Lời mở đầu
Kể từ khi ra đời hoạt động ngân hàng đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường với chức năng chính là cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, vai trò của các ngân hàng thương mại càng được khẳng định rõ nét. Đối với hầu hết các ngân hàng hiện nay trên toàn thế giới, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm từ 1/2,đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt độ
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thanh Hoá - Chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngân hàng vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro và rủi ro tín dụng là loại rủi ro chủ yếu và không thể tránh khỏi. Chính vì thế việc hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong hoạt động ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay vấn đề này đã và đang ngày càng được các ngân hàng thương mại nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quan tâm đến.
Sau quá trình học tập tại Học viện Ngân hàng và thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Hoá-Chi nhánh Ba Đình, nhận thức được tầm quan trọng của việc hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng, tôi đã quyết định chọn đề tài: “ Những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Thanh Hoá - Chi nhánh Ba Đình” để viết chuyên đề thực tập. Chuyên đề này thể hiện những nhận thức của tôi về rủi ro tín dụng và tình hình thực tế thực hiện công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ba Đình. Do nhận thức còn hạn chế và thời gian thực tập không dài nên không thể tránh khỏi những quan điểm, nhận xét chưa thấu đáo, kính mong các thầy cô và quý ngân hàng thông cảm. Tôi xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ của thầy cô trong Học viện Ngân hàng và sự giúp đỡ của các cán bộ nhân viên và ban lãnh đạo của Chi nhánh Ba Đình đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện chuyên đề này.
Sinh viên: Lê Thị Phương
Lớp NHAK7- Khoa tài chính Ngân hàng
Học viện Ngân hàng.
Chương i : những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại
I. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.Hoạt động của ngân hàng thương mại.
Dựa trên những đặc điểm và tính chất hoạt động của ngân hàng, nhiều quốc gia trên thế giới dã đưa ra nhiều định nghĩa ngân hàng khác nhau phù hợp với từng quốc gia nhưng vẫn thể hiện tính chất chung của ngân hàng thương mại đó là việc nhận tiền gửi không kì hạn và có kì hạn, tiền kí thác để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng.
ở Việt Nam theo khoản 2, điều 20, luật các tổ chức tín dụng (được sửa đổi, bổ sung năm 2004): “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.” Trong đó, theo khoản 7, điều 20 luật này quy định: “Họat động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong lĩnh vực tài chính nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, bên cạnh những hoạt động ngân hàng truyền thống, các NHTM ngày nay còn cung cấp cho khách hàng thêm nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại khác.
- Hoạt động huy động vốn: Đây là một trong những hoạt động chính của ngân hàng để có nguồn vốn hoạt động. Các hoạt động huy động vốn chủ yếu của NHTM:
+ Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác bằng Việt Nam đồng, ngoại tệ khác theo quy định của pháp luật.
+ Tạo vốn qua việc phát hành giấy tờ có giá: chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Tạo vốn qua việc đi vay: vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ, vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước.
…
Và các hình thức huy động vốn khác.
- Hoạt động tín dụng: là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: NHTM mở tài khoản cho khách hàng và cung ứng các phương tiện thamh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế,các dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng.
- Các hoạt động khác: NHTM còn có thể góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, thực hiện nghiệp vụ uỷ thác và đại lí, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng.
2. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng.
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt và những rủi ro đối với hoạt động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Sau đây là những rủi ro chủ yếu mà ngân hàng hiện đại phải đối mặt.
- Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất là sự biến động của lãi suát thị trường gây ra những tổn thất, những thiệt hại cho các ngân hàng thương mại như làm thu nhập của ngân hàng giảm, làm xối mòn vốn chủ sở hữu của ngân hàng…
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất là do sự biến động của lãi suát thị trường trong khi ngân hàng lại duy trì sự chênh lệch về kì hạn của tài sản nợ và tài sản có.
- Rủi ro hối đoái: là những mất mát, tổn thất của các ngân hàng thương mại do sự biến động của tỉ giá hối đoái.
