Mục lục
Mở đầu
Chương I:
Xuất khẩu tư bản và những biểu hiện mới của nó trong chủ nghĩa tư bản ngày nay
1.1. Xuất khẩu tư bản - một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền 5
1.1.1. Bản chất của việc xuất khẩu tư bản 5
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu tư bản 8
1.2. Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại 11
1.2.1. Quá trình xuất khẩu tư bản 11
1.2.2. Kết quả và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay 2
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5890 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chương II:
Đôi điều rút ra trong việc áp dụng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2.1. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. 26
2.1.1. Sự cần thiết phải tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 26
2.1.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam 27
2.1.3. Một số thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài 37
2.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài và một số giải pháp khắc phục trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 39
2.2.1. Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam 39
2.2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận đầu tư nước đối với nền kinh tế Việt Nam 42
Kết luận
Danh mục các tài liệu tham khảo
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa tư bản đã trải qua thời kỳ phát triển hàng trăm năm. Những thập niên gần đây thế giới đã trải qua không ít nhữ+61ng biến động to lớn mà kết quả của nó là diện mạo đời sống chính trị, kinh tế xã hội trên trường quốc tế đã và đang có sự thay đổi hết sức căn bản toàn diện và sâu sắc, trật tự kinh tế thế giới cũng có những biến đổi khác xa so với những năm đầu thể kỷ XX. Hiện tượng này đưa đến xu thế hội nhập, đầu tư hợp tác lẫn nhau giữa mọi quốc gia, dân tộc. Đặc biệt là sự giao thoa về lợi ích kinh tế ngày càng bức xúc, thúc đẩy quá trình đầu tư trực tiếp của các nước trên thế giới và các nước tư bản phát triển, các nước tư bản đang phát triển.
Xuất khẩu tư bản ngày càng trở thành chiến lược kinh tế quan trọng và được mở rộng về quy mô với những tính chất mới so với trước. Việc xem xét trên bình diện chung nhất quá trình xuất khẩu tư bản, xu thế vận động phát triển của nó cùng những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay, thông qua đó rút ra những nhận xét cần thiết trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt nam mang tính lí luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt nam" làm đề tai khoá luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tế, xuất khẩu tư bản là một vấn đề đã được các nhà khoa học, nghiên cứu lý luận đề cập đến trên nhiều bình diện khác nhau. Các tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy mô hoạt động của nó, xu hướng vận động phát triển của xuất khẩu tư bản từ khi xuất hiện cho đến nay, nhưng việc nghiên cứu tác động của nó đối với nền kinh tế nước ta thì chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc. Vì vậy đề tài này xin góp một phần nhỏ bé vào công việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nói chung và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đưa ra một số những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để đưa nền kinh tế đất nước theo kịp các nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nội dung, hình thức và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp cơ bản trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Luận giải những vấn đề lý luận về xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản một đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Nghiên cứu những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Rút ra một số nhận xét trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện các nhiệm vụ nhằm đạt đến mục đích nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu và trình bày khoá luận, tác giả quán triệt những nguyên lý và yêu cầu của phép biện chứng duy vật, phương pháp lô gíc và lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh thống kê... dựa trên các tri thức đã học trong kinh tế chính trị để tái hiện và tư duy cùng với các tài liệu, sách tham khảo, tạp chí kinh tế, thu thập thêm các số liệu, tư bản khác...
5. ý nghĩa của khoá luận
Đối với bản thân tác giả thì việc nghiên cứu xây dựng khoá luận đã giúp cho tác giả làm quen và cụ thể hoá các phương pháp nghiên cứu khoa học, hiểu sâu sắc và nhuần nhuyễn các kiến thức đã học về kinh tế chính trị, đặc biệt là lý luận về xuất khẩu tư bản. Cũng thông qua khoá luận cho phép tác giả rèn luyện cách thức vận dụng phương pháp và kiến thức đã học để luận giải một vấn đề thực tiễn về kinh tế chính trị.
Đối với hệ thống lý luận kinh tế chính trị đề tài góp một phần nhỏ bé nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đồng thời qua đó giúp cho chúng ta hiểu thêm việc cần thiết phải tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước đạt hiệu quả cao nhất.
