Mục lục
Trang
Mục lục 3
Lời nói đầu 5
Chương I. 6
Định nghĩa TTCK và Chứng khoán 7
Vài nét về sự ra đời và phát triển của TTCK
Định nghĩa về TTCK 8
Định nghĩa về Chứng khoán 9
Chương II.
Chức năng của TTCK 11
TTCK và hệ thống tài chính
TTCK và tài chính của các DN 12
TTCK và tài chính của các DN có giá trị và
không có giá trị và không có giá tri trên TTCK
Tài trợ các DN qua TTCK
Phát hành và trao đổi CK 13
Những lợi ích và bất lợi khi ra nhập TTCKư 14
TTCK v
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những cái nhìn đầu tiên về thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tài chính Nhà nước 16
Sử dụng thường xuyên
Sử dụng bất thường 17
TTCK và tài chính của các hộ gia đình 18
TTCK và tiền tiết kiệm
Mục tiêu của đơn vị mua CK 19
Trực tiếp hoặc gián tiếp mua CK trên TTCK 20
TTCK và các cơ quan đầu tư chuyên môn
(công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí....) 21
TTCK và giá một công ty có bảng giá
TTCK phản ánh tình trạng chính trị và kinh tế
vĩ mô 22
Chương III.
Cơ chế TTCK 23
Những chứng thư chính trên TTCK
Cổ phiếu
Trái phiếu 25
Các nhân tố của giá cả trên TTCK 27
Giá cổ phiếu
Các chỉ số chính của TTCK
Giá trái phiếu 28
Chương IV
Một TTCK tại Việt Nam 29
Nguyên tắc hoạt động của các quỹ đầu tư
Việt nam growth - các tác nhân
TTCK tại Việt nam - điều kiện 31
Chương V 33
Kết luận
Những khó khăn
Những thuận lợi 35
Tài liệu tham khảo 37
Lời nói đầu
Từ ngày Chính phủ Việt Nam quyết định áp dụng chính sách đổi mới, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, đồng thời quyết định thành lập một thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt Nam, vấn đề này trở thành một đề tài hợp thời cần phải tìm hiểu: TTCK là gì ? Dùng để làm gì ? đối với nước ta, có ích lợi gì, bất lợi gì ? Nền kinh tế Việt Nam nên có một TTCK hay không ? và nếu phải có, thì khi nào cần có ?
Với đề tài "Những cái nhìn đầu tiên về Thị trường chứng khoán" tuy đơn sơ nhưng cũng phần nào giải đáp được những câu hỏi trên.
Nhưng, để hiểu sâu hơn về TTCK thì chắc chắn phải cần một thời gian khá dài mà nhất là với Sinh viên như chúng em thì lại phải cần học và tìm hiểu nhiều hơn nữa thì mới có thể có được cái nhìn thấu đáo về TTCK. Vì thật ra, TTCK đối với Việt Nam hiện nay nó vẫn còn rất mới mẻ và những tài liệu về TTCK cũng rất hạn chế. Do vậy, với vốn kiến thức ít ỏi của mình và sự giúp đỡ của Thầy cô nên em cũng mạnh dạn tìm hiểu và viết nên đề tài này. Vì vậy, Em rất mong có được sự đánh giá và góp ý của Thầy cô giáo để em có thể học tốt hơn môn Tiền Tệ cũng như các môn Kinh Tế chuyên ngành sắp tới. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên: Đồng Xuân Nam
Lớp : 1020
Chương I.
Định nghĩa Thị trường chứng khoán và chứng khoán
1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của TTCK
Thị trường chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới lạ với chúng ta, bởi lẽ chúng ta vừa chân ướt chân dáo tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường - Vì vậy, với những khái niệm của thị trường mở gần như còn tương đối xa lạ đối với chúng ta. Còn đối với một số nước trong khu vực cũng như trên thế giới những khái niệm và mô hình về Thị trường chứng khoán đã trở thành quen thuộc và thâm nhập vào đời sống kinh tế xã hội một cách khá vững chắc. Vậy, đối với khái niệm Thị trường chứng khoán đã có từ bao giờ ?
Đứng trên phương diện lịch sử kinh tế, có tác giả nhận xét rằng TTCK có từ hồi quả đất tròn, và đã được phát triển vào thời Hy lạp, hay thời La Mã, khi Hoàng đế Cesar trao độc quyền thu tiền tiết kiệm của dân cho một nhóm người dùng tiền đó để đầu tư, xây cất đường xá cho thành phố này. TTCK, tiếng Pháp là "bourse", tiếng Anh là "stock exchange". Chữ "bourse" do tên của một thương gia sống ở thành phố BRUGES, nước Bỉ. Giữa thế kỷ 18, TTCK được phát triển mạnh mẽ, khi cách mạng công nghiệp diễn ra ở Châu Âu, các nước dùng TTCK để cung cấp tài chính cho những phát minh về tàu hoả, mỏ than... Đồng thời, luật lệ về công ty vô danh được bổ sung.
