Những biểu hiện tác động của quy luật mâu thuẫn trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật, nó được coi là hạt nhân "của phép biện chứng". Vì nó chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi cái này thành cái khác, nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển vận động của bản thân sự vật, hiện tượng, đồng thời nó tác động tất cả quy luật và phạm trù của phép biện chứng. Trong các tác động mâu thuẫn thì tác động mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường với nhân cách con người trong nền kế toán hiện nay là m

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biểu hiện tác động của quy luật mâu thuẫn trong nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột vấn đề quan tâm của Đảng của Nhà nước. Nhiều bài báo, cuộc họp đã bàn đến vấn đề bức xúc này. Vì vậy trong quá trình học tập và nghiên cứu về bộ môn Triết học. Mác, em được giao viết tiểu luận về đề tài "Những biểu hiện tác động của quy luật mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" Thế kỷ 20 với nhiều biến đổi dữ dội đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế văn minh nhân lợi sắp kết thúc. Các nước đang chuẩn bị hành trang để bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ công nghệ đã làm thay đổi bộ mặt thế giới. Khoa học công nghệ hiện đại không những tác động vào thế giới tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong đó có nhân cách con người. Tìm hiểu kinh tế thị trường với sự hình thành nhân cách con người mới ở nước ta hiện nay. Mục đích của đề tài: Nhằm tìm hiểu về đặc điểm của nền kinh tế thị trường đặc điểm nhân cách con người, qua đó thấy được những mặt tích cực, tiêu cực mà nền kinh tế đã đem lại cho nhân cách con người mới ở Việt Nam. Từ đó phát huy những mặt tích cực và đẩy lùi tiến tới xoá bỏ những mặt tiêu cực tồn tại trong đời sống, nhân cách con người mới ở Việt Nam hiện nay. Do thời gian có hạn, nên việc thực hiện đề tài sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp và bổ sung, sửa chữa của thầy cô, cùng bạn đọc để bài viết này hoàn thành tốt hơn. Chương i: Cơ sở lý luận Kinh tế thị trường và sự hình thành phát triển nhân cách trong nền kinh tế văn minh mới của nhân loại có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhìn chung, mọi chế độ kinh tế đều lấy hình ảnh nhất định về con người làm cơ sở. Theo đó con người cũng phải có một nhân cách thích ứng nhằm phục vụ lợi ích riêng cải tạo hoàn cảnh riêng trong những hoàn cảnh chung những lợi ích chung của cộng đồng. Do đó ta phải tìm hiểu nhân cách là gì? phải chăng nó được sinh ra từ cái thực tế phi vật chất hay là cái vốn có trong mỗi cá nhân, mỗi con người, là cái tựch thể sinh học hay cái thực thể xã hội của mỗi con người. Xã hội mới đang được xây dựng bằng những con người mới do lịch sử để lại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà nổi bật là lịch sử chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam giầu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nước, thì nhà dũng cảm chiến đấu bất khuất kiên cường có tinh thần chịu đựng khó khăn, gian khổ… nhưng do nhiều năm chiến tranh mà cho đến nay Việt Nam vẫn luôn thuộc loại những nước nghèo trên thế giới nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp, đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát còn ở mức cao… lao động thất nghiệp đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Trong lịch sử 4 nghìn năm dựng nước và giữ nước có lịch sử 40 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (kể từ năm 1945). Trong mấy chục năm qua. Đảng ta đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực đào tạo, rèn luyện các thế hệ con người sống có lý tưởng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tinh thần quốc tế vô sản, yêu thương nhau trên tinh thần đồng chí, một người vì mọi người và mọi người vì một người. Nhưng mô hình chủ nghĩa xã hội theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp với một nền kinh tế hiện vật phân phối theo chủ nghĩa bình quân đã làm cho nền kinh tế không có hiệu quả mà còn hình thành nên những con người thụ động, ỷ lại thiếu năng động và sáng tạo. Sáu năm qua chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế và xã hội và từng bước tiến lên. Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong cuộc sống đổi mới là hình thành nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Xoá bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liên bao cấp. Chính những thành tựu đo đang tạo ra những thành tựu đó đang tạo ra những điều kiện mới cho sự hình thành và vpt nhân cách con người. Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng từ hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác. Đó là sự kế thừa cái cũ để hình thành cái mới. Có như vậy xã hội mới ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Thực chất của sự thay đổi này là sự thay đổi các hình thái kinh tế xã hội mà trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất của chế độ xã hội đó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng thay đổi khi cơ sở hạ tầng thay đổi, kéo theo sự thay đổi về chính trị, văn học, tôn giáo… chính vì lẽ đó mà các nhà triết học và xã hội học trong từng thời đại lịch sử đã ra những quan điểm khác nhau để lý giải về "nhân cách". Triết học trước Mác: chủ nghĩa duy vật siêu hình coi nhân cách là sản phẩm thụ động của môi trường xã hội hoặc môi trường sinh vật. Chủ nghĩa duy tâm thì coi nhân cách vào cơ chế tâm lý sinh lý của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin nhân cách con người được hiểu: - Là sự thể hiện cá nhân những sản phẩm chất có ý nghĩa xã hội của con người. - Là hình thức tồn tại của những quan hệ xã hội được thể hiện dưới dạng cá nhân. - Là thước đo tính xã hội của con người Như vậy, nhân cách vừa là cái chung cái tổng hoà những quan hệ xã hội, tức là cái bản chất xã hội trong mỗi cá nhân vừa là đặc thù của cá nhân đó. Khái niệm nhân cách chỉ bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân nó không chỉ là sản phẩm của các quan hệ xã hội, có tính lịch sử cụ thể, không chỉ là sự kế thừa những di sản lịch sử văn hoá mà còn là chủ thể của các quan hệ xã hội. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của các yếu tố sinh học tâm lý xã hội tạo nên với những đặc điểm di truyền riêng về tâm lý, thần kinh, về hoàn cảnh sống mà mỗi cá nhân theo cách riêng của mình. Với nhân cách riêng mỗi cá nhân tự ý thức làm chủ cuộc sống, tự lựa chọn chức năng, động cơ và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội, từ đó mà hình thành sự thôi thúc nội tâm, ý chí vươn tới những mục tiêu xác định. Các quan điểm về nhân cách cho phép chúng ta có được một khái niệm đầy đủ về nhân cách như sau: "Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và phẩm chất xã hội, sinh lý, tâm lý của cá nhân tạo thành chính thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình". Trong cơ chế hiện nay người ta có thể bộc lộ hết mình mà không phải quên đi cái tôi như trước kia có suy nghĩ gì cho nên buộc con người phải vận động liên tục không ngừng phát huy khả năng sáng tạo. Chương II: Những đặc trưng của kinh tế thị trường ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của con người mới I. Dự báo một mô hình nhân cách mang tính khả thi trong vài thập kỷ tới là vấn đề bức xúc của nhiều quốc gia xây dựng trên nền tảng kinh tế thị trường 1. Kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế vận động và phát triển thông qua sự vận động mang tính quy luật của nhiều mối quan hệ (ví dụ như sự cân bằng giữa cung và cầu thông qua quy luật giá cả). Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế. Sự khác nhau giữa nền kinh tế có kế hoạch và nền kinh tế thị trường thực sự không phải ở chỗ nền kinh tế này có kế hoạch còn nền kinh tế kia thì không. Sự khác nhau giữa 2 nền kinh tế ấy là cách thức kế hoạch hoá. Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch không chỉ do trung ương mà còn do từng xí nghiệp, từng cơ sở sản xuất kinh doanh chủ động xác định. Mọi đặc điểm và cơ chế của nền kinh tế thị trường đều liên quan ảnh hưởng đến con người trong xã hội và đòi hỏi một trình độ phát triển nhân cách với chất lượng thích hợp. 2. Người ta đã nghiên cứu rất nhiều về mặt nhận thức của con người khi bước vào hoặc chuyển sang nền kinh tế với cơ chế vận hành khác. Nhận thức ở đây không chỉ là vấn đề nắm bắt thông tin thật nhiều và thật nhanh, mà còn là vấn đề tự khắc phục tình trạng "Chìm trong thông tin, nhưng đòi về kiến thức". Chỉ riêng trong lĩnh vực cung cầu trong sản xuất và kinh doanh nói chung, người ta đã phải có những hiểu biết tối thiểu chính xác về thị trường đến mức nào. Đây là một quá trình phức tạp, đặc biệt với người dân thuộc những nước lâu nay vẫn quen sống trong một chế độ bao cấp. Nói đến nhận thức là còn nói đến tư duy. Ngày nay con người cần có khả năng tổng hợp với tư thế tư duy ở dạng vĩ mô, lý thuyết tổng quát, biết chấp nhận và thích ứng với hàng loạt cái phi lý, ngẫu nhiên. Người ta thấy đã có sự tồn tại của một khoa học - khoa học "về sự hỗn độn" và câu trả lời của khoa học cuối thế kỷ 20 là: Ngày càng hiện thực bao nhiêu thì "cái bị quy định" càng nhường chỗ cho "cái có thể" bấy nhiêu/ Tuy nhiên trong ngày thường chứ không nói đến mức biến động và khi khủng hoảng con người luôn cần có tư duy tỉnh táo, biết nhìn xa trông rộng, biết hoài nghi khoa học và sáng tạo. Thoát ly lối suy nghĩ đó, con người sẽ không thể nào phát triển và tiến bộ được. Trong mỗi thời đại và ở bất ký một nền kinh tế nào trình độ phát triển trí tuệ của con người luôn gắn liền với một giới quan nhất định. Thế giới quan là toàn bộ những biểu tượng và quan niệm về tự nhiên và xã hội. Về quan hệ của con người đối với thế giới quan xung quanh cũng như sự cảm nhận ý nghĩa của cuộc đời. Mọi hình tượng và quan niệm như thế luôn được hoàn thiện và phát triển trong thực tế. Ví dụ về quan hệ giữa con người với tự nhiên, người ta thấy cần phải có cách nhìn hiện thực hơn. Sống trong tự nhiên, cùng với tự nhiên con người phải có ý thức về môi trường, luật bảo vệ môi trường, các phương pháp bảo quản, đóng gói mới, những quy định về nghiên cứu khoa học, về quản lý và xử lý chất thải, tư duy và hành động sinh thái. Đối với cuộc sống xã hội cũng như vậy. Do thế giới quan thiếu vững vàng cùng với tầm trí tuệ còn thấp, có người đã phủ nhận thành quả tốt đẹp của quá khứ và chạy theo những mô hình mới mang trong mình nó không ít khuyết điểm và sai lầm. Họ không biết rằng người Hàn Quốc đã phải trả giá cho họ "tư tưởng tiếp cận phương tây" rất phổ biến trong những năm 60. Con người Châu Phi cũng phải thốt lên: không thể có một mô hình duy nhất áp dụng cho mọi quốc gia. Tất nhiên khi bước vào cuộc sống xã hội mới, đầy biến động, khi chuyển từ một hình thái kinh tế này sang một hình thái kinh tế khác con người nói chung và nhất là các chính khách nói riêng cũng phải "dũng cảm thay đổi ý kiến của mình" những sự thay đổi đó chỉ được diễn ra với điều kiện đã hiểu biết vấn đề và các mối quan hệ một cách sâu sắc. 4. Một chủ đề cần được bàn ở đây là mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Trong hoàn cảnh kinh tế thị trường xuất phát từ chỗ cho rằng nếu trong nền kinh tế thị trường con người tuy có lý trí nhưng cũng có tư lợi rằng nền kinh tế đó dựa trên cơ sở tư nhân về tư liệu sản xuất và trên cơ sở tự do phát triển của cá nhân, người ta muốn nhấn mạnh đến lợi ích cá nhân, coi nhu cầu tồn tại và phát triển của cá nhân như là một sức mạnh mọi động lực thúc đẩy sự đổi mới và tiến bộ. Bước vào nenef kinh tế thị trường, con người chấp nhận cạnh tranh và chạy theo lợi nhuận, lợi