Nguyên nhân gây ra rủi ro hối đoái lá do có sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường trong khi ngân hàng đang duy trì trạng thái của tài sản có ngoại tệ và tài sản nợ ngoại tệ không cân xứng với nhau.
- Rủi ro thanh khoản: phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức, ngân hàng không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Nguyên nhân có thể do khách hàng mất lòng tin ở ngân hàng hoăc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được…
- Rủi ro tín dụng: là những khoản mất mát, thua lỗ của ngân hàng thương mại do người vay không thực hiện đày đủ nghĩa vụ hoàn trả nợ cả gốc và lãi tiền vay cho ngân hàng.
Đến phần sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn về loại rủi ro này.
- Rủi ro hoạt động ngoại bảng: hoạt động ngoại bảng là những hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản của ngân hàng do ngân hàng không phải sử dụng đến vốn kinh doanh khi thực hiện các hoạt động này. Tuy nhiên thu nhập từ hoạt động này được hạch toán vào bảng báo cáo thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng và đươc hạch toán vào nội bảng nên những rủi ro phát sinh từ các hoạt động này cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng (ví dụ như chi phí thực hiện các cam kết bảo lãnh ngân hàng đã phát hành cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đúng với quy định trong cam kết).
- Rủi ro công nghệ và hoạt động:
+ Rủi ro công nghệ: phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng qui mô hoạt động.
+Rủi ro hoạt động: có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động.
- Rủi ro quốc gia và rủi ro khác:
+ Rủi ro quốc gia: xảy ra trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngoài.
+ Rủi ro khác bao gồm: thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay đổi đột ngột không dự tính trước…
+ Rủi ro bắt nguồn yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, sự biến động vô lối của giá cả hàng hoá, thất nghiệp đều ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất, bộc lộ rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.
II. Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
1. Khái qúat về hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Theo quan điểm của Mac tín dụng được hiểu là sự chuyển giao một lượng giá trị và quyền sử dụng từ người có quyền sở hữu sang ngưới thứ hai và đổi lại sau một thời hạn nhất định sẽ nhận được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền, hàng hoá, uy tín) giữa bên cấp tín dụng (ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác) cho khách hàng có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp… trong đó bên cấp tín dụng chuyển giao tài sản cho khách hàng sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, đổi lại khách hàng có nghĩa vụ phải hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi khi đến hạn.
Từ định nghĩa trên có thể thấy quan hệ tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở sự tín nhiệm, lòng tin của người cấp tín dụng vào khả năng hoàn trả và sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng khi đến hạn. Quá trình tín dụng thể hiện qua 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 là giai đoạn phân phối tín dụng, trong giai đoạn này vốn tín dụng được chuyển từ người cấp tín dụng sang khách hàng. Giai đoạn 2 thể hiện quá trình sử dụng vốn tín dụng vào các mục đích đã xác định trước của khách hàng trong khoảng thời gian nhất định. Giai đoạn 3 là giai đoạn kết thúc vòng tuần hoàn của vốn tín dụng, vốn tín dụng được hoàn trả cho người cấp tín dụng bao gồm cả gốc và lãi.
Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa những chủ thể thừa vốn tạm thời và thiếu vốn tạm thời, thu hút, tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể của nền kinh tế để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho khách hàng, thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thông qua hoạt động ngân hàng mà cụ thể là hoạt động tín dụng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Hoạt động tín dụng góp phần thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh nhằm kiểm soát hiệu quả sử dụng vốn vay nhân hàng từ đó giúp doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng tạo điều kiện mở rộng quan hệ với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
1.2. Phân loại tín dụng.
Có nhiều tiêu thức phân loại tín dụng khác nhau, dựa vào mục đích của việc phân loại để có thể lựa chọn tiêu thức phù hợp nhất.
- Dựa vào thời hạn tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn đến 1 năm
+ Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 3 năm
+ Tín dung dài hạn: Có thời hạn trên 3 năm
- Dựa vào bảo đảm tín dụng:
+ Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay sự bảo lãnh của bên thứ 3
+ Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có sự bảo lãnh của bên thứ 3
- Dựa vào mục đích tín dụng
+ Tín dụng bất động sản: Là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản.
