ súng nổ (Lê Khâm), Người mẹ cầm
súng (Nguyễn Thi), Hòn đất (Anh Đức), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Cao điểm cuối
cùng (Hữu Mai)...
Nhận xét về sự đa dạng về phong cách thể hiện của tiểu thuyết giai đoạn
này, Giáo Sư Phan Cự Đệ viết:
Nguyễn Đình Thi chúng ta có được vẻ đẹp nhẹ nhõm, thanh thoát, trong
sáng, ở Nguyên Hồng là cái xù xì gân guốc, phong phú đến mức rập rạp. Trong
nhà văn Tô Hoài có cái hóm hỉnh, thông minh, tinh tế và thơ mộng. Văn của
Nguyễn Khải có cái tỉnh táo, sắc sảo đầy tính chất phát hiện. Nguyễn Huy Tưởng
có cái đôn hậu, ấm áp điểm vẻ huy hoàng, tráng lệ, cái dân gian mà hiện đại của
Nguyễn Thi, hiện đại mà cổ kính của Nguyễn Tuân, hùng tráng thi vị của Nguyễn
Trung thành, trữ tình thiết tha đến độ say đắm của Anh Đức, cái trí tuệ hài hòa
cân đối đến mức cổ điển của Phan Tứ[15, tr.40].
Tất cả đã tạo nên bức tranh phong phú, đa dạng cho văn học giai đoạn này.
Văn học 30 năm chiến tranh có thể coi là một biên niên sử mà ở đó ta
không chỉ quan sát được số phận dân tộc mà còn thấu hiểu số phận của mỗi cá
nhân. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đánh giá rằng “Văn học cách mạng 1945 -
1975 là một giai đoạn lịch sự không lặp lại của văn học dân tộc. Nó là một hiện
tượng nghệ thuật sáng ngời, là chiếc cầu nối liền văn minh dân tộc từ quá khứ,
hướng tới tương lai”[81].
Sau 1975, chiến tranh kết thúc thắng lợi văn học bước sang thời kì hậu
chiến. Tuy văn học vẫn “trượt theo quán tính của giai đoạn trước”[65] nhưng đã
diễn ra sự vận động ở chiều sâu với những suy tư, trăn trở, tìm tòi âm thầm mà
quyết liệt ở những nhà văn có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Nhiều tác giả
tiếp tục hướng vào đề tài chiến tranh cách mạng nhưng với những lý giải mới về
cuộc chiến tranh dân tộc. Cuộc chiến được nhìn nhận một cách toàn diện ở nhiều
góc độ, sâu sắc và nhân bản hơn. Các nhà văn đào sâu vào những góc khuất của
chiến tranh, đặc biệt nhấn mạnh tính chất ác liệt, thảm khốc của cuộc chiến đấu, sự
hy sinh mất mát to lớn của con người đặc biệt những người bước ra từ cuộc chiến.
Nhân vật người lính được khắc họa ở chiều sâu nội tâm, được đặt trong
nhiều mối quan hệ đặc biệt là quan hệ với chính mình, được soi rọi từ nhiều góc
độ ý thức, vô thức, bản năng, tốt xấu... Thân phận của con người sau chiến tranh
đặc biệt là người phụ nữ khi tuổi xuân đã mất, tình yêu tan vỡ... hay những món
nợ trong chiến tranh, những thất bại trên chiến trường, những kẻ đào ngũ, những
cái chết thảm bất ngờ... được khai thác nhiều trong các tác phẩm. Nguyễn Minh
Châu được coi là nhà văn dẫn đầu, mở đường cho một giai đoạn văn học mới. Đề
tài mà nhà văn thường đề cập là số phận người lính sau chiến tranh. Ông nhận xét:
“Thời kỳ này diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa
hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi
rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người”[52, tr.63].
Hàng loạt tác phẩm tiêu biểu về đề tài này như: Những người đi từ trong
rừng ra, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành... (Nguyễn Minh Châu),
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Góc tăm tối cuối cùng, Không phải trò đùa
(Khuất Quang Thụy), Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bước qua
lời nguyền (Tạ Duy Anh)...
Đầu những năm 80, sự khủng hoảng khó khăn về kinh tế dẫn tới sự phức
tạp trong xã hội, sự phân cực xấu tốt, trắng đen, thiện ác trong con người. Nhiều
nhà văn đã mạnh dạn đưa nhân vật đi vào chính cuộc sống hôm nay, đặt nhân vật
trong nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau để nhân vật tự xoay sở, tự dằn vặt
nội tâm.
1.1.2. Chặng đường từ 1985 tới nay:
Năm1986 được coi là dấu mốc đổi mới của văn học Việt Nam với hàng loạt
sự kiện: Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện
mọi mặt của đất nước, tạo đà cho văn học nghệ thuật đổi mới, phát triển toàn diện
trên nền những gì đã đạt được; nghị quyết 05 của bộ chính trị đã chỉ rõ: “Văn học
nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa”[8],
cuộc gặp gỡ giữa tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với anh em văn nghệ sĩ... thực sự
đã thổi một luồng gió mới cho văn học, tác động tới cách nghĩ, cách nhìn của giới
văn nghệ sĩ.
Quan điểm của Đảng ta về văn học: “Văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh
của các nhà văn cho một cuộc sống tươi đẹp, đấu tranh bằng tác phẩm văn
học”[8] do đó các nhà văn cần “Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ
thuật phát triển lên một bước”[8]. Văn xuôi trước sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa mở ra trên nhiều lĩnh vực, đang tìm cách tiếp cận với mọi vấn đề của cuộc
sống. Trên tinh thần “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, nhận thức lại hiện
thực”, “Tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật luôn
luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính” [72], Đảng đã tạo điều kiện cho các
nhà văn tự “cởi trói” cho chính mình, thoát khỏi một giai đoạn văn học ngập tràn
cảm hứng ngợi ca.
Thời buổi kinh tế thị trường, văn chương càng mang nặng trọng trách. Văn
chương cần khai phá, đào sâu, phát hiện chính xác hơn những mẫu người mới,
những suy nghĩ cảm nhận mới, lên tiếng cảnh báo về sự xuất hiện của những cái
xấu, cái ác đang tồn tại và sự cần thiết phải bênh vực, bảo vệ phẩm giá của con
người... Làm được điều này là nhờ vào tính dân chủ trong văn học. Năm 1986 đã
đặt dấu mốc cho sự phát triển của văn học, đưa văn học tiếp tục bước những bước
đi vững chắc, mạnh mẽ hơn. Khuynh hướng “nhận thức lại hiện thực” với cảm
hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản đã lan rộng. Thời xa vắng của Lê
Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng._. cho khuynh hướng này. Bên cạnh đó là Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Huớng, Tướng về
hưu của Nguyễn Huy Thiệp...
Văn học đi sâu vào cuộc sống đời thường với vô số những vấn đề phức tạp
ngày càng trở nên thời sự. Cả một phức hợp với những tạp âm đời thường như đạo
đức, nhân cách, đạo lý gia đình, nhu cầu hạnh phúc riêng tư đang diễn ra hàng
ngày, hàng giờ trong mỗi gia đình, ngoài xã hội cần được quan tâm. Nguyễn Khải
đã nói rằng: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn bóng tối và
ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật
là những mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thỏa sức khai vỡ”[50].
Văn học giai đoạn này nổi bật là cảm hứng phê phán. Giáo Sư Trần Hữu Tá
nhận xét: “Cảm hứng phê phán trong những tác phẩm này dào dạt, mạnh mẽ hơn
giai đoạn trước, tạo được những tác động mạnh đến tâm trạng xã hội”[82]. Nhiều
nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng con người vi phạm các chuẩn mực
đạo đức, vì đồng tiền mà mất nhân cách, nhân tính. Chưa bao giờ cái xấu, cái ác,
sự bất công lại được đào bới kỹ lưỡng như thế. Người đọc cảm thấy đau đớn, xót
xa cho nhiều số phận, nhiều cá nhân đang phải căng mình ra đón nhận, chống trả
những cái ác, cái xấu khi đọc Đồng đô la vĩ đại của Lê Minh Khuê, những sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, một loạt những truyện ngắn và tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng... Con người từ một chiều đơn giản cao cả hay thấp
hèn, hoặc thiện hoặc ác sang đa chiều về nội tâm, số phận, đa dạng, phức tạp hơn
với đủ sắc thái lúc tốt, lúc xấu, lúc cao cả, lúc lại tầm thường như Lý trong Mùa lá
rụng trong vườn, Hoan trong Ngược dòng nước lũ, Ba Sương trong Ăn mày dĩ
vãng, Linh trong Bên kia bờ ảo vọng...
Đặc biệt, văn học ngày càng “đi sâu tìm nhận những khao khát trong nhu
cầu vươn tới hạnh phúc của con người”[115, tr.124], chú ý tới nội tâm của con
người, tình cảm riêng tư, những cung bậc tình cảm: yêu thương và ghét bỏ, hạnh
phúc và bất hạnh, dục vọng, bản năng, tận cùng của những đam mê đau khổ... điều
mà giai đoạn trước không ai dám quan tâm, bày tỏ. Một loạt những tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thu Hương,
Dương Hướng... đã làm được điều đó.
Văn xuôi có sự tìm tòi đổi mới linh hoạt, biến đổi trong nghệ thuật trần
thuật, ngôn ngữ đến giọng điệu, có sự tham gia trực tiếp của nhân vật kể chuyện,
sự thay đổi liên tục, sự phối hợp nhiều giọng điệu, nhiều điểm nhìn. Mối quan hệ
giữa tác phẩm - người đọc - nhà văn bình đẳng, đối thoại và dân chủ. Trong nhiều
sáng tác, nhà văn giữ vai trò làm chủ rồi trao quyền cho nhân vật tự đối đáp, kể, tả.
Phương thức trần thuật này giúp cho nhà văn có điều kiện xâm nhập vào thế giới
bên trong, phần sâu kín nhất của con người để làm rõ, nổi bật tâm trạng, khắc họa
nội tâm của họ như: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y
Ban), Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng)...
Mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật được thay đổi từ điểm trùng khít giữa
tác giả và nhân vật sang độc lập tức nhân vật có một điểm nhìn độc lập khác với
điểm nhìn của tác giả. Đây là mối quan hệ bình đẳng đối thoại tạo nên tính chất đa
thanh điệu của tác phẩm. Bên cạnh đó có sự xuất hiện của dòng ý thức độc thoại
nội tâm, phân thân, hóa thân, giấc mơ, huyền thoại, con người cô đơn, tự thú, sám
hối, hồi tưởng...