ích đó là điều hiển nhiên. Song cũng có rất nhiều nhân tố khác xô đẩy cá nhân vào cách bối rối, liều lĩnh thậm chí dẫn đến tình trạng "tâm thần phân lập". Trong những tình huống đó nhiều khi, như nhà Triết học Pháp Ăngđrê Clueman đã viết: "Con người là hàng ổ của sự vô nhân đạo". Cho nên để đạt tới sự cân bằng, bù trừ hoặc loại bỏ được những tác nhân tiêu cực trong mỗi cá nhân, con người phải nhận thức và thoả mãn được 3 yếu cầu cơ bản. Mỗi cá nhân không loại trừ kiểu người được gọi là "làm ăn kinh tế ", "kinh doanh buôn bán" đều phải có đạo đức. Do có nhiều hình thức thị trường và kinh doanh nene trong thời đại ngày nay cần đề cập đến mặt đạo đức trong nhân cách mỗi con người từ nhiều mối quan hệ khác nhau: đối với tự nhiên, sự sống và tạo ra sự sống, đối với đồng tiền, đối với các phương tiện thông tin đại chúng, đối với quan hệ nhân ái giữa con người. + Mỗi cá nhân đều hành động theo nguyên tắc: quyền luôn luôn gắn với trách nhiệm của họ. Trong cuộc sống sự tồn tại và phát triển cần chữ "tín" lòng chân thành nghĩa là với sự tự ý thức đúng đắn và sâu xa. + Con người sinh ra không chỉ tồn tại một mình như cá thể riêng rẽ. Cũng vì thế mới xuất hiện nỗi sợ hãi trước cô đơn và có yêu cầu hợp tác trong mọi trường hợp, mọi hoạt động. Trong nền kinh tế cũng vậy, một hoặc một số cá nhân đơn độc không thể nào giải đáp nhanh chóng triệt để những câu hỏi như: Cần sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? Cần phân phối cho ai?.. Mối quan hệ giữa cá nhân với người khác, với nhón và xã hội, đã từng là cuộc tranh luộn trên nhiều lĩnh vực và chắc chắn sẽ không thể kết thúc, không thể đem lại một ý nghĩa thực tế, nếu người ta thiếu khách quan muốn thiên về một khía cạnh, một phía nào đấy. 5. Khi phân tích tình hình chiến lược thế giới để đưa ra một chiến lược giải quyết. Các nhà khoa học thuộc câu lạc bộ "Kom tất" chú ý đến khả năng thích ứng của con người. Họ cho rằng việc thích ứng với mọi biến đổi là yêu cầu cơ bản của tất cả mọi người, không phụ thuộc vào nền văn hoá các truyền thống tôn giáo của họ. Con người không những phải thích ứng với những tình huống mới mà còn phải đứng vững trước những thay đổi nguy hiểm và tàn bạo. Nếu không có sáng kiến mới, tinh thần cách tân phê phán, hoặc sức mạnh của ý chí con người sẽ bỏ mất thời cơ trở thành kẻ bi quan đứng ngoài cuộc hoặc bị đào thải. Sự thích ứng ở mức cao là sự thay đổi cách ứng xử hay cách thích nghi tâm lý. Trong cuộc sống có nhiều kiểu thích nghi xã hội. Tuy vậy người ta đã gặp nhiều trường hợp chỉ vì chạy theo ý thích, lợi ích cá nhân mà mục tiêu và biện pháp đều bị thay đổi làm nảy sinh những hiện tượng xã hội tiêu cực như chủ nghĩa cơ hội, thời vụ lợi bệnh xu thời, sự phân biệt chủng tộc, sắc tộc… Gần đây nhiều cơ quan khoa học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức động cơ và hành động, về phương diện này đó là nổ lực nhằm khắc phục một thiếu sót của tâm lý học từ trước tới tận những năm 50, 60 của thế kỷ này, là chỉ chú trọng nghiên cứu thiên về lý thuyết hành vi, xa rời những điều kiện hoàn cảnh, những ép buộc mà con người phải đối mặt trong hoạt động thường ngày. 6. Tính năng động trước hết trong phạm vi lao động là một khái niệm chỉ sự linh hoạt của người nhận việc, khả năng lao động ở bất cứ nơi nào cần đến họ. Các nhà hoạch định chính sách hoặc những nhà kinh doanh nếu thiếu sự nhạy cảm thiếu linh hoạt thì sẽ bị trả giá như đã biết An - VinTophiơ nhà tương lai hoa Mỹ đã cho rằng trong thang giá trị sự toàn diện, uyển chuyển và linh hoạt có ý nghĩa rất quan trọng con người sẽ ngày càng vươn tới một lối sống cân đối hơn (Chân tay và trí óc, giải trí và làm việc), sản xuất và tiêu thụ, trừu tượng và cụ thể, khách quan và chủ quan. Tính cô động linh hoạt có thể xem như ban đồng hành của tính sáng tạo. Thị trường và sự cạnh tranh trên thị trường luôn luôn thách thức con người, phải