Những bước khởi đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm gần đây, vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một trong những nhiệm vụ chiến lược, trọng yếu được Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu . Để thực hiện mục tiêu đó vấn đề huy động vốn đang trở lên vô cùng quan trọng. Để giải quyết vấn đề về vốn và phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn thì điều cần thiết là phải tạo lập, xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Ngày 20/7/2000 vừa qua, Trung tâm giao dịch chứng khoán đã được chính thức khai trương t

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những bước khởi đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu sự ra đời thị trường chứng khoán chính thức tại Việt Nam. Thị trường chứng khoán là một loại hình thị trường tài chính hiện đại không thể thiếu được trong một nền kinh tế phát triển, song cũng rất mới mẻ đối với những người dân Việt Nam. Là một sinh viên trong lĩnh vực kinh tế, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút sự quan tâm mong muốn tìm hiểu của em. Với ý định tìm hiểu về cơ cấu tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như có những đánh giá ban đầu về hoạt động của loại hình thị trường tài chính mới mẻ này, em đã quyết định nghiên cứu chuyên đề “Những bước khởi đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam”. Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán: Nghiên cứu những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán để làm cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu về thị trường chứng khoán Việt Nam trong các chương sau. Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam: Xem xét thực trạng hoạt động cũng như những đặc thù riêng có của thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm có được cái nhìn tổng quát về loại hình thị trường này ở Việt Nam. Chương III: Giải pháp để duy trì và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam: Trên cơ sở phân tích những hoạt động ban đầu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới môi trường phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam để thấy được thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Từ đó, em cũng muốn nêu một vài nhận xét về các giải pháp cần có để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Do thời gian hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán chưa lâu, kiến thức về thị trường chứng khoán của bản thân mới chỉ dựa trên sách vở báo chí, cho nên chắc hẳn chuyên đề em viết còn nhiều thiếu sót. Với ước muốn được tiếp tục khám pháp vấn đề hóc búa nhưng rất thú vị này, em mong sẽ nhận được sự chỉ bảo góp ý của thầy để những nghiên cứu sau này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. chương i đặc trưng cơ bản của thị trường chứng khoán šš&›› Vai trò của thị trường chứng khoán Định nghĩa: Cũng giống như nhiều khái niệm khác, hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều cách định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán. Song tựu chung lại, cách định nghĩa phổ biến nhất được đưa ra như sau: "Thị trường chứng khoán là thị trường mà ở đó người ta phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn và tiến hành các hoạt động mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời". Việc kiếm lời thông qua thị trường chứng khoán chủ yếu dựa vào kinh doanh mua bán chứng khoán để ăn chênh lệch giá hoặc từ các hoạt động đầu tư vào chứng khoán để được hưởng phần lợi nhuận thu được từ loại chứng khoán đó. Thông thường thị trường chứng khoán phải tồn tại ở một nơi mà tại đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện, thị trường chứng khoán ở các nước có nền sản xuất và lưu thông hàng hoá lâu đời như Anh, Pháp, Mỹ... tồn tại dưới hai hình thức: thị trường chứng khoán có tổ chức và thị trường chứng khoán phi tổ chức. 1.1/ Thị trường chứng khoán có tổ chức: Hình thức phổ biến của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở giao dịch chứng khoán (thị trường chứng khoán tập trung). Đó là nơi gặp gỡ của các nhà môi giới chứng khoán, là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán không tham gia vào việc mua bán chứng khoán mà chỉ cho thuê địa điểm để người mua bán chứng khoán thực hiện và đưa ra danh sách các loại chứng khoán được mua bán trên thị trường. Sở giao dịch chứng khoán có đặc điểm là không có hàng hoá và không có người mua bán cuối cùng chỉ có ngươì