Mô hình kết thúc có hậu truyền thống không còn. Nhà văn thường đưa ra
những cái kết khác nhau như kết thúc không có hậu, những kiến giải, sự suy ngẫm
của người đọc... hay để cho người đọc tự phán quyết, tự đưa ra cách kết thúc cho
riêng mình.
Những năm gần đây văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng chưa có bước
đột phá như giai đoạn trước nhưng cũng đã có những thử nghiệm, sáng tạo mới về
nghệ thuật tạo được sự chú ý cho độc giả, báo hiệu bước chuyển mới cho văn học
với các cây bút như: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Việt Hà...
1.2. Ma Văn Kháng và hai chặng đường tiểu thuyết của ông
(trước và sau thời kì đổi mới):
1.2.1. Ma Văn Kháng - đường đời, đường văn:
Nhà văn Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn sinh ngày 1/12/1936
tại phường Kim Liên, quận Đống Đa (nay là quận Ba Đình) - Hà Nội.
Ông sinh ra và lớn từ cái làng ven thành Đồng Lầm vùng đất chân lấm tay
bùn, nghèo khổ và lam lũ thích hợp với việc thả rau muống bè. Nơi đây ruộng đất
ít ỏi nên dân trong làng chỉ còn cách kiếm sống bằng mấy nghề vặt như nhuộm
vải, cắt tóc dạo, vài người buôn bán lặt vặt.
Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội, ông xung phong lên Tây Bắc
“đi theo tiếng gọi của Đan cô, Pa ven Corsaghin... xung phong đi đến những vùng
khó khăn của đất nước. Đi như viên đạn thẳng đầu”[59]. Hơn hai mươi năm sống
và làm việc ở vùng miền núi ấy, ông đã cố gắng hòa nhập với môi trường mới, gắn
bó và làm việc hết mình gắn bó và coi đây là quê hương thứ hai của mình.
Cái tên Ma Văn Kháng vừa là tên gọi hàng ngày, dùng trong các giấy tờ,
vừa là bút danh đã nói lên sự gắn bó và tình yêu của tác giả đối với miền đất này.
Nhiều người đã nghĩ ông là người dân tộc nhưng ông cho biết thực chất Kháng là
bí danh. “Một lần bị ốm nặng, được ông Nho chủ tịch huyện đã tận tình chăm sóc
như một người anh, một người cha, đích thân ông Nho cõng đi tìm thầy thuốc cứu
chữa. Thoát trận ốm đó ông quyết định kết nghĩa anh em”[73]. Cái tên Đinh
Trọng Đoàn được lấy họ Ma và ghép lại thành Ma Văn Kháng để tỏ lòng biết ơn
người đã cứu mình.
Hơn hai mươi hai năm công tác ở miền núi (Từ 1954 đến 1976) là quãng
đời trẻ trung, sôi nổi nhất của ông. Như một người cán bộ thực thụ, ông trực tiếp
tham gia, trải qua những đợt tiễu phỉ, đi làm thuê, xây dựng hợp tác xã, dạy học,
làm thư kí, làm báo, nhà văn... Ông đã góp công sức không nhỏ cho đồng bào
miền núi trong giai đoạn gian khổ nhất.
Như thế thời trai trẻ của nhà văn là sự dấn thân say mê háo hức với tâm
trạng phơi phới của tuổi trẻ ở vùng sơn cước khi là chiến sĩ quân đội, lúc là ông
giáo, anh cán bộ, nhà báo, “đi như một viên đạn thẳng đầu vào đời bất chấp mọi
gian khổ hiểm nguy”[62]. Và cũng chính sự sôi nổi nhiệt tình, say mê làm việc ấy
mà nhà văn đã tích lũy được nhiều tư liệu quý giá. Cuộc kháng chiến chống Pháp,
cuộc vận động tiễu phỉ lớn lao, xúc động ở vùng đất này ít nhiều đã in dấu trong
lòng mỗi con người.
Lịch sử đau đớn, khổ ải cùng khát vọng mãnh liệt và sức mạnh tiềm ẩn
muốn vươn lên giải phóng mọi áp bức và những biến động lớn của xã hội”[102]
ấy đ ã là tiền đề cho sáng tác của nhà văn. Ông lao động văn chương “như một
người Mèo trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị, không ồn ào, to tiếng với
ai, góp nhặt như chú kiến tha mồi về tổ”[102].
Chăm chỉ lặng lẽ tìm tòi, góp nhặt những tư liệu sống mà mình tận mắt
chứng kiến, tìm hiểu cuộc sống con người miền núi như lịch sử, phong tục tập
quán, con người nơi đây... nhà văn đã tích lũy được một kho tư liệu quý giá, là
chất liệu sáng tác cho ông sau này. Ma Văn Kháng đã cho ra đời hàng loạt những
truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị về cuộc đấu tranh, về cuộc sống và con người
vùng biên ải.
Thành công đến với ông không sớm như nhiều nhà văn khác. Tác phẩm đầu
tay mang tên (Phố cụt) chưa để lại dấu ấn gì trong lòng người đọc. Chỉ khi (Xa
Phủ) ra đời mới được coi là bước khởi đầu cho sự nghiệp văn chương của ông.
Ông lần lượt cho ra đời hàng loạt tập truyện ngắn về miền núi ca ngợi những con
người nhân hậu, con đường đấu tranh xây dựng quê hương như (Mùa mận hậu),
(Người con trai họ Hạng), (Vệ sĩ của quan Châu), (Góc rừng xinh xắn), (Lá
xanh)...
Về tiểu thuyết, (Gió rừng) là tác phẩm đầu tiên nhưng chỉ khi tiểu thuyết
(ĐBTHX) (Tập 1) ra đời ông mới cho rằng mình thực sự đứng được trong làng
văn, đã phần nào trả được món nợ cho nơi đã che chở cho mình suốt một thời gian
dài. Một cuộc vật lộn để cho ra hơn sáu trăm trang giấy lung linh màu sắc của
thiên nhiên núi rừng và con người miền núi trong công cuộc đấu tranh xây dựng
bảo vệ quê hương. (VBA) (Tập 2) ra đời là sự tiếp nối cuộc đấu tranh của các dân
tộc miền núi nhưng chuyển sang một giai đoạn mới khó khăn, phức tạp hơn nhiều.
(GGƠLPT) viết về bản lĩnh kiên cường của thầy giáo Khiêm đã bỏ bao công sức,
tâm huyết với quyết tâm cải tạo và xây dựng “lâu đài văn hóa” ở nơi xa xôi hẻo
lánh. (Trăng non) viết về sự nghèo nàn, lạc hậu của con người tuy chiến tranh đã
lùi xa...
Trong số những tiểu thuyết ấy thì ba cuốn (ĐBTHX), (VBA) và (GGƠLPT)
là thành công, có giá trị nhất, tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh trong sáng tác
của nhà văn về đề tài miền núi.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, được chuyển công tác về Hà
Nội ông hòa nhập rất nhanh với cuộc sống đô thị. Ông tiếp tục sự nghiệp văn
chương của mình và đã có nhiều thành công, đóng góp không nhỏ cho văn chương
nước nhà. Hàng loạt những sáng tác mang hơi thở của cuộc sống thành thị thời kì
đổi mới ra đời. Ông được tín nhiệm giữ các chức vụ cao như: Phó giám đốc kiêm
tổng biên tập nhà xuất bản Lao động, ủy viên ban chấp hành, ủy viên Đảng đoàn
hội các nhà văn khóaV, tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài và nhiều chức
vụ quan trọng khác.
Nhiều người đã nhận xét Ma Văn Kháng là một con người hết sức giản dị,
lặng lẽ sống và làm việc, cần cù cần mẫn trong lao động sáng tạo nghệ thuật, sống
hòa đồng và được lòng mọi người. Trong suốt một cuộc đời, bao thay đổi xã hội,
của văn học nhưng dường như người ta không thấy ông lên tiếng phê phán, chỉ
trích ai trong khi đó những tác phẩm của ông thì lại luôn tạo ra sự tranh cãi gay gắt
trong dư luận. Ông đã sống và làm việc hết mình ở những nơi mà ông từng đặt
chân tới. Yêu đời, yêu cuộc sống và yêu con người, lo lắng cho sự phát triển của
xã hội, nhân cách của con người trong xã hội hiện đại là điều mà ông luôn băn
khoăn trăn trở, day dứt.
Tiểu thuyết (MMH) khi xuất hiện trên văn đàn đã gây sự ngỡ ngàng, xôn
xao dư luận về cả đề tài lẫn vấn đề được đề cập trong tác phẩm. Thứ nhất: một nhà
văn chuyên đi vào đề tài đấu tranh, cuộc sống con người ở miền núi nay bỗng
nhiên lại chuyển sang mảng thị thành rất tự nhiên. Thứ hai là những con người tốt,
lương thiện lại có kết cục buồn, bi thảm. Bên cạnh đó nhà văn đã lên án, phê phán
mạnh tay, thẳng thắn những con người cơ hội, thói quan liêu vụ lợi, lối sống ti tiện
vô đạo đức làm xấu đi bộ mặt đất nước đang diễn ra ngay xung quanh mình mà
trước đây chưa có ai lên tiếng mạnh mẽ như thế.
Những tiểu thuyết kế tiếp như (MLRTV), (ĐCKCGGT), (NDNL)... vẫn tiếp
nối đề tài về thành thị với những số phận bi đát, những con người tha hóa ở mức
độ cao hơn với bút pháp tinh tế, sáng tạo càng khẳng định ngòi bút thẳng thắn
vạch trần vấn đề đạo đức tha hóa trong xã hội của nhà văn.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhận được rất nhiều
giải thưởng và điều đó đã khẳng định ngòi bút của mình. (ĐBTHX) được giải
thưởng nhà nước đợt 1 năm 2001, năm 2002 hội văn học nghệ thuật Lao Cai trao
giải đặc biệt. (GGƠLPT) được Hội văn học - nghệ thuật các dân tộc thiểu số trao
giải thưởng chính thức. Tiểu thuyết (MLRTV) được giải thưởng loại B hội nhà
văn Việt Nam 1986, được tặng thưởng của hội đồng văn xuôi hội nhà văn Việt
Nam 1995. Tập truyện ngắn (Trăng soi sân nhỏ) được nhận giải thưởng văn học
Đông Nam Á 1998... Nhiều tiểu thuyết tạo sự chú ý, gây nên tranh luận trong giới
bạn đọc và những nhà nghiên cứu, được chuyển thể thành phim, một số truyện
ngắn được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc phổ thông...