đòi hỏi ở con người trình độ cao hơn, trong xử lý tình huống trong hoạt động sáng tạo, ở đây cần chú ý các phạm trù: con người sáng tạo, quá trình sáng tạo sản phẩm sáng tạo và môi trường sáng tạo. 7. Sự định hướng giá trị đúng đắn nhanh chóng của cá nhân đã trở thành mọi điều kiện quan trọng trong đời sống và nhất là hoàn cảnh kinh tế xã hội đang biến động mạnh mẽ. Việc cá nhân hướng suy nghĩ và hành động của mình vào những giá trị này hay những giá trị khác tạo nên sự định hướng giá trị của họ. Cùng một lúc con người theo đuổi những giá trị liên quan đến bản thân gia đình lao động sản xuất, đào tạo bồi dưỡng… Việc định hướng vào những giá trị vật chất tinh thần đều có ý nghĩa nhưng trước mắt và trong giai đoạn tới đang có rất nhiều vấn đề rất đáng quan tâm nếu xã hội muốn trở thành một cộng đồng bao gồm các công dân có nhân cách đẹp. Thứ nhất cần phải có những nổ lực và biện pháp từ phía những cá nhân và xã hội để gạt bỏ được một trong những sai lầm của xã hội văn minh là "cuộc chạy đua với chính bản thân mình" của Cơn - rát Lô - ren đã nói Mắc sai lầm này nghĩa là cá nhân chỉ đánh giá cao những gì vượt lên trên đồng loại, khát tiến kông băn khoăn gì về cái giá phải trả để có tiền. Thứ hai, dù ở thời đại nào theo quan niệm chung bên cạnh lợi ích giai cấp và nhóm, con người đều hướng vào các giá trị lâu dài bền vững như hoà bình, tự do, trách nhiệm cá nhân gia đình hạnh phúc, công bằng, nam nữ bình đẳng rất quan tâm đến người già và người tàn tật sự tôn trọng người khác lòng khoan dung. Thứ ba, nếu giá trị phản ánh những điều kiện thực tế của từng người và cộng đồng của họ thì cơ cấu và thứ bậc giá trị trong xã hội là hết sức phân hoá đa dạng và sinh động. Chúng ta có thể thấy hệ giá trị càng phức tạp hơn nhiều khi xét theo địa phương, dân tộc, nghề nghiệp, giai tầng, vị thế xã hội, tôn giáo, lứa tuối. Chính vì thế sự mâu thuẫn và xung đột giữa giá trị riêng và chung, giữa giá trị và phản ánh giá trị sẽ xảy ra đồng thời và chỉ có thể giảm đi hay khắc phục qua những tác động lành mạnh của số đông tích cực trong xã hội qua giáo dcuj giá trị và tự giáo dục mỗi cá nhân con người. Cần phải có tinh thần dũng cảm và niềm tin, không thể bi quan và bất lực coi những giá trị là bất biến chẳng hạn coi cái ác là trường tồn cùng với con người. Thậm chí cho rằng chưa bao giờ chịu khuất phục và lùi bước bởi bất cứ thể chế nào. Thứ tư, cần tôn trọng những giá trị cần thiết và lành mạnh của cá nhân và phải tạo ra nưhng điều kiện thuận lợi để mọi cá nhân vươn tới giá trị đó. Thứ năm, mọi thế hệ phải luôn giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc: những tập quán, trật tự, phong cách, sinh hoạt văn hoá lành mạnh được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử của một xã hội một quốc gia. Các giá trị phản ánh bản sắc dân tộc đích thực sẽ giúp con người đoàn kết, gắn bó với nhau, chống lại mọi sự đồng hoá từ bên ngoài cũng như thái độ hoài cổ, lỗi thời. 8. Xã hội sẽ mờ nhạt đi tính sinh động và khả năng phát triển, nếu người dân trong đó không có cá tính, cá nhân, cá thể và cá tính liên quan đến nhau nhưng không giống nhau: Cá tính là khái niệm vừa nói lên đặc điểm riêng biệt của cá nhân, đặc điểm độc nhất vô nhị của nhân cách vị trí đặc thù của cá nhân trong hệ thống quan hệ xã hội vừa dùng để chỉ khía cạnh của sự tự ý thức. Cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành cá tính là sự phân công lao động của xã hội và vị trí của cá nhân nhất định. Trong hệ thống các quan hệ xã hội, cá tính là tổng thể các tính cách giúp phân biệt cá nhân này, với cá nhân khác. Trong khi phát triển cá tính cá nhân phải tự điều chỉnh cho phù hợp với môi trường, tình huống quan hệ chung trong cộng đồng xã hội. 9. Vượt qua những nền văn minh khác nhau, loài người đang bước vào một nền văn minh mới hậu công nghiệp. Cùng với nó một xã hội mới, một lối sống mới, phù hợp hơn