môi giới. 1.2/ Thị trường chứng khoán phi tổ chức: Là loại thị trường chứng khoán bậc cao, nó diễn ra ở bất cứ nơi nào mua và bán chứng khoán.Thị trường chứng khoán phi tổ chức gồm 2 loại: Thị trường bán tập trung và ù Thị trường bán tập trung (Over the counter - OTC ) là thị trường không có hình thái tổ chức tồn tại, không nằm trên vị trí trung tâm nào. ù Thị trường chứng khoán phi tập trung: nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để tiến hành giao dịch, mua bán chuyển nhược chứng khoán hoặc có thể thông qua nhà môi giới. Thị trường chứng khoán phi tập trung là cơ sở hình thành thị trường chứng khoán tập trung, rồi tiến đến thị trường chứng khoán bán tập trung. Tất cả các loại chứng khoán được phát hành đều có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung. Thị trường chứng khoán phi tập trung có vai tro không kém phần quan trọng, nó góp phần tạo nên sự ổn định giá cả của thị trường tập trung. 1.3/ Phân loại thị trường chứng khoán: Việc phân loại thị trường chứng khoán có ý nghia quan trọng, nó giúp cho các quốc gia lựa chọn cho mình hình thức phù hợp. Để phân loại hợp lý và thích hợp với đặc thù của chứng khoán có thể phân loại thị trường chứng khoán vào các tiêu thức sau: Thị trường cổ phiếu: là thị trường phát hành cổ phiếu mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chứa đựng cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Đây chính là thị trường vốn cổ phần. Thị trường này có đặc điểm phản ánh các quan hệ mang tính chất sở hữu. Trong thị trường cổ phiếu lạ có 2 loại cổ phiếu cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường (Common stock): là cổ phiếu được phát hành lúc thành lập công ty và lúc công ty cần gọi thêm vốn. Đây là loại cổ phiếu không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng vớu sự tồi tại của công ty phát hành nó, không có lãi suất cố định, số lãi được chia phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mỗi cổ phiếu thường thể hiện quyền sở hữu trong công ty. Số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ càng nhiều thì họ càng có nhiều quyền lợi sở hữu. Cổ đông có thể là một cá nhân mà cũng có thể là một công ty. Cổ đông được quyền tham gia quản lý doanh nghiệp, bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị, được quyền cung cấp thông tin đầy đủ về hoạt động của công ty... Tuy nhiên các chủ nhân của nó cũng phải chịu nhiều rủi ro lớn đặc biệt là trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ hoặc phá sản thì họ là những người được nhận lại vốn sau cùng Cổ phiếu thường có giá trị ban đầu được ghi trên cổ phiếu gọi là mệnh giá (face value). Mệnh giá chỉ là giá trị danh nghĩa vào thời điểm cổ phiếu được phát hành lần đầu. Trong quá trình kinh doanh, tùy theo số lợi nhuận thu được và cách phân phối lần đầu, giá cổ phiếu sẽ được tăng lên và vượt giá trị ban đầu. Giá này gọi là giá thị trường. Cổ phiếu ưu đãi (Preferred stock): Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ cổ phiếu được hưởng một số ưu đãi hơn so với cổ đông cổ phiếu thường về tài chính mà những cổ đông có cổ phiếu thường không có như: được hưởng mức lãi cổ phần riêng biệt cố định hàng năm, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thường, và được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi thanh lý, giải thể. Nhưng trong trường hợp công ty làm ăn không có lãi và không có khả năng trả cổ tức thì họ cũng không được nhận cổ tức. Tuy vậy, cổ phiếu ưu đãi có một điểm hạn chế hơn so với cổ phiếu thường, đó là người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Ban quản trị, Ban kiểm soát hoạt động của công ty. Thị trường trái phiếu: là thị trường phát hành trái phiếu mới và mua đi bán lại trái phiếu cũ. Tương ứng với hai loại trái phiếu cơ bản là trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ có hai loại thị trường trái phiếu là thị trường trái phiếu chính phủ. Đây chính là thị trường nợ với tính chất thể hiện các quan hệ tín dụng. Trái phiếu có nhiều loại khác nhau với tên gọi đặc thù khác nhau. Về cơ bản ta có thể phân chia trái phiếu với các tiêu thức sau: ù Căn cứ vào các hình thức phát hành trái phiếu có 2 loại: Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên sở hữu chủ cả trên trái phiếu cũng như trên sổ công ty phát hành, tức là ai có loại trái phiếu này đều trở thành chủ sở hữu và có quyền thanh toán trái phiếu. Trái phiếu ký danh: là loại trái phiếu có ghi tên sở hữu chủ trên