đặt vấn đề
Trong những năm qua nền nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, một đất nước với gần 70% dân số sống trong khu vực nông thôn và thu nhập từ nông nghiệp chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của các hộ nông dân,trong khi đó sự chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Điều đó chứng tỏ nông nghiệp, nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn. Để giải quyết được vấn đề đóthì một trong những biện pháp mang tính cấp thiết và thực tiễn nhất là chu
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng.
Thanh trì là huyện ngoại thành Hà Nội, diện tích tự nhiên khoảng 102,71 Km2 , là vùng đồng bằng trũng do phù sa của sông Hồng bồi đắp, hàng năm diện tích gieo trồng của huyện đạt gàan 8000 ha cho nhiều loại cây trồng như lương thực, rau quả… Hơn nữa Huyện có vị trí địa lí rất thuận lợi cho việc trao đổi hành hoá. Tuy vậy sản xuất nông nghiệp còn những hạn chế, chưa phát huy tốt các tiềm năng vốn có của Huyện, do chưa xác định được một hệ thống cây trồng hợp lí , có hiệu quả kinh tế coa. Vấn đề đặt ra cho sản xuất nông nghiệp của huyện cho những năm tới lànghiên cứu chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên nguyên tắc đáp ứng nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, chú trọng phát triển những loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao như cây ăn quả, rau có chất lượng cao phục vụ cho tiêu dùng đô thị … nhằm nâng cao thu nhập, góp phần ổn định và cải thiện đời sống nông thôn.
Xuất phát từ yêu cầu đó em chọn nghiên cứu đề tài: “Những biện pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội”. Đề tài được nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá thực trạng cơ cấu cây trồng và thu nhập của nông dân trên địa bàn huyện Thanh Trì, đồng thời xác định và áp dụng cơ cấu cây trồng phù hợp nhằm tăng thu nhập cho người nông dân trên cơ sở tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích.
Kết cấu của đề tài bao gồm:
Chương I: Cơ sở lí luận chung về cơ cấu cây Thanh Trìồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội
Chương III: Phương hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Kết luận và kiến nghị.
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáohướng dẫn TS.trần quốc khánh, cơ quan thực tạp huyện thanh trì ,trung tâm tư liệu thông tin thư viện đại học kinh tế quốc dân .Em xin chân thành cảm ơn
Vì thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót .em rất mong được sự chỉ bảo bổ sung để đề tài của em được hoàn thiện hơn
Chương I: cơ sở lí luận chung về cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
I . khái niệm, đặc trung của cơ cấu cây trồng.
1 . Khái niệm cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
1.1. Cơ cấu cây trồng.
Cơ cấu của một tổng thểlà cấu trúc bên trong của tổng thể đó với các bộ phận hợp thành và mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng.
Mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành đó thể hiện vai trò, vị trí của từng bộ phận. Mỗi một cơ cấu cụ thể của sự vật hiện tượng chỉ phù hợp trong một giai đoạn nhất định, khi những yêu cầu khách quan thay đổithì cơ cấu cũng thay đổi cho phù hợp với những yêu cầu khachs quan đó.