Ta có thể nhận xét rằng: TTCK là một guồng máy của nền kinh tế thị trường, TTCK chỉ có trong các nước có thị trường, nó tượng trưng cho sức mạnh tài chính của một quốc gia, có đủ khả năng để thu hút tiết kiệm trong hay ngoài nước vào nhu cầu tài chính của bộ máy sản xuất. Cũng vì lý do đó, người ta nhận thấy rằng trong vài năm qua, các nước muốn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá qua kinh tế thị trường, một trong những bước đầu họ nghĩ đến là thành lập một Thị trường chứng khoán : Các nước Đông Âu mới lập lại TTCK cách đây vài năm, như ở Budapest, Praha, Varsovie, hay Mát-scơ-va... ở Châu á, Trung Quốc cũng mới mở TTCK từ năm 1990 ở Thượng Hải và Schenzchen. Trong khi đó, những nước phát triển đang phải chung sức tìm giải pháp đối phó với hai hiện tượng chính, quốc tế hoá và điện tử hoá các dịch vụ buôn bán trên TTCK.
Còn đối với Việt Nam trong vài năm trở lại đây, những thông tin về TTCK cũng đã đang được quan tâm và thu hút sự chú ý không chỉ của riêng Chính phủ mà còn có sự quan tâm rất lớn của đông đảo công chúng mà nhất là giới kinh doanh. Và từ năm1998, khi Chính phủ quyết định thành lập một hội đồng gồm các chuyên gia kinh tế học nổi tiếng để chuẩn bị cho việc mở ra một TTCK ở Việt Nam mà trước hết là ở Thành phố HCM và sau đó là Hà Nội.
Nhưng để hiểu sâu hơn về TTCK chúng ta cần tìm hiểu về định nghĩa TTCK thì mới có thể có được cái nhìn sâu sắc hơn về TTCK .
2. Định nghĩa về TTCK.(sơ đồ 1)
Thị trường chứng khoán là nơi những người chuyên nghiệp trao đổi những chứng khoán động sản. Đơn vị có khả năng tài chính là những người có tiền tiết kiệm, mua chứng khoán. Đơn vị có nhu cầu tài chính là các tập thể phát hành và bán chứng khoán. Để cung gặp cầu, người mua và người bán phải thoả thuận với nhau một giá, gọi là giá chứng khoán.
Việc chuyển từ tiền tiết kiệm sang chứng khoán còn được gọi là "luồng tài chính", có nghĩa là tiền được chuyển từ tay người có tiền đến tay người cần tiền.
Sự chuyển từ chứng khoán đến tiết kiệm được gọi là "luồng vật chất", gọi như thế vì trước thời điện tử, người trao tiền nhận được một giấy chứng minh quyền sở hữu của họ đối với động sản đó. Ngày nay, ở những TTCK quan trọng trên thế giới, những giấy minh đều được điện tử hoá, việc này gọi là "phi vật chất hoá các chứng thư". Do đó, một tư nhân sống ở Châu Âu có thể ra lệnh mua chứng thư trên TTCK Nữu Ước hay bán trên TTCK Tokio một cách nhanh chóng qua tài khoản chứng thư.
Trong thời đại điện tử ngày nay, TTCK có thể là một địa điểm trong thành phố nhưng phần lớn những lệnh mua và bán đều được thành toán qua điện thoại và máy điện tử.
Thị trường chứng khoán: định nghĩa
Cung Cầu
Đơn vị có Đơn vị có
nhu cầu chứng khoán khả năng
tài chính tài chính
Vốn
Thị trường chứng khoán
- Nơi trao đổi chứng khoán
- Cung gặp Cầu - Giá
Sơ đồ (1) về TTCK
3. Định nghĩa về Chứng khoán.
Chứng khoán, cón được gọi là chứng thư là một giá trị động sản biểu hiện quyền của các hội viên hay của những người cho vay dài hạn.
Chứng khoán có đặc tính là có thể chuyển nhượng trên TTCK, nghĩa là người có chứng khoán có quyền bán lại cho người có tiền muốn mua.
Có hai loại giá trị động sản chính:
- Cổ phiếu, còn được gọi là giá trị động sản có lợi tức biến đổi.
- Trái phiếu, còn được gọi là giá trị động sản có lợi tức cố định.
a. Cổ phiếu
Cổ phiếu do các nhà doanh nghiệp, công ty liên doanh... phát hành. Người mua gọi là cổ đông hợp thành đại hội cổ đông, để góp vốn thành "vốn điều lệ" của doanh nghiệp, được ghi trong bảng tổng kết tài sản. Vốn này trao cho doanh nghiệp một cách vĩnh viễn, không phải trả lại cho cổ đông. Mỗi năm một lần, lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra được hội đồng cổ đông quyết định chia thành lãi cổ phần (cổ tức), số tiền này thay đổi mỗi năm tuỳ theo lời lỗ của doanh nghiệp. Trên nguyên tắc luật pháp, người có cổ phiếu là chủ sỏ hữu một phần của doanh nghiệp, vì thế họ có quyền tham gia vào quản lý doanh nghiệp, nhưng trên thực tế thì quyền này được trao cho Hội đồng cổ đông quản trị.
b. Trái phiếu.