+ Tín dụng công thương nghiệp: Là khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trả các chi phí sản xuất, kinh doanh.
+ Tín dụng nông nghiệp: Là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp .
+ Tín dụng cá nhân: Là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Dựa vào phương thức hoàn trả:
+ Hoàn trả 1 lần: Là phương thức hoàn trả một lần toàn bộ vốn tín dụng đã được cấp vào một thời điểm xác định.
+ Hoàn trả nhiều lần: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kì.
+ Hoàn trả nhiều lần nhưng không có kì hạn cụ thể mà tuỳ vào khả năng tài chính của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng:
+ Tín dụng trực tiếp: Vốn tín dụng được chuyển trực tiếp từ ngân hàng đến khách hàng và khách hàng hoàn trả trực tiếp cho ngân hàng khi đến hạn.
+ Tín dụng gián tiếp: Việc tài trợ vốn được thược hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Ví dụ như chiết khấu thương phiếu, mua nợ (mua các giấy bán hàng trả góp), bao thanh toán (factoring)…
2. Rủi ro tín dụng.
2.1. Rủi ro tín dụng và tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Như trên đã trình bày rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp các ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Đến hết thời hạn cho vay nếu ngân hàng không thu hồi được nợ đúng hạn ( rủi ro đọng vốn ) sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm đi cơ hội tái đầu tư vốn vào các hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, gây khó khăn cho ngân hàng trong vấn đề thực hiện các nghĩa vụ chi trả, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Nếu ngân hàng không thu được gốc và lãi hoặc một phần gốc và lãi ( rủi ro mất vốn) trong khi vẫn phải bỏ chi phí để huy động nguồn, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm, ảnh hưởng đến nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng, làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn, ảnh hưởng đến mọi hoạt động trong tương lai của ngân hàng. Hơn thế nữa khi uy tín của ngân hàng giảm sút khách hàng sẽ mất lòng tin nơi ngân hàng và ồ ạt đến rút tiền gửi tại ngân hàng, ngân hàng đễ dàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản. Việc phá sản 1 ngân hàng sẽ gây phản ứng dây chuyền đe doạ đến tính an toàn và ổn định của toàn hệ thống ngân hàng, gây hậu quả nghiêm trọng đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
2.2. Các mô hình phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng.
Hiện nay các ngân hàng trên thế giới đang sử dụng rất nhiều mô hình khác nhau để phân tích rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng và không loại trừ lẫn nhau nên cùng lúc có thể sử dụng nhiều mô hình để phân tích, đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng.
2.2.1. Mô hình định tính về rủi ro tín dụng:
Để đánh giá rủi ro tín dụng của khách hàng theo mô hình này cần thực hiện các bước sau:
* Phân tích tín dụng:
Sau khi tiếp nhận hồ sơ của khách hàng cán bộ tín dụng phải trả lời được các câu hỏi: + Khách hàng có thể tín nhiệm?
+ Hợp đồng tín dụng có được kí kết một cách đúng đắn, hợp lệ? Thiện chí trả nợ của khách hàng?
+ Nếu khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có thể thu nợ thuận lợi bằng tài sản bảo đảm?
Để trả lời được những câu hỏi đó ngân hàng phải tiến hành phân tích, đánh giá các nội dung sau đây:
- Năng lực pháp lí: Mục đích đánh giá vấn đề này là nhằm đảm bảokhách hàng có đầy đủ năng lực chủ thể pháp luật trong việc thực hiện trả nợ cho ngân hàng.
Đối với khách hàng cá nhân khách hàng phải có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, khách hàng phải có đủ năng lực pháp luật dân sự, tức là phải có tư cách pháp nhân.
- Uy tín: nhằm dánh giá sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng, uy tín càng cao thì thiện chí trả nợ càng cao.