Với việc cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn, khoá luận đã được hình thành theo định hướng và yêu cầu mà đề tài đặt ra. Tuy nhiên do trình độ của một sinh viên qua bốn năm đại học còn chưa dày dạn về thực tiễn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế. Kính mong sự chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô và các bạn để đề tài ngày một hoàn thiện hơn.
6. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận được kết cấu gồm 2 chương
Chương I: Xuất khẩu tư bản và những biểu hiện mới của nó trong chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Chương II: Đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Chương I
Xuất khẩu tư bản và những biểu hiện mới của nó trong chủ nghĩa tư bản ngày nay
1.1. Xuất khẩu tư bản - một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
1.1.1. Bản chất của việc xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là quá trình đầu tư tư bản ra nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao nhất của bọn tư bản đầu sỏ, dựa vào xuất khẩu tư bản mà mở rộng bóc lột trên phạm vi toàn thế giới.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, xuất khẩu tư bản là đặc điểm nổi bật, có tầm quan trọng đặc biệt và trở thành sự cần thiết của chủ nghĩa tư bản. Lê nin viết: "Điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hoá. Điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản mới nhất, trong đó các tổ chức độc quyền thống trị, là việc xuất khẩu tư bản" (1 - 103).
Quá trình xuất khẩu tư bản được tiến hành một cách trực tiếp dưới các hình thức đầu tư tư bản ra nước ngoài giữa các hình thức đầu tư tư bản ra nước ngoài giữa các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển. Đây là quá trình vận động hai chiều của xuất khẩu tư bản. Đầu tư vào các nước đang phát triển của các nước tư bản phát triển nhằm chiếm được thị trường tiêu thụ, nguyên vật liệu, lao động rẻ mạt. Mặt khác, với số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào các nước đang phát triển của mình. Lênin viết: "Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được đầu tư". ( 2 - T.108).
Nhờ vào việc xuất khẩu tư bản, chủ nghĩa đế quốc đã tăng cường địa bàn đầu tư có lợi nhất cho bản thân mình với các nước lạc hậu chậm phát triển. Lợi nhuận mà các nước tư bản thu được thường lớn hơn rất nhiều so với đầu tư phát triển trong nước. Vì ở đó, tư bản vẫn còn ít giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ mạt và phong phú. Bên cạnh đó xuất khẩu tư bản cũng tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nước chậm phát triển được đầu tư để khai thác các tài nguyên thiên nhiên, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá...
Ngoài ra xuất khẩu tư bản là hình thức đầu tư của tư bản nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao nhất vì nó giải quyết được nhu cầu thay đổi công nghệ liên tục ở chính quốc, tận dụng vòng đời của công nghệ cũ, lợi dụng những ưu đãi và chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư, các nhà tư bản không ngừng mở rộng thị trường và khả năng cạnh tranh nhằm mục tiêu thu được lợi nhuận tối đa.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nền sản xuất hàng hoá đạt đến trình độ cao. Sự phát triển của trao đổi không chỉ ở trong nước mà cả trên phạm vi quốc tế, là một đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản, sự phát triển không đều và có tính chất nhảy vọt của các doanh nghiệp khác nhau của các ngành công nghiệp khác nhau và của những nước khác nhau, là điều không tránh khỏi trong chế độ tư bản.
Lúc đầu nước Anh trở thành nước tư bản đầu tiên và vào giữa thế kỷ XIX trong khi tiến hành tự do buôn bán đã có tham vọng đóng vai trò "công xưởng của toàn thế giới", người cung cấp các thành phần cho hết thảy các nước, còn những nước này, ngược lại phải cung cấp nguyên liệu cho nó. Nhưng địa vị độc quyền ấy của nước Anh đã bị lung lay trong 25 năm cuối thế kỷ XIX vì nhiều nước khác đã dùng thuế quan "bảo hộ" để tự vệ, đã phát triển thành những nước tư bản độc lập. Bước vào thế kỷ XX, ta thấy hình thành những loại độc quyền khác. Thứ nhất, các liên minh độc quyền của bọn tư bản trong tất cả các nước chủ nghĩa tư bản phát triển. Thứ hai, địa vị độc quyền của một số ít nước giàu nhất trong đó việc tích luỹ tư bản đạt tới những quy mô rất lớn. Tình trạng "tư bản thừa" xuất hiện rất nhiều trong các nước tiên tiến.