Trái phiếu do doanh nghiệp, công ty tài chính, liên doanh, thành phố, nhà nước... phát hành. Mua trái phiếu có nghĩa là cho cơ quan phát hành trái phiếu vay. Người có trái phiếu là chủ nợ, họ chấp nhận cho mượn tiền, nói cách khác, họ cho vay dài hạn với điều kiện không chịu rủi ro kinh doanh, không chịu mất vốn họ cho doanh nghiệp sử dụng. Đó là nguyên tắc, còn trong thực tế, họ có thể mất vốn tuỳ theo giá của trái phiếu trên thị trường. Dù sao, sử rủi ro của trái phiếu cũng ít hơn sự rủi ro của cổ phiếu. Vì thế trong kế toán, trên bảng tổng kết tài sản hàng năm, số tiền đó được ghi trong mục nợ dài hạn và trung hạn. Cũng vì lý do đó, trên nguyên tắc, mỗi năm, trái phiếu mang lại cho người có trái phiếu một lãi xuất cố định, doanh nghiệp lời lỗ ra sao cũng phải trả số tiền lãi này. Vì người có trái phiếu không có quyền sở hữu nên không có quyền tham gia vào quản lý của doanh nghiệp như những người có cổ phiếu.
Ngày nay, vì cạnh tranh và vì nhu cầu của người có tiền và người cần tiền, sự phân biệt giữa cổ phiếu và trái phiếu không còn như trước. Vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập sau. Về tâm lý, ta có thể nói một cách tổng quát rằng người mua cổ phiếu và người mua trái phiếu, có hai cách nhìn khác nhau theo cách sử dụng tiền tiết kiệm của họ. Người có cổ phiếu thích rủi ro, chấp nhận mất vốn đến một mức nào đó và hy vọng nhận được nhiều tiền hơn. Người có trái phiếu cơ bản tính cẩn thận hơn, họ vừa mong muốn được tiền lời vừa muốn bảo trợ vốn của họ.
Chứng khoán
Giá trị động sản biểu hiện cho quyền của các thành viên hoặc các chủ nợ dài hạn.
Các chứng khoán có đặc tính là có thể chuyển nhượng trên một thị trường gọi là thị trường chứng khoán
Cổ phiếu Trái phiếu
Cơ quan phát hành Doanh nghiệp, Doanh nghiệp, DN DN tài chính tài chính, nhà nước
Tư cách người có CK Cổ đông=chủ sở Chủ nợ cho vay dài
hữu góp vốn, lây hạn không chịu rủi
rủi ro kinh doanh ro kinh doanh
Thu nhập Cổ tức biến đổi Lãi suất cố định
Quyền quản lý Cổ đông có quyền Chủ nợ không có
tham gia vào quản quyền tham gia vào
lý DN quản lý
Sơ đồ (2)
Chương II
chức năng của thị trường chứng khoán
I. TTCK và hệ thống tài chính
TTCK là một bộ phận của guồng máy tài chính, có chức năng chuyển tiền tiết kiệm tới nơi đầu tư.
Khi có khả năng tài chính, các đơn vị kinh tế( hộ gia định, doanh nghiệp...)có hai cách sử dụng tiền:
- Gửi trong một loạt tài sản tiết kiệm của quỹ tiết kiệm, ngân hàng: Tài khoản dài hạn, ngắn hạn, tài khoản báo trước... Số tiền này sẽ được ngân hàng chuyển thành tín dụng cho doanh nghiệp, hộ gia đình, kho bạc nhà nước.
- Dùng tiền để mua chứng khoán( các loại cổ phiếu và trái phiếu) trên TTCK. Họ có thể mua chứng khoán do các doanh nghiệp,nhà nước, hoặc các cơ quan địa phương... phát hành. Thị trường này được gọi là thị trường sơ cấp vì chỉ có thị trường này mới mang tiền mới đến những đơn vị có nhu cầu tài chính. Chúng ta nên chú ý: Tiền tiết kiệm chỉ đến các đơn vị có nhu cầu tài chính một lần, lúc chứng khoán được phát hành.
Những đơn vị có khả năng tài chính có thể sử dụng tiền bằng cách mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp.Nghĩa thông thường của bốn chữ TTCK là thị trường này không có chứng khoán và những người có tiền cần mua chứng khoán. Đây chính là thị trường mà báo chí thông báo giá cả lên xuống hàng ngày. Vì thế người ta còn nói thì trường mua bán lại, sự mua bán này không mang lại tiền mới cho các đơn vị đã phát hành chứng khoán.