Cơ cấu cây trồng là một phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và quản lí sản xuất nông nghiệp đồng thời cơ cấu cây trồng cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng của chiến lược nông sản phẩm hàng hoá. Cũng có thể quan niệm cơ cấu cây trồng trên cơ sở của khái niệm cơ cấu kinh tế: là tổng thể các mối quan hệgắn bó hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế trong nông thôn,một bộ phận hộp thành không thể thiếu được của nền kinh tế. Cơ cấu cây trồng còn là một bộ phận chủ yếu của cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên của vùng phù hợp với những loại cây trồng gì mà do đó cơ cấu cây trồng hình thành từ những loại cây trồng đó, cơ cấu cây trồng có thể được hình thành từ nhiều nhóm, chẳng hạn nhóm cây lương thực gồm có lúa, ngô, khoai, sắn; nhóm cây công nghiệp gồm cây gắn ngày như lạc, mía, đậu tương… và cây dài ngày như chè, cà fê, cao su…
Như vậy có thể khái niệm cơ cấu cây trồng một cách cụ thể hơn là thành phần và các loại cây trồng bố trí theo không gian và thời gian trong một cơ sở hay một vùng sản xuất nông nghiệp . cơ cấu cây trồng là một nội dung trong hệ thống các biện pháp kĩ thuật gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác bao gồm chế độ luân canh, làm đất, bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản của chế độ canh tác vì chính nó quyết định nội dung của các biện pháp kĩ thuật khác.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Chuyển dịch cơ cấu khi xem xét trong một tổng thể nhất định là sự phát triển về cơ cấu các bộ phận hợp thành tổng thể đó trong một khoảng thời gian nhất định ; quá trình phát triển về cơ cấu đó bao gồn sự thay đổi những mối quan hệ giữa các bộ phận với nhau trong quá trình phát triển của tổng thể. Như vậy chuyển dịch cơ cấu cây trồng là qúa trình phát triển hay qúa trình thay đổi về thành phần và các loại cây trồng trong một cơ sở hay một vùng nhất định .
Sự phát triển của cơ cấu cây trồng tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó đã xác lập những tỷ lệ theo mối quan hệ nhất định.
Nói cách khác chuyển dịch cơ cấu cây trồng mang tính khách quan thông qua nhận thức chủ quan của con người; đó là sự chuyển dịch phù hợp với sự thay đổi nhu cầu thị trường trên cơ sở khai thác những tiềm năng, thế mạnh của vùng.
Một số khái niệm hình thành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu là: Điều chỉnh cơ cấu là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt, một số yếu tố của cơ cấu làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kì, không toạ ra sự thay đổi đột biến, tức thời. Cải tổ cơ cấu là qúa trình chuyển dịchmang tính thay đổi về mặt chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến.
Cuộc cách mạng xanh diễn ra ở một số nướcnhiệt đới trong những năm gần đây, khi đưa những giống lúa ngắn ngày, năng suet cao vào cơ cấu cây trồng đã làm cho sản lượng lương thực tăng lên và tăng vụ đối với cây thức ăn gia súc, rau và cây công nghiệp ngắn ngày. Như vậy cơ cấu cây trồng là một vấn đề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nước ta đang phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trong qúa trình công nghiệp hoá - hiện đại hoáđất nước, vì vậy cần có sự chuyển dịch của cơ cấu cây trồng ở nhiều vùng để đáp ứng yêu cầu của phương hướng sản xuất mới cũng như của cơ chế thị trường .
2. Đặc trưng của cơ cấu cây trồng.
cơ cấu cây trồng mang tính hợp lí khách quan, hình thành do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Cơ cấu cây trồng và xu hướng biến đổi của nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên , kinh tế, xã hội nhất định chứ không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên cùng với qúa trình phát triển kinh tế, xã hội; và qúa trình nhận thức của con người mà con người có thể tác động vào cơ cấu cây trồng làm cho nó chuyển dịch phù hợp với những điều kiện khách quan và nhu cầu phát triển của chính bản thân con người.
cơ cấu cây trồng mang tính lịch sử và xã hội nhất định. Qúa trình sản xuất cụ thể sẽ khác nhau giữa các vùng do chúng có điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử và xã hội khác nhau. Vì vậy không có một cơ cấu cây trồng mẫu mã nào chung cho mọi vùng sản xuất mà nó chỉ có ý nghĩa kế thừa và chọn lọc để phù hợp với các điều kiện nhất định trong mọi giai đoạn nhất định. Cơ cấu cây trồng luân biến đổi theo xu hướng ngày càng hoàn thiện. Nó luân vận động và phát triển thông qua sự chuyển hoá từ cũ sang mới, từ đơn điệu đến đa dạng, từ hiệu quả thấp đến hiệu quả cao do yêu cầu của sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
- qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra nhanh hay chậm. Tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nhận thức của người lãnh đạo và quản lí sản xuất.