Đối với khách hàng là cá nhân uy tín được quyêt định bởi tư cách đạo đức của người đó. Để có được thông tin này cán bộ tín dụng có thể điều tra bằng cách tiếp xúc trực tiếp, quan sát và phỏng vấn từ đó đánh giá bằng kinh nghiệm bản thân. Hoặc có thể điều tra gián tiếp thông qua các đánh giá về khách hàng của người thân, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, đối tác làm ăn… của khách hàng.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, uy tín được thể hiện thông qua phong cách kinh doanh, văn hoá kinh doanh, quan điểm, phẩm chất đạo đức của người đứng đầu của doanh nghiệp, thể hiện qua việc duy trì các mối quan hệ của doanh nghiệp với đối tác kinh doanh, với cộng đồng, với các chủ nợ…và mối quan hệ ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính: nhằm giúp ngân hàng đánh giá được khả năng của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong đó có nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.
Đối với khách hàng cá nhân có thể đánh giá thông qua tài sản thuộc sở hữu riêng và nguồn hình thành tài sản đó, đánh giá các khoản thu thường xuyên và thu nhập có thể trả nợ khác của khách hàng.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể đánh giá khách hàng thông qua việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu tài chính sau:
+ Nhóm hệ số về khả năng thanh toán tổng quát:
Hệ số thanh toán tổng quát: Hệ số này càng cao thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao.
Hệ số thanh toán ngắn hạn: Hệ số này phản ánh khả năng chuyển hoá tài sản thành tiền trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên duy trì hệ số này một cách hợp lí sao cho vừa đủ để đảm bảo khả năng thanh toán vừa tận dụng tốt các cơ hội kinh doanh.
Hệ số thanh toán lãi vay: Hệ số này phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tạo ra đủ giá trị để doanh nghiệp trả lãi vay cho chủ nợ không.
+ Nhóm hệ số về độ an toàn của doanh nghiệp:
Hệ số nợ: Phản ánh tỉ trọng nợ chiếm trong tổng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp từ đó đánh giá được mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Hệ số này càng cao thì doanh nghiệp càng phụ thuộc nhiều về tài chính.
Tỉ suất tự tài trợ: Phản ánh sự tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, hệ số này càng cao doanh nghiệp càng tự chủ về tài chính, độ an toàn về tài chính càng cao.
Hai hệ số trên phản ánh năng lực vay nợ của doanh nghiệp, hệ số nợ càng thấp (tỉ suất tự tài trợ càng cao) doanh nghiệp càng có khả năng vay nợ thêm. Tuy nhiên doanh nghiệp cần phải xem xét để duy trì hệ số nợ hợp lí để vừa đảm bảo an toàn vừa nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Tỉ suất tự tài trợ tài sản cố định: Phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc tự tài trợ nhu cầu vốn dài hạn.
+ Hệ số về hoạt động:
Vòng quay hàng tồn kho: Đánh giá tốc độ luân chuyển hàng tồn kho, phản ánh tốc độ luân chuyển vốn trong giai đoạn dự trữ và sản xuất của doanh nghiệp. Vòng quay càng cao thì vốn luân chuyển càng nhanh, càng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho: Số ngày càng ngắn thì vốn luân chuyển càng được nhiều vòng nên số ngày càng được rút ngắn càng tốt.
Vòng quay các khoản phải thu: Hệ số này thể hiện tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt. Hệ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi vốn của doanh nghiệp càng nhanh, doanh nghiệp càng ít bị chiếm dụng vốn.
Kì thu tiền trung bình: Kì thu tiền trung bình (số ngày một vòng quay các khoản phải thu) càng ngắn chứng tỏ nguồn vốn của doanh nghiệp càng ít bị chiếm dụng.
Vòng quay vốn lưu động: Phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động, tốc độ này càng cao vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao.
Vòng quay toàn bộ vốn: ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
+ Khả năng sinh lời:
Tỉ suất lợi nhuận doanh thu (ROS): Phản ánh trong mỗi đồng tiền thu về doanh nghiệp thu được bao nhiêu lợi nhuận, ROS càng cao thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt.