tờ trái phiếu và tên của trái chủ được đăng ký tại công ty phát hành. Trái phiếu ký danh có thể được đăng ký về phần vốn hoặc được đăng ký toàn bộ tuỳ theo ý thích của chủ sở hữu. Trái phiếu ký danh an toàn hơn vì khi mất trộm có thể thay thế bằng trái phiếu mới, nhưng khi cần bán lại khó khăn hơn trái phiếu vô danh. ù Căn cứ vào phương thức tổ chức phát hành , có hai loại trái phiếu chủ yếu sau: Trái phiếu công ty: là loại trái phiếu do công ty thuộc các thành phần kinh tế phát hành nhằm huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục đích và tính chất khác nhau mà trái phiếu công ty có thể chia làm nhiều loại khác nhau. Trái phiếu công ty là loại trái phiếu dài hạn (thường có thời hạn 5 năm), trả lãi hàng năm hoặc cứ nửa năm trả lãi một lần. Trái phiếu có mệnh giá cố định. Trái phiếu chính phủ: là loại trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách, thường để phục vụ cho những kế hoạch đầu tư phát triển dài hạn chứ không nhằm mục đích đáp ứng thiếu hụt ngân sách tạm thời. Trái phiếu chính phủ có nhiều tên gọi khác nhau như: công trái, trái phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ có thời hạn từ 2 năm đến 10, 20 năm. Đây là điểm khác biệt giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty vì các công ty không thể có khả năng vay vốn trong một thời gian dài như vậy được. Trái phiếu chính phủ là trái phiếu an toàn nhất hầu như không có rủi ro. 2. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán: Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán rất đa dạng, như là: chính phủ, hệ thống ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và tầng lớp nhân dân. Các chủ thể này tham gia với tư cách là người phát hành, mua bán chuyển nhượng chứng khoán hoặc môi giới kinh doanh chứng khoán. Mỗi chủ thể có tầm quan trọng riêng trên thị trường tạo nên sự thống nhất trong hoạt động của thị trường. Về cơ bản, có thể chia thành 4 nhóm chủ thể chính sau đây: 2.1/ Các tổ chức phát hành chứng khoán: Đây là những chủ thể có nhu cầu huy động vốn để mở rộng sản xuất, phát triển qui mô kinh doanh của mình. Bằng cách phát hành chứng khoán họ có thể vay vốn từ các chủ thể khác trong nền kinh tế. Loại chủ thể này chỉ có thể là các pháp nhân như các doanh nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tài chính khác hoặc chính phủ. Các doanh nghiệp: đây là những người có nhu cầu vốn dài hạn trước tiên trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán qua thi trường sơ cấp và với tư cách là người mua bán chứng khoán tại thị trường thứ cấp. Doanh nghiệp được phát hành trái phiếu để vay nợ trên thị trường sơ cấp. Riêng đối với công ty cổ phần thì ngoài việc phát hành trái phiếu để vay nợ họ còn được phát hành cổ phiếu để gọi vốn điều lệ từ các nhà đầu tư. Chính phủ: Chính phủ tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách như một doanh nghiệp bình thường. Nhà nước tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán khi phát hành trái phiếu để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách hoặc tài trợ cho việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Các chính quyền địa phương cũng có thể phát hành chứng khoán dài hạn để có vốn thực hiện các công trình công cộng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác: Các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác cũng cần có thêm vốn dài hạn để mở rộng hoạt động bằng các phát hành trái phiếu trên thị trường. 2.2/ Các nhà đầu tư chứng khoán: Đó là những người sở hữu chứng khoán, người mua hoặc dự kiến mua chứng khoán cho mình. Họ là những người có vốn dư thừa có nhu cầu đầu tư cho vay. Đó là những hộ gia đình, các doanh nghiệp kinh doanh, chính phủ, người nước ngoài (có thể là pháp nhân hoặc là thể nhân, chính phủ nước ngoài). 2.3/ Các tổ chức trung gian: Các tổ chức trung gian có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán (đối với cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp). Mặc dù những chủ thể trực tiếp trên thị trường chứng khoán là những người cho vay vốn và người sử dụng vốn nhưng các tổ chức trung gian có vai trò hỗ trợ cho cả quá trình, thiếu họ thì quá trình vay vốn - đầu tư sẽ trở nên khó khăn. Các tổ chức trung gian đáp ứng được nhu cầu của cả hai phía bằng cách điều hoà lại các khoản tiết kiệm và các khoản cho vay dưới những hình thức thích hợp với cả hai phía. Điều đó sẽ đem lại hiệu quả cao hơn và làm giảm các chi phí giao dịch cho hai bên vay và cho vay. Nhóm những trung gian này bao gồm: các tổ chức nhận tiền gửi (các ngân hàng), các công ty tài chính, các quỹ tương trợ và các công ty chứng khoán. 