Mỗi nước sử dụng TTCK theo truyền thống của họ:ở Đức TTCK không đóng vai trò quan trọng nhờ sự liên lạc chặt chẽ giữa giới ngân hàng và giới kỹ nghệ, các ngân hàng thường có cổ phần trong 4 điều lệ của các xí nghiệp. ở Mỹ TTCK đóng vai trò rất quan trọng các xí nghiệp lớn dùng TTCK để có tài chính đầu tư hơn là dùng tín dụng.
II. Thị trường chứng khoán và tài chính của các doanh nghiệp
1. TTCK và tài chính của các doanh nghiệp có giá trị và không có giá trị trên TTCK
Khi một cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp để khai thác một sáng kiến, một phát minh, trên thị trường không ai biết tới họ, khi có được ngay lòng tin của giới ngân hàng, rủi ro nhiều...nên họ thường nhờ ở vốn riêng hay tiền dành dụm của họ hàng thân hữu.Ơ các nước phát triển mạnh, có những công ty tài chính chuyên môn về "vốn mạo hiểm"( capital-risque, venture- capital). Trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp mới thành lập có thể đến các công ty tài chính này đề nghị họ mua một phần cổ phiếu của minh.
Khi những doanh nghiệp gia đình này phát triển mạnh mẽ, doanh số tiền lợi tăng lên. Muốn tiếp tục phát triển, thì phải vượt qua trở ngại vốn lần nữa: Vốn riêng của doanh nghiệp tạo ra không đủ, hoặc người trong họ hàng chịu giúp họ lúc đầu muốn rút lui vì lý do riêng, gia tài cha mẹ để lại( trong đó có doanh nghiệp) anh em phải chia ra cho nhau, công ty chuyên môn "vốn rủi ro" muốn rút lui để lấy lại lời thặng dư(Plus-value, capital gain) đi đầu tư nơi khác... Để giải quyết vấn đề này, người quản trị doanh nghiệp có thể đến gặp những cơ quan do chính phủ mở ra để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để có tín nhiệm hơn trên TTCK, các cơ quan bán công cộng này họp lại thành từng ngành(ví dụ nghành điện...), từng vùng(bên Pháp có những công ty phát triển vùng:societé de développement régional), thành lập các quỹ doanh nghiệp nhỏ và trung bình..., rồi phát hành trái phiếu trên TTCK với sự bảo đảm của nhà nước. Vốn các cơ quan này thu vào sẽ cho các doanh nghiệp vay dưới hình thức tín dụng dài hạn hay trung hạn. ở giài đoạn này cũng có các công ty tài chính chuyên môn về "vốn phát triển"( capital-développement, developpment-capital) mua cổ phần.
Đó là những hình thức gián tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ và trung bình tìm ra vốn để tiếp tục phát triển. Còn những doanh nghiệp lớn đã có tiếng tăm và tín nhiệm của TTCK như IBM, SONY,.... đều có thị giá(coté, listed) trên TTCK trong nước hay tại nước ngoài, nghĩa là chứng khoán họ phát triển trên TTCK có một giá được xác định theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán.
2. Tài trợ các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán
Doanh nghiệp được tài trợ qua ba phương pháp đã đề cập đến phần đầu: Tự tài trợ- vay ngân hàng dài hạn hay trung hạn- tài trợ qua TTCK. Trong phần này, ta tìm hiểu thêm về cách tài trợ qua TTCK. Có hai phương pháp:
-Tăng vốn bằng cách gọi tiền mặt: Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới, người đã có cổ phiếu của doanh nghiệp này có quyền ưu tiên mua. Quyền này được biểu hiện bằng một phiếu, gọi là phiếu ghi mua, nó là phần thưởng cho người đã chấp nhận rủi ro ban đầu. Cũng vì lý do trên, quyền ưu tiên ghi mua có một trị giá: người có quyền tiết kiệm, muốn mua cổ phiếu của doanh nghiệp này phải mua quyền ưu tiên của những người đã có cổ phiếu nhưng không muốn mua thêm vì họ không có tiền hay họ thấy chịu rủi ro với doanh nghiệp này như thế là đủ rồi.
- Vay dài hạn bằng cách phát hành trái phiếu. Trường hợp này, người ta đã có trái phiếu không có quyền ưu tiên.
3. Phát hành và trao đổi chứng khoán
Quá trình giao dịch được chia làm ba giai đoạn:
- Bước đầu, doanh nghiệp phát hành chứng khoán, nhận được tiền. Người xuất vốn nhận được chứng khoán.
- Bước hai, để có sự giao dịch trên TTCK, doanh nghiệp có trách nhiệm thông tin cho thị trường qua báo cáo hàng năm, hàng ngày, qua bảng tổng kết tài sản... để những người có cổ phiếu có thông tin để quyết định giữ hay bán cổ phiếu.
Bước ba, sau đại hội cổ đông, tiền lãi cổ phần được doanh nghiệp phân chia và gửi đến tài khoản của mỗi cổ đông.