- cơ cấu cây trồng sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao khi nó gắn liền với với một ngành công nghiệp, thương nghiệp phát triển. Thương nghiệp phát triển giúp cho cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng luôn thông suốt. Nghĩa là quá trình tiêu thụ sản phẩm nhanh và thuận lợi. Còn một ngành công nghiệp chế biến sẽ góp phần tăng giá trị sản phẩn nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho người nông dân , đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao càng đa dạngcủa xã hội. Điều đó đặt ra yêu câu Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hợp lí đối với mỗi cơ cấu cây trồng hay mỗi vùng sản xuất nông nghiệp nhất định.
3. ý nghĩa của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lí.
Cơ cấu cây trồng hợp lí là cơ cấu cây trồng mà trước hết phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng; hơn nữa,nó phải đáp ứng đúng nhu cầu về lương thực, thực phẩmcủa thị trường ; đồng thời nó phù hợp với quan điển tiên tiến về phát triển một nền nông nghiệp toàn diện trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của cả đất nước.
Nông nghiệp Việt Nam đã phát triển đến giai đoạn mà nó không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn phục vụ xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng hướng tới một hệ thống sản xuất đa dạng. Tuy nhiên sự đa dạng hoá đó không thuồn tuý là tăng chủng loại sản phẩm nông nghiệp ở cấp nông trại mà nó phải hướng tới thị trường , tăng thu nhập.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí có ý nghĩa cơ bản và quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền nông nghiệp từ độc canh cây lương thực sang nền nông nghiệp đa dạng có nhiều nông sản hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, làm cơ sở vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. cơ cấu cây trồng còn là căn cứ để xây dung các kế hoạch đầu tư vốn , sử dụng lao động và các loại tư liệu sản xuất trong nông nghiệp cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật một cách có hiệu quả và chủ động.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí góp phần giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong nông thôn, llld dồi dào ở nông thôn và không thể thu hút hết vào những hoạt động sản xuất trong một thời gian ngắn. Do đó, đây là một qúa trình rất khó khăn đối với dân cư nông thôn và có thể dẫn đến những xáo trộn về xã hội nếu như không tạo ra nhiều công ăn việc làm hoặc những loại hình công việc khác ngoài sản xuất lúa. Tạo ra khả năng luân canh, tăng vụ và hướng tới thị trường nên chuyển dịch cơ cấu cây trồng có khả năng tạo ra nhiều việc làm hơn cho dân cư nông thôn, giảm thời gian nhàn rỗi trong qúa trình sản xuất nông nghiệp. Từ đó nó tạo ra khả năng giảm sức ép về dân số và lao động đối với thành thị.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí theo hướng đa dạng hoácơ cấu cây trồng sẽ tạo điều kiện cho người sản xuất giảm được rủi ro xuáat phát từ nền kinh tế mở với cơn sốc về giá cả sự thay đổi quá nhanh về cầu..
Ngoài ra, xác định cây trồng hợp lí với việc luân canh cây trồng , trồng xen hay gối vụ tạo khả năng giảm phân đạm cần thiết; nông dân có thế sử dụng những nguồn phân hữu cơ, phân xanh từ những phụ phẩm từ nông nghiệp để cải thiện độ phì và chất hữu cơ trong đất.
Với quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp thì việc xác định một cơ cấu cây trồng hợp lí đạt hiệu quả cao là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi thành phần kinh tế sủ dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở nước ta hiện nay vừa là nội dung trọng tâm của chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vừa là biện pháp để phát triển nông nghiệp toàn diện và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đất đai. Từ việc nghiên cứu cơ cấu cây trồng đặt ra cho các nhà lí luận cũng như các nhà quản lý những nhiệm vụ mới có ý nghĩa chiến lược trong bố trí sản xuất trồng trọt, đó là xác định cơ cấu cây trồng trước mắt và trong tương lai phục vụ cho chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta trong qúa trình xây dựng nền kinh tế đất nước theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
II . những nhân tố ảnh hưởng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
1. Những nhân tố ảnh hưởng.
1.1. nhóm nhân tố thuộc về điếu kiện tự nhiên.