đang và sẽ tiếp tục hình thành. Lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt động sinh động tiêu biểu trong những quan hệ kinh tế xã hội nhất định của các dân tộc giai cấp, các nhóm xã hội cá nhân trong sản xuất vật chất và tinh thần trong phạm vi chính trị - xã hội và riêng tư hàng ngày. Lối sống của con người chịu sự tác động của cơ cấu địa lý, khí hậu, Nhà nước - chính trị, tinh thần tôn giáo, kỹ thuật và văn hoá những trình độ khác nhau ở mỗi quốc gia ở những nước đang phát triển một lối sống mong muốn và hợp lý, có khẳ năng giúp con người tiến kịp cộng đồng văn minh có những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Con người ngày càng tích cực lao động dựa trên sự thống nhất của những lợi ích cơ bản giữa xã hội và cá nhân. - Cá nhân tuân theo những chuẩn mực hành vi đạo đức, không vì đời sống vật chất chưa cao mà để cho vật chất chế ngự thậm chí bon[p nghẹt những nhân tố tinh thần tình cảm. - Phấn đấu phát triển năng lực toàn diện trên cơ sở coi trọng giáo dục và khả năng học tập suốt đời. - Mỗi người đều có tình cảm và trách nhiệm trong việc tìm kiếm một con đường giải quyết ngày càng có hiệu quả các vấn đề gia đình, đất nước và thế giới. - Thẩm mỹ hoá đời sống và môi trường là dấu hiệu của sự biến đổi chung của thời đại. - Con người ngày càng vươn tới lòng nhân ái, sự hợp tác chân thành và thi đua lành mạnh. II. Ngoài ra ta tìm hiểu những vấn đề về sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường. 1. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay chịu tác động từ hai luồng chính. Luồng tác động trong quá khứ và luồng tác động của quá trình xây dựng cái mới. Những mâu thuẫn trong sự hình thành và phát triển nhân cách người Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường chủ yếu nằm trong mối quan hệ qua lại giữa 2 luồng tác động nói trên. Việc chuyển nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự tục với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nenef kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng và phát huy các tiềm nawg sản xuất trong xã hội. Nó tạo ra những điều kiện tieu đề cho sự phát triển kinh tế, khai thác các nguồn lực cho sự phát triển. Đồng thời việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đang phát triển, thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác và phân công lao động trong nước và thế giới áp dung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại tạo điều kiện nâng cao năng xuất lao động, đảm bảo phúc lợi xã hội cho mọi tầng lớp. Dưới tác động to lớn đến các nguồn lực tài nguyên và con người. Nó giúp cho con người sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và sức lao động tạo thuận lợi cho sự phát triển của mỗi cá nhân về nhiều phương diện nhất là phương diện tài năng và trí tuệ. Song thực tế trong mấy năm qua cũng chỉ ra rằng cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Nếu như trước đây cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cùng với chủ nghĩa bình quân đã triệt tiêu nguồn động lực của sự phát triển thì ngày nay nền kinh tế thị trường mặc dầu còn đang ở giai đoạn hình thành cũng đã bắt đầu làm nảy sinh những vấn đề hết sức phức tạp. Việc khuyến khích các tổ chức kinh tế hợp tác cạnh tranh với nhau cùng phát triển sản xuất kinh doanh tất yếu dẫn đến sự phân tầng xã hội và sự phân hoá giầu nghèo. Chấp nhận sự phân tầng xã hội trong chừng mực nhất định là điều kiện bắt buộc của sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Những bài học kinh nghiệm của nhiều nước đã chỉ rằng nền kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình phân hoá cơ cấu giai cấp cơ cấu xã hội đặc biệt là sự cách biệt khá xa giữa người giàu và người nghèo. Bên cạnh một bộ phận nhân dân có thu nhập cao, chính đáng nhờ biết kinh doanh hoặc có lao động xuất khẩu ở nước ta đã và đang xuất hiện khuynh hướng làm