Phát hành và trao đổi cố phiếu
Thông tin kinh tế
cổ đông 1 cổ đông 2 cổ đông 3
Tiền
Tiền
Thị trường chứng khoán
Doanh nghiệp phát hành
(Sơ đồ 3)
4. Những lợi ích và bất lợi ích khi gia nhập TTCK
Tuỳ theo kế hoạch hoạt động và lợi ích của doanh nghiệp, tuỳ theo mức lãi suất ngân hàng, giá cả trên thị trường chứng khoán, ban quản trị sẽ chọn giải pháp thích hợp:
a) ích lợi
Gia nhập TTCK sẽ có lợi cho doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực:
- Doanh nghiệp có thêm một nguồn tài trợ để tiếp tục phát triển, có thể rẻ hơn là vay ngân hàng, tuỳ theo mức lãi suất.
- Doanh nghiệp có thêm tiếng tăm: dư luận nói đến những kết quả ban quản trị đã đạt được trên mọi thị trường, những thành công về xuất khẩu, những phát minh mới được áp dụng theo nhu cầu đòi hỏi của giới tiêu thụ.
- Doanh nghiệp gia đình kiếm thêm được một nguồn vốn để tiếp tục phát triển.
- Doanh nghiệp được TTCK đánh giá hàng ngày. Người quản trị doanh nghiệp có một giá tham khảo qua thị giá của cổ phần trên TTCK. Giá đó sẽ được áp dụng trong kế hoạch phát triển đã định: Trao đổi cổ phần với doanh nghiệp bạn... Thí dụ: doanh nghiệp bạn A mua X % cổ phần của doanh nghiệp B, doanh nghiệp B mua Y % cổ phần của doanh nghiệp A. Đó là một chính sách bảo trợ nhau, trao đổi tin tức với nhau.
- Doanh nghiệp còn có thể dùng chính sách "cưỡng ép" mua doanh nghiệp đối thủ một cách công khai, bằng cách qua mặt ban quản trị doanh nghiệp này, đề nghị với những người có cổ phiếu của doanh nghiệp đó để mua lại cổ phiếu của họ với một giá cao hơn giá thị trường (nếu không cao hơn thì họ không bán làm gì!) hoặc mua bằng tiền mặt. Hành động này được gọi là "công khai hỏi mua". Ngoài ra, còn có phương pháp để trao đổi cổ phiếu giữa hai hãng với nhau. Hành động này được gọi là "công khai dạm hỏi đổi cổ phiếu".
b. Bất lợi
- Doanh nghiệp phải chấp nhận công khai hoá các hoạt động chính của mình. Phải báo cáo tin tức thất bại và thành công của doanh nghiệp trên mọi thị trường, nghiên cứu phát triển, cách sử dụng nhân viên...
- Doanh nghiệp phải giải thích kế hoạch đã quyết định áp dụng, lý do, năng lực...
- Nếu không đạt được kết quả ngắn hạn như mong muốn, hoặc giải thích không được thoả đáng, doanh nghiệp sẽ bị doanh nghiệp khác để ý đến, công khai hỏi mua hay công khai dạm hỏi.
- Doanh nghiệp có thể bị một doanh nghiệp đối thủ để ý, trực tiếp giao dịch với hội đồng cổ phiếu của mình và đề nghị công khai hỏi mua hay công khai dạm đổi cổ phiếu.
Nhập TTCK: Lợi và bất lợi cho DN
Lợi Bất lợi
- Thêm nguồn tài trợ - Phải công báo thông tin
- Thêm tiếng tăm kinh tế về DN
- Công ty cổ phần gia đình - Phải công báo chiến lược
kiêm thêm vốn để phát triển
- DN được đánh giá hàng
ngày
- Tập trung / đa năng hoá mua - Có thể bị DN khác mua
cổ phiếu = mua DN (công
khai hỏi mua công khai dạm
đổi)
(Sơ đồ 4)
III . TTCK và tài chính nhà nước
1. Sử dụng thường xuyên
Việc sử dụng thường xuyên ngân sách nhà nước đã được đề cập đến trong phần (I), ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh đến việc ngân sách bội chi. Chính phủ phải tìm cách tài trợ sự chênh lệch đó. Có hai cách: chính phủ vay tiền của Ngân hàng Nhà nước, giải pháp này có thể gây ra lạm phát. Cách thứ hai là chính phủ phát hành phiếu kho bạc, thu hút tiền tiết kiệm vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, bội chi là một hiện tượng rất thông thường trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở những nước phát triển, người ta nhận thấy sự tài trợ cho ngân sách nhà nước đã được quốc tế hoá: Thí dụ tiền tiết kiệm ở Nhật dùng để tài trợ khoản thiếu hụt của ngân sách Mỹ.
2. Sử dụng bất thường
Tuỳ theo mục đích kinh tế và chính trị, nhà nước có thể sử dụng hai chính sách: Quốc hữu hoá và tư hữu hóa.