Nhóm nhân tố này bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lí của các vùng lãnh thổ, điều kiện đất đai các vùng, điều kiện khí hậu các vùng, các nguồn tài nguyên khác của vùng, các nguồn tài nguyên khác của các vùng như nước, rừng, biển, khoáng sản…
Các nhân tố tác động trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu cây trồng; sự tác động và ảnh hưởng của acá điều kiện tự nhiên tới mỗi loại cây trồng không giống nhau. Chính từ sự không giống nhau đó làm cho số lượng và quy mô của các loại cây trồng khác nhau. Điều này thể hiện rõ nẻttong sự phân biệt về cơ cấu cây trồng giữa các vùng trong cả nước đặc biệt là giữa đồng bằng và miền núi hay là ngay bản thân cùng mmột lãnh thổ. Do đó phải dựa vào cơ sở của các phương án phân vùng quy hoạch nông nghiệp, nhất là việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, hình thành các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá có hiệu quảkinh tế cao. Cần phải nhận thức rằng không thể dựa vào quan niệm sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán, manh mún dể bố trí cây trồng một cách dàn trải, bất hợp lí mà phải dựa vào khai thác lợi thế từng vùng, từng địa phươngđể bố trí cơ cấucay trồng hợp lí, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
- Vị trí địa lí của vùng lãnh thổ và cơ cấu cây trồng.
Vị trí địa lí của vùng lãnh thổ là nơi chốn của vùng lãnh thổ đó trong mối quan hệ với các vùng lãnh thổ khác. Mỗi vùng lãnh thổ thích hợp với một số loại cây trồng nhất định và vị trí địa lí của vùng lãnh thổ cùng với một số yếu tố thuộc về kinh tế, xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng qua qúa trình xác định và chuyển dịch cơ cấu cây trồng sao cho phù hợp với mối quan hệ giữa vùng lãnh thổ đóvới các vùng lãnh thổ khác đặc biệt là giữa các vùng lãnh thổ lân cận.
Xác định cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng của một vùng lãnh thổ phải dựa trên những thế mạnh của vùng đồng thời phù hợp với quan điểm về chuyên môn hoá và đa dạng hoasx nông nghiệp của cả nước. Vị trí địa lí là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thế mạnh của vùng thông qua mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ về cơ sở hạ tầng, thị trường…
- Khí hậu và cơ cấu cây trồng.
Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của việc xác định cơ cấu cây trồng. Đối với việc bố trí cơ cấu cây trồng hàng năm thì việc quan trọng phải xem xét là có thể trồng được mấy vụ trong một năm. Điều này phụ thuộc vào nhu cầu nhiệt lượng của cây trồng và tổng nhiệt lượng hàng năm của vùng đó. Các cây trồng hàng năm ở sứ nóng có thời gian sinh trưởng khoảng từ 90 đến 150 ngày, tuỳ thuộc nhiệt độ trung bình ngày để cây có trể tích luỹ được một tổng nhiệt lượng cần thiết- được gọi là tổng tích ôn, khoảng từ 2500 – 2600oc. Nừu một vùng nào đó có tổng nhiệt độ khoảng 9000oc/năm thì có thể gieo trồng được 3 vụ/năm.
- Đất đai và cơ cấu cây trồng.
Đất là nguồn cung cấp nước và dinh dưỡng chủ yếu cho cây.Đất và khí hậu tạo thành một hệ thống tác động vào cây trồng. Do đó cần phải lắm được mồi quan hệ giữa cây trồng và các đặc điểm của đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng.