Song trên thực tế, nếu như số "tư bản thừa" đó mà chủ nghĩa tư bản sử dụng nó cho việc phát triển nông nghiệp là lĩnh vực hiện nay, ở mọi nơi vẫn còn hết sức lạc hậu so với công nghiệp. Nếu chủ nghĩa tư bản có thể nâng cao được mức sống của quần chúng nhân dân là những người hiện nay, ở khắp các nước, vẫn còn thiếu ăn và nghèo khổ, mặc dù kỹ thuật tiến bộ rất nhanh thì không thể nào có "tư bản thừa" được. Những người đứng trên quan điểm tiểu tư bản để phê phán chủ nghĩa tư bản, thì hầu như lúc nào cũng đưa "lý lẽ" ấy ra. Nhưng như thế thì chủ nghĩa tư bản sẽ không phải là chủ nghĩa tư bản nữa, vì cả tính chất phát triển không đều của nó và mức sống thiếu ăn của quần chúng là những điều kiện và tiền đề căn bản, tất yếu của phương thức sản xuất đó. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, thì số "tư bản thừa" vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống quần chúng trong nước đó. Vì như thế thì sẽ đi đến kết quả là làm giảm bớt lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Như vậy, đến đây việc xuất khẩu tư bản đã được thực hiện và trở thành một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản phát triển đến một giai đoạn cao hay nói cách khác đó chính là chủ nghĩa đế quốc.
Tất cả những điều đó đã nói lên bản chất của xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản làm cho các nước tư bản mở rộng địa bàn đầu tư, phát triển tiềm lực kinh tế của đất nước. Sự lớn mạnh về kinh tế dẫn tới các nước tư bản phát triển sẽ giành được vị trí của mình trên thế giới khống chế được các nước khác về mặt chính trị.
Như vậy, việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài mục tiêu săn đuổi lợi nhuận còn vì mục tiêu sâu xa hơn về chính trị. Sự thâu tóm về kinh tế đối với các nước khác trên thế giới còn thống trị về chính trị, đây là một tác động khách quan của quá trình xuất khẩu tư bản từ khi ra đời cho đến nay.
1.1.2. Các hình thức của xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức: xuất khẩu tư bản sản xuất và xuất khẩu tư bản cho vay.
1.1.2.1. Hình thức xuất khẩu tư bản sản xuất
Xuất khẩu tư bản sản xuất thực chất là các nhà đầu tư bỏ vốn ra xây dựng các xí nghiệp hoặc mua lại các xí nghiệp đang hoạt động ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần các cơ sở đó tuỳ tỷ lệ vốn ban đầu bỏ ra. Đây là hình thức đầu tư mà chủ yếu đầu tư của các nước tư bản nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành xí nghiệp mà họ bỏ vốn.
Những năm đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản sản xuất chủ yếu do một số nước tư bản đế quốc thực hiện. Cho đến nay, nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hoá thì xuất khẩu tư bản sản xuất được tiến hành ở rất nhiều nước trên thế giới trong đó có cả nước phát triển và nước đang phát triển bằng các hình thức phổ biến là:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng: Đây là hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư góp cùng với nước đầu tư ký kết giữa hai bên, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi giữa mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới. Với hình thức đầu tư này các nước đầu tư tư bản sẽ được trả lợi nhuận theo tỷ lệ vốn đóng góp và kết quả của quá trình kinh doanh. Song hình thức này thường rất ít, vì vậy các nhà tư bản đầu tư sẽ không thoả mãn được nhu cầu của mình.
- Hình thức đầu tư vốn để xây dựng các doanh nghiệp liên doanh. Với hình thức này, nhà đầu tư một tỷ lệ vốn nhất định để xây dựng các xí nghiệp sản xuất liên doanh (thường gọi là hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn) có ban quản trị và ban giám đốc điều hành riêng. Mỗi bên liên doanh được chia sẻ rủi ro theo góp vốn.
- Hình thức đầu tư tư bản sản xuất của các nước tư bản với tỷ lệ 100% vốn: với số tư bản này nhà tư bản sẽ xây dựng hoặc mua lại các xí nghiệp ở nước sở tại. Đây là hình thức xuất khẩu tư bản phổ biến và tiến hành nhiều nhất trong các hình thức của xuất khẩu tư bản sản xuất.