- Quôc hữu hoá là chuyền quyền sở hữu các cổ phiếu vào tay chính phủ. Có hai cách quốc hữu hoá, quốc hữu hóa không bồi thường và quốc hữu hoá có bồi thường. Năm 1982, khi Tổng thống Pháp Mitterrand và Đảng Xã Hội lên nắm chính quyền, một quỹ quốc gia công nghiệp và một quỹ quốc gia ngân hàng đẫ được thành lập để đổi cổ phiếu các xí nghiệp bị quốc hữu hoá thành trái phiếu dài hạn của nhà nước. Đối với ngân sách nhà nước, quốc hữu hóa theo cách thứ hai này không thu vào cho nhà nước thêm đồng nào, trái lại, nhà nước lại có thêm một món nợ dài hạn. Đối với TTCK, các xí nghiệp bị quốc hữu hoá sẽ mất thị giá và tên trên thị trường cổ phiếu. Tiềm năng buôn bán trên thị trường này sẽ kém đi, ngược lại trên nguyên tắc, tiềm năng trên thị trường trái phiếu được tăng lên.
- Tư hữu hoá là nước bán cổ phiếu của các doanh nghiệp quốc doanh. Đối với TTCK, bảng giá các doanh nghiệp có tên tuổ được tăng thêm, do vậy tiềm năng buôn bán của các doanh nghiệp cổ phiếu cũng được rộng hơn. Do bán cổ phiếu, ngân sách nhà nước sẽ có một nguồn thu bất thường. Nhưng mỗi chính quyền có thể tư hữu hóa vì nhiều lý do khác nhau. Thí dụ lý do chính sách kinh tế: Tại Pháp năm 1986, cánh hữu lên cầm quyền, chính phủ quyết định" tự do hoá" nền kinh tế. Nhà nước Anh cũng nhiều lần giải thích chính sách của họ như thế. Nhà lãnh đạo còn có lý do khác để áp dụng chương trình tư hữu hoá. Mục đích là cải tiến phương pháp quản lý của các doanh nghiệp quốc doanh, họ quan niệm rằng doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn quốc doanh.
Ngày nay trên thế giới, trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển đang có phong trào tư hữu hoá các xí nghiệp. Những nước công nghiệp đã hay đang áp dụng chương trình tư hữu hoá trong hay ngoài TTCK của họ: Pháp(Rhône poulenc...), Nhật(NTT...), Anh (British Telecom...), LBCH Đức(Lufthansa...). Sau khi thống nhất, nước Đức đã mở một quỹ riêng để giải quyết điều này. Giải pháp này thông qua TTCK. Nhiệm vụ của quỹ này đánh giá các xí nghiệp ở Đông Đức, rồi chia các doanh nghiệp quốc doanh ra làm ba loại: Các doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động, các doanh nghiệp có thể cải thiện trước khi bán, các doanh nghiệp có thể bán ngay. Đơn vị mua có thể là doanh nghiệp trong nước hay ngoài nước, nhưng phải chấp nhận mọi yêu cầu của hợp đồng( không thải nhân viên, thêm tiền đầu tư, thực hiện chương trình cải tân...). Nhiều nước tư bản mới phát triển hay đang phát triển ví dụ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Maroc, Hunggari, Côte d'lvoire... đều có chương trình tư hữu hoá nền kinh tế của họ. Tuỳ trường hợp, việc này thực hiện quy- hay không qua- TTCK.
IV . TTCK và tài chính của các hộ gia đình
1. TTCK và tiền tiết kiệm
Tiền thu và hộ gia đình dưới mọi hình thức được sử dụng cho chi phí hoạt động thông thường: ăn uống, quần áo, đi lại, thuốc men... Tiền tiết kiệm là phần thu nhập không tiêu. Sự phân chia giữa tiền tiết kiệm và tiền thu nhập có thể thay đổi tuỳ nước và tuỳ thời gian. Ví dụ, khoảng năm 1960-1975, tại Pháp, tiền tiết kiệm chiếm khoảng 17-18% thu nhập của các hộ. Sau thời gian đó, xu hướng thúc đẩy tiêu thụ đã làm con số đó xuống còn khoảng 14%. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng hiện tượng giảm tỷ lệ tiết kiệm hiện nay tăng trong mọi nền kinh tế phát triển.
Tiền tiết kiệm được chia ra làm hai phần chình: một phần mua nhà cửa và đất đai, một phần gia tăng tài sản dưới hình thức khác: vàng, đá quí, bức hoạ hay phức tạp hơn nữa như bảo hiểm nhân thọ, tiền gửi trong ngân hàng, các quỹ tiết kiệm. Chỉ có một phần tiết kiệm được dùng vào TTCK. Tại Pháp, hình thức thứ hai này chiếm 6% tổng số tiền thu nhập của các hộ. Hiện nay một phần lớn của 6% này được chuyển vào TTCK( cổ phiếu, trái phiếu). Nói cách khác, tại Pháp dưới một phần ba tiền tiết kiệm được đưa vào TTCK, ở các nước phát triển khác số tiền này quan trọng hơn.