Tuỳ thuộc vào địa hình, chế độ nước của đất, thành phần cơ giới đất, độ chua, phèn, mặn của đất cũng như một số đặc điểm lý, hoá tính khác của đất để bố trí các loại cây trồng phù hợp.
Hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất chủ yếu quyết định đến năng suất cây trồng hơn là quyết định tính thích ứng của cây trồng. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất có thể khắc phục bằng cách bón phân thêm. thông thường các loại đất tốt sẽ trồng loại cây mà có độ phản ứng mạnh với độ phì của đất và có giá trị kinh tế cao. Do nắm được đặc điểm lí, hoá tình của đất, nên con người có thể tác động cải toạ đất dần dần phù hợp với cây trồng hơn.
- Cây trồng và cơ cấu cây trồng.
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ sinh tái nông nghiệp, cụ thể hơn là của hệ sinh thái đồng ruộng.nội dung của việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lí là chọn những loại cây trồng nào để`lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu đất đai cũng như các nguồn tài lực, vật lực khác của vùng. Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi, thì đối với cây trồng thì con người có thể thay đổi, lựa chọn, di chuyển chúng từ nơi này đến nơi khác. Với trình độ phát triển của nền sinh học hiện đại con người còn có khả năng thay đổi bản chất bên trong của chúng theo hướng mà mình mong muốn bằng các biện pháp như: lai tạo, chọn lọc, gây đột biến gen…
- Các nhân tố sinh vật và cơ cấu cây trồng.
Xây dung cơ cấu cây trồng là xây dung một hệ thống sinh thái trong nông nghiệp. Như vậy ngoài thành phần chính là các cây trồng, hệ sinh thái này còn có các thành phần sống khác như cỏ dại, động vật, vi sinh vật… các thành phần sống này cùng với cây trồng tạo nên quần thể sinh vật, chúng chi phối lẫn nhau tạo nên các mối tác động qua lại rất phức tạp. Vấn đề là phải tạo dựng và duy trì mối cân bằng sinh học trong hệ sinh thái theo hướng hạn chế mặt có hại, phát huy các mặt có lợi đối với lợi ích của con người. Khi bố trí cơ cấu cây trồng cần chú ý đến các mối quan hệ giữa các thành phần sinh vật trong hệ sinh thái nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: lợi dụng tốt nhất mối quan hệ giữa các sinh vật khác với cây trồng mà có lợi cho con người nhưng không nên lợi dụng thái quá.
Khắc phục, phòng tránh, hạn chế các mối quan hệ gây tác hại đối với cây trồng cũng như đối với các lợi ích của con người. Các mối quan hệ giữa cây trồng và vi sinh vật trong hệ sinh thái được biểu hiện qua các mối quan hệ như: Cạnh tranh cộng sinh, kí sinh và ăn nhau, theo nguyen tắc hình tháp số lượng trong mạng lưới thức ăn. Vì vậy khi xác địnhccct cần chú ý đến các mặt sau:
+ Xác định thành phần, tỷ lệ và giống cây trồng thích hợp với điều kiệncụ thể của đôn vị sản xuất.
+ Bố trí cây trồng theo thời vụ tốt, tránh độc canh, tỷ lệ các giống và giống chống chịu sâu bệnh hợp lí sẽ đảm bảo được năng suất, sản lượng cây trồng, dồng thời hạn chế được tác hại của cỏ dại, sâu bệnh, thời tiết khắc nghiệt.
+ Trồng xen nhiều loại cây trồng trong cùng một ruộng một cách hợp lí có thể làm giảm được sự gây tác hại của cỏ dại, sâu bệnh, đồng thời làm tăng được năng suất đất đai ví dụ như trồng cây họ đậu, cây phân xanh xen với cây mầu lương thực.