Gần đây, ông vẫn tiếp tục cho ra đời những truyện ngắn đương đại có giá trị
cao, mang ý nghĩa lớn đối với người đọc, với cuộc sống hôm nay như (Tội nghiệp
con vẹt già), (Cuộc đấu của gà chọi), (Thầy Thế đi chợ bán trứng)...
Gooc-ki đã từng nói: “Nghề viết văn là một loại nghề cực nhọc nhất trên
thế gian này”[102] và khuyên những ai từng nghĩ viết văn là nhàn nhã, là nắng
không đến đầu, mưa không tới mặt nhưng dấn thân vào thì là một sai lầm to lớn.
Với Ma Văn Kháng, ông quan niệm văn chương là một công việc khó, thu hút hết
tâm lực của người nghệ sĩ nhưng không phải ai cũng chạm tới được. Chẳng hạn để
có được (ĐBTHX) thì ngoài vốn sống, tự đi thu thập tư liệu, tìm hiểu kĩ lưỡng còn
là sự lao động chăm chỉ, miệt mài. Ông đã phải “Viết đi viết lại ba bốn lần với một
đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh,
giấy đánh máy chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề...”[102]. Thế mới đủ
thấy công sức của nhà văn quả là không nhỏ trong công việc sáng tạo nghệ thuật.
Ông cho rằng:
Công việc văn chương không đơn giản chỉ là tài năng mà còn là sự vật lộn
trăn trở, nghiền ngẫm, từng trải, luôn canh cánh trong lòng như mắc nợ với đời.
Văn chương phải tự nhiên như đời sống, phải tác động tới đời sống tâm tư tình
cảm của mỗi cá nhân con người, cái viết ra phải làm cho con người hoặc sung
sướng đến phát điên lên hoặc đau đớn quặn thắt đến từng khúc ruột, hoặc ngẩn
ngơ như một kẻ mắc bệnh trầm cảm[39].
Văn còn phải tác động tới cuộc sống hiện tại, phải làm cho con người trở
nên người hơn, phải gắn với hiện thực cuộc sống. Nhà văn viết văn không vì mục
đích kiếm kế sinh nhai mà viết bằng lòng yêu nghề, bằng chính con tim và cả trách
nhiệm trước cuộc sống, trước con người, phải luyện làm sao cho tự nhiên, giản dị
như cuộc đời thật, vốn có của nó. Phát biểu trên tuần báo văn nghệ năm 1971, nhà
văn đã khẳng định rằng để có những trang viết sâu sắc, chân thành đòi hỏi sự cần
mẫn, gắn bó của mình với nghề văn và “sự chăm chỉ trong công việc, sự quan sát,
suy nghĩ và học tập thật sự. Phải có hiểu biết, hiểu biết có tính chất học thuật sâu
sắc, phải có một trái tim chân thành thương yêu, một sự đồng cảm thiết tha”[41].
Văn chương như một nguồn sống của ông, là niềm ấp ủ gắn bó bao năm. Ở
nhiều nhà văn, chỉ một tác phẩm cũng đủ làm nên tên tuổi, để lại cho đời còn Ma
Văn Kháng có cả một khối lượng tác phẩm đồ sộ mà tác phẩm nào cũng để lại ấn
tượng, đụng chạm vào những vấn đề nóng hổi của cuộc sống vậy mà ông vẫn bảo
rằng: “Cứ hễ bắt đầu viết một cái gì lại thấy bồi hồi, run rẩy như trẻ nhỏ tập
đi”[62].
Hiện nay, ông và gia đình vẫn sống bình dị trong một căn hộ nhỏ do nhà
nước cấp trong một ngõ nhỏ sát đại lộ Nguyễn Chí Thanh gần con phố mang tên
nhà văn bậc thầy Nguyễn Công Hoan. “Đêm đêm trong phòng làm việc của ông
vẫn tỏa sáng- một ánh sáng vừa đủ soi tỏ trang viết ”[95]. Trong đời sống bình dị,
êm đềm quanh con cháu và bè bạn, ông vẫn tiếp tục khẳng định ngòi bút của mình
trong việc đào xới bề trái muôn mặt của xã hội đương thời đang diễn ra hàng ngày
hàng giờ.
1.2.2. “Mùa lá rụng trong vườn” - 1985, mốc đánh dấu sự chuyển
biến trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng:
Nếu như năm 1986 được coi là dấu mốc đổi mới của văn học Việt Nam thì
sáng tác của Ma Văn Kháng bắt đầu đổi mới sơm hơn: 1985. Mặc dù (MLRTV –
1985 không phải là sáng tác đầu tiên khi nhà văn từ miền núi trở về thành thị (Tác
phẩm đầu tiên là MMH - 1982) nhưng nó là cột mốc quan trọng đánh dấu, khẳng
định sự chuyển biến trong sáng tác của nhà văn vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, tác phẩm đi vào vào khám phá cuộc sống gia đình thành thị
những năm 80, giai đoạn xã hội giao thời đang có những biến động. Mảng đề tài
về truyền thống đạo lý trong gia đình chưa có nhiều nhà văn đặt chân tới. Với tiểu
thuyết này, nhà văn là người khám phá một vấn đề: Truyền thống gia đình, một
vấn đề được coi là nhạy cảm, đang bị xem nhẹ trong giai đoạn này.
Truyền thống gia đình của người Việt ta từ xưa tới nay luôn được coi là
một giá trị tốt đẹp, được giữ gìn, bảo vệ qua bao thế hệ. Nó đã trở thành quy ước
chế ngự các hành vi của các thành viên. Nhưng giờ đây gia đình - nền tảng của xã
hội đang có nguy cơ bị lung lay do tác động của cơ chế thị trường. Mối quan hệ
ruột thịt có nguy cơ đổ vỡ khiến nhà văn đã phải đặt ra câu hỏi: “Gia đình, giọt
nước của biển cả, cá thể của xã hội, liệu có vững vàng trong cuộc sống xây dựng
đang có nhiều khó khăn, lắm bê bối này? ”[46, tr.386].
Một gia đình Hà Nội vốn coi trọng truyền thống đạo lý, gia giáo nay bị tác
động của xã hội đang biến đổi, có nguy cơ tan rã. Đặc biệt sự băng hoại về đạo
đức, trà đạp lên nhân phẩm, đánh mất lương tâm là hệ quả của thời kì mở cửa. Đây
là chủ đề liên quan mật thiết đến những vấn đề hàng ngày, những chuyện tưởng
như đơn giản, tầm thường nhưng ẩn chứa trong đó là những điều sâu xa, những rối
rắm phức tạp trong mỗi con người. Người ta ngạc nhiên, bất ngờ rằng tại sao một
nhà văn với hơn hai mươi năm sống gắn bó, tên tuổi đã được khẳng định ở mảng
đề tài về miền núi lại có thể có được một tác phẩm hoàn chỉnh, có giá trị cả về nội
dung và nghệ thuật đến như vậy.
Thứ hai, tác phẩm cũng khẳng định sự am hiểu cuộc sống đô thị, diễn biến
tâm lý, ngóc ngách tình cảm của con người thành thị, những nhân vật thành thị độc
đáo, mới lạ, những khám phá chiều sâu phức tạp trong nội tâm nhân vật. Các nhân
vật trong truyện được công nhận là “có đời sống ở tác phẩm và cuộc đời”[59].
Nhà văn cho biết có một nữ độc giả ở Hà Nội tâm sự: “Tuy đang mệt, mà tôi đã
thức đến hai giờ sáng để đọc cho đến cuối truyện... và tôi đọc lại từng đoạn để
được cảm thụ và hiểu sâu hơn. Càng đọc càng thấy hay. Những nhân vật phụ nữ
vô cùng hấp dẫn. Mà sao anh hiểu nông nỗi tâm lý phụ nữ đến thế... ”[59 ].
Ngòi bút của Ma Văn Kháng còn tỏ ra khá tinh tế trong việc miêu tả chi tiết
cảnh sinh hoạt truyền thống đời thường của gia đình, lôi cuốn sự chú ý của người
đọc. Đó là cảnh làm cỗ tất niên dưới bàn tay chỉ đạo khéo léo của Lý, cảnh sum
họp đông vui trong bữa cơm ba mươi Tết, cảm nhận của con người khi mùa lá
rụng đang tới...
Bên cạnh việc lên tiếng báo động một nguy cơ của cơ chế thị trường tác
động lên đời sống gia đình, làm biến đổi nhân cách cá nhân, nhà văn cũng lên
tiếng kêu gọi con người hãy giữ lấy truyền thống tốt đẹp bao đời nay của gia đình
bởi nó là sợi dây kết nối tình thân, quan hệ ruột thịt với nhau, hãy quan tâm chăm
sóc lẫn nhau đừng để họ lầm đường lạc lối. Một vấn đề được đặt ra là giữ gìn
truyền thống gia đình nhưng đồng thời cũng cần gạt bỏ, thay đổi, điều chỉnh
những quan niệm lạc hậu, lỗi thời để sống cho tốt, để giữ lấy hạnh phúc gia đình.
Do đó, tác phẩm được coi là dấu mốc chuyển biến quan trọng trong sáng
tác của Ma Văn Kháng bởi sau (MLRTV) là một loạt các tiểu thuyết, truyện ngắn
về cuộc sống, số phận con người thành thị đầy biến động.
1.2.3. Nguyên nhân của sự chuyển biến:
Nguyên nhân khách quan:
Sự chuyển biến trong sáng tác của Ma Văn Kháng cũng đồng thời với sự
phát triển chung của văn học Việt Nam. Sau 1975 đất nước độc lập, dân tộc được
tự do, xã hội có những thay đổi lớn lao về mọi mặt. Đặc biệt từ những năm 80,
những chuyển biến về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã tác động lớn đến đời
sống của nhân dân, đến ý thức của cá nhân, của cả cộng đồng. Riêng trong lĩnh
vực văn học, chủ trương “mở cửa”, “cởi trói”, “nhận thức lại hiện thực, nhìn
thẳng vào sự thật” của Đảng đã tạo nên sự chuyển biến toàn diện. Có lẽ đây là
thời kỳ tiểu thuyết thời kỳ đổi mới nở rộ. Nhiều tác giả gặt hái được thành công,
hàng loạt tác phẩm được dư luận chú ý. Ma Văn Kháng cũng là một nhà văn nằm
trong dòng chảy ấy.
