Những biện pháp nhằm phát triển Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới

LỜI NÓI ĐẦU Thương mại là một ngành của nền kinh tế quốc dân, là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua mua bán trên thị trường. Thương mại Việt Nam rất phát triển từ sau thời kỳ đổi mới (1986) và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong việc lưu thông hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất. Để tăng cường sự hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn công cuộc công nghiệp hóa

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp nhằm phát triển Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, hiện đại hóa đất nước đặc biệt sau khi gia nhập AFTA vào năm 2006 thì phát triển thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp thương mại nước ta là yêu cầu khách quan, cấp thiết. Trong bài viết này, em xin trình bày về "Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới" nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng phát triển thị trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian qua từ đó nêu ra những biện pháp đúng đắn nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới. Trong bài viết này em xin trình bày các vấn đề sau: + Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh nghiệp thương mại. + Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới. + Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới. Em xin chân thành cám ơn thầy: ThS Nguyễn Văn Tuấn và PGS.TS Đặng Đình Đào đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài viết này! CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI 1.1. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA. 1.1.1. Khái niệm về thị trường hàng hóa. Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Thị trường được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau. Có người coi thị trường là cái chợ, là nơi mua bán hàng hóa. Hội quản trị khoa học Hoa Kỳ coi: "thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người bán sang người mua". Có nhà kinh tế lại quan niệm: "thị trường và lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ", hoặc đơn giản hơn: thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ. Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa: "thị trường là nơi mua bán hàng hóa, là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định". Các định nghĩa trên đây về thị trường có thể nhấn mạnh ở địa điểm mua bán, vai trò của người mua, người bán hoặc chỉ người mua, coi người mua giữ vai trò quyết định trong thị trường, chứ không phải người bán, mặc dù không có người bán, không có người mua, không có hàng hóa và dịch vụ, không có thoả thuận thanh toán bằng tiền hoặc bằng hàng thì không thể có thị trường, không thể hình thành thị trường. Cho dù thị trường hiện đại, có thể một trong vài yếu tố trên không có mặt trên thị trường thì thị trường vẫn chịu tác động của các yếu tố ấy và thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua thị trường. Vì vậy đã nói đến thị trường phải nói đến các yếu tố sau: Một là, phải có khách hàng, không nhất thiết phải gắn với địa điểm xác định. Hai là, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thỏa mãn. Đây chính là cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ. Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải có khả năng trả tiền để mua hàng. 1.1.2. Các yếu tố thị trường. Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường. Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hóa. Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hóa. Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua, người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể. 1.1.3. Các quy luật của thị trường. * Quy luật giá trị: Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và lưu thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động. Xã hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn, trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao đổi thì sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm được chi phí, phải không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh, dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và dịch vụ. * Quy luật cung cầu. Cung cầu hàng hóa dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị trường, quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lắp đi lắp lại, khi tăng, khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung cầu gặp nhau, giá cả thị trường được xác lập. Đó là giá cả bình quân, gọi là giá cả bình quân nghĩa là ở mức giá đó cung và cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá đó lại không đứng yên, nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung, lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi cầu lớn hơn cung giá lại tăng lên. Việc giá ở mức bình quân cân bằng chỉ là tạm thời, việc mức giá thay đổi là thường xuyên. Sự thay đổi trên là do hàng loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung, cũng như kỳ vọng của sản xuất, người kinh doanh và cả của khách hàng. * Quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua và người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua và người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy đua không đích cuối cùng cạnh tranh trong kinh tế là cuộc thi đấu không phải với một đối thủ mà đồng thời với hai đối thủ. Đối thủ thứ nhất là giữa hai phe của hệ thống thị trường và đối thủ thứ hai là giữa các thành viên của cùng một phía với nhau.Tức là cạnh tranh giữa người mua và người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau, không thể lẫn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. 1.1.4. Các chức năng của thị trường. * Chức năng thừa nhận. Doanh nghiệp thương mại mua hàng hóa về để bán. Hàng hóa có bán được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của khách hàng, của doanh nghiệp. Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng, chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và địa điểm thuận tiện cho khách hàng. * Chức năng thực hiện. Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác. Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua. * Chức năng điều tiết và kích thích. Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác đang hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có khả năng bán được khối lượng lớn. * Chức năng thông tin. Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hóa dịch vụ, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế quan trọng đối với mọi nhà sản xuất, kinh doanh, cả người mua và người bán, cả người cung ứng và người tiêu dùng, cả người quản lý và người nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói đó là những thông tin được sự quan tâm của toàn xã hội. Thông tin thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng, không có thông tin thị trường không thể có quyết định đúng đắn trong sản xuất, kinh doanh, cũng như các quyết định của các cấp quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm các thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa đến thành công, cũng như có thể đưa đến thất bại bởi sự xác thực của các thông tin được sử dụng. 1.1.5. Vai trò của thị trường hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân. * Vị trí: Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Thị trường cũng là nơi chuyển tải các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thị trường người mua, người bán và người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hóa - dịch vụ. Quá trình sản xuất xã hội có 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, thì thị trường gồm hai khâu phân phối và trao đổi. Đó là khâu trung gian cần thiết, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy nó có tác động nhiều mặt đến sản xuất, đến tiêu dùng xã hội. * Tác dụng của thị trường. Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô ngày càng mở rộng và bảo đảm hàng hóa cho người tiêu dùng phù hợp với thị hiếu (sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi với dịch vụ văn minh. Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích thích sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới các hàng hóa chất lượng cao văn minh và hiện đại. Ba là, dự trữ hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng sản xuất, giảm bớt dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu. Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng con người khỏi các công việc không tên trong gia đình, vừa nặng nề vừa mất thời gian. Con người được nhiều thời gian tự do hơn. Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân. 1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa. 1.1.6.1. Căn cứ vào công dụng của hàng hóa. * Thị trường hàng tư liệu sản xuất. Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất. Thuộc về hàng tư liệu sản xuất có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện, phay, bào... các loại nguyên vật liệu, các loại nhiên liệu, các loại hóa chất, các loại dụng cụ, phụ tùng... Người ta con gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. * Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng. Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm hàng tiêu dùng cho cá nhân người tiêu dùng. Các sản phẩm này ngày càng nhiều theo đà phát triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con người. 1.1.6.2. Căn cứ vào nguồn sản xuất ra hàng hóa. * Thị trường hàng công nghiệp. Thị trường hàng công nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa do các xí nghiệp công nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra. Công nghiệp khai thác tạo ra sản phẩm là nguyên liệu. Nguyên liệu trải qua một hoặc một vài công đoạn chế biến thì thành vật liệu. Công nghiệp chế biến tạo các nguyên vật liệu thành các sản phẩm hàng công nghiệp. Đó là các loại hàng hóa có tính chất kỹ thuật cao, trung bình hoặc thông thường, có đặc tính cơ, lý, hóa học và trạng thái khác nhau. Nhìn chung các loại hàng hóa này có hàm lượng kỹ thuật khác nhau và thường là vật chất (không phải sinh vật). * Thị trường hàng nông nghiệp (nông, lâm, hải sản) Thị trường hàng nông nghiệp là thị trường hàng hóa có nguồn gốc từ sinh vật (động vật hoặc thực vật). Những sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp mới sơ chế (chưa qua công nghiệp chế biến), ví dụ như thóc, gạo,ngô, khoai... cá, lợn, gà, vịt... có thể ở dạng ngủ nghỉ hoặc còn tươi sống muốn bảo quản được lâu phải có phương tiện kỹ thuật. Nói chung chúng dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Sản phẩm có tính chất địa phương (rau, quả, củ) giá trị không cao nếu không được chế biến và không đưa đến các thị trường xa bằng phương tiện vận tải thông thường. 