giầu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, làm hàng giả, gây tội ác, sẳn sàng trà đạp lên lương tâm và nhân phẩm của con người. Nạn buôn lậu, trốn thuế đang rất trầm trọng. Nạn đổ vở trong tín dụng, phá sản trong kinh doanh, nợ nần chồng chất không thanh toán được, gây ra biết bao tai hoạ cho người lương thiện và cho xã hội. Tình trạng tham ô, hối lộ, đặc biệt là tình trạng tham nhũng rất nghiêm trọng. Nền kinh tế hàng hoá đòi hỏi phải mở rộng quan hệ với các nước, chúng ta đã nhanh chóng xuất khẩu và có những bước tiến mới trong kinh tế đối ngoại. Trong quá trình mở rộng hợp tác kinh tế và giao lưu văn hoá với các nước, một mặt chúng ta tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh của nhân loài làm phong phú nền văn hoá dân tốc, mặt khác quá trình xâm nhập của nền kinh tế ngoại lại làm coh văn hoá truyền thống có thể bị mai một. 2. Sự phát triển nhân cách không phải trong bất cứ trường hợp nào cũng là 2 quá trình cùng chiều. Sự tăng trưởng kinh tế những tiến bộ khoa học công nghệ tự động là phát triển nhân cách theo chiều hướng tích cực. Con người sáng tạo ra cơ chế kinh tế, thiết chế xã hội và những quy trình công nghệ hiện đại, nhưng không phải lúc nào những sáng tạo ấy cũng giúp con người kiểm soát được sự phát triển của mình như là một nhân cách. Thực tế cho thấy là sự phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá lên sự phát triển của nhân cách là có tính 2 mặt. Bên cạnh việc tạo cho con người là năng động hơn, duy lý hơn, có cá tính hơn… công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng thể hiện những tác động tiêu cực lên sự phát triển nhân cách. Không chỉ đối với những nước đang phát triển ở chính những nước đang phát triển. Vấn đề nhân cách cũng là một vấn đề nhức nhối nhất. Năm 1990 triết gia EMorin nhận xét riêng "Chẳng những phương phương thức để phát triển thế giới thứ 3 gây ra sự kém phát triển và tinh thần tâm lý đạo đức" Sự kém phát triển hay sự xuống cấp về nhân cách do tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá biểu hiện tập trung trên những phương diện vật chất sau đây: Cơ chế thị trường và tiến bộ công nghệ là suy yếu mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Việc khuyến khích và chạy theo lợi ích cá nhân quá mức đã chia rẽ con người với con người với xã hội E Hitsch trong cuốn "Biết chữ mang tính văn hoá" đã phê phán tình trạng này ở nước Mỹ và cách tính riêng "Dân tộc Mỹ đang làm nguy bởi vì học sinh hiện nay không được dạy những điều liên kết người Mỹ lại với nhau". 3. Mặt tiêu cực. Khẳng định rằng cơ chế thị trường không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta cũng đồng thời chỉ rõ "Cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội ". Bởi thế về mặt kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là Nhà nước phải điều tiết và quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch chính sách các công cụ đòn bẩy kinh tế nhằm kích tích tính năng động của con người trong hoạt động làm giầu cho mình và xã hội, đồng thời khắc phục tối đa những bất bình trong kinh tế là cơ sở cho sự phát triển cùng chiều giữa kinh tế và nhân cách. Bởi vì chính nó làm hài hoà từng bước tương quan giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Khi lợi ích cá nhân không đối lập và gắn với lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thì con người trở nên gắn bó hơn với người khác. Tình cảm đạo đức, ý thức công dân, trách nhiệm nhân cách.. do vậy mà phát triển cùng với sự hoàn thiện của cơ chế thị trường. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế cũng có nghĩa là "lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ". Đây chính là cơ chế kiểm soát và ngăn ngừa tối đa những hậu quả tiêu cực của tiến bộ công nghệ đồng thời góp phần nâng cao khi mà con người băng tiến bộ khoa học. Công nghệ có khẳ năng to lớn để cải tạo tự nhiên, tác động đến tính di truyền của sinh vật, can thiệp vào động thái các phản ứng thần kinh của não. Bởi vì, nếu không có trách nhiệm cao, không kiểm soát được một cách có ý thức, có nhân tính những quá trình này thì hậu quả của chúng có thể trở thành thảm kịch đối với con người. Về mặt chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân: "Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của dân, giữ kỷ cương xã hội ". Sự thống nhất giữa quyền làm chủ của nhân dân với việc giữ ngiêm kỷ cương xã hội chính là cơ sở chính trị - xã hội cho quá trình chuyển những yêu cầu, những đòi hỏi mang tính tất yếu của xã hội thành nhu cầu tự giác bên trong của nhân cách. Dấu hiệu đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân cách là ở chỗ trong động cơ hành vi của cá nhân có biểu hiện của những yêu cầu xã hội. Vì vậy quá trình chuyển những yêu cầu xã hội thành những yêu cầu bên trong của nhân cách. Dấu hiệu đầu tiên của sự hình thành sẽ trở thành cầu nối giữa cá nhân và xã hội làm phát triển trách nhiệm đạo đức, ý thức công dân của nhân cách. Về mặt văn hoá định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hoá, đặc biệt là văn hoá nghệ thuật, có vai trò to lớn đối với sự phát triển nhân cách. Những giá trị những chuẩn mực những khuôn mẫu văn hoá của xã hội chính là mảnh đất mầu mở, nguồn nuôi dưỡng thế giới tinh thần của con người. Các tác phẩm nghệ thuật nhờ đặc trưng hình tượng, có thể tác động toàn diện lên sự phát triển tình cảm. ý trí, lý trí và năng lực sáng tạo của nhân cách. Bởi vậy giữ gìn bản sắc dân tộc và hiện đại hoá văn hoá trong nền công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không chỉ là đòi hỏi của bản thân văn hoá mà còn là sự đòi hỏi của phát triển nhân cách theo hướng tích cực. Trong sự tác động qua lại với môi trường văn hoá lành mạnh, nhân cách sẽ từng bước hình thành cho một cơ chế phòng ngừa phản giá trị tinh thần nảy sinh từ bản thân sự nghiệp hoá, hiện đại hoá hoặc được du nhập từ bên ngoài vào. Mặc dù chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội nhưng sự hình thành và phát triển nhân cách không phải là kết quả tác động của các điều kiện đó. Với tính cách là tổng hoà các mối quan hệ xã hội của các cá thể, nhân cách là kết quả trực tiếp của những giáo dục và tự giáo dục. Trong điều kiện của kinh tế thị trường vai trò của tự giáo dục và giáo dục ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Tính cấp thiết này một mặt được quy định bởi điều là bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một quá trình tự giác được thực hiện thông qua giáo dục. Mặt khác sự tác động có tính 2 mặt của cơ chế thị trường và tiến bộ công nghệ đòi hỏi phải đẩy mạnh giáo dục xã hội nhằm phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nhân cách. Trong cơ chế thị trường và những điều kiện của xã hội hiện đại thông tin đại chúng đang là một trong những tác nhân quan trọng trong sự phát triển nhân cách. Những thành tựu của thông tin hiện đại như ti vi, máy tính kết hợp với các phương tiện nghe nhìn đặc biệt là mạng thông tin toàn cầu INTERNET đang từng giờ, từng phút cung cấp cho con người một lượng thông tin hết sức đa dạng và phong phú. Sự phong phú và đa dạng của thông tin tạo điều kiện cho con người mở mang trí tuệ, phát triển tình cảm. Nhưng trên hình diện nhân cách thông tin đại chúng cũng làm nảy sinh những vấn đề, những mối lo ngại cho nhiều quốc gia nhiều dân tộc. Khi dành một thời lượng rất lớn để đối diện với màn hình và tiếp xúc với những phương diện khác của phương tiện thông tin hiện đại, giao cảm giữa thế giới nội tâm của nhân cách với thế giới bên ngoài trở nên hời hợt và phiến diện. Sự hời hợt của mối giao cảm này sẽ cản trở sự phát triển sâu sắc và kinh tế thế giới tinh thần con người. Đồng thời sự truyền thông khi được quốc tế hoá chẳng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0138.doc
Tài liệu liên quan