Hiện thực trước kia là cuộc chiến đấu gian nan, những hi sinh mất mát của
đồng bào các dân tộc thiểu số, là núi rừng trùng điệp hoang dã đã bao bọc, che chở
con người, là quân cướp nước và bè lũ tay sai ngày đêm rình rập, những con người
miền núi một lòng đi theo cách mạng, giúp chính đồng bào của mình thoát khỏi
tăm tối, u mê, các cán bộ chiến sĩ miền xuôi anh hùng, những tên phỉ gian ác...
Nay hiện thực đa dạng, phức tạp, nhiều chiều hơn, hiện thực của thời buổi
kinh tế thị trường với những lo toan trong cuộc sống đời thường, với miếng cơm
manh áo hàng ngày. Chính những điều đó làm nảy sinh những mâu thuẫn trong
mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình, trong xã hội, xuất hiện
hạng người mưu mô, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm, những tính toán nhỏ nhen,
đố kị, ghanh ghét lẫn nhau. Họ đánh mất danh dự, lương tâm của một con người
ngay cả đối với những người thân thích, ruột thịt.
Chính hiện thực cuộc sống xã hội, con người ấy đã khơi nguồn sáng tạo cho
nhà văn, là nguyên nhân tạo ra sự chuyển biến trong sáng tác của ông và một loạt
các nhà văn khác trong giai đoạn này.
Nguyên nhân chủ quan:
Cùng với sự chuyển biến lớn của đất nước, cuộc sống của nhà văn cũng có
thay đổi lớn góp phần tạo nên sự chuyển biến trong sáng tác của ông. Năm 1976,
nhà văn được chuyển công tác từ miền núi về Hà Nội. Sau hai mươi hai năm sống
làm việc, gắn bó mật thiết với núi rừng, con người miền núi - quê hương thứ hai,
ông được trở về nơi mình sinh ra: Thủ đô Hà Nội. Nhà văn tâm sự: “Chả bao giờ
tôi nghĩ sẽ viết về Hà Nội, dù quê quán mình là đấy. Hai mươi hai năm ở miền núi,
hầu như đã tuyệt vọng được chuyển vùng về xuôi”[85] vì nơi đây gần như đã ăn
sâu vào máu thịt, tâm hồn ông.
Khi bước chân trở lại nơi chôn rau cắt rốn thì mọi vật đã hoàn toàn mới mẻ,
xa lạ. Con người đã hoàn toàn đổi khác. Ông phải làm quen dần với tất cả những
cái mới từ lớp từ ngữ của tầng lớp thị dân, lối sống, hành xử, sự việc đang diễn ra
thường nhật. Nhưng nhà văn đã nhanh chóng nhập cuộc, gặt hái được nhiều thành
công với một loạt truyện ngắn, tiểu thuyết nóng hổi tính thời sự, đào sâu mọi ngóc
ngách trong mỗi con người, trong quan hệ đồng nghiệp, gia đình cha mẹ con cái,
anh em, làng xóm... Những mâu thuẫn trong các mối quan hệ được lật tung lên để
lộ ra bản chất biến dị, méo mó của con người trong thời buổi kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, sự từng trải, dày dặn cả về kinh nghiệm sống, bản lĩnh lẫn sự
vững trãi điêu luyện về tay nghề, sự không ngừng học hỏi rèn luyện, thực tế tìm
tòi nghiên cứu đã góp phần làm cho ngòi bút của nhà văn ngày càng sắc bén, có sự
bứt phá lớn của chính mình góp phần tạo nên sự chuyển biến của cả giai đoạn văn
học như lời bộc bạch của ông:
Theo tôi, viết văn là một công việc lớn, một việc cực khó. Văn chương phải
làm được việc khơi nguồn những cảm xúc của người đọc về trạng thái nhân thế.
Tự nhiên và sâu sắc là hai đức tính quan trọng nhất của tác phẩm. Nhà văn có tài
là tài trên hai phương diện: trình độ tư tưởng thẩm mĩ và sử dụng ngôn ngữ. Sau
tài năng cần có sự từng trải, nếu muốn trở thành nhà văn thực sự[41].
Phải khâm phục bản lĩnh và tài năng của nhà văn bởi ông đã nhanh chóng
hòa nhập được với thời cuộc, nắm bắt được tình hình đất nước đang chuyển đổi và
nhanh chóng đưa những vấn đề thời sự nóng hổi ấy vào trong tác phẩm của mình.
Từ vùng rừng núi yên bình, cuộc sống con người hiền hòa theo tự nhiên, không
bon chen, lường gạt, mưu mô, hiểm độc, nay trở lại chốn đô thị trong thời buổi
mới đầy rẫy thói hư tật xấu nên ông thấy chướng tai gai mắt khiến ông phải lật
xới, lộn tung hết lên. Qủa đúng như vậy, đối với những nhà văn có tâm huyết với
nghề, có lòng nhân văn, nhân đạo, luôn thấy mình phải có trách nhiệm đối với con
người, với cộng đồng xã hội như ông thì không thể khoanh tay đứng nhìn. Bạn bè
ông vẫn đùa rằng: “Ở cuốn sách nào anh cũng phải lôi ra cho được ít nhất một kẻ
thù để đánh”[85]. Tuy nhiên để có được những tác phẩm dám đánh thẳng, đánh
mạnh vào sự thật cuộc sống như ông không nhiều, không phải ai cũng làm được.
Như vậy, sự vận động tự thân, ý thức về sự cần thiết đồng thời cũng là trách
nhiệm, tâm huyết của một nhà văn trước yêu cầu đổi mới trong văn học là những
nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến trong sáng tác của Ma Văn Kháng, đặc biệt ở
lĩnh vực tiểu thuyết.
1.2.4. Chặng thứ nhất: Tiểu thuyết Ma Văn Kháng trước “Mùa lá
rụng trong vườn”:
Cùng với cả nước, miền núi giai đoạn này cũng phải đối đầu với thù trong
giặc ngoài không kém phần quyết liệt, gian khổ. Trên cái nền chung ấy, Ma Văn
Kháng đã tạo cho mình lối đi riêng khi đi vào khai thác đề tài đấu tranh của con
người miền núi với những nét mới mẻ, lạ lẫm tạo sức hấp dẫn cho người đọc. Một
loạt những sáng tác về cuộc sống, con người miền núi trong đấu tranh, xây dựng
đất nước ra đời khi ông đã có được vốn sống dày dặn, vốn văn chương kha khá.
Những sáng tác về miền núi của Ma Văn Kháng đã tái hiện lại một giai
đoạn lịch sử đầy biến động của cuộc sống con người nơi đây. Đề tài chính mà nhà
văn đề cập tới trong tiểu thuyết về miền núi như (ĐBTHX), (VBA), (GGƠLPT)...
là quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi những thế lực đen tối, vươn tới
khát vọng hạnh phúc, tự do của con người nơi đây - mảnh đất đón đầu mọi thử
thách gian nan của dân tộc.
Đồng bào miền núi phải đối mặt với hàng loạt kẻ thù như thổ ty, Pháp,
Nhật, Trung Quốc, quốc dân Đảng... nhưng nguy hiểm nhất là nạn thổ phỉ hoành
hành khiến cho cuộc sống nơi đây bất ổn, lòng người phân vân, nghi ngờ. Bên
cạnh đó là sự khác biệt về trình độ nhận thức, phong tục tập quán, lối sống khiến
cuộc chiến đấu của những cán bộ miền xuôi vốn đã gian khổ lại càng phức tạp khó
khăn hơn nhiều. Nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của các cán bộ, sự góp sức
không nhỏ của một bộ phận những con người miền núi yêu tự do, chính nghĩa
cuộc chiến đấu đã giành được thắng lợi.
Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai đoạn này mang đậm chất kí, giọng văn
kể chuyện với cảm hứng sử thi xen lẫn trữ tình độc đáo. Đó là một quá trình dài
vừa chiến đấu với kẻ thù, vừa có sự chuyển biến trong nhận thức, tư tưởng ở chính
bản thân mỗi con người. Chất lý tưởng, vẻ bi tráng kết hợp trữ tình lãng mạn là nét
đặc sắc của các tác phẩm giai đoạn này. Những cuộc hội quân hoành tráng, những
áng văn miêu tả thiên nhiên nên thơ, những phiên chợ dành cho tình yêu đầy lãng
mạn, những điệu sáo, giọng khèn quyến rũ, mê hồn các chàng trai cô gái đang
trong tuổi hò hẹn tìm kiếm bạn tình, cảnh lao động, tình cha con là những trang
văn đậm chất trữ tình mang nét độc đáo riêng.
Nhà văn đã thành công trong việc xây dựng những mẫu người lý tưởng
xứng danh là những anh hùng. Đó là những cán bộ tận tụy với công việc giải
phóng vùng đất mới, mở mang dân trí nơi địa đầu của Tổ quốc. Bên cạnh đó là
những con người miền núi thân thiện, giàu lòng thương người, yêu lao động, khát
vọng tự do hạnh phúc. Đặc biệt ông còn thành công trong việc tái hiện lại một loạt
những thổ ty miền núi không khác bọn cường hào địa chủ miền xuôi, những tên
thổ phỉ gian ác, ghê sợ là đặc trưng cho mảnh đất này trong thời điểm lịch sử hỗn
loạn. Ngôn ngữ, phong cách đậm chất miền núi từ lời ăn tiếng nói tới cách ứng xử
chứng tỏ sự am hiểu của nhà văn về ngôn ngữ, lối sống, tâm hồn của con người
nơi đây.
Như vậy tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai đoạn này đã góp phần vào
mảng văn học về đề tài miền núi thêm phong phú. Với một phong cách riêng, nhà
văn đã bước đầu khẳng định được chỗ đứng của mình trong làng văn.
1.2.5. Chặng thứ hai: Tiểu thuyết Ma Văn Kháng từ “Mùa lá
rụng trong vườn” tới nay:
Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng vừa có sự chuyển biến theo xu hướng
chung của văn học dân tộc lại vừa có sự chuyển biến riêng trong chính quá trình
sáng tác của nhà văn.