1.1.6.3. Căn cứ vào nơi sản xuất. * Hàng sản xuất trong nước. Hàng sản xuất trong nước là do các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra. Hàng sản xuất trong nước ngày càng nhiều chứng tỏ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước đến mức độ nào đó nhu cầu của thị trường. Hàng sản xuất trong nước cũng phải hướng theo tiêu chuẩn quốc tế vừa để thỏa mãn tiêu dùng trong nước vừa có khả năng xuất khẩu. Không có một quốc gia nào trên thế giới lại hoàn toàn dùng hàng trong nước. Ngược lại nếu sản phẩm sản xuất trong nước chất lượng quá thấp thì việc sử dụng nguồn lực để sản xuất hàng hóa đó là lãng phí và không thể đứng vững trên thị trường trong nước khi có hàng ngoại nhập vào. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực chất là phát triển sản xuất hàng trong nước. Có như vậy mới chủ động, tạo nhiều công ăn việc làm, đất nước phát triển và mới có hàng hóa để trao đổi với nước ngoài. * Hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại là hàng cần thiết phải nhập từ nước ngoài do nguồn hàng trong nước chưa sản xuất đủ hoặc do kỹ thuật công nghệ, chưa thể sản xuất được. Nhập hàng ngoại (kể cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến) là một yếu tố không thể thiếu được và là một tác nhân kích thích cho sản xuất tiến lên. Trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào lại không có ngoại thương, không có xuất nhập hàng hóa. Xuất nhập khẩu hàng hóa là lợi dụng được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai bên có quan hệ xuất nhập khẩu. 1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM). 1.2.1. Khái niệm. Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, tổ chức lưu chuyển hàng hóa, mua hàng hóa ở nơi sản xuất và đem bán ở nơi có nhu cầu nhằm thu lợi nhuận. Đặc thù của DNTM là hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông, thực hiện lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng chứ không sản xuất ra các hàng hóa đó, mua để bán chứ không phải để tiêu dùng. DNTM là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh có đủ các điều kiện mà pháp luật qui định và cho phép kinh doanh những mặt hàng pháp luật không cấm. DNTM phải có tổ chức, đảm bảo những điều kiện về vốn, về tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kinh doanh và hàng hóa kinh doanh của mình. 1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại. 1.2.2.1. Căn cứ vào tính chất của mặt hàng kinh doanh. * Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hóa: đó là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái hoặc tính chất nhất định. * Các doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp: là các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái, tính chất khác nhau. * Các doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa (hỗn hợp): các doanh nghiệp kinh doanh cả sản xuất, cả kinh doanh hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ thương mại. 1.2.2.2. Theo quy mô của doanh nghiệp. * Doanh nghiệp thương mại có quy mô nhỏ. * Doanh nghiệp thương mại có quy mô vừa. * Doanh nghiệp thương mại có quy mô lớn. Để xếp loại doanh nghiệp người ta thường căn cứ vào hệ thống các tiêu thức khác nhau. Đối với DNTM tiêu thức để xếp loại là số vốn kinh doanh, số lượng lao động, doanh số hàng hóa lưu chuyển hàng năm, phạm vi kinh doanh. 1.2.2.3. Theo phân cấp quản lý. * Các DNTM do các bộ, các ngành của Trung ương quản lý. * Các DNTM do địa phương quản lý như các DNTM thuộc tỉnh (thành phố), thuộc huyện, quận, thị trấn, thị xã quản lý. 1.2.2.4. Theo chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. * Doanh nghiệp thương mại nhà nước: là DNTM được nhà nước đầu tư hoặc cấp 100% vốn kinh doanh. * Doanh nghiệp thương mại tập thể: là DNTM mà vốn kinh doanh do tập thể người lao động tự nguyện góp vào để kinh doanh. * Các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh. * Doanh nghiệp tư nhân: do các tư nhân trong nước và nước ngoài bỏ vốn kinh doanh. * Hệ thống người buôn bán nhỏ: là hộ cá thể có các cửa hàng, quầy hàng kinh doanh các hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. 1.2.3. Chức năng của DNTM. Chức năng của DNTM là những nhiệm vụ chung nhất gắn liền với sự tồn tại, phát triển của DNTM và là tiêu thức để phân biệt DNTM với các doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng và các doanh nghiệp của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường DNTM có các chức năng: DNTM phát hiện nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. DNTM trở thành bộ phận trung gian độc lập giữa sản xuất với tiêu dùng. DNTM cần nghiên cứu nhu cầu thị trường để phát hiện, tìm ra những chủng loại hàng hóa, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu và tìm mọi cách tạo ra chúng nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đó của khách hàng. Chức năng thứ hai: là DNTM phải không ngừng nâng cao trình độ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. DNTM phải là người hậu cần tốt của sản xuất và tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng những hàng hóa đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, kịp thời gian với giá cả hợp lý. Chức năng thứ ba: giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Vì giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng trong kinh doanh. Giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp là giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với nhau, làm cho mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp từ đó đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung. Giải quyết mối quan hệ bên trong là cơ sở, là nền tảng để giải quyết mối quan hệ bên ngoài DNTM. Đó là quan hệ với bạn hàng, người cung ứng, với cơ quan cấp trên, với cơ quan quản lý, với khách hàng... tạo nền văn hóa doanh nghiệp, quyết định thành bại trong kinh doanh. 1.2.4. Nhiệm vụ của DNTM. DNTM có nhiệm vụ kinh doanh đúng theo ngành, nghề đã đăng ký và mục đích thành lập doanh nghiệp. Theo luật Việt Nam, các DNTM có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh mà pháp luật cho phép. DNTM có nhiệm vụ quản lý tốt lao động, vật tư, tiền vốn để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để thực hiện kinh doanh có lợi nhuận DNTM phải sử dụng triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp, đề ra các chiến lược chiếm lĩnh thị trường để tiêu thụ hàng hóa một cách nhanh chóng. Vì thị trường hàng hóa là đầu ra của DNTM, quyết định thành công hay thất bại. Vì có bán được hàng hóa thì DNTM mới thu được vốn và lãi để từ đó tiếp tục mua hàng hóa khác để kinh doanh. DNTM có nhiệm vụ thực hiện phân phối theo lao động và chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Có như vậy nhân viên trong doanh nghiệp mới hoạt động hiệu quả, gắn bó với doanh nghiệp. Để làm được điều này DNTM phải phát triển kinh doanh, tạo mở đầy đủ việc làm, tăng thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện phân phối công bằng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Điều đó sẽ tạo động lực để DNTM có đội ngũ nhân viên nhiệt tình, phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Nhiệm vụ thứ tư là DNTM thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội. Trước hết DNTM chỉ kinh doanh những hàng hóa bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái, không gây ô nhiễm hay hủy hoại môi trường. Nhiệm vụ thứ năm là DNTM phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước. DNTM thực hiện nộp thuế đầy đủ và các nghĩa vụ khác của pháp luật. Thực hiện tốt các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của nhà nước về thương mại. 1.2.5. Vai trò của DNTM. Doanh nghiệp thương mại là hợp phần tất yếu, quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, là nơi thể hiện đầy đủ, tập trung nhất các mối quan hệ lớn trong xã hội: quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng; giữa cung và cầu; giữa tiền và hàng; giữa xuất khẩu với nhập khẩu; giữa thu và chi ngân sách, đồng thời cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa cơ chế quản lý cũ chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh cùng đan xen tồn tại với nhau. Bởi vậy DNTM phải phát huy vai trò là cầu nối, là trung gian cần thiết giữa sản xuất với tiêu dùng. Hoạt động của các DNTM góp phần tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ cân đối trong sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, phát huy vai trò chỉ đạo, điều tiết thị trường, xứng đáng là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc điều tiết và quản lý vĩ mô. Doanh nghiệp thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông tạo điều kiện không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, tích cực góp phần tăng tích lũy xã hội nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập mau chóng vào nền kinh tế thế giới. Doanh nghiệp thương mại thông qua hoạt động kinh doanh của mình đã làm tốt việc phân phối hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu qua đó nâng cao mức hưởng thụ của người dân. Và khi mức sống của người dân được tăng lên thì vai trò của doanh nghiệp thương mại càng quan trọng. DNTM có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hàng hóa trong nước ra nước ngoài và nhập hàng hóa, thiết bị kỹ thuật. 1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại. 1.3.1. Khái niệm. Thị trường hàng hóa của DNTM là một hay nhiều nhóm khách hàng với các nhu cầu về hàng hóa, có khả năng thanh toán và những người bán cụ thể nào đó mà ở đó DNTM có thể mua hàng hóa, dịch vụ để cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với DNTM, thị trường hàng hóa bao gồm các nhân tố: khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa bao gồm bản thân doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, hàng hóa và giá cả. Thị trường hàng hóa của DNTM bao gồm: thị trường nguồn hàng và thị trường bán hàng. Thị trường nguồn hàng của DNTM là nơi cung cấp toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng hóa mà doanh nghiệp thương mại cần mua. Thị trường bán hàng của DNTM là tất cả các khách hàng có nhu cầu, có khả năng thanh toán về hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh. 1.3.2. Vai trò của thị trường hàng hóa đối với DNTM. Thị trường hàng hóa có vai trò quan trọng đối với DNTM. Nó vừa là mục tiêu vừa là môi trường kinh doanh của DNTM, quyết định thành công hay thất bại đối với DNTM. 1.3.2.1. Thị trường nguồn hàng: cung cấp hàng hóa mà DNTM cần mua để kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Thị trường nguồn hàng của DNTM gồm có: thị trường nguồn hàng trong nước và thị trường nguồn hàng nước ngoài. Nhiều mặt hàng thị trường trong nước không có hoặc giá thành cao, chất lượng thấp thì DNTM phải thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa đó từ thị trường nước ngoài. Thị trường nguồn hàng là khâu hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên, mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hóa (T - H). Mua hàng là một hoạt động nghiệp vụ cơ bản của DNTM. Nếu không mua được hàng hoặc mua hàng không đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh thì DNTM không có hàng để bán. Nếu DNTM mua phải hàng xấu, hàng giả, chất lượng kém hoặc không mua đúng số lượng, chất lượng hàng hóa, đúng thời gian yêu cầu, DNTM sẽ bị ứ đọng hàng hóa, vốn lưu động không lưu chuyển được, doanh nghiệp sẽ không bù đắp được chi phí, sẽ không có lãi. Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng của thị trường nguồn hàng có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh khác và kết quả kinh doanh của DNTM. Một vấn đề quan trọng đối với DNTM là tạo được nguồn hàng có giá rẻ, chất lượng tốt và phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Nếu DNTM mua hàng hóa có giá cao thì khách hàng sẽ không mua. DNTM khó tiêu thụ hàng hóa. DNTM phải mua hàng với giá thấp hơn giá thị trường và bán với giá mà khách hàng có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chất lượng hàng hóa cũng rất quan trọng. Nếu cùng một giá mà DNTM bán hàng hóa có chất lượng tốt hơn thì khách hàng sẽ ưa thích hơn. Như vậy thị trường nguồn hàng có vai trò quyết định hiệu quả kinh doanh của DNTM, quyết định DNTM có lãi hoặc lỗ khi bán hàng hóa. Nhưng điều này chỉ đúng với một số hàng hóa thông thường còn một số hàng hóa có giá trị cao thì lợi nhuận phụ thuộc vào độ tin cậy về chất lượng và công tác dịch vụ. Ví dụ: để mua một chiếc xe máy trị giá 25 triệu VND thì khách hàng sẽ hết sức chú ý tới chất lượng của xe còn giá cả chênh lệch 1 triệu đến 2 triệu thì không quan trọng miễn là chất lượng xe tốt. Thị trường nguồn hàng thuận lợi, cách thu mua phù hợp sẽ giúp cho DNTM đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thị trường nguồn hàng càng gần DNTM hoặc điều kiện giao thông vận tải thuận lợi thì sẽ giúp cho DNTM mua được hàng nhanh chóng, kịp thời, giảm chi phí cho vận chuyển, làm cho giá thành của sản phẩm giảm đáng kể. Còn cách thu mua hợp lý tránh cho DNTM những khoản chi phí không cần thiết mà vẫn mua được hàng hóa đạt yêu cầu. DNTM có thể áp dụng các hình thức thu mua sau: Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước. Hình thức mua này giúp cho DNTM ổn định được nguồn hàng, có nguồn hàng chắc chắn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Mua hàng không theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn và mua hàng trôi nổi (vãng lai) trên thị trường. Với hình thức này thì người mua hàng cần có một nghiệp vụ mua hàng thông thạo, có kỹ năng mua hàng để bảo đảm hàng mua về có thể bán được. Mua qua đại lý: áp dụng khi nguồn hàng không tập trung, không thường xuyên. Mua hàng bằng hình thức liên doanh liên kết: DNTM có thể lợi dụng ưu thế của mình về vốn, nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ cùng các doanh nghiệp khác liên doanh liên kết để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sản lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Nhận bán hàng ủy thác hoặc ký gửi: DNTM sẽ nhận được chi phí ủy thác hoặc chi phí ký gửi. Với hình thức này DNTM có thể lợi dụng được vốn kinh doanh và làm phong phú thêm nguồn hàng của doanh nghiệp. Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua thành phẩm: DNTM đưa nguyên vật liệu đến xí nghiệp gia công, trả phí gia công hoặc bán nguyên vật liệu cho doanh nghiệp sản xuất và mua thành phẩm theo hợp đồng và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Hình thức cuối cùng là tự sản xuất, khai thác hàng hóa: với hình thức này đòi hỏi vốn của DNTM phải có vốn lớn, có đủ năng lực sản xuất, áp dụng tốt khoa học công nghệ, kỹ thuật để đạt được hàng hóa có chất lượng tốt, giá thành rẻ. DNTM cần phải lựa chọn các hình thức thu mua trên hoặc xen kẽ các hình thức thu mua để giảm được chi phí, có được hàng tốt, giá phù hợp với nhu cầu của khách hàng. DNTM cần coi trọng vai trò của thị trường nguồn hàng thì mới có thể đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Nhưng để bán được hàng thì DNTM phải có thị trường bán. 1.3.2.2. Thị trường bán hàng. Thị trường nguồn hàng có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn hàng cho DNTM để DNTM làm thỏa mãn kịp thời nhu cầu của khách hàng nhưng điều quan trọng nhất đối với DNTM là bán được hàng hóa mình đã mua để thu vốn và lợi nhuận để tiếp tục quá trình kinh doanh, có như vậy DNTM mới tiếp tục phát triển, tức là DNTM phải có thị trường bán. Thị trường bán của DNTM gồm: thị trường bán trong nước và thị trường bán nước ngoài (xuất khẩu). Vai trò của thị trường bán đối với DNTM được thể hiện ở các mặt sau: + Thị trường bán là nơi tiêu thụ hàng hóa cho DNTM mà ở đó DNTM bán hàng, thu hồi vốn và lợi nhuận có thị trường bán hàng tức là có khách hàng và có nhu cầu về hàng hóa mà DNTM bán. Vấn đề đối với DNTM không chỉ là bán được hàng mà còn phải làm cho khách hàng thỏa mãn, hài lòng. Có như vậy DNTM mới tạo được niềm tin với khách hàng, tạo được bạn hàng lâu dài, đảm bảo lợi ích lâu dài đối với DNTM. + Thị trường bán quyết định hàng hóa kinh doanh, phương thức phục vụ của DNTM. DNTM kinh doanh những hàng hóa mà khách hàng đang có nhu cầu lớn, chưa được thỏa mãn. Nếu DNTM kinh doanh hàng hóa không có nhu cầu thì sẽ không bán được hàng. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện thì nhu cầu của họ càng tăng lên và những đòi hỏi về chất lượng hàng hóa, phương thức phục vụ của DNTM ngày càng tăng cao. DNTM phải có phương thức phục vụ tốt nhất, xem khách hàng là "thượng đế" để khách hàng được thỏa mãn tốt nhất. Khách hàng có xu hướng mua hàng hóa của những DNTM có phương thức phục vụ nhiệt tình, có uy tín, đảm bảo chất lượng hàng hóa. + Thị trường bán hàng trở thành vấn đề sống còn đối với DNTM. Nếu DNTM có thị trường bán ổn định, tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận cao thì DNTM có điều kiện tiếp tục phát triển, tiếp tục mở rộng kinh doanh. Còn nếu DNTM không bán được hàng, bị thua lỗ thì DNTM có thể phải ngừng hoạt động hoặc phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác. DNTM có t._.hể áp dụng các phương thức bán hàng sau: Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán tại kho của người cung ứng, tại kho của DNTM, bán qua cửa hàng quầy hàng và bán tại đơn vị tiêu dùng. Hình thức bán tận đơn vị tiêu dùng, bán tại nhà theo yêu cầu của khách hàng là hình thức bán tạo thuận lợi cho người mua và là phương thức chủ yếu nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và cạnh tranh lẫn nhau, đang được các DNTM áp dụng hiệu quả. Theo khâu lưu chuyển hàng hóa có bán buôn và bán lẻ. Bán buôn là khối lượng lớn, theo hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt, giá bán rẻ hơn và doanh số thường cao hơn so với bán lẻ. Bán lẻ là bán theo yêu cầu nhỏ lẻ của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu kịp thời của khách hàng thanh toán ngay. Vì hàng hóa phải qua khâu bán buôn, lưu kho, chi phí cho bán hàng nên giá bán lẻ thường cao hơn, việc tăng doanh số của DNTM chậm hơn nhưng lại được nhiều thông tin trực tiếp từ người tiêu dùng. Theo phương thức bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận mua vừa bán, bán đấu giá và xuất khẩu hàng hóa. Bán theo hợp đồng đối với hàng hóa có khối lượng lớn. Bán đấu giá với hàng khó tiêu chuẩn hóa, hàng chuyên dùng. Khối lượng lớn để tìm người mua với giá cao nhất. Xuất khẩu cần tuân thủ theo quy định xuất nhập khẩu của Chính phủ và chỉ có các đơn vị được phép kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện. Theo mối quan hệ thanh toán, có mua đứt bán đoạn và sử dụng các hình thức tín dụng trong thanh toán như bán trả chậm, bán trả góp. Hình thức bán trả chậm, bán trả góp đối với những hàng hóa có giá trị lớn mà người mua hàng không đủ khả năng trả hết tại thời điểm mua. Hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa qua điện thoại, bán qua người môi giới, qua nhân viên tiếp thị và bán qua mạng Internet. DNTM cần kết hợp các hình thức bán để tiêu thụ hàng hóa tốt nhất. CHƯƠNG 2 PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA NƯỚC TA. 2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa nước ta. Thị trường hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh... đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thị trường hàng hóa có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Thông qua hệ thống các chính sách, chiến lược, quy hoạch, nhà nước quản lý, dự báo và định hướng thị trường trong và ngoài nước, giải quyết các vấn đề về thị trường hàng hóa. Thị trường hàng hóa phát triển trên cơ sở tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Đây là điều kiện nhất thiết phải có vì nếu không được tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ thì hàng hóa sẽ không được chuyển đến người tiêu dùng có nhu cầu, không được phân phối theo đúng quy luật thị trường thì thị trường hàng hóa không phát triển được. Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quy luật cung - cầu trên thị trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường, nó là giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hóa chiếm phần lớn trên thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để doanh nghiệp vươn lên. Tất cả các mối quan hệ được tiền tệ hóa, tuân theo các quy luật của lưu thông hàng hóa của kinh tế thị trường. 2.1.2. Hệ thống các doanh nghiệp thương mại nước ta hiện nay. 2.1.2.1. Doanh nghiệp thương mại nhà nước. Doanh nghiệp thương mại nhà nước được nhà nước đầu tư hoặc cấp vốn 100% để kinh doanh, phục vụ những mục tiêu chiến lược của nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có sự thay đổi về số lượng và hiệu quả kinh doanh. Về số lượng các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã giảm đáng kể. Tính đến thời điểm 31/12/1999 nước ta có khoảng 1576 doanh nghiệp thương mại nhà nước. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước chưa đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, còn thua lỗ. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn thấp. Tuy nhiên doanh nghiệp thương mại nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều tiết thị trường hàng hóa ở nước ta. 2.1.2.2. Doanh nghiệp thương mại tập thể. Loại doanh nghiệp này vốn do tập thể người lao động góp, tạo nên theo nguyên tắc tự nguyện hoặc một phần vốn tập thể, một phần vốn do Nhà nước bảo đảm. Hình thức tổ chức kinh doanh là các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác, các cửa hàng hợp tác xã mua bán còn tồn tại ở các vùng nông thôn, thị xã, thành phố. Nó có đóng góp tích cực vào việc bảo đảm đời sống của dân cư và giao lưu hàng hóa công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn. Trong những năm đổi mới, tổng giá trị sản lượng của khu vực hợp tác xã đã tăng liên tục. Năm 1998, tổng sản phẩm trong nước do khu vực kinh tế hợp tác xã tạo ra đạt 32.979 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1997. Năm 1999 đạt khoảng 35.100 tỷ đồng, tăng 6,6% so với năm 1998 và chiếm 9% GDP của cả nước. Doanh số bán của các hợp tác xã thương mại năm 1998 tăng 6%. 