Năm 1990, số tư nhân có cổ phiếu hay trái phiếu, trực tiếp hay gián tiếp ở các nước như sau:
Pháp 3,5 triệu người, nghĩa là 1/16 dân số
Mỹ 30 triệu người, nghĩa là 1/7 dân số
Nhật 10 triệu người, nghĩa là 1/12 dân số
Đức 4,5 triệu người, nghĩa là 1/14 dân số.
2. Mục tiếu của đơn vị mua chứng khoán
Việc chọn mua cổ phiếu hay trái phiếu biểu hiện hai tâm trạng, hai nhu cầu của con người:
- Nhu cầu thu nhập hàng năm: Mục đích của những người theo tâm lý này là nhu cầu sinh lời. Họ không thích nhiều rủi ro đối với vốn họ đưa ra, họ chú ý đến trái phiếu, hay trái phiếu nào ít có rủi ro. Vốn đề ra 2.000 đồng, mỗi năm phải đưa lại cho họ 100 đồng lãi.
- Nhu cầu có giá trị thặng dư: Đơn vị có nhu cầu này cần chú ý ưu tiên đến sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán, khi mua với giá X, họ phải tin trong tương lai họ có thể bán với giá Y cao hơn giá X.
Khi phát hành chứng khoán" giá danh nghĩa"(Valeur nominale, nominal- value)- còn được gọi là "mệnh giá" ( value faciale, face- value)- được in trên giấy cổ phần. Giá phát hành là giá thực sự người mua phải trả, nó có thể bằng hay khác mệnh giá:
- Giá phát hành = giá danh nghĩa, hiện tượng đó được gọi là phát hành ngang giá(au pair, at par).
- Giá phát hành< mệnh giá, được gọi là phát hành dưới mệnh giá (en dessous du pair, below par).
- Giá phát hành> giá danh nghĩa, được gọi là phát hành trên giá danh nghĩa (au dessus du pair, above par).
Khi DN có tên trên bảng giá, người mua chỉ chú ý đến sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán:
* Giá bán> giá mua được gọi là " thặng dư" ( phus- value, capital-gain).
Giá bán< giá mua được gọi là " giảm giá" ( moins- value, capital-loss).
Mục tiêu đơn vị mua chứng khoán
I. Thu nhập hàng năm
*Trái phiếu Lãi suất
* Cổ phiếu Cổ tức
II. Lợi nhuận khi bán lại
* Giá bán > Giá mua
(Sơ đồ 5)
3. Trực tiếp hoặc gián tiếp mua chứng khoán trên TTCK
Mọi đơn vị kinh tế, cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan tài chính có tiền tiết kiệm đều có thể mua bán chứng khoán trên TTCK. Họ giao dịch thẳng với các cơ quan chuyên môn để phát lệnh mua hay bán( tuỳ trường hợp) mọi hình thức chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu kho bạc dưới hình thức dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn.
Tất cả đơn vị kinh tế còn có thể hoạt động gián tiếp trên TTCK quq các cơ quan đầu tư tập thể. Có hai loại:
a) Quỹ đầu tư có vốn thay đổi
Các quỹ này được phép hoạt động mua bán mọi hình thức chứng khoán của TTCK : cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu kho bạc... Nguồn của quỹ do vốn của người tiết kiệm đưa vào và được các quỹ sử dụng bằng cách mua chứng khoán. Nhưng người có tiết kiệm có thể mua cổ phần của các quỹ ngày hôm nay và quyết định bán trong tương lai, vì vậy vốn của các quỹ này có thể thay đổi hàng ngày. Người lời là người bán cổ phiếu của quỹ với thặng dư, người lỗ là người bán cổ phiếu của quỹ với giảm giá.
Có rất nhiều loại quỹ đầu tư, có quỹ chuyên môn về TTCK mới, trái phiếu, TTCK châu á, châu Mỹ... Đó là một loại sản phẩm tài chính, các quỹ không có tên trên bảng giá của TTCK nhưng cạnh tranh với nhau mạnh mẽ, kết qủa được đăng báo thường xuyên. Các quỹ này có thể xin các cơ quan chấm điểm" rating" (xem 2.4) cho điểm trước khi mở để họ dễ buôn bán hơn và thông tin đó đượ Uỷ ban giao dịch chứng khoán ( COB commission des operatión de bourse, SEC sécurities exchange commission) kiểm soát.
Các quỹ này đáp ứng những nhu cầu sau đây:
- Các đơn vị có tiết kiệm hợp nhau lại để phân chia rủi ro.
- Sử dụng kinh nghiệm chuyên môn của người quản lý.
- Quản lý dễ hơn, lựa chọn mua hay bán chứng khoán thích hợp, ví dụ như giảm tiền hoa hồng, chia rủi ro trên nhiều ngành kinh tế.