Đầu những năm 80, đất nước có nhiều thay đổi, biến động. Buổi giao thời
giữa cũ và mới, giữa cơ chế bao cấp với cơ chế thị trường tạo nên một xã hội bát
nháo, nhiều điều chướng tai gai mắt khiến nhà văn không thể đứng ngoài cuộc.
Hoàn cảnh ấy đã hướng nhà văn chuyển từ thể loại văn xuôi đấu tranh phong tục
của miền núi sang thể văn xuôi đời sống sinh hoạt của những con người thành thị.
Cũng như nhiều nhà văn khác, Ma Văn Kháng không hề né tránh những
vấn đề bức xúc của đời sống xã hội thực tại. Bằng lòng yêu thương, trân trọng con
người và đạo đức của một nhà văn, ông đã thẳng thắn nêu lên những vấn nạn của
xã hội đó là những suy nghĩ vụ lợi, đạo đức tha hóa suy đồi của những cán bộ
công chức nhà nước, những tri thức bị vùi dập bởi sự ghanh ghét của những bàn
tay đớn hèn, ngu dốt, gia đình - nền tảng của xã hội đang bị lung lay, cả xã hội
đang bị chi phối bởi nền kinh tế thị trường, bởi đồng tiền. Đây là nội dung lớn
nhất, quan trọng nhất xuyên suốt trong các tác phẩm: (MMH), (MLRTV),
(ĐCKCGGT), (NDNL)... Chỉ có thể là những con người có lương tâm, mang nặng
trách nhiệm với cuộc đời mới có thể cất lên tiếng nói thúc giục ngăn chặn kịp thời
những tiêu cực đang lan nhanh trong xã hội.
Vạch trần những tiêu cực trong xã hội buổi giao thời, nhà văn muốn lên
tiếng cảnh báo con người về sự suy đồi về đạo đức, coi trọng đồng tiền mà bán rẻ
lương tâm, coi thường nền tảng, truyền thống gia đình. Họ sẽ phải trả giá rất đắt.
Bên cạnh đó, giữ gìn truyền thống gia đình là một điều cần thiết xong cũng cần
phải điều chỉnh cho phù hợp không nên quá khắt khe, rập khuôn quá mức dẫn tới
tác dụng ngược và trong mỗi gia đình mọi thành viên phải biết quan tâm, thương
yêu, lo lắng chia sẻ cho nhau thì mới tạo nên một gia đình hạnh phúc trọn vẹn.
Nhiều cuốn khác viết cho thiếu nhi rất xúc động, phản ánh rõ nét số phận
của con người đặc biệt là những đứa trẻ vô tội bị bỏ rơi trong xã hội đầy biến động
như Côi cút giữa cảnh đời, Chó Bi đời lưu lạc .
Về nghệ thuật, có sự chuyển biến từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự.
Cách nhìn người có nhiều thay đổi. Con người không hoàn toàn tốt hay xấu như
trước kia mà con người giờ đây trở nên phức tạp nhiều chiều không hề đơn giản
như Lý trong (MLRTV), Hoan trong (NDNL)... vì vậy cần có cái nhìn nhân hậu vị
tha đối với con người. Điều đó thể hiện ý thức, trách nhiệm của một nhà văn trước
hiện thực cuộc sống.
Diễn biến nội tâm là phương thức nghệ thuật được sử dụng nhiều nhằm đi
sâu vào khám phá nội tâm phong phú phức tạp của con người. Bên cạnh đó, nhà
văn sử dụng hình thức những giấc mơ kì bí, thuật bói toán, coi tướng số để giải mã
số phận, cuộc đời của con người. Có thể thấy hình thức này xuất hiện trong hầu
hết các tác phẩm như (MMH), (MLRTV), (Đ._.hà văn.
65. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò một đôi nét về
quy luật phát triển”, Văn học (4).
66. Lã Nguyên (1999), “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”,
(Lời giới thiệu về truyện ngắn Ma Văn Kháng), Nxb Thanh Niên.
67. Lã Nguyên, “Diện mạo văn học Việt Nam 1945 – 1975( Nhìn từ góc độ
thi pháp thể loại),
68. Bảo Ninh (2000), Nỗi buồn chiến tranh (Tiểu thuyết), Nxb Văn học.
69. N. Poxpêlop (1998), (Trần Đình Sử dịch), Dẫn luận nghiên cứu văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Nhiều tác giả (1990), “Thảo luận về tiểu thuyết “Đám cưới không có
giá thú”, Văn Nghệ (6).
71. Nhiều tác giả, (1990), “Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay”, Văn
Nghệ (14).
72. Nhiều tác giả, (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb sự thật, Hà Nội.
73. Ngô Văn Phú, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt
Nam thế kỉ XX (Tập 2), Nxb Hội Nhà Văn.
74. Huỳnh Như Phương (1994), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ
hóa nền văn học trên những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
75. Trần Đăng Suyền (1979), “Đọc đồng bạc trắng hoa xòe”, tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng, Văn Nghệ (49).
76. Trần Đăng Suyền (1983), “Một cách nhìn cuộc sống hiện nay” (Vài suy
nghĩ nhân đọc tiểu thuyết “Mưa mùa hạ” của Ma Văn Kháng), Văn
nghệ (15).
77. Trần Đăng Suyền, (1984), “Cuộc chiến tranh tiễu phỉ ở “Vùng biên ải”,
Văn Nghệ Quân Đội (3).
78. Trần Đăng Suyền (1985), “Ma Văn Kháng với “Mùa lá rụng trong
vườn”, Văn Nghệ (40).
79. Trần Đăng Suyền (1985), “Phải chăm lo cho tất cả mọi người”, Văn
Nghệ (40).
80. Trần Đình Sử (1997), “Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ
thuật và hình tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua”, Văn
học 1975- 1985 tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn.
81. Trần Đình Sử (1999), “Văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 trong
tiến trình văn học dân tộc thế kỉ XX”, Năm mươi năm văn học Việt
Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb ĐHQG Hà Nội.
82. Trần Hữu Tá (1989), “Về vấn đề định hướng của văn học trong tình
hình hiện nay”, Văn học (5).
83. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (Tuyển chọn và giới thiệu) (2002),
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
84. Đỗ Ngọc Thạch (1985), Đọc “Vùng biên ải” của Ma Văn Kháng.
85. Hồ Anh Thái (2003), Họ trở thành nhân vật của tôi, Nxb hội nhà văn.
86. Nguyên Thanh (1987), “Ngày đẹp trời” - Tính dự báo về những tình thế
xã hội, Văn nghệ (21).
87. Vân Thanh (1986), “Một mảng đời trong cuộc sống hiện nay qua “Mùa
lá rụng trong vườn”, Văn học (3).
88. Vân Thanh (1986), “Mấy ý nghĩ về “Mùa lá rụng trong vườn”, Văn
Nghệ quân đội.
89. Bùi Việt Thắng (1997), “Văn xuôi hôm nay”, Văn học 1975- 1985 Tác
phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn.
90. Bùi Việt Thắng (1999), “Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu
thuyết sau 1975”, Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách
mạng tháng tám, Nxb ĐHQG Hà Nội.
91. Bùi Việt Thắng (2006), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ
thể loại”, Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nxb Giáo dục.
92. Ngô Thảo, Lại Nguyên Ân (1985), Nhà văn Việt Nam chân dung tự
họa, Nxb Văn Học.
93. Ngô Thảo (1997), “Bản lĩnh và cá tính sáng tạo - đòi hỏi đối với văn
học và nhà văn”, Văn học 1975- 1985 Tác phẩm và dư luận, Nxb
Hội nhà văn.
94. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học
tổng hợp TP.HCM.
95. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), “Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời
văn sáng tạo”, Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội nhà văn.
96. Nguyễn Ngọc Thiện (2003), “Lời giới thiệu tiểu thuyết về đề tài miền
núi của Ma Văn Kháng”, Tiểu thuyết Ma Văn Kháng (Tập 1), Nxb
Công an nhân dân.
97. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội
nhà văn.
98. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam, Nxb Trẻ.
99. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975
qua hệ thống motif chủ đề, Văn học (4).
100. Bích Thu, 2006, “Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975”, Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nxb Giáo dục.
101. Trần Mạnh Thường (2003), Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỉ
XX, Nxb Hội nhà văn.
102. Hoàng Tiến, 1980, “Đọc “Đồng bạc trắng hoa xòe”, Văn học (1).
103. Nguyễn Văn Toại (1984), “Một vài biểu hiện đặc điểm dân tộc qua một
số tiểu thuyết miền núi”, Văn học (1).
105. Nguyễn Văn Toại (1979), “Tiểu thuyết Rừng động và vấn đề thể hiện
con người miền núi trong sáng tác văn học”, Văn học (1).
104. Nguyễn Văn Toại (1983), “Đọc các sáng tác của Ma Văn Kháng nghĩ
về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn”, Văn học (5).
106. Đinh Quang Tốn (1997), “Ma Văn Kháng với “Đám cưới không có giá
thú”, Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học.
107. Lê Ngọc Trà (1980), “Tư tưởng lí luận của nhà văn và sáng tác văn
học”, Văn nghệ (34).
108. Lê Ngọc Trà (chủ biên), Lâm Vinh, Huỳnh Như Phương (1994), Mỹ
học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
109. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm (1997), Lý luận văn học, Đại học Sư
phạm Tp. HCM
110. Lê Ngọc Trà (2002), “Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới”,
Văn học (2).
111. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và Văn học, Nxb Văn học.
112. Ngọc Trai (1982), “Mưa mùa hạ”, Văn học (5).
113. Lý Hoàn Thục Trâm, 2002, Sự khám phá và thể hiện xung đột trong
tiểu thuyết Việt Nam những năm 1980, Luận án tiến sỹ, Trường
ĐHKHXH và NV TPHCM.
114. Nguyễn Khắc Trường (2000), “Mảnh đất lắm người nhiều ma” (Tiểu
thuyết), Nxb Văn học.
115. Hoàng Thị Văn (2000), Đặc trưng truyện ngắn 1975 - 1995, Luận án
Tiến sỹ, Trường ĐHKHXH và NV TP.HCM.
116. Văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa văn nghệ (Từ đại
hội VI đến Đại hội VII) (1993), Nxb Sự thật, Hà Nội.
117. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb Sự thật, Hà
Nội.
PHỤ LỤC 1
(Tóm tắt 7 tiểu thuyết được khảo sát trong luận văn)
1. ĐỒNG BẠC TRẮNG HOA XÒE
Tác phẩm đặt trong bối cảnh miền núi giai đoạn đầy biến động. Một vùng
đất khó khăn hiểm trở, khắc nghiệt vì thiên tai, vì phong tục tập quán lạ hậu, nhận
thức của con người ngu muội. Nay, trên mảnh đất này con người lại phải đối đầu
với những kẻ thù nguy hiểm. Bên ngoài là quân Tưởng, Nhật, Pháp thay nhau cai
trị nay thêm quân Pháp đang lăm le tiến vào xâm lược đứng đầu là Phơ - Rô-
Pông, một kẻ già đời, lọc lõi trong chiến trận, rành rọt về vùng đất và con người
nơi đây đang thực hiện âm mưu lợi dụng thổ ty để tiến hành xâm lược.
Trong bản, những thổ ty như Nông Vĩnh Yêng, Hoàng Văn Chao, La Văn
Đờ cùng tay chân của chúng như Châu Quán Lồ, Hoàng Văn Tường… tác oai tác
quái gây bao tội ác, đưa ra những luật lệ vô lý như thu tô, phu dịch, đóng thóc gà
thóc khách, cày ruộng công, phạt vạ… đưa ra những lời đồn, những câu chuyện về
hổ dữ khiến dân chúng hoang mang, lo sợ. Họ bỏ bản với hi vọng vua Hmông xuất
hiện sẽ không cần làm, sẽ sung sướng.
Thêm vào đó, quốc dân Đảng bại trận đứng đầu là đảng trưởng Vũ Khanh
và Triệu Đại Lộc đang tìm mọi cách dụ dỗ, lôi kéo bắt bớ những người dân vô tội
như Tích, ông Bằng, ông Lìu… khiến họ hoang mang, lo sợ. Chúng tra tấn, đánh
đập dã man những chiến sĩ cộng sản như Tâm, nhạc sĩ Quang Ngọc… nhưng
không thành. Bị quân giải phóng đánh đuổi chúng trốn chạy, ẩn nấp cướp bóc,
hãm hiếp bà con nơi đây. Cướp nổi loạn khắp nơi, xưng danh gây họa: Voòng Sắt,
Man Di Khai Sáng…
Ở các bản Can Chư Sủ, Pha Linh, Pa Kha… khó khăn, hiểm họa cũng đang
rình rập từng gia đình. Lão Pâu vợ chết, vì phạm tội nuôi lợn đực mà bị treo cổ
nhưng may mắn thoát chết. Gia đình Hố pẩu họ Giàng dồn dập xảy ra bao tai họa:
con cả chết vì ngu muội, đứa con dâu bị em chồng (Lử) hiếp nên ăn lá ngón tự
vẫn, bà Xóa chết vì già cả bệnh tật, con cái mỗi đứa một nơi.
Trước tình hình ấy, các cán bộ miền xuôi được cử lên công tác với nhiệm
vụ giải phóng vùng đất này. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Lê Chính, thủ lĩnh của
cuộc cách mạng cùng Tâm, Đắc, Na, Tích…, sự giúp đỡ của cụ đầu tộc làng
Nhuần Tẩn Mê Lòn, sự đồng lòng của nhiều con người hướng thiện, các cán bộ đã
tập hợp được dân chúng trong một cuộc hội quân lớn mạnh chưa từng thấy chuẩn
bị đánh quốc dân đảng. Dù trong dám quân ấy mỗi kẻ có một toan tính, âm mưu
kế sách nhưng đều đồng nhất một tâm nguyện giải phóng.
Cuộc chiến đấu chống quân quốc dân đảng diễn ra ác liệt. Tuy trong hàng
ngũ cán bộ có kẻ sa ngã như Vận: phản bội, bắt bớ, giết hại dân lành gây hoang
mang trong lòng người nhưng nhờ lòng quyết tâm, yêu thương chân thành của đa
số họ, cuộc chiến đã thắng lợi. Lê Chính được bầu làm chủ tịch. Các chức vụ,
quyền lợi cũng được phân cho các thổ ty. Tuy nhiên, khi thấy quyền cai trị không
còn được như trước, thổ ty quay ra phản bội, câu kết với Pháp gây phỉ. Cuộc chiến
đấu bước sang trang mới với những khó khăn thử thách: Cuộc chiến tranh tiễu phỉ.
2. VÙNG BIÊN ẢI
Cuộc chiến đấu của đồng bào dân tộc bước sang một giai đoạn mới với
nhiều khó khăn, thử thách. Thổ ty quay lưng hoàn toàn với cách mạng, nhận viện
trợ của Pháp, lợi dụng những tên ngu muội, máu tham quyền lực nổi phỉ. Phỉ đã
đồng loạt nổi lên khắp nơi như một bệnh dịch.
Đứng đầu là trùm phỉ Châu Quán Lồ và Giàng A Lử. Mỗi tên có đường đời
khác nhau nhưng cùng chung bản chất: tham lam, dâm dục, độc ác man rợ. Lồ
sống trong một gia đình có ông nội: Lồ Pláy gia trưởng, ngu muội luôn kích động
máu bạo ngược, nổi loạn của hắn. Lồ theo La Văn Đờ gây tội ác: Hành hình người
dã man, giết người, cướp của, hãm hiếp bất kì nggười đàn bà nào mà hắn gặp. Tuy
nhiên hắn lại được lòng người Hmông vì thanh thế lãy lừng (đồn trưởng, được Đờ
tin tưởng) trai tráng, phụ nữ ngưỡng mộ theo hắn cả đàn, được tin là có ngọc trời
giấu trong nách, theo hắn sẽ sung sướng, nói chuyện được với trời… Bị cách mạng
truy lùng, hắn trốn chui trốn nhủi nhưng cuối cùng cũng phải trả giá bằng phát
súng của Tếnh, người có cha và anh trai bị hắn hành hình dã man.
Lử hung bạo, tàn ác, theo quốc dân Đảng, cướp bóc, theo Pháp trở thành
trùm phỉ gây bao tội ác. Trông hắn như con quỷ dữ, bị mọi người sợ hãi, xa lánh.
Hắn giết lão Pâu để cướp, bắn chết họa sĩ Trọng, nhạc sĩ Quang Ngọc, ám sát
Chính… Trong nhà, hắn và Pao là hai thế đối nghịch. Pao theo cách mạng, nhân
hậu bị Lử bắt hai lần quyết giết chết nhưng nhờ sức mạnh của nỗi đau, lòng căm
thù mà thoát được.
Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng gặp khó khăn vì phỉ đông hàng
ngàn tên, là dân bản địa thông thuộc núi rừng, được Pháp viện trợ. Trong khi đó
lực lượng của ta mỏng, trong hàng ngũ cán bộ có kẻ tha hóa khiến lòng dân hoang
mang, nghi ngờ, lảng tránh, không hợp tác. Bằng sự nhẫn nhục, lòng thương yêu
chân thành, gần gũi, tận tình, khuyên giải của các chiến sĩ cách mạng, phỉ lần lượt
ra hàng. Hố pẩu Giàng Lầu dần nhận ra ánh sáng của cách mạng. Chính ông đã chỉ
đường cho cách mạng chỗ ẩn nấp của Lử, Pùa, em Lử đã bắn chết hắn vì không
muốn hắn gây thêm tội ác.
3. GẶP GỠ Ở LA PAN TẨN
Thầy giáo Thiêm tình nguyện lên bản Xả Hồ, một bản xa xôi hẻo lánh nhất
của huyện với mục đích mang con chữ đến với dân bản. Đã có bao người thầy đến
rồi đi vì không thể chịu đựng được sự khắc nghiệt.
Ở đó, Thiêm đã phải trải qua bao nhiêu khó khăn của một vùng đất xa xôi
hẻo lánh. Sống gần giũ với họ, Thiêm càng thấu hiểu nỗi khổ nhục vì nghèo đói, vì
ngu muội, thất học. Thiêm đã phải lặn lội vác cái kẻng sắt dưới suối về thay cho
cái mõ tre câm vừa làm tín hiệu vừa báo thức gọi học sinh đi học tới mức kiệt sức.
Với quyết tâm, nhiệt huyết xây dựng “tòa lâu đài văn hóa” trên mảnh đất này,
Thiêm đã đặt ra kế hoạch cho riêng mình. Một mình đi đến từng nhà, vận động cả
cha mẹ lẫn học trò đến trường. Ban đầu, trường chỉ độc một lớp do dân bản góp
sức v à một mình Thiêm đảm nhiệm tất cả các lớp. Bao lần được rồi tan, học sinh
vì đường xa, vì phải giúp cha mẹ làm nương, vì những trận mưa lũ ập xuống xóa
hết mọi công sức mà Thiêm đổ xuống. Cuối cùng, Thiêm cũng ươm mầm được
một số học trò, đưa chúng ra tỉnh học ở trường nội trú.
Tỉnh hỗ trợ đưa thêm cô giáo Thúy và ông bí thư Đường Xuân Ân xuống
giúp Thiêm. Ông ta vừa thô thiển đến khó hiểu, vừa dâm dục, phá hoại. Cô giáo
Thúy đem lòng yêu Thiêm nhưng không được đáp lại nên đã dan díu với ông bí
thư vừa để trút nỗi bực dọc với Thiêm, vừa để thỏa mãn dục vọng. Những tưởng
mục đích của anh sẽ thành sự thật vì đã mười lăm năm bám trụ, cũng đã có được
mấy lớp học trò ưu tú đến nỗi huyện cũng phải kinh ngạc không tin được nhưng
chỉ sau một đêm khi phỉ tràn về phá phách, cướp bóc, bắt bớ, giết hại... mọi thứ
dường như đã chấm hết.
Thiêm kiệt sức phải trở về quê trong niềm day dứt đớn đau. Nhờ sự động
viên của ông nội, cha Thiêm, những người đã từng làm thầy, họ vẫn tin Thiêm sẽ
làm được những dự định ngày nào. Bên cạnh đó, những lá thư của lớp học trò
thành đạt mà Thiêm ươm mầm ngày nào gửi về khiến anh xúc động, bồi hồi với
những tình cảm mà người dân ở đó dành cho mình. Thiêm lại một lần nữa thử sức
mình.