Tỉ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA): Phản ánh một đồng vốn mà doanh nghiệp bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận, thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE): Phản ánh bình quân 1 đồng vốn mà chủ sở hữu bỏ ra đem lại bao nhiêu lợi nhuận. Đây là hệ số mà các nhà đầu tư quan tâm đến nhất. ROE còn được gọi là hệ số đòn bẩy tài chính, hệ số này càng cao doanh nghiệp càng phải đối mặt với nhiều rủi ro, mức độ an toàn tài chính của doanh nghiệp càng thấp.
+ Nhóm hệ số về thị trường (áp dụng đối với các doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu ra công chúng):
Chỉ số giá/ thu nhập (P/E): Phản ánh đánh giá của thị trường về triển vọng về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
Hệ số thị giá/mệnh giá: Hai hệ số trên nếu quá cao so với thực tế thì sẽ phản ánh không chính xác kì vọng của công chúng mà chỉ là giá ảo.
- Năng lực kinh doanh: nội dung này chủ yếu dùng cho khách hàng vay là các doanh nghiệp
+ Thị trường về sản phẩm:
Thị phần của doanh nghiệp: Thị phần càng cao, năng lực sản xuất kinh doanh càng cao. Nếu thị phần của doanh nghiệp chiếm > 50% thì doanh nghiệp là doanh nghiệp dẫn đầu có khả năng áp đặt giá đối với thị trường theo hướng có lợi cho họ.
Chiều sâu của thị trường: tính bằng tỉ lệ bán hàng cho một khách hàng trên số lượng khách hàng bán ra của doanh nghiệp. Tỉ lệ này càng nhỏ thì doanh nghiệp càng có chiều sâu thị trường, doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào người mua, càng chủ động mặc cả trong việc bán.
+ Sản phẩm của doanh nghiệp: cần quan tâm đến sự đa dạng của sản phẩm, uy tín của sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường trong hiện tại, sự quan tâm của doanh nghiệp đối với việc nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm mới nhằm duy trì uy tín của doanh nghiệp về mặt lâu dài.
+ Nguồn lực của doanh nghiệp: bao gồm:
Nguồn lực vật chất như cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ công nghệ, các tài sản vô hình, nguồn cung ứng nguyên vật liệu đầu vào…
Nguồn nhân lực: quan tâm về số lượng cũng như chất lượng lao động
+ Công tác quản lí:
Tìm hiểu trình độ của người quản lí về các mặt như học vấn, trình dộ chuyên môn, bằng cấp và kinh nghiệm quản lí, khả năng đánh giá phân tích, khả năng nhận biết thời cơ thách thức đối với doanh nghiệp từ đó quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tìm hiểu chiều sâu quản lí, công tác quản trị trong doanh nghiệp.
- Môi trường kinh doanh: ngân hàng cần quan tâm đến cả môi trường vĩ mô lẫn môi trường vi mô của khách hàng là doanh nghiệp.
+ Môi trường vĩ mô:
Môi trường kinh tế: sự biến động mang tính chu kì của nền kinh tế, tác động qua lại của các yếu tố kinh tế vĩ mô tới hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường chính trị, pháp luật, sự thay đổi các chính sách của nhà nước.
Môi trường văn hoá xã hội: phân tích các yếu tố như cơ cấu dân số, tập quán sinh hoạt, tiêu dùng… của vùng dân cư nơi khách hàng hoạt động kinh doanh nhằm đánh giá tiềm năng của khách hàng.
Môi trường công nghệ: những tiến bộ khoa học công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng đem lại cho ngân hàng những thời cơ và thách thức gì?
+ Môi trường vi mô:
Nghiên cứu mức độ cạnh tranh trong nghành, tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh trong hiện tại và các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn của doanh nghiệp, xác định ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu chu kì phát triển của nghành để xác định giai đoạn phát triển hiện tại của nghành và tác động của sự thay đổi mang tính chu kì của nền kinh tế đến sự phát triển của nghành.