2.4/ Các tổ chức điều tiết: Đó là những người tổ chức nên thị trường chứng khoán, quản lý khối lượng chứng khoán nói chung và đảm bảo cho mọi giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến hành đúng luật, hạn chế các rủi ro trên thị trường. Các tổ chức điều tiết gồm: Uỷ ban chứng khoán quốc gia, Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội những người mua bán chứng khoán v.v... Hoạt động của thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán hoạt động trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Thị trường sơ cấp: (phát hành và phân phối các chứng khoán) là thị trường mua bán đầu tiên các loại chứng khoán vừa mới phát hành, nên còn được gọi là thị trường phát hành. Thị trường này cho phép các chủ thể kinh tế như: các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính hoặc chính phủ thực hiện huy động vốn ban đầu thông qua việc bán chứng khoán cho các nhà đầu tư chứ không mua bán chứng khoán giưa các nhà đầu tư. Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, chức năng này mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần tiền sử dụng, đưa nguồn tiền tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Thị trường thứ cấp: là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Thị trường thứ cấp tạo nên một yếu tố quan trọng cơ bản: tính thanh toán của các chứng khoán. Tức là thị trường thứ cấp đảm bảo khả chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt, cho phép những người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi việc đầu tư tại thời điểm nào mà họ mong muốn hoặc có thể thực hiện sự di chuyển đầu tư từ khu vực này sang khu vực khác dưới sự tác động của quy luật bình quân hoá lợi nhuận, do đó làm tính hấp hẫn của chứng khoán. Chính vì thế nó tạo ra sự lưu thông tiền vốn trong nền kinh tế. ù Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là quan hệ nội tại, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, còn thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp sẽ khó hoạt động trôi chảy, các loại chứng khoán sẽ rất khó khăn trong việc phát hành vì không ai dám mua chứng khoán khi vốn của họ bị bất động, chứng khoán không dễ dàng chuyển hoá được thành tiền khi người đầu tư có nhu cầu. Trên thực tế thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vai trò của thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán, qua lịch sử phát triển của mình, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó trong quá trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia và trong cả hệ thống kinh tế toàn cầu. Có thể khái quát hoá vai trò của thị trường chứng khoán trên các khía cạnh cụ thể: Trước tiên thị trường chứng khoán giữ vai trò là công cụ tài trợ cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán có vai trò thu hút vốn nhàn rỗi trong nhân dân để tạo nên một nguồn vốn khổng lồ nhằm đầu tư cho các dự án dài hạn và tài trợ cho các nhu cầu về vốn. Không chỉ là công cụ huy động vốn trong nước thị trường chứng khoán còn thể hiện vai trò đắc lực trong việc huy động vốn nước ngoài. Một vai trò không kém phần quan trọng của thị trường chứng khoán đó là thị trường chứng khoán đảm bảo tính thanh khoản cho các khoản tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn (các công cụ trên thị trường chứng khoán). Với vai trò này thị trường chứng khoán đảm bảo cho việc nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt của các chứng khoán có giá. Nhờ vậy mà thị trường chứng khoán đã thu hút được các đầu tư đến với mình. Tính thanh quản càng cao khi thị trường chứng khoán hoạt động càng hiệu quả. Khi các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán, đòi hỏi chúng phẩi thông báo trung thực tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhờ những thông tin trên thị trường chứng khoán người ta có thể đánh giá được nawng lực sản xuất của doanh nghiệp, khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh và xu thế phát triển của doanh nghiệp. Như vậy thị trường chứng khoán còn có vai trò là công cụ đo lường các tích sản của doanh nghiệp. Mọi sự biến động giá cả trên thị trường sẽ phản ánh sự biến động của giá trị doanh nghiệp. Chính vì việc phải công khai thông báo một cách trung thực các thông tin về hoạt động tài chính của doanh