4. MƯA MÙA HẠ
Kĩ sư Trọng có năng lực, sống ngay thẳng, đạo đức. Sau nhiều lần thuyên
chuyển công tác, Trọng được chuyển về cơ quan phòng chống lụt bão của tỉnh.
Nơi ấy còn có Nam trưởng phòng có tài, được nhiều người yêu mến, ủng hộ Trọng
trong việc nghiên cứu công trình diệt tổ mối trong thân đê.
Đối lập với Trọng và Nam là Hưng đểu cáng, vô tâm, năng lực hạn chế, là
ông Chánh bảo thủ, nguyên tắc. Chúng tìm đủ mọi cách để hại anh: Hưng thiết kế
sai dẫn tới vụ sập cống Lợi Toàn gây họa năm nào. Hắn chỉ mong cho Nam (bị
ung thư giai đoạn cuối) sớm chết để hắn thay chức trưởng phòng, lấy cắp hồ sơ
trốn tội vụ sập cống. Hắn cùng với ông Chánh không cho Trọng tiếp tục nghiên
cứu đề tài, giấu nhẹm đơn xin vào Đảng của Trọng...
Trong tình yêu, Trọng lại gặp bất hạnh khi Loan, người con gái xinh đẹp
nết na, yêu Trọng ngày nào nay trở thành người chanh chua, độc địa, ác miệng đặc
biệt là mê tiền bỏ Trọng chạy theo Thưởng, một gã trai tơ giàu sụ nhờ tài gian lận,
mánh khóe, chạy phe móc ngoặc với các chủ cửa hàng bách hóa...
Bỏ qua tất cả những mất mát, ngăn cản, Trọng vẫn quyết thực hiện mục tiêu
của mình: bỏ cơ quan xuống vùng đê để thực hiện đề tài.
Trong khi xã hội đang có nhiều thay đổi, con người càng trở nên xấu đi, tha
hóa trước cám dỗ của đồng tiền: Gia đình Loan vẫn sống đầy đủ nhờ tài buôn bán
của bà Nhuần, những đứa con cũng được mẹ huấn luyện thành những đứa sành
sỏi, lão họa sĩ hàng xóm suy đồi về đạo đức luôn chửi rủa tục tĩu, gạ gẫm cả hai
mẹ con bà Nhuần... thì vẫn còn có những người tốt như người đeo kính trắng tặng
cho thư viện những cuốn sách quý, ủng hộ Trọng, cô Thuận chủ tịch xã nơi Trọng
làm việc luôn hết lòng với bà con, ông Ruân canh điếm bộc trực nhưng tốt tính...
Tuy Nam mất vì bạo bệnh, Trọng ra đi trong lần gồng mình bảo vệ khúc đê
yếu nhưng họ vẫn sống mãi trong lòng mọi người, được tôn kính. Trọng được lập
đền thờ, công trình nghiên cứu của anh vẫn được tiếp tục. Cha Trọng tuy mất con
nhưng thấy tin ở cuộc đời hơn. Ông đã trở lại trường đại học tiếp tục làm việc, góp
sức cho đời.
5. MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN
Gia đình ông Bằng, một gia đình chính gốc Hà Nội vốn được coi là gia
giáo, nền nếp: ông giáo Bằng mực thước, coi trọng truyền thống gia đình, năm anh
con trai anh là liệt sĩ, anh trung tá quân đội, anh nhà báo, anh học nước ngoài,
những cô con dâu đảm đang, tình nghĩa, nhân hậu nay đang có những biến động
lớn.
Phượng, cô con dâu thứ ba - vợ anh Luận chuyển lên thủ đô để sống gần
chồng bỏ nhưng phải bỏ lại đứa con cho bà ngoại chăm sóc vì chưa có điều kiện.
Anh Đông về hưu sống đơn giản, hời hợt, vô tâm trong mọi việc, suốt ngày chỉ vùi
đầu vào tổ tôm. Đứa con tên Cừ hư hỏng từ nhỏ, coi thường lễ giáo, gia phong của
gia đình. Lớn lên, xa gia đình, sống tự do vô lối giờ lại đào nhiệm, bỏ vợ con trốn
ra nước ngoài cùng người tình. Cô con dâu Lý - vợ Đông vốn sắc sảo giỏi giang
giờ tỏ ra quá quắt.
Đặc biệt sau những ngày Tết, trở lại cuộc sống ngày thường, gia đình ông
Bằng bắt đầu trở nên nặng nề, ảm đạm. Vợ Cừ bị nghỉ việc không nơi nương tựa,
dắt hai đứa con thơ lên tá túc. Căn nhà càng thêm chật chội. Mọi khó khăn đổ hết
lên đầu Phượng. Đi làm về, chị phải nhận thêm việc, hai vợ chồng phải chắt bóp,
dè xẻn trong sinh hoạt. Biến đổi lớn nhất là Lý, con người có nội tâm phong phú,
phức tạp lúc tỏ ra thương người, chia sẻ, cảm thông nhưng cũng có thể trở nên cay
nghiệt, độc ác lạ thường. Được chuyển sang khâu chạy vật tư, Lý còn liên kết làm
ăn bất chính với gã trưởng phòng kiếm được nhiều tiền. Chị cùng gã đi công tác xa
lại được gã chăm sóc, chiều chuộng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp mặn mà trong khi
Đông không còn mang lại niềm kiêu hãnh vợ của ông trung tá nữa nên Lý tỏ ra bất
cần, ta đây, chanh chua, nanh nọc, coi thường, hay gây sự với người khác nhất là
vợ Cừ và Phượng. Đông bắt đầu cảm thấy lo lắng khi thấy Lý đi lâu ngày chưa về.
Đông đau đớn, giận dữ, cuồng nộ, khi phát hiện ra những vụ làm ăn, chia chác với
ai đó của Lý và những bài thuốc nam tránh thai trong sổ ghi chép của Lý.
Nhưng hòa trong không khí những ngày Tết của dân tộc, sum vầy cùng con
cháu, ông Bằng dù biết những gì đang diễn ra nhưng cũng cố quên đi, giữ vững
bản lĩnh của mình. Ông ra đi nhưng vẫn tin tưởng ở cuộc sống, con người như
Luận đầy nghị lực, bản lĩnh, Phượng nhân hậu, thương người, có chị Hoài - cô con
dâu trưởng dù đã có gia đình khác nhưng vẫn quan tâm, tình nghĩa với gia đình
này: đón vợ con Cừ về quê cưu mang, bà lang Chí tốt bụng chữa bệnh và tận tình
chia sẻ tâm sự với ông...
Trải qua một mùa lá rụng cuối cùng Cừ cũng nhận ra sai lầm của mình khi
lưu lạc nơi đất khách, phải trả giá bằng cái chết, Đông thay đổi cách nhìn đời từ
“Đời có g ì là phức tạp lắm đâu” sang “Cuộc sống phức tạp lắm chứ không đơn
giản đâu”, còn Lý có lẽ đang mong chờ sự tha thứ của mọi người để trở về.
6. ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÓ GIẤY GIÁ THÚ
Ngôi trường trung học số 5 nhìn bề ngoài tưởng đẹp như những chùm hoa
phượng nở mỗi khi hè về nhưng thực chất bên trong không hề yên tĩnh trong thời
buổi cơ chế thị trường. Một loạt những con người mang danh nghĩa là thầy nhưng
xấu xa, đê tiện, bỉ ổi một cách trắng trợn.
Hiệu trưởng Cẩm xuất thân ba đời nghề mõ làng nhờ thời thế và may mắn
và năng nổ trong công tác đoàn mà từ một anh dạy thể dục được cử đi học đại học.
Chọn môn địa cho dễ nhưng rốt cuộc lại chuyển qua văn vì khoa thiếu cán bộ. Học
thì dốt, thi rớt nhưng vẫn tốt nghiệp loại ưu. Dạy dở, bao chuyện tiếu lâm cười ra
nước mắt. Cẩm lại háo sắc, dâm dục gây ra bao vụ lăng nhăng. Là một lãnh đạo
nhưng Cẩm chỉ thích che đậy cái dốt, chạy theo thành tích, trở thành kẻ đạo tặc khi
lén lút đột nhập vào phòng để bài thi của học sinh để sửa điểm. Bị phát hiện nhưng
hắn đã giở ngay trò đổ tội cho người khác, vẫn được xách cặp đi chia sẻ thành
tích... Dương, bí thư vô lo chỉ chăm quét bụi, nâng niu những tấm giấy khen trên
tường, bảo thủ nguyên tắc một cách rởm đời.
Thầy Thuật giỏi toán, hai lần đi thi nghiên cứu sinh bị trượt chỉ vì lí lịch
nên Thuật trở nên bất mãn. Thuật lao vào dạy thêm, nuôi chó để nhảy đực và giàu
lên nhanh chóng. Thuật phải trả giá khi học sinh không làm được bài trong kì thi
tốt nghiệp, bị Cẩm chửi bới trở nên kích động, ngộ dại phải vào nhà thương điên.
Cô giáo Thảnh dạy hóa trơ trẽn, tự cho mình là cú vọ, đi dạy mà chỉ chờ kì nghỉ để
nịnh nọt xin phiếu đi chơi với người tình.
Còn cuộc đời thầy giáo Tự dạy văn là một chuỗi dài những đau thương mất
mát. Khi còn là ông thầy của một ngôi trường miền trung du, anh đã bị đố kị, vùi
dập, là nạn nhân của một vụ trả thù, bị đẩy ra chiến trường một cách vô lý. Trở về
với tấm thân tàn, Tự lại gặp lục đục trong quan hệ vợ chồng. Xuyến bỏ việc thủ
thư chuyển sang buôn bán, kết giao với những kẻ giàu có nhưng bẩn thỉu, dâm tục:
những bà béo, gã Quỳnh hàng xóm... ngày càng cáu bẳn, tỏ ra khinh thường
chồng, theo trai...