2.1.2.3. Các doanh nghiệp thương mại tư nhân. Đây là các doanh nghiệp do tư nhân trong nước bỏ vốn thành lập và tổ chức kinh doanh. Các doanh nghiệp này phải tự bỏ vốn, bảo toàn vốn, tự tìm kiếm thị trường. Các doanh nghiệp tư nhân lớn ở nước ta chưa nhiều nhưng tiềm năng và sức mạnh của nó không phải là nhỏ. 2.1.2.4. Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Đây là các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Các doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài thường là các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài thành lập tại Việt Nam để tiêu thụ các sản phẩm của các hãng nước ngoài tại Việt Nam. 2.1.2.5. Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là hình thức biểu hiện sự kết hợp và giao lưu các thành phần kinh tế. các doanh nghiệp này có đặc điểm là chế độ sở hữu vốn, tài sản không thuần nhất. Đơn giản nhất là các doanh nghiệp liên doanh giữa các thành phần kinh tế hoặc giữa các bên của Việt Nam và các bên nước ngoài. ở nước ta, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên. Xu hướng các doanh nghiệp thương mại là Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ ngày càng phát triển. 2.1.2.6. Hệ thống tiểu thương. Đây là hệ thống cửa hàng, quầy hàng, điểm bán hàng của cá nhân. Lực lượng này rất đông đảo và rất khó quản lý. Thành phần tham gia rất đa dạng: cán bộ nhân viên Nhà nước về hưu, mất sức và các tầng lớp dân cư. Kinh doanh hàng hóa dịch vụ rất đa dạng và nhiều người trong số họ không có đăng ký kinh doanh. Ưu thế của tiểu thương thể hiện trong việc đáp ứng tốt các yêu cầu nhỏ lẻ, không thường xuyên, nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của thị trường. Là lực lượng đáng kể, hệ thống tiểu thương cần mẫn đáp ứng nhu cầu của dân cư và điều tiết hàng hóa giữa các vùng. Một số tiểu thương kinh doanh có hiệu quả, có thể tích lũy mở rộng kinh doanh và chuyển thành các doanh nghiệp tư nhân. 2.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA. 2.2.1. Thị trường trong nước phát triển mạnh. 2.2.1.1. Quy mô ngày càng tăng. Trong những năm qua quy mô thị trường trong nước đã tăng liên tục, trước hết phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các đơn vị tham gia hoạt động thị trường, bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đông đảo hộ kinh doanh cá thể. Mạng lưới chợ, các điểm bán hàng hóa và kinh doanh dịch vụ phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Đặc biệt, các loại hình thị trường "văn minh" như trung tâm thương mại, siêu thị và các loại khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn cao cũng được hình thành và phát triển trong những năm vừa qua. Tình hình này được thể hiện qua các số liệu dưới đây: Về số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại dịch vụ: Năm 1991 có 1.774 doanh nghiệp nhà nước, năm 1995 có 10.806 doanh nghiệp và năm 1999 có 16.226 doanh nghiệp. Trong số hơn 12.000 doanh nghiệp mới được thành lập của năm 2.000 có tới 3.000 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, nâng tổng số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, nâng tổng số doanh nghiệp thương mại dịch vụ đến cuối năm 2000 lên đạt 19.226 doanh nghiệp, gấp 10,8 lần năm 1991. Như vậy, trong 10 năm 1991 - 2000 số lượng doanh nghiệp thương mại, dịch vụ đã tăng 17.457 doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp thương mại, dịch vụ trong tổng số doanh nghiệp của cả nước cũng tăng lên nhanh chóng, từ chỗ chỉ chiếm 12% năm 1990 đã tăng lên chiếm 46% vào năm 1999. Số điểm bán hàng hóa và kinh doanh các dịch vụ phục vụ đời sống cũng tăng lên đáng kể. Năm 1991 cả nước có 26.909 điểm, nhưng đến năm 1999 đã có 38.000 điểm bán hàng và kinh doanh dịch vụ. Nếu kể cả hộ kinh doanh thì con số này còn lớn hơn nhiều. Số hộ cá thể tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ gia tăng nhanh chóng. Năm 1991 cả nước có 631 ngàn hộ kinh doanh, năm 2000 đã tăng lên đạt 1,1 triệu hộ, gấp 2 lần năm 1991. Nếu so với tổng số hộ sản xuất kinh doanh (trừ hộ sản xuất nông nghiệp) thì hộ cá thể kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm trên 60%. Mạng lưới chợ (hình thức truyền thống của thị trường) đã được củng cố và phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Năm 1994 cả nước có 4.763 xã có chợ thì đến năm 1999 toàn quốc có 8.231 chợ, bình quân 0,8 chợ/xã. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ và triển lãm hàng hóa cũng được hình thành và phát triển. Tại các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... loại hình phục vụ mới, văn minh, lịch sự và hiện đại đang trở nên phổ biến. Về tình hình phát triển thương mại ở các vùng trong nước thì vùng Đông Nam Bộ có số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nhiều nhất với 5571 doanh nghiệp vào cuối 1999, thứ nhì là đồng bằng sông Hồng với 3075 doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê thì số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ tại thời điểm 31/12/1999 phân theo địa phương như sau: Các loại doanh nghiệp Vùng Tổng số DNTMDV DNNN TNHH DNTN CTCP DNTT DTNN 1. Đồng bằng sông Hồng 3075 540 1594 806 27 102 42 2. Đồng bằng Bắc Bộ 643 171 115 316 3 35 3 3. Tây Bắc Bắc Bộ 90 51 6 28 1 4 4. Bắc Trung Bộ 642 165 86 364 6 20 1 5. Duyên hải Nam Trung Bộ 1545 128 202 1178 5 29 5 6. Tây Nguyên 808 80 39 682 3 2 2 7. Đông Nam Bộ 5571 307 1688 3400 36 81 59 8. Đồng bằng Sông Cửu Long 3852 172 286 3559 4 26 5 Cả nước 16226 1576 3816 10333 85 299 117 Chú thích: + DNTMDV: Doanh nghiệp thương mại, dịch vụ +DNNN: Doanh nghiệp nhà nước + TNHH: Trách nhiệm hữu hạn + DNTN: Doanh nghiệp tư nhân + CTCP: Công ty cổ phần + DNTT: Doanh nghiệp tập thể + DTNN: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ tăng lên đáng kể theo các vùng trong cả nước. Tính đến năm 1999 cả nước có 1501,6 nghìn người tham gia thì đến năm 2000 đã tăng lên 1584,8 nghìn người tham gia, tăng 83,2 nghìn người. Đồng bằng sông Hồng có 262,1 nghìn người tham gia năm 2000 chiếm 16,54% số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ trong cả nước. Đông Nam Bộ có số người tham gia là lớn nhất với 431,7 nghìn người (năm 2000) chiếm 27,24% cả nước. Theo số liệu thống kê thì số người kinh doanh thương mại, dịch vụ phân theo địa phương như sau: Đơn vị: Nghìn người Năm Khu vực 1995 1997 1998 1999 2000 1. Đồng bằng sông Hồng 212,1 245,6 243,7 253,1 262,1 2. Đồng bằng Bắc Bộ 124,2 93,8 92,3 97,9 109,3 3. Tây Bắc Bắc Bộ 17,5 16,2 16,6 17,2 17,8 4. Bắc Trung Bộ 139,2 119,6 123,0 130,2 135,6 5. Tây Nguyên 53,6 50,3 56,1 59,0 64,4 6. Đông Nam Bộ 425,9 312,0 384 401,7 431,7 7. Đồng bằng Sông Cửu Long 441,2 400,4 409,4 409,9 427,2 8. Duyên hải Nam Trung Bộ 149,3 151,1 130,3 132,5 136,7 Cả nước 1563,0 1389,0 1455,4 1501,6 1584,8 Nhìn chung số lượng các đơn vị tham gia hoạt động thị trường của cả nước và từng khu vực trong nước trong thời gian qua đều tăng theo các năm tạo thêm động lực thúc đẩy thương mại nước ta phát triển. Quy mô ngày càng tăng không thể tính đến sự gia tăng nhanh chóng tổng mức lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ngày càng tăng, năm 2000 đã đạt 219.400 tỷ đồng, gấp 11,52 lần năm 1990 và 565,8 lần năm 1986, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 216.300 tỷ đồng (gồm khu vực nhà nước 40.000 tỷ đồng, ngoài quốc doanh 176.300 tỷ đồng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3100 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng liên tục trong 10 năm qua với mức tăng bình quân hàng năm là 27.7% (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 10,3%/năm). Mức bán lẻ bình quân đầu người/năm cũng tăng đáng kể, từ 0,3 triệu đồng năm 1990 lên 1,7 triệu đồng năm 1995 và 2,8 triệu đồng năm 2000. Dưới đây là một số chỉ tiêu về quy mô thị trường giai đoạn 1991 - 2000 của nước ta. Số lượng doanh nghiệp thương mại, dịch vụ Hộ cá thể Số điểm bán hàng và cung cấp dịch vụ (Nghìn điểm) Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội Số lượng hộ (nghìn hộ) Tỷ trọng hồ TMDV trong tổng số hộ (%) Tổng mức (Nghìn tỷ đồng) Chỉ số phát triển so với năm trước % 1991 1774 630 27 33 175,5 1992 1774 698 65,5 24 51 153,3 1993 5444 743 62,1 22 67 131,4 1994 8029 793 62,0 22 93 139,0 1995 10806 1160 65,1 26 121 129,6 1996 14871 840 57,7 31 196 120,4 1997 15685 949 61,0 34 162 111,0 1998 14306 1058 66,3 37 186 114,6 1999 16226 1089 63,9 38 201 108,3 2000 19226 1100 219 109,2 2.2.1.2. Các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hóa phát triển mạnh. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp thương mại đã tăng cả về số lượng, chất lượng phục vụ do áp dụng nhiều hình thức dịch vụ thương mại cả trước, trong và sau khi bán hàng và đã phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng, chiếm lĩnh được thị trường nội địa, là thị trường quan trọng của doanh nghiệp thương mại nước ta. Nhiều hình thức dịch vụ thương mại tiến bộ trên thế giới được các doanh nghiệp thương mại vận dụng như việc tổ chức các hội chợ, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, bán hàng qua điện thoại, fax, bán và chuyển hàng tận nơi theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp thương mại nước ta phát triển rộng khắp đất nước, thâm nhập vào các thị trường, đặc biệt là các thành phố khác với mọt hệ thống các chi nhánh, đại lý phân phối hợp lý, đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên ngành thương mại, phần lớn có bằng đại học dùng phương tiện xe máy, ô tô chuyển hàng đến tận các đại lý nhỏ hơn, các cửa hàng bán lẻ hoặc đến tận người tiêu dùng. Cách phân phối này đã giúp cho doanh nghiệp thương mại nắm bắt được tình hình thị trường, thu nhập được các yêu cầu về sản phẩm của người tiêu dùng và trở thành cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các doanh nghiệp thương mại nước ta còn mở các chi nhánh, đại lý phân phối đến tận các thị trấn, xã, khu vực nông thôn nhằm khai thác tiềm năng ở thị trường này. Bởi vì nước ta phần lớn là làm nông nghiệp (chiếm 80% dân số), thu nhập của người dân được tăng lên đáng kể do đó nhu cầu về hàng hóa cũng tăng lên. Thị trường nông thôn cần các loại hàng hóa giá rẻ, chất lượng trung bình. Đồng thời các doanh nghiệp thương mại có thể thu mua hàng nông sản ở thị trường này và đem bán ở các thành phố hoặc xuất khẩu. Nhìn chung DNTM nước ta đã nâng cao được hiệu quả kinh doanh thông qua chiếm lĩnh thị trường nội địa. 2.2.1.3. Hình thành được thị trường cạnh tranh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ngoài 3 lực lượng truyền thống là doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã mua bán và hộ tư thương đã xuất hiện thêm nhiều thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Số lượng các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng, trong đó tăng nhanh nhất là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 1993, hai loại hình này mới có 3415 doanh nghiệp, đến năm 1999 đã có 14.149 doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm từ 1799 doanh nghiệp năm 1993 xuống còn 1576 doanh nghiệp năm 1999 nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, trước hết là định hướng phát triển. Khái niệm "cạnh tranh" cũng chỉ mới được sử dụng dè dặt trong những năm đầu của thập kỷ 90, nhưng đến nay đã trở thành phổ biến và được chấp nhận như một tất yếu. Có thể nói thị trường cạnh tranh đã được tạo dựng trong giai đoạn này, nhờ đó đã tạo ra được luồng sinh khí mới, động lực mới cho thương mại Việt Nam. Đây là một thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong những năm qua đối với nền kinh tế nói chung và đối với thương mại Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại ở nước ta có đặc điểm khác với nhiều nước trên thế giới, đó là thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong bán buôn và chi phối bán lẻ. Nhà nước quan tâm đếnd miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, can thiệp vào thị trường trong trường hợp cần thiết để bình ổn thị trường và luôn đóng vai trò quan trọng là dẫn đến các thành phần kinh tế khác phát triển. 