nghiệp mình, nên thị trường chứng khoán đã vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp phải làm ăn nghiêm túc và có hiệu quả. Mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chúng kiểm tra và đánh giá, đó cũng là cơ sở cho những quyết định đầu tư của họ. Thị trường chứng khoán có vai trò làm hoàn thiện cấu trúc của hệ thống tài chính. Thị trường chứng khoán tạo cơ hội khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và quan trọng hơn là biết cách sử dụng tiền tiết kiệm đó một cách có hiệu quả tích cực thông qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Trước khi có thị trường chứng khoán , các quỹ tiền tệ tập trung như các ngân hàng thương mại, đầu tư, quỹ bảo hiểm... đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm song vai trò của chúng chỉ là phát huy hết tác dụng khi có sự ra đời của thị trường chứng khoán. Một vai trò to lớn khác của thị trường chứng khoán là việc hỗ trợ của thị trường chứng khoán đối với công ty cổ phần. Có thể nói thị trường chứng khoán là một điều kiện không thể thiếu được đối với quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu một cách có hiệu quả. Vai trò này sẽ được xem xét một cách cụ thể trong phần tiếp theo. Trên đây là tổng quan những vai trò của thị trường chứng khoán, ứng vào mỗi hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia sự thể hiện vai trò của thị trường chứng khoán sẽ là không giống nhau nhưng xét tới cùng chúng đều nhằm mục đích góp phần tạo sự tăng trưởng của mỗi quốc gia. II. sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển kinh tế ở Việt nam hiện nay. Thứ nhất, sau đại hội Đảng lần thứ 6, đất nước ta chuyển mình từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển đổi sang mô hình nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi có thị trường tiền tệ, thị trường vốn để phục vụ cho sự phát triển của thị trường hàng hoá và dịch vụ. Và nhất là công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam hiện nay đòi hỏi phải có một lượng vốn rất lớn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, trong khi đó thị trường vốn ở nước ta lại chưa phát triển, còn tồn tại nhiều khiếm khuyết, mặc dù nguồn vốn huy động từ các ngân hàng là một khối lượng lớn không nhỏ song vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu hiện tại cũng như trong tương lai. Để khắc phục được phần nào tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế, hệ thống các ngân hàng thương mại nước ta đã tích cực huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhưng nguồn vốn mà các ngân hàng huy động được chủ yếu chỉ là vốn ngắn hạn, còn vốn trung và dài hạn thì vẫn hạn chế, do đó không đáp ứng được các dự án đầu tư lớn và dài hạn. Vì vậy đã dẫn đến tình trạng các ngân hàng thừa vốn ngắn hạn nhưng lại thiếu vốn trung và dài hạn cho các hoạt động kinh tế. Sự ra đời của thị trường chứng khoán ở nước ta sẽ tạo điều kiện thu hút vốn trung và dài hạn đang còn thiếu vì đặc thù của thị trường chứng khoán là huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu hay chính là huy động vốn dài hạn. Và hơn nữa nhờ yếu tố về mặt thông tin được công khai trên thị trường chứng khoán nên thị trường chứng khoán có thể làm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính. Mặt khác, qua điều tra cho thấy tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư hiện nay là khá cao, theo ước đoán nguồn vốn bằng tiền mặt trong dân chúng chiếm khoảng 50 - 60% tổng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, số ngoại tệ trong dân cư khoảng 2 tỷ USD, giá trị vàng bạc, đá quý từ 7 - 10 tỷ USD. Tồn tại tình trạng này là vì hiện nay nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, người dân có tâm lý không muốn dùng tiền của mình để đầu tư vì họ sợ rủi ro. Công chúng chỉ sẵn sàng đưa số vốn này vào đầu tư khi nền kinh tế và thị trường đảm bảo được lợi nhuận và tính thanh khoản cho vốn đầu tư của họ. Thị trường chứng khoán ra đời đem lại nhiều cơ hội đầu tư sinh lời cao sẽ góp phần thu hút nguồn vốn này phục vụ cho phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh, sau gần 1 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việy Nam đã góp phần thực hiện tốt việc huy động vốn đầu tư. Theo thống kê, thời gian qua người dân cả nước đã mua hơn 60 tỷ đồng giá trị cổ phiếu và trái phiếu. Một phần lớn trong số đó là tiền để dành, tiền tiết kiệm ngắn hạn.... Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Từ trước đến nay chúng ta mới chỉ thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nhưng sự ra đời của thị trường chứng khoán tại Việt Nam sẽ cho phép đẩy mạnh khả năng thu hút vốn nước ngoài dưới hình thức đầu tư gián tiếp vào các doanh nghiệp hoặc cho chính phủ vay. Thứ hai, các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán cũng thu hút được nguồn vốn để mở rộng các hoath động kinh doanh của mình. Với sự tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán, các công ty cổ phần sẽ nhần được nguồn lợi ích lớn. Khả năng vay vốn và huy động vốn dẽ dàng: Khi công ty có nhu cấu vốn để phát triển, mở rộng sản xuất... công ty có thể dễ dàng huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra các ngân hàng cũng sẽ sẵn sàng cho các công ty niêm yết vay với lãi suất ưu đãi với nhưngx điều kiện ràng buộc cũng ít hơn so với các công ty không niêm yết. Giá trị công ty tăng lên: Người ta thường có hình ảnh tốt đẹp về công ty cũng như các sản phẩm và dịch vụ đối với công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, do đó mà việc ký kết hợp đồng, việc giao dịch đối với công ty cũng dễ dàng hơn. Bên cạnh đó các giá trị vô hình khác của công ty cũng tăng lên như lợi thế cạnh tranh, uy tin. Ưu đãi về thuế: Là doanh nghiệp cổ phần hoá theo nghị định 44/1998/ NĐ- CP, công ty cổ phàn đã được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 2 năm. Đối với công ty niêm yết thì doanh nghiệp còn được giẩm tiếp 50% thuế thu nhập trong vòng 2 năm. Nếu doanh nghiệp vừa thực hiện cổ phần hoá và vừa đăng ký niêm yết thì sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm. Tạo tính thanh khoản cho các cổ đông: Với việc các công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ làm tăng tính đại chúng của công ty bởi thông qua thị trường thứ cấp các cổ đông sẽ dễ dàng bán lại chứng khoán của mình, như vậy tính thanh khoản cao sẽ làm hài lòng các nhà đầu tư. Thứ ba, thị trường chứng khoán ra đời sẽ tạo ra một phương tiện mới để chính phủ vay vốn có hiệu quả hơn thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán an toàn nhất do đó cũng phải thấp nhất so với các loại chứng khoán khác. Để xác định được mức lãi suất thấp nhất mà công chúng chấp nhận được phải thực hiện mua bán thông qua hình thức đấu giá. Như vậy công chúng cũng như các định chế tài chính chỉ có thể đầu tư - mua bán chứng khoán theo nhu cầu, ở mức giá cả hợp lý, các doanh nghiệp chỉ có thể phát hành cổ phiếu và chính phủ phát hành trái phiếu dài hạn bằng biện pháp đấu giá khi đã có thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Với những lý do đưa ra trên đây, có thể khẳng định lại rằng, thị trường giao dịch chứng khoán tập trung ở Việt Nam lúc này là một nhu cầu cấp bách, mang tính tất yếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ tiếp thêm sức mạnh cho kinh tế Việt nam phát triển thông qua việc cung cấp vốn trung và dài hạn cho việc đầu tư phát triển sản xuất. Thấy được sự cần thiết của thị trường chứng khoán ở nước ta nên vừa qua thị trường chứng khoán đã được chính thức khai trương tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 20/7/2000 với hình thức Trung tâm giao dịch chứng khoán đặt dưới sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Đặc trưng và Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Đặc trưng của thị trường chứng khoán Việt nam: Nếu hiểu thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán thì thị trường chứng khoán Việt nam đã xuất hiện từ khi hình thành các công ty cổ phần cũng như tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng thị trường này chỉ mang tính chất tự phát, không chịu sự quản lý của một tổ chức hoặc một cơ quan có thẩm quyền nào hết. Nhằm hỗ trợ cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt nam, vừa qua Trung tâm giao dịch chứng khoán đã được thành lập, đặt dưới sự quản lý giám sát của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Trong lĩnh vực chứng khoán so với thế giới nước ta là nước đi sau nên chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm về hoạt động tổ chức, quản lý, kinh doanh chứng khoán từ các nước đi trước. Trên cơ sở kết hợp giữa kinh nghiệm học hỏi được với đặc điểm kinh tế xã hội của nước mình, nhà nước ta đã xây dựng nên một mô hình thị trường chứng khoán có những đặc trưng riêng của Việt nam. Mô hình thị trường chứng khoán Việt nam: Thị trường chứng khoán Việt nam là thị trường được hình