Trong môi trường ấy, trên căn gác được coi là kho báu với hàng trăm cuốn
sách quý, thầy giáo Tự vẫn vẫn say sưa với những áng văn, xa lánh thói dung tục,
tầm thường giữ được bản chất đẹp đẽ của một người thầy, được học trò yêu mến,
tín nhiệm. Anh đã phải tằn tiện trong chi tiêu, bán chiếc xe đạp, bán những cuốn
sách quý... nhưng vẫn không vừa lòng Xuyến. Anh phải bỏ nhà đến tá túc tại
trường với ông Thống bảo vệ. Bi kịch tột đỉnh khi anh và ông Thống bị Cẩm lật
ngược tình thế đổ tội chữa điểm khiến ông Thống gục ngã, còn Tự đau đớn đành
chia tay với mái trường, chia tay vì một cuộc hôn phối “không có giấy giá thú”.
7. NGƯỢC DÒNG NƯỚC LŨ
Khiêm, một nhà giáo, nhà văn có tài, có nhân cách đạo đức nhân cách
nhưng rơi vào bi kịch đau đớn.
Trong gia đình, anh là một người chồng bị phản bội. Thoa, vợ anh lăng loàn
với nhiều người nhưng anh đã bỏ qua, chuyển về Hà Nội để tránh tiếng và mong
Thoa thay đổi. Nhưng môi trường mới lại khiến Thoa càng dễ dàng sa ngã. Chị bỏ
đi buôn chuyến dài ngày bỏ mặc chồng con, theo trai, thậm chí còn dâm đãng, đê
tiện tới mức làm tình ngay trước mắt Khiêm khi anh đang ốm liệt giường.
Trong cơ quan, khi còn giữ chức phó phòng của một cơ quan xuất bản, anh
cưu mang, cứu giúp cho Liệu, gã có biệt danh “xỏ nhầm giầy” vì anh trai phản bội
tổ quốc, bỏ qua cái lý lịch ấy cho hắn kết nạp Đảng, định cho hắn lên chức phó
phòng vì thấy hắn có năng lực. Anh đã nhận cái Tí Hợi vào làm vì thấy tội nghiệp
cho thân hình “oắt xà lai”, “cái quái thai ngâm dấm ” của nó, coi nó như con...
Vây quanh anh còn là Quanh với biệt danh “cóc cụ mắt lé” giả tạo, nham hiểm
đang nhăm nhe chức trưởng phòng của Khiêm, Phô - tổng cục trưởng từng bị
Khiêm đuổi học vì mất dạy nay lại là cấp trên của anh, đang tìm cách trả thù, đám
cận vệ của Phô cũng không khác gì chủ cũng bộ mặt và tâm địa ghê sợ.
Nơi ấy chỉ có Hoan, một người vừa đẹp mặn mà ở tuổi bốn mươi, vừa có
nhiều tài lẻ là đứng về phía anh. Nhận thấy sự bất lợi của anh trong cơ quan, Hoan
khuyên anh nhiều lần. Cuộc đời Hoan cũng gặp nhiều trắc trở. Được nhiều người
yêu mến nhưng kẻ yêu thì sợ mất chức hoặc bất hạnh, kẻ vì háo sắc, nhục dục. Khi
gặp Khiêm, chị yêu anh bằng một tình yêu chân thành, cảm nhận được vẻ đẹp
trong tâm hồn, cái hay trong văn của anh. Nhưng Hoan lại bị vợ Khiêm rạch mặt
trong vụ đánh ghen, bỏ cơ quan ra đi, sẩy thai... Bước đường cùng, Hoan đã buôn
thuốc phiện, bị theo dõi, bị bắt nhưng may mắn thoát chết.
Khiêm bị mất chức, trở về quê trên chuyến đò ngược dòng đối đầu với dòng
nước lũ quái đản, Khiêm cảm nhận được sự quyết tâm dốc sức đối mặt của cha
con người lái đò trong dòng nước xoáy cũng như Khiêm phải đối đầu với những
sóng gió của cuộc đời. Hoan đã lần theo dấu vết mà Khiêm không biết vô tình hay
hữu ý để lại trong hai truyện ngắn. Đó là dấu vết mà họ đã giao ước với nhau như
dấu lông ngỗng mà nàng Mị Châu để lại cho Trọng Thủy đi tìm.
Những kẻ xấu xa đã phải trả giá: Vợ Khiêm chết trong một lần đi phá thai
lậu, tổng cục đang bị truy xét để định tội, số sách của Khiêm mà chúng định thủ
tiêu đã được Hoan tình cờ mua lại được.
PHỤ LỤC 2
(Ảnh tư liệu)
Hình 1: NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG
Hình 2: Nhà văn Ma Văn Kháng và nhà báo Nguyễn Anh Nông
Hình 3: Hoạ sĩ Giáng Hương, phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội
VHNT và Ban giám đốc Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn
Du: Phan Hồng Giang (Chủ tịch), Ma Văn Kháng (Phó Chủ
tịch) , Vũ Quần Phương (Phó Chủ tịch).
Hình 4: Các nhân vật trong phim “Mùa lá rụng”- Chuyển thể
từ tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng.
Hình 5: Một cảnh trong phim “Mùa lá rụng”.
Hình 6: Ruộng bậc thang của người HMông.
Hình 7: Hội gầu tào của người Hmông.
Hình 8: Chợ tình Hmông
Hình 9: Múa khèn
Hình 10: Bộ tiểu thuyết của nhà văn Ma Văn Kháng - NXB.
CAND năm 2006.
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.................................................................................................1
Chương 1. NHÌN CHUNG HAI CHẶNG ĐƯỜNG SÁNG TÁC
TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG SỰ
VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM -
1945 TỚI NAY .....................................................................12
1.1. Hai chặng đường của tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 tới
1985.......................................................................................12
1.1.1. Chặngđường1945 - 1985.............................................12
1.1.2. Chặng đường từ 1985 tới nay .....................................15
1.2. Ma Văn Kháng và hai chặng đường tiểu thuyết của ông
(trước và sau Mùa lá rụng trong vườn)....................................18
1.2.1. Ma Văn Kháng - đường đời, đường văn.....................18
1.2.2. “Mùa lá rụng trong vườn” - 1985, mốc đánh dấu
sự chuyển biến trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng.......23
1.2.3. Nguyên nhân của sự chuyển biến ...............................24
Nguyên nhân khách quan............................................24
Nguyên nhân chủ quan ...............................................25
1.2.4. Chặng thứ nhất: Tiểu thuyết Ma Văn Kháng
trước “Mùa lá rụng trong vườn”.................................27
1.2.5. Chặng thứ hai: Tiểu thuyết Ma Văn Kháng sau
“Mùa lá rụng trong vườn” ..........................................28
1.3. Ma Văn Kháng - nhà văn có đóng góp lớn cho văn học
Việt Nam..................................................................................30
1.3.1. Một nhà văn góp công khai phá đề tài miền núi.........30
1.3.2. Một trong những nhà văn tiên phong thời kì đổi
mới ..............................................................................32
Chương 2. CHUYỂN BIẾN VỀ NỘI DUNG CẢM HỨNG
TRONG TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI ...............................................................................36
2.1. Từ thâm nhập, mô tả hiện thực miền núi trong chiến
tranh đến khám phá cuộc sống, xã hội thành thị thời cơ
chế thị trường...........................................................................36
2.1.1. Hiện thực cuộc sống, xã hội miền núi.........................36
2.1.2. Từ thâm nhập, mô tả hiện thực cuộc sống, xã hội
miền núi trong chiến tranh đến khám phá hiện
thực cuộc sống, xã hội thành thị thời cơ chế thị
trường .........................................................................41
2.2. Từ chủ đề chiến tranh cách mạng đến chủ đề cuộc sống
đời thường thời kì đổi mới.......................................................46
2.2.1. Miền núi thời kì đấu tranh xây dựng đất nước............46
2.2.2. Từ chủ đề chiến tranh cách mạng đến chủ đề
cuộc sống đời thường thời kì đổi mới ........................51
2.3. Từ hình tượng thế giới nhân vật trữ tình sử thi đến hình
tượng thế giới nhân vật đa dạng trong xã hội thành thị...........56
2.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn
học...............................................................................56
2.3.2. Những thay đổi về thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng: Từ thế giới con người thi
vị, đậm chất hùng ca đến thế giới con người thời
“cơ chế thị trường” ngổn ngang và nhiều xáo
trộn. .............................................................................58
Chương 3. CHUYỂN BIẾN VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI ...............................................................................87
3.1. Từ tiểu thuyết miêu tả, phản ánh mang chất sử thi lãng
mạn sang tiểu thuyết phân tích chính luận về đời tư thế
sự..............................................................................................87
3.1.1. Cảm hứng sử thi lãng mạn trữ tình trong tiểu
thuyết về miền núi của Ma Văn Kháng ......................87
3.1.2. Từ cảm hứng sử thi lãng mạn trữ tình trong tiểu
thuyết về miền núi sang cảm hứng bi kịch trong
tiểu thuyết về thành thị ...............................................92
3.1.3. Bút pháp miêu tả, phản ánh.........................................96
3.1.4. Từ bút pháp miêu tả, phản ánh sang bút pháp
phân tích diễn biến tâm lý...........................................99
3.1.5. Bút pháp miêu tả ngoại hình nhân vật đặc sắc,
hấp dẫn................................................................................105
3.2. Từ tiểu thuyết “đơn thanh” tiến gần đến tiểu thuyết “đa
thanh”.......................................................................................109
3.2.1. Giọng ngợi ca hào hùng của người kể chuyện bên
ngoài............................................................................110
3.2.2. Từ giọng ngợi ca hào hùng của người kể chuyện
bên ngoài đến giọng phê phán của người kể
chuyện nhập vai nói bằng tiếng nói bên trong............112
3.2.3. Giọng triết lý bên cạnh giọng trào tiếu, châm
biếm, mỉa mai .............................................................122
3.3. Bước chuyển của ngôn ngữ nghệ thuật ...................................125
3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ mang đậm phong vị
miền núi ......................................................................125
3.3.2. Từ ngôn ngữ giàu chất thơ mang đậm phong vị
miền núi đến ngôn ngữ đa điệu của đời sống thị
dân thời mở cửa ..........................................................128
KẾT LUẬN.............................................................................................135
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................140
PHỤ LỤC................................................................................................149
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
(ĐBTHX) : Đồng bạc trắng hoa xòe
(ĐCKCGGT) : Đám cưới không có giấy giá thú
(GGƠLPT) : Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
(MMH) : Mưa mùa hạ
(MLRTV) : Mùa lá rụng trong vườn
(NDNL) : Ngược dòng nước lũ
(VBA) : Vùng biên ải
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7549.pdf