Bằng hình thức đầu tư 100% vốn này, các nhà tư bản sẽ hoàn toàn có quyền điều hành và quản lý hoạt động kinh tế của mình. Các nước tư bản đầu tư có quyền lựa chọn địa bàn xây dựng xí nghiệp, và sẽ quyết định sản xuất sản phẩm gì cho có lợi nhất, có sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời xuất khẩu tư bản sản xuất các nhà tư bản sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với hình thức đầu tư theo tỷ lệ hoặc hợp đồng. Do đó, các nước tư bản chủ yếu dùng hình thức này để đẩy mạnh phát triển kinh tế và môi trường tích luỹ.
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư sản xuất của các nhà tư bản, như vậy bên cạnh những thuận lợi tận dụng vốn nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên, giải quyết công ăn, việc làm và lao động thì đồng thời cũng chịu những thiệt thòi không thể tránh khỏi các nhà đầu tư tư bản vào xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất sẽ chỉ tập trung vào một số vùng trung tâm gây ra sự mất cân bằng giữa các khu vực kinh tế của nước sở tại. Vì họ nắm được quyền hoàn toàn về kinh tế trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nên ít nhiều nó cũng ảnh hưởng, tác động về mặt tư tưởng, chính trị, hướng nước sở tại phát triển kinh tế theo ý đồ của họ.
Như vậy, xuất khẩu tư bản sản xuất là một trong những hình thức quan trọng chủ yếu của việc xuất khẩu tư bản việc xuất khẩu tư bản sản xuất đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế đồng thời cũng là hình thức mà các nước đầu tư sẽ thu được nhiều lợi nhuận.
1.1.2.2. Hình thức xuất khẩu tư bản cho vay
Xuất khẩu tư bản cho vay chủ yếu do các tổ chức tư bản tài chính thực hiện trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Quá trình xuất khẩu tư bản cho vay của các nước tư bản thường gắn với các điều kiện. Cụ thể đó là, một phần cho vay nhất là tàu thuỷ, vũ khí... (trong những năm đầu thế kỷ XX nước Pháp rất hay dùng "thủ đoạn" này). Việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài với hình thức cho vay đã trở thành động lực kích thích xuất khẩu hàng hoá xuất khẩu tư bản cho vay bên cạnh thu được lãi suất tuỳ theo mỗi nước còn khống chế các nước được vay phải thực hiện một số yêu cầu của nước sở hữu vốn. Những nước nhập khẩu phải nhường lại những địa điểm làm căn cứ quân sự, phải tham gia hay ủng hộ các kế hoạch xâm lược, phải ra nhập các khối quân sự do bọn đế quốc lập ra...
Xuất khẩu tư bản của Nhà nước thường gồm có hai bộ phận được thực hiện dưới hình thức cho vay, một bộ phận khác dưới hình thức "viện trợ" không hoàn lại. Nói "viện trợ" không hoàn lại không có nghĩa là các nước xuất khẩu tư bản không vụ lợi. Chính phần "viện trợ" này là công cụ bắt buộc các nước nhận "việc trợ" phải phụ thuộc một cách chặt chẽ vào các nước đế quốc.
Ngoài mục đích cổ điển của xuất khẩu tư bản lâu nay là thu được lợi nhuận siêu ngạch, Nhà nước xuất khẩu tư bản còn nhằm duy trì và bảo vệ nền chính trị thối nát đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường mức độ phụ thuộc của các nước đó vào chủ nghĩa đế quốc, hoặc thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, đồng thời chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho tư nhân xuất khẩu tư bản.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản cho vay là hình thức hoạt động chủ yếu của các Công ty xuyên quốc gia. Các Công ty xuyên quốc gia dựa trên cơ sở "chế độ tham dự" để lợi dụng sự kiểm soát của tư bản tài chính liên kết các lãnh thổ rộng lớn của chủ nghĩa tư bản dùng một lượng nhỏ vốn tự có kiểm soát một lượng lớn tư bản của người khác. Các Công ty độc quyền hình thành các ngân hàng xuyên quốc gia, đặt các Công ty con, chi nhánh ngân hàng nhỏ tại các nước dưới sự điều hành của Công ty mẹ. Chúng tiến hành xuất khẩu tư bản cho vay hay cho các nước vay vốn lấy lãi trong các thời hạn nhất định.