2.2.2. Thị trường ngoài nước được mở rộng và phát triển. 2.2.2.1. Tăng tổng mức lưu chuyển ngoại thương. Đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước đã đem lại những kết quả kỳ diệu cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ 1991 - 2000 nói riêng. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2000 ước tính đạt 29,5 tỷ USD, gấp 6,5 lần năm 1989. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm những năm 1990 - 2000 đạt 14,3 tỷ USD, gấp 215 lần mức bình quân thời kỳ 1981 - 1990. Mức lưu chuyển ngoại thương và cán cân thương mại hàng hóa 1990 - 2000 Chia ra 1990 - 1995 1996 - 2000 1. Mức lưu chuyển ngoại thương bình quân năm (tỷ USD) 14,3 7,5 22,5 + Xuất khẩu bình quân năm (tỷ USD) 6,5 3,3 10,3 + Nhập khẩu bình quân năm (tỷ USD) 7,8 4,2 12,2 2. Cán cân thương mại hàng hóa (xuất-nhập) (Tỷ USD) -1,3 -0,9 -1,9 3. Tỷ lệ nhập siêu (%) 21,6 30,6 18,2 Số lượng đơn vị tham gia xuất nhập khẩu đã tăng lên nhanh chóng qua các thời kỳ. Năm 1985 chỉ có 40 đơn vị do Nhà nước quản lý trực tiếp xuất nhập khẩu, năm 1990 có 270 đơn vị nhưng đến nay đã có trên 12000 đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó có cả các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quan hệ quốc tế những năm vừa qua đã có những thay đổi thông qua việc tham gia tổ chức quốc tế và khu vực như hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN-1995). Diễn đàn Kinh tế các nước Châu á - Thái Bình Dương (APEC-1998), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và trở thành quan sát viên của WTO (1995), Ký hiệp định thương mại với 61 nước trong đó có Mỹ (tháng 7/2000). Năm 1990 nước ta mới có quan hệ buôn bán với trên 50 nước và vùng lãnh thổ, năm 1995 con số này là 100 và đến nay đã là trên 170. Quan hệ thương mại ngày càng mở rộng tới các Châu lục, các khối kinh tế khu vực và quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu đã dần tạo được chỗ đứng vững chắc, mở ra những tiềm năng mới trong tương lai. 2.2.2.2. Hoạt động nhập khẩu được tăng cường theo hướng tích cực. Cùng với tăng trưởng kinh tế, nhập khẩu đã tăng trưởng với tốc độ khá. Những mặt tích cực của hoạt động nhập khẩu thời kỳ 1991 - 2000 thể hiện ở một số điểm sau: * Nhập khẩu đã hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược phát triển xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu thiết yếu của sản xuất,tiêu dùng trong nước. * Cơ cấu nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liêu sản xuất, giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng. * Thị trường nhập khẩu mở rộng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng cao, góp phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Thời kỳ 1990 - 2000 nhập khẩu đạt tốc độ tăng bình quân là 17.5% mỗi năm. Riêng nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1994 - 2000 tăng bình quân 39% mỗi năm và chiếm 20,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, khu vực trong nước tăng 22% và chiếm 79,3%. Hiện nay nước ta đã nhập khẩu hàng hóa với trên 130 nước và vùng lãnh thổ. Thị phần chủ yếu là các nước châu á, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm vị trí quan trọng. Nhập khẩu từ các nước ASEAN tăng lên nhanh chóng, cơ cấu thị trường đã thay đổi phần nào thể hiện đường lối tăng cường hội nhập khu vực phù hợp với đặc điểm sản xuất, tiêu dùng, khả năng đầu tư và vận tải của nước ta). Tỷ trọng thị trường nhập khẩu chủ yếu thời kỳ 1990 - 1995: châu á chiếm 66,9%, Đông Âu 10,5%; EU 10,2% và Mỹ 0,7% sang thời kỳ 1996 - 2000: Châu á 71,95, Đông Âu 2,2%, EU 10% và Mỹ 2,4%. Tỷ trọng một số thị trường nhập khẩu chủ yếu những năm 1999 - 2000. Đơn vị: % Thời kỳ Thị trường nhập khẩu 1990 - 1995 1996 - 2000 1. Châu á 66,9 71,9 Trong đó: ASEAN 28,9 27,7 Ngoài ASEAN 38,0 50,2 2. Đông Âu 10,5 2,2 3. EU 10,2 10,0 4. Mỹ 0,7 2,4 Về cơ cấu hàng nhập khẩu: thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy móc, thiết bị kỹ thuật, giảm hàng tư liệu tiêu dùng. Năm 1990 thiết bị toàn bộ và máy móc dụng cụ chiếm 27,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 2000 tăng lên gần 40%. Nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất luôn chiếm tỷ trọng cao và tăng hàng năm, từ 59,4% năm 1990 tăng lên 63,8% năm 2000. Hàng tiêu dùng giảm tương đối, năm 1990 chiếm 13,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 1995 là 15,2% và năm 2000 còn 5,3%. Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu theo các năm Đơn vị: % Năm Mặt hàng nhập khẩu 1990 2000 1. Máy móc, thiết bị 27,4 40 2. Nguyên vật liệu sản xuất 59,4 63,8 3. Hàng tiêu dùng 13,2 5,3 2.2.2.3. Thị trường xuất khẩu được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế. Kết quả nổi bật của hoạt động xuất khẩu những năm vừa qua thể hiện trên các mặt sau: * Tăng trưởng xuất khẩu cao và liên tục. * Sự tham gia của các ngành, các thành phần kinh tế trong đó có sự đóng góp tích cực của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp với nước ngoài. * Thị trường xuất khẩu mở rộng. * Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm c chỉ biến. * Một số mặt hàng chủ lực, đóng góp lớn cho tăng trưởng xuất khẩu dần dần được khẳng định. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng đã được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô, trực tiếp và gián tiếp khuyến khích xuất khẩu. Nếu lấy năm 1989 làm gốc thì tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1990 - 2000 của xuất khẩu cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng GDP. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP và kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăgng, năm 2000 đã đạt mức xuất khẩu bình quân 184USD/người, đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển. Xuất khẩu bình quân đầu người so với GDP 1990 - 2000 Chia ra 1990 - 1995 1996 - 2000 1. Xuất khẩu bình quân đầu người (USD) 89 47 136 2. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP (%) 33,6 26,4 37,0 Từ đầu những năm 90, một số ngành công nghiệp khai thác và chế biến đã phát triển mạnh hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu theo ngành kinh tế quốc dân đã thể hiện xu hướng đó. Bình quân thời kỳ 1995 - 2000, trong tổng trị giá xuất khẩu, sản phẩm nông nghiệp chiếm tỷ trọng 14,5%, công nghiệp khai thác 20,3%, công nghiệp chế biến 63,3%. Đáng chú ý là trong 3 nhóm sản phẩm xuất khẩu trên thì sản phẩm công nghiệp chế biến có tốc độ bình quân cao nhất (34%), tiếp theo là công nghiệp khai thác (29%) và nông lâm sản 14%. Thời kỳ 1991 - 2000 cũng đánh dấu bước tiến quan trong của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đó là sự xuất hiện và gia tăng nhanh chóng của một số mặt hàng mới như gạo, hàng điện tử, máy tính, hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản, cà phê, hạt điều... Nếu như năm 1989 mới chỉ có 2 mặt hàng có trị giá xuất khẩu trên 200 triệu USD thì đến nay có 10 mặt hàng, trong đó 4 mặt hàng vượt qua mức 1 tỷ USD vào năm 2000 là dầu thô, hàng may mặc, giày dép và thuỷ sản. Trước đây xuất khẩu các mặt hàng chủ lực này chiếm 60% hiện nay chiếm 75 - 80%. Chất lượng hàng xuất khẩu được nâng lên đáng kể, một số mặt hàng đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và có tác động tích cực tới chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay các mặt hàng gạo, dầu thô, thuỷ hải sản hàng dệt may, giày dép, cà phê, nhân điều, hạt tiêu của nước ta đã được thừa nhận đạt hoặc xấp xỉ chất lượng quốc tế. Đơn vị: % Tỷ trọng bình quân Chỉ số phát triển bình quân năm 1990 - 1995 1996 - 2000 1. Dầu thô 23,5 18,8 130,0 2. Hàng dệt may 10,5 14,5 124,8 3. Giày dép 2,7 10,3 157,3 4. Hàng thuỷ sản 12,4 9,2 119,6 5. Gạo 11,6 8,6 107,6 6. Cà phê 6,6 5,0 117,7 7. Cao su 3,0 1,7 112,4 8. Hàng thủ công mỹ nghệ 2,4 1,4 101,5 9. Hạt điều 1,5 1,1 137,5 10. Hàng rau quả 1,1 1 110,8 11. Hạt tiêu 0,6 0,9 124,8 Về thị trường, thay vì trao đổi hàng hóa chủ yếu với thị trường Liên Xô - Đông Âu trước đây, hàng hóa Việt Nam đã thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường. Nhật Bản, ASEAN, Đông Bắc á, EU và Bắc Mỹ. Việc thâm nhập vào thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ đã đem lại hiệu quả cao cho hoạt động ngoại thương và đã khẳng định sự tiến bộ về chất lượng hàng hóa của nước ta vì đã đáp ứng khách hàng ở những thị trường khó tính. Năm 1995, nước ta và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hoạt động thương mại giữa hai nước bắt đầu phát triển và hiện nay kim ngạch xuất khẩu tăng gần gấp đôi năm đầu. Buôn bán với các nước Châu Phi và Châu Đại Dương được mở rộng. Năm 1989 xuất khẩu tới khu vực này chưa vượt qua con số 1 triệu USD, hiện nay Châu Phi đạt gần 70 triệu USD và Châu Đại dương đạt trên 1,1 tỷ USD. Sự thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu đã góp phần đưa kinh tế nước ta vượt qua những giai đoạn khó khăn khi thế giới diễn ra những biến động lớn về chính trị đầu những năm 90, hoặc khủng hoảng kinh tế khu vực 1997 - 1998. Ngoài ra trong hai năm gần đây chúng ta đã thực hiện chủ trương khôi phục thị trường Đông Âu, là thị trường truyền thống của ngoại thương nước ta. Thị trường này cần nhập khẩu hàng nông sản, nông sản chế biến, thủ công mỹ nghệ, hàng may mặc, giày dép mà những mặt hàng này lại là thế mạnh của nước ta. 2.3. NHỮNG NGUYÊN NHÂN ĐẠT ĐƯỢC THÀNH TỰU TRÊN. 2.3.1. Sự chuyển đổi nền kinh tế. Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ Đại hội VI đến nay đã trải qua hơn 16 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội VI đánh dấu một bước ngoặt trong đổi mới cơ chế, chính sách và quản lý kinh tế nói chung, thị trường và thương mại, dịch vụ nói riêng. Công cuộc đổi mới chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển việc mua bán hàng hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thương mại được tự do buôn bán, tự do kinh doanh, bảo đảm quyền tự chủ trong kinh doanh, thực hiện tốt hơn chức năng lưu thông hàng hóa của mình trên cơ sở có sự quản lý của nhà nước, hướng theo chủ nghĩa xã hội. Nhiều doanh nghiệp thương mại ra đời: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể (hợp tác xã), công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh liên kết với nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Thị trường chuyển từ trạng thái chia cắt khép kín theo kiểu địa giới hành chính sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật, nhu cầu của người dân được đáp ứng kịp thời, giá cả được hình thành trên giá trị và quan hệ cung - cầu. Trong thời gian qua, thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta rất phát triển, đặc biệt là sau nghị quyết 12 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (1996). Trong 16 năm đổi mới (1986 - 2002) tình hình thị trường và hoạt động thương nghiệp đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường nước ngoài. 2.3.2. Sự phát triển của các ngành sản xuất. Trong mấy năm gần đây, ở nước ta đã xây dựng và phát triển nhiều khu công nghiệp, nhiều nhà máy, xí nghiệp ra đời sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhiều nhà máy được xây dựng trước đây nay cũng được đầu tư, nâng cấp để sản xuất ra hàng hóa chất lượng tốt hơn với giá thành hạ. Vì vậy lượng hàng hóa do các cơ sở sản xuất trong nước cung cấp là rất dồi dào, nhiều chủng loại, cả hàng công nghiệp và hàng nông nghiệp. Nhằm đẩy nhanh tốc độ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hình thành liên doanh liên kết với nước ngoài được phát triển giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước áp dụng được kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất với công nghệ dây chuyền, sản xuất hàng loạt nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa tốt hơn, đẹp hơn. Hàng công nghiệp được cải tiến mẫu mã, tăng độ bền, giá cả phù hợp. Nhiều mặt hàng công nghiệp, đặc biệt hàng công nghiệp nhẹ được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Hàng nông sản được chế tạo thành những mặt hàng có giá trị hơn như nước trái cây, đồ hộp trái cây. Nhìn chung các cơ sở sản xuất trong nước đã cung cấp một lượng hàng khá lớn đáp ứng được phần lớn nhu cầu của người dân và làm phát triển thị trường nguồn hàng trong nước cho doanh nghiệp thương mại. Doanh nghiệp thương mại có thị trường nguồn hàng trong nước ổn địn._.ên sự thiệt thòi cho phía mình. Thứ năm, mặc dù ngày 26/5/1993 Ngân hàng Trung ương của Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh toán phải thông qua ngân hàng thương mại hai nước theo thông lệ quốc tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ mười năm nay buôn bán qua biên giới Việt - Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ hoàn toàn tự phát theo phương thức "hàng đổi hàng", buôn bán trao tay, tiến tới ký hợp đồng, thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh toán qua ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch trao đổi hàng hóa của hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và kinh doanh tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai nước vẫn hoành hành, hiện tượng lựa đảo, chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Điều này đã ảnh hưởng xấu tới quan hệ buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Thứ sáu, quan hệ buôn bán Việt - Trung trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng giảm dần, và cứ đà giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 2 tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo hai nước đề ra. Thứ bảy, trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập siêu ở mức lớn, như: năm 1991 (10 triệu đô la), năm 1992 (40 triệu đô la), năm 1993 (160 triệu đô la), năm 1994 (150 triệu đô la), năm 1995 (390 triệu đô la), năm 1996 (530 triệu đô la), năm 1997 (720 triệu đô la). Thứ tám, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế của Trung Quốc cao hơn Việt Nam, khiến cho tính bổ sung giữa hai bên tăng lên, nhưng mặt khác cũng gây nên ảnh hưởng bất lợi đối với hàng hóa Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. + Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian sắp tới. Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1350km chạy qua 6 tỉnh (31 huyện) của Việt Nam và hai tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu (14 huyện) của Trung Quốc. Trên biên giới chung của hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của hai nước, cũng như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Đông Nam á khác (Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Đông Hưng - Móng Cái - Tân Thanh, Hà Khẩu - Lào Cai, đã có ý tưởng xây dựng thành những khu vực buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ hai, phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc không thể tách rời bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2/1999, Tổng bí thư hai nước, đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và Trung Quốc theo phương châm 16 chữ: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", phương châm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam đều có trên 50 thành phần dân tộc khác nhau, trong đó có hơn một chục dân tộc sống ở cả hai bờ biên giới, đáng lưu ý là gần 1 triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối tốt cho sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian tới. Thứ tư, Trung Quốc đất rộng (thứ ba thế giới), người đông (chiếm 1/5 nhân loại) và Việt Nam một nước vào cỡ lớn ở Đông Nam á, đây là hai thị trường còn tiềm tàng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa vào việc buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ năm, cả hai nước đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên giới của hai bên, chú ý xây dựng môi trường phần cứng (đường, điện nước...), rà phá mìn, xây dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Đồng thời chú ý xây dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (trong tổng số 30 hiệp định và thỏa thuận đã được ký kết), đáng lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý những sự việc ở biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập khẩu; Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa (năm 1998); Hiệp ước biên giới đất liền giữa nước vừa ký kết (30/12/1999). Những hiệp định trên đây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp của hai bên sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy buôn bán qua biên giới giữa hai nước. Thứ sáu, theo dự kiến của một số nhà hoạch định chính sách, buôn bán hai chiều của Việt Nam - Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt mức tăng từ 8 - 15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ USD là có khả năng đạt được, và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển hơn nữa. Thứ bảy, theo xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng phát triển, với việc Việt Nam trở thành thành viên của khu vực buôn bán tự do ASEAN, AFTA, việc Trung Quốc sắp trở thành thành viên của Tổ chức mậu dịch thế giới (WTO); cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Việc các cảng của Việt Nam (đặc biệt là Hải Phòng) trở thành cửa khẩu thông ra biển rất gần của khu vực Đại Tây Nam Trung Quốc, với việc khu mậu dịch tự do (Đông Hưng - Móng Cái, Bằng Tường - Đồng Đăng v.v...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt - Trung có nhiều khả năng phát triển hơn nữa. Thứ tám, việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử, 50 năm qua và đặc biệt là 10 năm sau khi bình thường hóa không ngừng tăng sẽ là cơ sở để buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa. Thứ chín, dù cho buôn bán qua biên giới hai nước còn những khó khăn trở ngại, nhưng những điều kiện thuận lợi là cơ bản, với sự cố gắng của hai bên, tin rằng trong thế kỷ tới - thế kỷ châu á - Thái Bình Dương, tiềm năng buôn bán qua biên giới Việt - Trung còn phát triển hơn nữa. 3.2.8.4. Thị trường Mỹ. Tiếp tục củng cố mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể xâm nhập được vào Mỹ và thị trường thế giới. Trong điều kiện hiện nay, chính trị và kinh tế là vấn đề không thể tách biệt, vì vậy việc Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ như thế nào với Mỹ có ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ. Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nhiều hơn và sâu hơn vào thị trường Mỹ. ở Mỹ, chỉ cần 300 USD là có thể thành lập được doanh nghiệp nên việc chọn được đối tác tin cậy là điều hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, do sự hiểu biết quá ít và thiếu thông tin về thị trường Mỹ, hoạt động xuất khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ, Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin và tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại ở tầm vi mô. Một mặt, cần phải tổ chức nghiên cứu một cách nghiêm túc về thị trường Mỹ thông qua thành lập các viện nghiên cứu, thực hiện các chương trình tham quan để các doanh nghiệp hai nước có điều kiện tiếp xúc, trao đổi thông tin về khả năng hợp tác Chính phủ cần kết hợp với các công ty Mỹ hoặc Việt Kiều tổ chức các hệ thống trung tâm thương mại ở các thành phố lớn thuộc các bang khác nhau của Mỹ nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty trong nước. Mặt khác, Chính phủ cần phối hợp với phía Hoa Kỳ tiếp tục tổ chức các cuộc tọa đàm, phổ biến chính sách, luật lệ thương mại của Mỹ, tổ chức triển lãm hàng hóa Việt Nam tại Mỹ, mở dịch vụ thông tin thương mại và lập hồ sơ về các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ, mở Websife giới thiệu hàng Việt Nam trên mạng Internet. Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI từ Mỹ. Khi các dự án FDI là của Mỹ thì chủ đầu tư nước ngoài sẽ là người Mỹ, hoặc ít nhất cũng có một chủ đầu là người Mỹ. Đó là người am hiểu thị trường Mỹ, luật pháp Mỹ và thông lệ kinh doanh ở Mỹ và do đó khi họ là đối tác xuất khẩu sang Mỹ, thì sẽ rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Từ phía các doanh nghiệp. - Chuẩn bị tốt về chiến lược mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị cho Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua và quy chế MFN có thể được áp dụng nhanh chóng. Mỗi doanh nghiệp cần sớm xây dựng một kế hoạch và chương trình xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Nếu tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm được 1% thị trường nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng lên đến 10 tỷ USD/năm. Các mặt hàng giày dép, thủy sản, cà phê và rau quả là những mặt hàng xuất khẩu đầy triển vọng của Việt Nam. Bên cạnh đó, các mặt hàng như công nghệ phẩm, may mặc... đã vào được thị trường Mỹ qua gia công cũng có thể vào được thị trường Mỹ với kim ngạch lớn hơn rất nhiều khi nhận được MFN của Mỹ vì đây là những mặt hàng mà Việt Nam có nhiều nguồn lực nhưng đang vướng phải rào cản thuế quan phi MFN của Mỹ. - Tích cực tìm hiểu về thị trường Mỹ, thu nhập và xử lý tốt các thông tin để có các quyết định đúng khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là do thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường này. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn xuất khẩu hàng hóa của mình vào thị trường Mỹ thì trước hết phải tìm hiểu thị hiếu của người Mỹ, thậm chí thị hiếu ở từng bang tìm hiểu môi trường pháp lý, tập quán buôn bán kiểu Mỹ để lựa chọn những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ cả về số lượng, kiểu cách mẫu mã. Để có được các thông tin và hiểu biết về thị trường Mỹ, các doanh nghiệp phải có nhiều biện pháp khác nhau như sách báo, tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm, thuê chuyên gia tư vấn hoặc qua các tổ chức tư vấn đặc biệt qua Internet... - Nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do Hoa kỳ là một thị trường có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm chất lượng cao, vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm thì hàng hóa Việt Nam mới có thể xâm nhập được vào thị trường Mỹ. Mặt khác, để xây dựng hình ảnh tốt của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn ISO, 9000, 9001,14000... Có thể nói ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ và để cạnh tranh thắng lợi trên đất Mỹ. - Tăng cường tham gia liên doanh liên kết vào các hiệp hội ngành hàng để hạn chế tình trạng hàng hóa Việt Nam bị ép giá trên thị trường Mỹ. - Nâng cao kỹ năng đàm phán với các doanh nhân Mỹ và nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đặc điểm nổi bật trong phong cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua các lời lẽ rườm rà để nhanh chóng định đoạt thương vụ. Vì vậy, khi đàm phán với các doanh nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý những điểm sau: + Các doanh nghiệp Mỹ đều có bộ phận thu thập thông tin riêng và hoạt động quảng cáo bao giờ cũng đi trước khi định xâm nhập một thị trường mới. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thông tin và kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán với Mỹ. + Doanh nghiệp nào ở Mỹ cũng có luật sư riêng vì hệ thống pháp luật của họ rất phức tạp, thậm chí mỗi bang lại có luật lệ riêng. + Người Mỹ thích thẳng thắn, nên khi thương lượng phải bằng mọi cách khai thông ngay vấn đề lợi nhuận. + Người Mỹ làm việc rất đúng giờ, đặc biệt rất chính xác trong các cuộc hẹn, nên vì bất cứ lý do gì phải chậm trễ, phải tìm mọi cách thông báo cho phía đối tác biết. + Khi đàm phán nên nói bằng tiếng Anh và tốt nhất là bằng tiếng Mỹ. + Người tiêu dùng Mỹ rất hay kiện cáo. Vì vậy, một trong những vấn đề cần quan tâm của luật pháp là bảo vệ người tiêu dùng Mỹ. Hầu hết các vụ kiện này có thể làm cho các doanh nghiệp tốn nhiều triệu USD. Để tránh những phiền thức và tốn kém các nhà xuất khẩu nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này. 3.3. DỰ BÁO CUNG CẦU VÀ GIÁ CẢ MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU ĐẾN 2010. Việc nghiên cứu cung cầu và giá cả của các mặt hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp thương mại đề ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Quan hệ cung cầu và giá cả của các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng thương mại và tăng thu nhập bình quân đầu người. Sau đây là một số dự báo về tình hình xuất nhập khẩu và biến động giá cả của một số hàng chủ yếu đến 2010. 3.3.1. Hàng nông sản. Trong những năm gần đây, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á đã gây ra suy thoái kinh tế ở Đông Nam á, khiến nhu cầu nông sản giảm sút khá mạnh, đặc biệt là các mặt hàng lương thực và thực phẩm. Tuy vậy, nhu cầu tăng nhẹ ở một số khu vực như châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Trung Đông sẽ hạn chế phần nào xu hướng giảm giá này. Về mặt dài hạn, theo dự báo của tổ chức Lương - Nông thế giới (FAO), trong những năm đầu thập kỷ này, tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ tiếp tục được ứng dụng rộng rãi hơn thúc đẩy sản lượng nông nghiệp tăng, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu, do đó không gây sức ép làm tăng giá các mặt hàng nông sản. Trong thời kỳ 1994-2005, mức tăng sản lượng hoàn toàn phù hợp với mức tăng nhu cầu 2% năm, nhỉnh hơn đôi chút so với 1,7%/ năm thời kỳ 1984 - 1994. Cũng theo tổ chức FAO dự đoán, mức độ tăng buôn bán hàng nông nghiệp sẽ giảm nhẹ từ 2,5% giai đoạn 1984 - 1994 xuống còn 2,2%, giai đoạn 1994 - 2005 và xuống 2,0% giai đoạn 2006 - 2010. Tuy vậy, tình hình buôn bán nông sản thế giới có thể sáng sủa hơn ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Đông Nam á, Nam á, châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Trung Đông do các khu vực này sẽ tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh khiến nhu cầu tăng thanh theo. Do đó các nước đang phát triển sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng về mức tăng trưởng của nhu cầu các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước công nghiệp phát triển, mức tiêu dùng cao hơn và có thể bão hòa đi đôi với tỷ lệ tăng dân số thấp sẽ làm giảm nhu cầu. Dự báo nhu cầu nông nghiệp của các nước đang phát triển sẽ đạt 162 tỷ USD vào 2005, chiếm 49% toàn thế giới so với 113,2 tỷ USD và 43% thời kỳ 1993 - 1995, và có thể sẽ vượt quá con số 200 tỷ USD vào 2010. 3.3.1.1. Mặt hàng gạo. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, nhu cầu gạo bình quân đầu người sẽ có xu hướng giảm ở một số nước châu á có thu nhập tăng nhanh, khả năng cung cấp gạo chất lượng cao sẽ giảm, do đó cầu sẽ lớn hơn cung trên thị trường gạo phẩm chất cao, nên giá loại gạo này sẽ tăng mạnh. Dự báo nhu cầu nhập gạo của Nhật Bản vào 2009 sẽ là 729 nghìn tấn; của Hàn Quốc là 205 nghìn tấn. Trái lại, nhu cầu gạo phẩm chất thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Tuy vậy, chiều hướng này cũng có thể được cải thiện đôi chút khi nhu cầu gạo phẩm chất thấp cho chăn nuôi tăng lên. Cũng theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới vẫn là Thái Lan, Việt Nam, Mỹ và ấn Độ. Thái Lan sẽ vẫn tiếp tục dẫn đầu, song sẽ phải nhường bớt thị phần xuất khẩu gạo cho Việt Nam. Một số nước và khu vực như Pakitstan, Myanma; Campuchia và các nước Mỹ La Tinh sẽ tăng xuất khẩu gạo, trái lại Mỹ và ấn Độ sẽ giảm xuất khẩu gạo, Trung Quốc sẽ tiếp tục xuất khẩu song khối lượng giảm. 3.3.1.2. Mặt hàng dừa. Giá mặt hàng này được dự đoán là sẽ tăng khoảng 22% vào năm 2002 so với mức của nam 2000; đến 2005 giá thực tế của dừa được dự đoán tăng 45% so với mức năm 2000 và sẽ không thay đổi cho tới tận 2010. 3.3.1.3. Mặt hàng cà phê. Theo dự báo của FAO, sản lượng cà phê sẽ tăng mạnh nhất ở châu á với tốc độ bình quân 3,34%/năm giai đoạn 1999 - 2009. Dự kiến vào năm 2005, sản lượng cà phê châu á đạt 1,36 triệu tấn và khoảng 1,9 triệu tấn vào năm 2009, trong đó tốc độ tăng sản lượng của Việt Nam là 8%/năm, ấn Độ 9%/năm và Inđônexia 1%/năm... Đồng thời FAO cũng cho rằng, thị trường cà phê giới có xu hướng cung cao hơn cầu, do vậy giá cà phê khó có thể tăng lên. Ngân hàng thế giới dự báo, giá cà phê chè sẽ là khoảng 2540 USD/tấn và cà phê vối khoảng 1860 USD/tấn vào năm 2009. 3.3.1.4. Mặt hàng chè. Mức tiêu thụ chè của thế giới được dự báo về tăng cũng khoảng 2,8%/năm, đạt 2,67 triệu tấn vào 2005 và khoảng 3 triệu tấn vào 2009. Nhu cầu chè của các nước đang phát triển được dự báo tăng 3%/năm; tiêu thụ chè tại ấn Độ tăng 3,2%/năm; các nước như Paskitan, I ran, Ai Cập tiêu thụ chè tăng tương ứng là 160, 122 và 90 ngàn tấn/năm. Tiêu thụ chè tại các nước công nghiệp phát triển tăng khoảng 2,2%/năm, song Anh lại giảm; nhu cầu chè của Mỹ sẽ tăng dưới 1%/năm. Trong khi đó nhu cầu tiêu thụ chè ở các nước thuộc Liên Xô cũ sẽ tăng khá cao, 4,5%/năm. 3.3.1.5. Mặt hàng gỗ. Buôn bán gỗ ván toàn cầu sẽ tăng bình quân 0,96%/năm trong giai đoạn 1992 - 2010, đạt 29,35 triệu m3 và 2010. Indonexia - nước xuất khẩu gỗ ván lớn nhất thế giới hiện nay, được dự báo sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu và đạt 10,2 triệu m3; Canada cũng tăng mạnh xuất khẩu lên 4,85 triệu m3; trong khi Malaixia và Mỹ sẽ giảm xuất khẩu. Các nước châu Âu sẽ giảm mạnh nhập khẩu còn 2,86 triệu m3 do sản xuất tăng; Nhật Bản giảm nhập khẩu 1,5 lần; trong khi Mỹ sẽ tăng mạnh nhập khẩu lên 7,08 triệu m3 vào 2010. Trung Quốc sẽ tăng mạnh nhập khẩu gỗ ván và thay thế vị trí nước nhập khẩu lớn nhất Châu á của Nhật Bản. Theo dự báo của FAO, Trung Quốc sẽ nhập khẩu 6,37 triệu m3 vào năm 2010. 3.3.2. Nhóm hàng nguyên liệu thô. Theo đánh giá chung của WB, IMF và một số tổ chức khác thì nhìn chung giá nguyên liệu thô có xu hướng vững lên trong thời kỳ 2001 - 2010 do trữ lượng của các nguyên liệu thô, năng lượng giảm; hơn nữa sự phát triển của ngành khoa học vật liệu mới cũng chưa tạo ra nhiều nguyên liệu, nhiên liệu và phụ gia thay thế... Về các con số cụ thể về sản lượng, khối lượng và tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm cho tới 2010 không có, nên chúng tôi không thể đưa ra được một con số cụ thể về giá của nhóm hàng này. Chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào hai mặt hàng quan trọng mà hiện cũng đang chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là than và dầu mỏ. 3.3.3 Nhóm hàng năng lượng. 3.3.3.1. Mặt hàng dầu mỏ. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu dầu mỏ được dự đoán sẽ tăng lên tới 88 triệu thùng/ngày vào năm 2010, tăng hơn 20 triệu thùng/ngày hay 1,6% so với năm 1994, so với mức tăng chỉ có 4 triệu thùng/ngày hay 0,4% 16 năm trước. Nhu cầu dầu mỏ ở các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ tăng vừa phải; với phần còn lại của thế giới, nhu cầu dầu mỏ tăng 2,5%/năm. Có nhiều nhân tố đóng vai trò quan trọng duy trì tốc độ tăng nhu cầu dầu mỏ ở mức vừa phải như các kỹ thuật mới. Hiệu quả được nâng cao, trợ cấp đối với khí ga, các nhiên liệu vận tải thay thế, trợ cấp được hủy bỏ, và các vấn đề về môi trường như chất lượng không khí, khí thải CO2... Khoảng 80% nhu cầu dầu mỏ của các nước không phải thành viên OECD tăng được dự báo là ở châu á. Nhu cầu dầu mỏ tăng chủ yếu do nhu cầu nhiên liệu cho vận tải tăng... Tốc độ tăng nhu cầu dầu mỏ ở một số khu vực như sau: Bắc Mỹ tăng 0,5%/năm từ 2001 - 2010, châu Âu tăng dưới 0,5%/năm, các nước OECD khu vực Thái Bình Dương tăng dưới 1%; các nước đang phát triển tăng khoảng 4%/năm trong đó Trung Quốc sẽ tăng 5%/năm; các khu vực còn lại như Mỹ La Tinh, Châu Phi, Trung Đông, Liên Xô cũ... được dự báo sẽ tăng từ 2-2,5% trong cùng thời kỳ này. 3.3.3.2. Mặt hàng than. Theo dự báo đến 2010, nhu cầu tiêu thụ than của thế giới sẽ tăng 48% so với năm 1995, đạt tới 6,9 tỷ tấn. Trong thời kỳ này, nhu cầu tiêu thụ than sẽ có thay đổi đáng kể ở một số khu vực: ở châu Âu giảm 30%; trái lại ở các châu lực khác lại tăng lên, đặc biệt ở các nước đang phát triển sẽ tăng kỷ lục 2,1 lần, đạt 6,865 tỷ tấn vào 2030, châu á được dự báo sẽ là khu vực tiêu thụ than lớn nhất thế giới, chủ yếu là than năng lượng cho sản xuất điện. Trong vòng hai thập kỷ tới Nhật Bản cũng vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào than do mức tiêu thụ sẽ tăng 13%/năm từ 131 triệu tấn năm 1996 lên 156 triệu tấn năm 2020. Trong giai đoạn này, Nhật Bản dự kiến sẽ xây dựng thêm các nhà máy điện thế hệ mới với công suất 20 - 24GW. Tiêu thụ than của Hàn Quốc sẽ tăng gần 55%, từ 53 triệu tấn 1995 lên 82 triệu tấn năm 2020. Nhu cầu tiêu thụ than của Trung Quốc, ấn Độ được dự báo sẽ tăng mạnh để đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ phát triển kinh tế. Dự báo tới 2020, Trung Quốc sẽ xây dựng thêm các nhà máy điện chạy bằng than với công suất 220GW, còn ấn Độ là 60GW. 3.3.4. Hàng thủy sản. Đây là ngành hàng xuất khẩu mà Việt Nam có tiềm năng phát triển cả về tăng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng. Ngành này luôn duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu khá cao, khoảng 22-23%/năm và đã đạt kim ngạch 982 triệu USD năm 1999 và đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD năm 2000. Trong thời gian từ 2001 - 2010, buôn bán thủy sản thế giới sẽ tiếp tục tăng lên do nhu cầu về thủy sản tăng nên phạm vi toàn cầu. Các nước và khu vực tiêu thụ thủy sản lớn nhất đóng vai trò chi phối thị trường thủy sản thế giới được dự báo sẽ tiếp tục là Nhật Bản, Mỹ và EU. Một số nước tiêu thụ lớn trong khu vực gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Malaixia. Riêng Trung Quốc sẽ nhập khẩu bình quân hơn 1 tỷ USD thủy sản mỗi năm trong những năm tới. 3.3.5. Hàng dệt may và giày dép. Đây là một trong những ngành hàng có đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngành hàng này lại còn tận dụng được lợi thế lao động nhiều và rẻ của Việt Nam. Chẳng hạn năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,682 tỷ USD chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; mặt hàng giày dép đạt 1,406 tỷ USD. Vì đây là những nhóm ngành hàng chúng ta có lợi thế, do vậy cần thúc đẩy mạnh mẽ hai ngành này phát triển. Các mặt hàng này trong vòng 10 năm tới sẽ có xu hướng giảm nhẹ giá do việc Trung Quốc sẽ tham gia vào WTO và được hưởng thuế suất ưu đãi, do đó xuất khẩu của Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Bên cạnh đó nhiều quốc gia đang phát triển có lợi thế lao động rẻ cũng sẽ tham gia vào việc sản xuất, gia công và cung ứng các mặt hàng này. Nhu cầu đối với mặt hàng dệt may và giày da bình dân thì tăng tương đối nhẹ, song đối với các mặt hàng mẫu mốt, chất lượng cao sẽ tăng do thu nhập bình quân đầu người tăng. Và tất nhiên giá cả hàng cao cấp cũng sẽ tăng cao nhằm phục vụ cho tầng lớp trung lưu và người có thu nhập cao ở các nước phát triển. 3.3.6. Các mặt hàng đã qua chế biến. Mục tiêu và quan điểm phát triển cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới là tăng tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu, giảm tỷ trọng nguyên liệu, nhiên liệu, hàng sơ chế trong xuất khẩu. Bởi vì, các giá cả, các mặt hàng thô, sơ chế thường hay biến động trên thị trường thế giới, do đó thu từ xuất khẩu các mặt hàng này cũng không ổn định. Hơn nữa, giá của các mặt hàng sơ chế, chưa qua chế biến có xu hướng giảm. Các mặt hàng chế biến sẽ có xu hướng tăng giá. Tất nhiên, giá cao bao nhiêu còn tùy thuộc vào hàm lượng vốn, công nghệ và tri thức chiếm trong hàng hóa đó. Do đó, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế phải đi liền với đa đạng hóa các mặt hàng chế biến xuất khẩu, chú ý xây dựng và phát triển một số ngành hàng mà chúng ta có tiềm năng thành các ngành hàng mũi nhọn xuất khẩu như điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm, thủ công mỹ nghệ, rau quả v.v... Đây là những mặt hàng mà nhu cầu sẽ rất lớn, và do đó giá cả sẽ có chiều hướng tăng trong giai đoạn 2001 - 2010. 3.3.7. Mặt hàng phân bón. Giá cả mỗi loại hàng phân bón biến động rất khác nhau trong mấy năm vừa qua. Giá phân bón hóa học Nitơ giảm từ mức hơn 200 USD/tân xuống còn gần 60USD/tấn, trong khi đó phân bón phốt phát chỉ giảm 20%, còn phân bón kali lại tăng giá. Giá phân bón Nitơ đã phục hồi và tăng gần 45% vào năm 2000 so với năm 1999, do các nhà sản xuất ở châu Âu và Mỹ cắt giảm sản xuất. Tuy nhiên sự phục hồi của giá cả còn rất mỏng manh khi mà ngành công nghiệp này đang phải đối mặt với sự dư thừa công suất và cạnh tranh xuất khẩu gay gắt. Giá gạo thấp đã khiến cho cầu giảm và cản trở quá trình phục hồi, vì hơn 50% phân bón nitơ được dùng để sản xuất lúa gạo. Theo dự báo của WB giá phân bón u-rê sẽ tăng khoảng 55% vào năm 2010 so với năm 1999, song vẫn thấp hơn 30% mức cao của năm 1996. Dự báo giá phân bón phốt phát sẽ tăng 7% vào năm 2000. Giá danh nghĩa sẽ tăng khoảng hơn 7% vào năm 2005 do giá lúa gạo trên thế giới tăng sẽ kích cầu phân bón phốt phát. Vào năm 2010, giá cả thực tế của phân bón phốt phát sẽ giảm khoảng 5% so với mức năm 2000 do năng lực sản xuất mới đã bắt đầu phát huy tác dụng. Giá danh nghĩa phân bón kali được dự báo là sẽ tăng 1% vào năm 2005 và sau đó tương đối ổn định cho tới tận cuối thập kỷ. Tuy vậy, giá cả thực tế được dự báo là sẽ giảm vào năm 2010 khoảng 19% so với mức của năm 2000. 3.3.8. Kim loại. Chỉ số giá danh nghĩa kimloại và khoáng sản của WB đã tăng khoảng 27% so với mức thấp hồi đầu năm 1999, do sản xuất bị cắt giảm trong khi nhu cầu tăng nhanh. Tuy vậy chỉ số giá danh nghĩa tăng chỉ tập trung vào một số hàng hóa như giá Niken tăng gấp đôi, giá nhôm tăng 30% và đồng tăng 40%, trong khi giá các kim loại khác lại không tăng do cung dư thừa và cầu yếu kém. Giá thiếc tăng nhẹ, trong khi đó giá vàng và bạc hầu như không thay đổi kể từ đầu năm 1998. Giá chì giảm do cầu yếu. Tuy nhiên giá của nhiều kim loại sẽ tăng khi quá trình phục hồi kinh tế mạnh mẽ diễn ra. 3.3.9. Các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Tỷ trọng của các ngành công nghệ cao trong tổng giá trị công nghiệp chế biến và giá trị xuất khẩu của các ngành công nghệ cao đang tăng. Thí dụ mức tăng tỷ trọng của công nghệ cao trong tổng giá trị của công nghiệp chế biến nếu xét trong thời kỳ 1970 - 1994 của Hoa Kỳ đã tăng từ 18,2% lên 24,2%, của Nhật Bản là 16,4% lên 22,2%, của Đức là 15,3% lên 20,1%. Cùng với nó mức tăng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp cao cũng tăng nhanh. Của Hoa Kỳ tăng từ 25,9% lên 37,3%, của Nhật Bản từ 20,2% lên 36,7%, của Đức và Anh tăng từ 17,1% lên 36,2%. Trong khi thương mại hàng hóa đang có xu hướng giảm xuống thì thương mại dịch vụ tăng nhanh. Xuất khẩu thương mại dịch vụ năm 1996 đạt 1200 tỷ USD vào năm 1996, chiếm tỷ trọng 205 thương mại toàn cầu. Mức tăng trưởng hàng năm thời kỳ 1985 - 1996 là 12,5% so với mức tăng xuất khẩu hàng hóa năm chỉ là 9,5%. Trong thập kỷ tới, dịch vụ viễn thông, và thương mại điện tử sẽ có mức tăng trưởng cao nhờ ba yếu tố: tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông, sự cạnh tranh gay gắt về cung cấp các dịch vụ, sự tự do hóa thương mại trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ. Theo dự báo của công ty nghiên cứu thị trường Forrester của Mỹ, thương mại điện tử toàn cầu năm 2001 sẽ đạt 6900 tỷ USD, trong đó, Hoa Kỳ chiếm một nửa, Tây Âu chiếm 1600 tỷ USD và khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm 1500 tỷ USD. KẾT LUẬN Sự chuyển đổi nền kinh tế từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước hướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại bao gồm thị trường hàng, thị trường bán hàng có vai trò quan trọng quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp thương mại. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong những năm vừa qua đã rất phát triển và đạt được những thành tựu to lớn cả về quy mô và hiệu quả của cả thị trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Những thành tựu đó là: tăng tổng mức lưu chuyển hàng hóa, các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng theo hương đa phương hóa, đa dạng hóa... Những thành tựu đó góp phần vào sự phát triển của thương mại nước ta, tạo thế và lực để thương mại nước ta bước vào thế kỷ 21. Tuy nhiên phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong những năm qua còn có một số hạn chế cần khắc phục như: khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn thấp, các doanh nghiệp thương mại chưa làm tốt hướng dẫn tiêu dùng và tổ chức thông tin thị trường để định hướng cho sản xuất, thị trường nước ngoài mới phát triển được bề rộng, chưa phát triển được bề sâu, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại gia tăng, khung pháp lý chưa phù hợp... Để phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới với mục tiêu thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại, tăng mức hưởng thụ của người dân... thì cần phải thực hiện những biện pháp như nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển các trung tâm thương mại... Nếu thực hiện tốt các biện pháp đó thì sẽ hạn chế, khắc phục được những mặt còn tồn tại, thúc đẩy sự phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế thương mại - PGS.TS Đặng Đình Đào - NXB Thống kê năm 2001. 2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS.TS Hoàng Minh Đường - NXB Giáo dục năm 1998. 3. Kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - NXB Thống kê. 4. Luật thương mại - NXB Chính trị quốc gia năm 1997. 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. 6. Niên giám thống kê 2000 - NXB Thống kê. 7. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 51 tháng 9/2001. 8. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 52 tháng 10/2001. 9. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 57 năm 2002. 10. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 1/2000. 11. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 2 (70) 2001. 12. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 5 (73) 2001. 13. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 42 tháng 6/2001. 14. Tạp chí Thương mại số 11 năm 2001. 15. Tạp chí Thương mại số 17 năm 2001. 16. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 126/2000. 17. Tạp chí thị trường giá cả số 10 năm 2000. 18. Tạp chí Thương nghiệp - thị trường số tháng 5/2002. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8310.doc
Tài liệu liên quan