Tìm hiểu các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp như nhà cung cấp, khhách hàng, chủ nợ…
- Đánh giá phương án, dự án sử dụng vốn tín dụng của doanh nghiệp: đánh giá tính khả thi của dự án qua việc xem xét các khía cạnh như cơ sở pháp lí, các nguồn lực, thị trường đầu vào, đầu ra của dự án. Đánh giá tính hiệu quả của dự án qua việc thẩm định tính xác thực của doanh thu và chi phí dự kiến trong phương án, dự án, tính toán hiệu quả hoạt động kinh doanh qua các chỉ tiêu như lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, mức sinh lời của dự án…
- Thẩm định bảo đảm tín dụng: ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính xác những tài sản nào là đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được đồng thời phải chứng minh bằng văn bản rằng ngân hàng là chủ thể hợp pháp có quyền chiếm đoạt tài sản nếu như khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tín dụng.
Các khoản bảo đẩm thông thường là các khoản phải thu, bao thanh toán, hàng tồ kho, tài sẩn cố định, bảo lãnh của bên thứ 3…
2.2.1.1. Kiểm tra tín dụng:
Như trên đã phân tích môi trường hoạt động của khách hàng luôn luôn biến động không ngừng, mặc dù ngân hàng đã làm tốt công tác phân tích và dự báo các biến động này nhưng cũng không thể lường hết được mọi sự thay đổi của môi trường và tác động của nó đến điều kiện tài chính và khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng của khách hàng. Chính vì vậy để cán bộ tín dụng phải nhạy cảm với những diễn biến như vậy và định kì phải kiểm tra tất cả các khoản tín dụng cho đến khi chúng hết hạn.
Hiện nay các ngân hàng đang sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau để kiểm tra tín dụng song chúng vẫn tuân thủ một số nguyên lí chung:
- Tiến hành kiểm tra theo định kì nhất định đối với tất cả các khoản tín dụng, những khoản tín dụng càng lớn thì càng phải thường xuyên kiểm tra theo dõi vì chúng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của các ngân hàng.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung quá trình kiểm tra tín dụng một cách thận trọng, chi tiết, đầy đủ và phù hợp với tính chất của từng khoản tín dụng để đảm bảo không bỏ qua những khía cạnh quan trọng nhất của khoản tín dụng đó. Một số nội dung chính cần kiểm tra:
+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo việc thanh toán nợ đúng hạn theo đúng hợp đồng tín dụng.
+ Chất lượng và điều kiện của tài sản dùng làm bảo đảm tín dụng.
+ Tính chất đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng trong mọi trường hợp.
+ Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về khách hàng trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của khách hàng.
+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng và các điều kiện do cơ quan quản lí đặt ra hay không.
- Quản lí chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường kiểm tra giám sát khi có dấu hiệu bất thường ảnh hưởng xấu tới việc thu hồi khoản tín dụng của ngân hàng.
- Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái hoặc xuất hiện những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển của các nghành nghề có sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng.
Việc kiểm tra tín dụng không những giúp ngân hàng chủ động được trong việc thực hiện kế hoạch thu nợ, kế hoạch tài chính của ngân hàng mà còn cần thiết để hình thành chính sách cho vay của ngân hàng một cách lành mạnh và có tác dụng kiểm tra thường xuyên việc chấp hành chính sách tín dụng của ngân hàng của các cán bộ ngân hàng.
2.2.1.2. Xử lí tín dụng có vấn đề:
Mặc dù các ngân hàng đã nỗ lực xây dựng các quy chế nhằm đảm bảo an toàn tín dụng nhưng vẫn luôn xuất hiện các khoản tín dụng được thể hiện là các khoản tín dụng có vần đề trong sổ sách của ngân hàng. Những khoản tín dụng được xem là có vấn đề thường là: khách hàng không thể trả nợ đúng hạn trong một hoặc nhiều kì, giá trị tái sản đảm bảo giảm đáng kể. Các ngân hàng phải tìm ra các giải pháp để thu hồi những khoản tín dụng có vấn đề theo một số bước:
- Luôn luôn đặt mục tiêu là tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi đầy đủ vốn tín dụng đã tài trợ.
- Theo dõi chặt chẽ, phát hiện và báo cáo kịp thời mọi vấn đề thực chất liên quan đến các khoản tín dụng có vấn đề nhằm đảm bảo không làm cho tình hình tín dụng trở nên xấu hơn đồng thời kịp thời nắm bắt các cơ hội thu hồi nợ.