Hình thức này thường đi với các điều kiện nào đó của nước cho vay, chúng có thể cho vay với điều kiện phải đầu tư phát triển những ngành mà chúng muốn, nước được vay - không được quyền tự do sử dụng vốn đó.
Xuất khẩu tư bản cho vay là một trong những hình thức mà các nước tư bản dễ dàng chi phối các nước khác, nếu như các nước được vay không sử dụng hợp lý sẽ dẫn đến thua lỗ, phá sản (điển hình là ở các nước Đông Nam á trong cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ tháng 7/1997 vừa qua), làm cho các nước khủng hoảng một cách trầm trọng về kinh tế dẫn tới sự mất ổn định về chính trị và an ninh đất nước. Sự phụ thuộc về kinh tế sẽ dẫn tới sự phụ thuộc về chính trị, đây cũng là một hình thức để các nước tư bản thực hiện những mục tiêu và ý đồ sâu xa của mình.
1.2. Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại
1.2.1. Quá trình xuất khẩu tư bản
Từ đầu thế kỷ XX xuất khẩu tư bản bắt đầu phát triển mạnh, do đòi hỏi cấp bách về dư thừa tư bản hoặc do mục tiêu mở rộng thị trường. Phần lớn xuất khẩu tư bản dưới hình thức đầu tư gián tiếp trong đó Pháp - Đức đầu tư mạnh vào nước Nga khoảng 10 tỷ F, Anh và Đức - Pháp còn đầu tư ra các nước thuộc địa. Các nước tư bản phát triển đầu tư vào một số ngành sản xuất công nghiệp then chốt mang tính chất khai thác tài nguyên khoáng sản đưa về chính quốc thu lợi nhuận tối đa, đồng thời việc đầu tư này có lợi tranh giành thuộc địa, đảm bảo sự lệ thuộc của các nước thuộc địa vào chính quốc.
Lênin nhận định rằng xuất khẩu tư bản thời kỳ này những khoản lớn đều là cho vay nặng lãi, các nước tư bản đua nhau cho vay dù "tình hình thị trường tiền tệ không được sáng sủa lắm về tình hình chính trị không được lạc quan gì" (3 - T.109).
Nhưng các nước tư bản phát triển với nhau lại đua nhau cho vay với lý do "không dám từ chối không nhận cho nước ngoài vay, vì sợ nước láng giềng nhanh chân đến trước lại đồng ý cho vay. Nhận được sự đền đáp qua lại nào đó". (4 - T.109).
Tuy nhiên, xuất khẩu tư bản thời kỳ này quy mô nhỏ với hình thức cho vay lãi hay chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ và phục vụ sự chạy đua quân sự.
Cuối thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản đặc biệt phát triển mạnh do yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, hợp tác đầu tư kinh tế trên lĩnh vực toàn cầu. Đó là kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất. Tuy nhiên có điểm khác biệt so với đầu thế kỷ cả về hình thức và quy mô, tính chất, mục đích... mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây:
1.2.1.1. Đặc điểm và những biểu hiện của xuất khẩu tư bản vào những năm 60, 70.
Trong giai đoạn này, hệ thống thuộc địa của các nước tư bản đế quốc dần thu hẹp và dẫn đến không còn nữa. Các quốc gia thuộc địa lần lượt giành được độc lập, dân tộc. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh. Trước tình hình đó, chủ nghĩa tư bản ra sức củng cố địa vị của mình bằng chiến lược lôi kéo đồng minh làm cho các nước thế giới thứ 3 trở thành đồng minh chiến lược của mình nhằm "ngăn chặn bước tiến cộng sản". Để lôi kéo các nước thế giới thứ 3 các nước tư bản phát triển đặc biệt là Mỹ, Anh, Pháp nhằm xây dựng cho các nước này một tiền lực kinh tế, tăng cường tiềm lực, quân sự với mưu đồ ngăn chặn chủ nghĩa xã hội đang trở thành xu hướng của thời đại. Xuất khẩu tư bản chủ yếu hướng vào giữa các nước tư bản với nhau nhằm củng cố liên minh kinh tế, chính trị đáp ứng việc lột xác nội tại khi chủ nghĩa tư bản cũ đã trở nên lỗi thời với lịch sử.