- Các quỹ này đóng vai trò trung gian để huy động vốn nhàn rỗi của các hộ. Để gây được uy tín trong quần chúng, các đơn vị phổ biến các sản phẩm tài chính này ( ngân hàng, hãng bảo hiểm...) phải tôn trọng điều lệ mới vận hành được: Luật pháp nghiêm chỉnh, thông tin chính xác, khả năng các nhà quản lý được chấp nhận...
b) Câu lạc bộ đầu tư
Nhiệm vụ của đơn vị này như sau:
- Như một hội, mở ra để cho hội viên có dịp trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trên TTCK.
- Trao đổi tin tức giữa bạn hữu, đồng nghiệp...
- Phân chia rủi ro.
- Quản lý thích hợp.
V. TTCK và các cơ quan đầu tư chuyên môn ( công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí...)
Một nền kinh tế phát triển mạnh thường có một hệ thống đầu tư chuyên môn. Tiền tiết kiệm của các ngành kinh tế tạo ra được chuyển sang các cơ quan này (investiseur institutional investor):
- Công ty bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn...
- Quỹ hưu trí: Có hai hệ thống, quỹ hưu trí " phân chia qua các thế hệ tương tự như câu ngạn ngữ " lá lành đùm lá rách",vốn thu vào năm nay phát trực tiệp cho những người đang hưu trí năm nay. Quỹ hưu trí "vốn cá nhân", mỗi người mua bảo hiểm hưu trí của mình, có thể với sự giúp đỡ của ngành hay công ty họ đang làm việc( fonds de pension funds)
- Quỹ đầu tư có vốn thay đổi, như đã nói trên.
- Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư.
- Quỹ tiền gửi và ký thác ( caisse de dépôts et consignations), theo nhiệm vụ Chính phủ đã trao cho.
Trong các nước phát triển, các cơ quan nói trên, tuy đứng ngoài công việc sản xuất hàng hoá dịch vụ, nhưng đóng một vai trò rất quan trọng, biểu hiện cho sự tích trữ tiết kiệm của một nền kinh tế. Các quỹ này ở Mỹ quản lý tổng số hơn 60 tỉ Mỹ kim. Một quỹ hưu trí bến Mỹ ( pension fund) có thể quản lý hơn 40 triêụ Mỹ kim các công ty bảo hiểm ở Nhật Bản còn lớn hơn.
1. Lý do sức mạnh tài chính của các cơ quan này
Lý do chính là hiện tượng " ngược đường" của các cơ quan này so với guồng máy của các doanh nghiệp san xuất: Các doanh nghiệp cần đầu tư hôm nay để ngày mai tiếp tục phát triển, còn các cơ quan đầu tư thu nhiều tiền hôm nay và trả trong tương lai. Sự khác biệt đó là một vấn đề tài chính mà TTCK phải trả lời. Qua các chương trình tư hữu hoá, các cơ quan này được mời mua chứng khoán của các công ty lớn vì họ có nhiều tiền, họ có thể có một cách nhìn dài hạn.
2. Sử dụng tài chính của các cơ quan đầu tư chuyên môn
Các cơ quan này hoạt động trong một khuôn khổ luật pháp, theo một chính sách đầu tư, mục đích là bảo vệ quyền lợi của những đơn vị đem vốn tới họ. Vốn này, tuỳ nước, được sử dụng theo ba cách:
- Đặt vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Chính sách này được áp dụng ưu tiên khi lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn, hiện tượng này đã và đang có từ mấy năm gần đây.
- Đầu tư nhà cửa: Sử dụng tiền cách này có tính chất dài hạn, chú trọng ưu tiên thặng dư ( phus- value, capital gain) rồi mới đến tiền thuê nhà ( revenu, revenue). Theo chính sách này, họ mua nhà cho tư nhân hay công ty thuê hay mua khách sạn. Họ có thể mua trực tiếp hay gián tiếp qua các quỹ bất động sản chuyên môn về nhà cửa thương mại ( sicomi) hay quỹ tài chính ( holding financiere, finanial holding company).
- Đầu tư trên TTCK: Mua trực tiếp hay gián tiếp của TTCK: cổ phần, cổ phiếu, hoặc tham dự mua trong những vụ hỏi mua công khai.
- Tham gia mua cổ phần của các quỹ vốn rủi ro hay các quỹ vốn phát triển
VI. TTCK phản ánh tình hình kinh tế
Người ta thường đặt câu hỏi TTCK có phản ánh một nền kinh tế hay không?
1. TTCK và giá một công ty có giá bảng
Trên nguyên tắc, giá của một doanh nghiệp có tên trên TTCK phản ánh cách TTCK đánh giá doanh nghiệp này. Nó được một giá thưởng ( giá lên ) hay bị một giá phạt ( giá xuống); điểm tốt hay xấu tuỳ theo cách TTCK đánh giá:
- Ban quản lý doanh nghiệp.
- Kế hoạch phát triển.
- Khả năng sinh lời.
- Và nhiều lý do tâm lý khác như sự dự báo của TTCK ( xem phần 3.2).
Những hiện tượng này có thể áp dụng cho một ngành kinh tế: chế biến lương thực phẩm, sản xuất máy điện tử...
2. TTC._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0792.doc