- Trách nhiệm xử lí tín dụng có vấn đề phải độc lập với chức năng cho vay nhằm tránh những xung đột xảy ra với quan điểm với cán bộ trực tiếp cho vay.
- Các chuyên gia xử lí cán bộ của ngân hàng cần xem xét , phân tích bộ hồ sơ tín dụng có vấn đề, phân tích đánh giá lại tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của khách hàng nhằm tìm ra nguyên nhân và các vấn đề còn tồn tại sau đó tư vấn góp ý cho khách hàng về các giải pháp có thể. Đồng thời cũng phải xây dựng kế hoạch hành động sau khi đã xác định được những rủi ro đối với ngân hàng và bổ sung hồ sơ tín dụng, đặc biệt là yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm để phù hợp với tình hình mới.
- Dự tính những nguồn có thể dùng để thu hồi khoản nợ có vấn đề.
- Nghiên cứu tình hình của khách hàng một cách cụ thể để xác định rõ ràng các nghĩa vụ tài chính mà khách hàng phải ưu tiên thực hiện trước việc thực hiện nghĩa vụ tín dụng với ngân hàng và các nghĩa vụ tài chính khác.
- Đối với doanh nghiệp, ngân hàng cần đành giá được trình độ quản lí của khách hàng. Nắm bắt tình hình hoạt động và tài sản của doanh nghiệp.
- Đề ra và đánh giá, cân nhắc mọi phương án để có thể hoàn thành việc thu nợ có vấn đề bao gồm tất cả các biện pháp giúp khách hàng khôi phục hoạt động kinh doanh nhằm tìm ra giải pháp tối ưu vừa đảm bảo thu hồi được nợ cho ngân hàng vừa giúp khách hàng có thể duy trì hoạt động tiếp theo một cách bình thường.
2.2.2. Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng:
Sử dụng mô hình định tính để đánh giá rủi ro tín dụng là phương pháp truyền thống đã được các ngân hàng áp dụng từ rất lâu và vẫn được áp dụng cho đến nay. Tuy nhiên phương pháp này rất mất thời gian, khá tốn kém lại mang tính chủ quan của chuyên gia đánh giá. Vì vậy ngày nay có rất nhiều ngân hàng sử dụng mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụngcủa khách hàng. Mô hình hiện đại có ưu điểm là tiết kiệm thời gian, chi phí và khách quan hơn trong việc đánh giá khách hàng và ra quyết định tín dụng so với phương pháp truyền thống.
Sau đây là một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng hay được sử dụng nhất:
2.2.2.1. Mô hình điểm số Z:
Mô hình do E.I.Altman hình thành, theo mô hình, Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay. Rủi ro tín dụng phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của người vay và tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ theo mô hình:
Z= 1.2X1+1.4X2+3.3X3+0.6X4+1.0X5
Trong đó:
X1=Vốn lưu động ròng/Tổng tài sản
X2=Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản
X3=Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/Tổng tài sản
X4=Thị giá cổ phiếu/Giá trị ghi sổ của nợ dài hạn
X5=Doanh thu/Tổng tài sản
Trị số Z càng cao người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro rín dụng cao và ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng đó.
Mô hình này có những hạn chế sau:
- Mô hình này chỉ cho phép phân loại khách hàng thành 2 nhóm vỡ nợ và không vỡ nợ trong khi thực tế khách hàng vỡ nợ lại có nhiều mức độ khác nhau do đó cần phân chia khách hàng thành nhiều nhóm cụ thể hơn.
- Không lí giải được tính bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian. Mô hình cũng giả thiết rằng các biến số Xj là hoàn toàn độc lập điều này là trái với thực tế.
- Mô hình đã không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng như: uy tín của khách hàng, mối quan hệ truyền thống của khách hàng và ngân hàng hay các yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Mặt khác mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn như: giá cả thị trường của các tài sản tài chính…
2.2.2.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng.
Trước thực tế số lượng đơn xin vay của người tiêu dùng ngà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32987.doc