- Xuất khẩu tư bản vào các nước thế giới thứ ba và thuộc địa.
Do âm mưu chính trị các nước tư bản đế quốc ra sức lôi kéo các nước thế giới thứ 3 vào quỹ đạo của mình, xuất khẩu tư bản là một phương thức dễ dàng nhất gây ảnh hưởng và ép buộc. Xét một cách tổng thể quốc gia mà các nước có ý định đầu tư vào phải có một số điều kiện thoả mãn nhất định như: vị trí chiến lược của các quốc gia đó, chế độ chính trị, tiềm năng về nhân lực, vật liệu nhằm đạt tới mục tiêu săn đuổi lợi nhuận và chính trị.
+ Thứ nhất: vai trò của các nước xuất khẩu tư bản không ngoài ai khác là Mỹ và Tây Âu.
Mỹ là nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh nhất, là nước đế quốc lớn nhất, trong giai đoạn này Mỹ là bá chủ thế giới tư bản về kinh tế, quân sự và chính trị. Với vai trò trên, trước làn sóng xã hội chủ nghĩa, càng không thể chấp nhận chủ nghĩa tư bản bị co cụm lại trên phạm vi toàn thế giới. Đế quốc Mỹ ra sức đầu tư vào các nước thế giới thứ 3 nhằm lôi kéo đồng minh. Vào năm 70, số đầu tư vào các nước này chiếm tới gần 50% tổng số tư bản đầu tư ra nước ngoài của Mỹ.
+ Thứ hai: Nước nhận đầu tư
Các nước tiếp nhận đầu tư chủ yếu là các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Singapho, Malaixia, Philipin, Braxin, Mêxicô... và một số quốc gia vùng lãnh thổ thuộc địa như Hồng Kông, Đài Loan, úc...
Đây là các nước có vị trí chiến lược cả về kinh tế, chính trị, quân sự. Các nước thế giới thứ 3 và thuộc địa lệ thuộc nằm ở những đường giao thông lớn của thế giới có ảnh hưởng lớn tới sự thông thương chu chuyển tư bản, là những vị trí chiến lược trong thế trận bố trí an ninh toàn cầu phục vụ cho mưu đồ ngăn chặn chủ nghĩa xã hội xuống Phương Nam của chủ nghĩa đế quốc. Một điều kiện nữa là khả năng tiềm lực phát triển kinh tế nhờ vào điều kiện địa lý lúc đó.
Đây cũng là các nước độc lập song trở thành lệ thuộc vào đối tác chiến lược của Mỹ và Tây Âu chủ yếu về mặt chính trị. Các nước này đều thân Mỹ và dựa vào Mỹ để phát triển kinh tế và cũng ít nhiều bị lệ thuộc về chính trị. Mỹ đã xúi giục các cuộc chiến tranh giữa các nước, chia cắt đất nước, lôi kéo vào những cuộc chiến tranh - tiêu biểu như cuộc chiến tranh ở niềm Nam Việt Nam (1954 - 1975) cuộc chiến tranh Nam - Bắc Triều Tiên thập kỷ 50, thành lập khối quân sự dưới sự giật dây của Mỹ (khối SEATO).
Về đặc điểm kinh tế - xã hội. Các nước nhận xuất khẩu tư bản thuộc thế giới thứ 3 đều là những nước kinh tế còn lạc hậu, với mong muốn phát triển đất nước, những nhà lãnh đạo các quốc gia này chấp nhận một sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị để tranh thủ nguồn vốn viện trợ của Mỹ - Tây Âu. Thực tế Miền Nam Việt Nam, Mêxicô, Thái Lan, Hàn Quốc cũng đã đạt được những thay đổi nhất định về kinh tế.
Nước nhận đầu tư đều đã lệ thuộc kinh tế, chính trị, vào Mỹ - Tây Âu, trở thành đồng minh chiến lược về kinh tế, chính trị. Thực tế Mỹ, Tây Âu đã biến nước này trở thành những căn cứ quân sự nước ngoài lớn (Philipin, T, Hàn Quốc, miền Nam Việt Nam, Mêxicô...), trở thành nơi tiêu thụ sản phẩm ế thừa và bóc lột tài nguyên, nhân lực phục vụ cho mục tiêu kinh tế chính trị. Điều quan trọng hơn cả đó là những nơi chủ nghĩa đế quốc ra sức viện trợ trang thiết bị, vũ khí quân sự cho các nước này với mưu đồ ngăn chặn làn sóng cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến bộ xã hội, duy trì địa vị bá chủ toàn cầu.