thành trên cơ sở nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam được điều chỉnh bởi chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước vừa là người lãnh đạo, quản lý, giám sát hoạt động kinh tế, vừa là người tổ chức hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam có những điểm khác biệt căn bản so với thị trường chứng khoán các nước trên thế giới. Thứ nhất, xét về bản chất kinh tế của thị trường chứng khoán, đến nay trên thế giới có 3 nhóm thị trường chứng khoán khác nhau: nhóm thứ nhất, thị trường chứng khoán thuộc sở hữu tập thể của những người môi giới chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán do các nhà môi giới lập ra và tự quản lý. Họ độc quyền giao dịch mua bán chứng khoán trong đó (loại này bao gồm thị trường chứng khoán của Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia v.v... và một số nước Nam Mỹ). Nhóm thứ hai, thị trường chứng khoán thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các ngân hàng cùng với các công ty chứng khoán độc lập, lập ra, thực hiện độc quyền giao dịch (thị trường chứng khoán Đức, áo, Thuỵ Sỹ, Hà Lan). Nhóm thứ 3, thị trường chứng khoán thuộc sở hữu của tư nhân, tổ chức theo luật công ty cổ phần. Người sở hữu không độc quyền giao dịch, quyền giao dịch thuộc về công ty chứng khoán thành viên, người sở hữu có thể là thành viên hoặc không là thành viên của thị trường (thị trường chứng khoán Luân Đôn, Nhật .... và các nước Bắc Mỹ). Thị trường chứng khoán Việt Nam không áp dụng bất kỳ loại hình nào nói trên. Nghị định 48/CP của chính phủ đã xác định thị trường giao dịch chứng khoán tập trung của Việt Nam được tổ chức từng bước từ trung tâm giao dịch lên sở giao dịch. Sở giao dịch hay trung tâm giao dịch đều là những tổ chức tài chính đặc biệt thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước thành lập, chịu sự quản lý và điều hành của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. ở Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập trước, hệ thống pháp luật được hoàn thiện rồi mới hình thành nên thị trường chứng khoán trong khi đó ở các nước thì điều này diễn ra ngược lại. Thứ hai, thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam vừa là thị trường phát hành (thị trường sơ cấp) vừa là thị trường mua đi bán lại (thị trường thứ cấp), nghĩa là giao dịch phát hành chứng khoán cũng được diễn ra tại trung tâm giao dịch. Các sở giao dịch chứng khoán trên thế giới hầu như không có giao dịch phát hành, các giao dịch chủ yếu là mua đi bán lại. Hoạt động phát hành được thực hiện bằng hình thức bảo lãnh chắc chắn (công ty chứng khoán mua toàn bộ chứng khoán phát hành theo giá thoả thuận, sau đó đưa ra bán lại trên thị trường). Giao dịch mua bán giữa công ty phát hành và công ty bảo lãnh là giao dịch sơ cấp, diễn ra ngoài sở giao dịch. Chỉ khi công ty bảo lãnh đưa chứng khoán ra bán lại cho người đầu tư mới là giao dịch thứ cấp diễn ra tại sở giao dịch chứng khoán. Các công ty chứng khoán Việt Nam mới ra đời chưa đủ năng lực để thực hiện bảo lãnh chắc chắn. Hoạt động phát hành vẫn phải thực hiện bằng hình thức đại lý bán, do đó giao dịch phát hành điễn ra tại trung tâm giao dịch sẽ được thuận lợi hơn. Thứ ba, trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam trước mắt tiến hành giao dịch chứng khoán niêm yết, tiến tới trong tương lai có thể chứng khoán không niêm yết cũng được đưa vào giao dịch. Điều đó nghĩa là trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ thay thế cho cả thị trường OTC (thị trường giao dịch trực tiếp giữa các công ty chứng khoán, các doanh nghiệp, các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác với nhau về các loại chứng khoán không niêm yết). Tại hầu hết các sở giao dịch chứng khoán trên thế giới, chứng khoán được giao dịch chủ yếu là của người kinh doanh chứng khoán với mục đích kiếm lời từ chênh lệch giá chứng khoán. Do đó, họ đặt ra những điều kiện niêm yết rất khắt khe nhằm loại bỏ các loại chứng khoán không có khả năng giao dịch sôi động, không có khả năng tạo ra chênh lệch giá. Những loại chứng khoán không được niêm yết sẽ được giao dịch tại thị trường phi tập trung. Thị trường chứng khoán Việt nam trong thời gian đầu, giao dịch chứng khoán chủ yếu là của người đầu tư. Họ thực hiện mua bán để thu hồi vốn đầu tư hoặc để thực hiện đầu tư. Do vậy trong lúc chưa có thị trường OTC, b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0815.doc
Tài liệu liên quan