Nhiều nhà kinh tế học của Mỹ đều đánh giá giai đoạn 60 - 70 các nước nhận xuất khẩu tư bản đều bị biến thành một xã hội tiêu thụ dư thừa của xã hội tư bản. Nói một cách khác Mỹ và Tây Âu viện trợ hoặc xuất khẩu những sản phẩm với giá dẻ ở các nước thế giới thứ 3 chủ yếu là hàng tiêu dùng. Từ đó, ưu thế về giá, mẫu mã bóp chết nền sản xuất trong nước. Đó là hiệu quả to lớn của chủ nghĩa đế quốc để lại nhưng nó được che đậy bởi một xã hội phồn thịnh giả tạo. Những con nợ lớn ví dụ như: Braxin, Mêxicô, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin... bởi khả năng không thanh toán được, đến ngày nay hậu quả đó trở thành một vấn đề nhức nhối nhất của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế.
Nhưng không hẳn Mỹ và Tây Âu chỉ viện trợ và cho vay với lãi suất ưu đãi, các nước tư bản phát triển còn đầu tư xây dựng một số nhà máy khai thác chế biến sản phẩm, lợi dụng việc giàu có về tài nguyên nhiên liệu nhằm thu lợi nhuận bù lãi, lỗ, hổng viện trợ kinh tế. Tư bản phát triển còn đầu tư xây dựng các xí nghiệp sản xuất chủ yếu hàng tiêu dùng dẫn đến việc các nước thế giới thứ 3 và thuộc địa lệ thuộc phụ thuộc hẳn vào kinh tế Mỹ - Tây Âu trong tham vọng kinh tế, chính trị của họ.
- Xuất khẩu tư bản giữa các nước xuất khẩu tư bản với nhau.
So với việc xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển, xuất khẩu tư bản giữa các nước tư bản với nhau chiếm một vị trí lớn trong tổng số xuất khẩu tư bản thế giới. Xuất khẩu là một yêu cầu cấp bách phát sinh từ quá trình xã hội hoá nền sản xuất, nói một cách khác nó là phương thức sống còn nhằm thay đổi nội tại tư bản chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu của lịch sử.
Trong giai đoạn 60 - 70 khi các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành một hệ thống trên toàn thế giới thì việc liên kết kinh tế giữa các nước tư bản phát triển với nhau phần nào xoá được mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giúp các nước tư bản phát triển toàn diện, liên kết chính trị nhằm tạo ra hệ thống đối chọi với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Sở dĩ, xuất khẩu tư bản giữa các nước phát triển với nhau chiếm một vị trí gần như tuyệt đối trong tổng số xuất khẩu tư bản của thế giới cũng là kết quả của xã hội hoá sản xuất, phân công lao động xã hội của xã hội hoá sản xuất, phân công lao động xã hội dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đảm bảo lợi ích kinh tế và sự phồn vinh của chủ nghĩa tư bản.
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế mở, vừa cần đầu tư ra nước ngoài vừa cần thu hút tư bản nước ngoài do vậy sự vận động hai chiều của tư bản trở thành đặc điểm mới trong quan hệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Trong giai đoạn này Mỹ và Tây Âu là những nước xuất khẩu tư bản và nhận vốn đầu tư lớn nhất chiếm gần như tuyệt đối khoảng 80% tổng số xuất khẩu tư bản toàn thế giới, các nước đang phát triển và khối Nics xuất khẩu tư bản không lớn chiếm một vị trí rất nhỏ khoảng 2% tổng số đầu tư thế giới. Sự xuất khẩu tư bản lẫn nhau là kết quả của cơ sở phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất cao, ở đây không có quan hệ người chủ, người phụ thuộc. Sự vận động tư bản cũng lưu động, sự bóc lột của tư bản độc quyền đổi mới lao động làm thuê không phải từ một phía chúng giống như vận động của tư bản, vận động của giá trị thặng dư trên thị trường quốc tế là lưu động hai chiều. Kết quả của nó là trên bình diện tổng thể địa bàn đầu tư được mở rộng, tổng lượng sản xuất giá trị thặng dư tăng lên, mở ra nguồn tích luỹ tư bản rộng lớn hơn. Bởi vậy, vận động hai chiều của tư bản giữa các nước phát triển khiến hai bên cùng có lợi, qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế của những nước này tăng trưởng.
Xuất khẩu tư bản hai chiều giữa các nước tư bản với nhau khác hẳn với xuất khẩu tư bản với nước đang phát triển. Một bên là quan hệ phụ thuộc, một bên là quan hệ "bình đẳng" giữa các nước xuất khẩu tư bản và các nước đầu tư. Tiếp nữa là sự khác nhau về hình thức xuất khẩu tư bản một bên là gián tiếp và một bên là trực tiếp. Biểu hiện ở chỗ:
"Từ nửa sau những năm 60, đặc biệt là giữa những năm 70 trở đi, tư bản nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Mỹ tăng mạnh, vượt đốc độ tăng đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài trong cùng thời kỳ ấy". (5 - T.34).
Xuất khẩu tư bản với sự vận động hai chiều dẫn đến thành lập các Công ty xuyên quốc gia liên minh kinh tế khu vực NAFTA, EU, (7/1967) APEC...
1.2.1.2. Đặc điểm và những biểu hiện của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn những năm 1980 trở lại đây.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu từ những năm 80 trở đi, xuất khẩu tư bản mang tính chất khu vực hoá và toàn cầu hoá với quy mô lớn và tốc độ chưa từng có.
Từ những năm 1980 trở lại đây thế giới dần dần chuyển từ xu thế đối đầu căng thẳng sang đầu tư phát triển kinh tế. Khái niệm "đối đầu", "chiến tranh lạnh" của những năm 60 trở nên lỗi thời, hoàn cảnh đó đã tạo thuận lợi hiếm có để mỗi quốc gia phát triển kinh tế theo con đường riêng của mình.
Xu thế xuất khẩu tư bản những năm 80 trở lại đây bộc lộ rõ ở việc thay đổi địa bàn đầu tư, vai trò các nước xuất khẩu tư bản, hình thức xuất khẩu tư bản và sự liên kết kinh tế trên quy mô toàn cầu, cụ thể như sau:
Nếu như những năm 60 - 70 về trước, vai trò xuất khẩu tư bản tập trung vào Mỹ và Tây Âu và một số quốc gia phát triển chiếm tới 98% số tư bản của thế giới. Đến nay vị trí độc quyền đó đang bị thu nhỏ lại, trong các xuất khẩu tư bản mới phải kể đến Nhật Bản, ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, các nước Bắc Âu. Đó là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế kỳ diệu trong suốt những năm 60, 70, 80. Chúng ta hãy xét trường hợp của Nhật Bản có bước tăng trưởng nhảy vọt về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, từ năm 1980 - 1985 tăng gấp 12 lần, tỷ lệ của họ trong tổng ngạch đầu tư trên thế giới từ 50% tăng vọt lên 23,2%. Bắt đầu từ năm 1988, ngạch đầu tư trong năm ấy của Nhật vượt Mỹ, đứng hàng đầu thế giới, cho tới cuối tháng 3 - 1990, tổng ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật đã lên tới 253,9 tỷ đô la. (6 - T.21). Từ đó, cho ta thấy rằng, thế độc quyền xuất khẩu tư bản của Mỹ và Tây Âu dần bị thu hẹp.
- Sự thay đổi xu hướng đầu tư vào các nước nhận đầu tư.
Trung Quốc là nước tiếp nhận đầu tư lớn, trong giai đoạn hiện nay kinh tế Trung Quốc không ngừng phát triển ở mức 2 con số. Vì vậy mà Trung Quốc là một môi trường thuận lợi thu hút xuất khẩu tư bản. Từ đó, Trung Quốc đã vươn lê vị trí thứ 2 về sự hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp sau là các nước Châu á - Thái Bình Dương, đây là khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thu hút nhiều đầu tư của các nước tư bản phát triển. Như vậy, biểu hiện mới của ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29721.doc