Tóm lại các nhân tố thuộn về điều kiện tự nhiên của một vùng lãnh thổ tác động một cách đồng thời tới tất cả các loại cây trồng đã đặt ra yêu cầukhách quan cho việc lựa chọn các loại cây trồng và việc bố trí cơ cấu cây trồng một cách hợp lí theo mùa vụ, chế độ luân canh, xen canh, gối vụ.
Trong đó đất đai là nhân tố quan trọng trong qúa trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng như đa dạng hoánông nghiệp. Địa hình đất đai( thể hiện ở độ cao thấp của từng vùng, từng chân ruộng) gắn liền với những điều kiện tưới tiê luôn là điều kiện quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng . Độ phì của đất là chỉ tiêu quan trọng trong việc bố trí cây trồng cũng như công thức luân canh cụ thể để sử dụng đầy đủ và hợp lí hàm lương dinh dưỡng của từng loại đất, tránh tình trạng huỷ hoại đất đai và môi trường nhằm tăng hiệu quả chung của toàn bộ hệ thống. Các nhân tố khác như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, hạn hán, lũ lụt… thường chi phối đến năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế của hệ thống canh tác.
1.2. Nhóm nhân tố kinh tế – xã hội.
Nhóm này bao gồmcác nhân tố như: thị trường( trong nước và ngoài nước), vốn, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, cơ sở hạ tầng, kinh nghiêm, tập quán, truyền thống sản xuất của dân cư, dân số và lao động … Nhóm nhân tố này luôn có tác động mạnh mẽ tới sụ hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu cây trồng nói riên.
Nhân tố thị trường có ảnh hưởng tới quyết định tới sự phát triển kinh tế nói chung và sự hình thành biến đổi cơ cấu kinh tế, bởi vì nó chỉ tồn tại và vận động thông qua hoạt động của con người . Những người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem bảna thị trường, trao đổi những sản phẩm mà họ cảm they chúng đem lại lợi ích thoả đáng, như vậy thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả, hàng hoá, thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường, do đó chính từ thị trường mà người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường những loại sản phẩm hay hàng hoá, dịch vụ gì? với quy mô như thế nào? thông qua đó phản ánh cơ cấu kinh tế từng vùng, từng địa phương. Tuy nhiên do mức độ tiếp cận thông tin khác nhau và khả năng xử lí cũng khác nhau, điề kiện sản xuất lại chi phối dẫn đến lượng người tham gia vào việc tạo ra và tiêu thụ sản phẩm cũng không giống nhau.
Cơ cấu cây trồng về cơ bản phản ánh yeu cầu của sản xuất hàng hoá và thị trường, tuân theo sự phân công lao động xã hội, tính chất chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất. Nhu cầu sản xuất hàng hoá và thị trường là diều kiện quyết định sự biến đổi về chất của cơ cấu cây trồng. Suy cho cùng thì nhu cầu về nông sản và môi sinh của xã hội cành cao thì càng thúc đẩy cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Từ các đặc điểm đó đòi hỏi khi xác định cơ cấu cây trồng thì cần dựa vào nhu cầu thị trường nông sản, điều kiện tự nhiên, kinh tế –xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, sự phân công quy hoạch nông nghiệp và phương hướng phát triển nông nghiệp trong từng thời kì. Vốn cho sản xuất giữ vai trò quyết định cho chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nhất là đối vowis những hệ thống sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao và mang tính thay đổi về chất như nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm.
Chính sách kinh tế cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm hãm qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Nhờ chính sách đổi mới trong những năm 90 của Nhà nước thông qua việc giao đất lâu dài cho hộ nông dân nên ngưới sản xuất ở một số vùng đã mạnh dạn chuyển đổi hệ thống cây trồng, thay đổi phương thức canh tác đã thu được lợi ích lớn. Tuy nhiên có những chính sách nhiều khi chưa tạo môi trường thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng như chính sách an toàn lương thực, chính sách đất đai( ruộng đất chia manh mún).
1.3. Nhóm các nhân tố về tổ chác kĩ thuật.
Nhóm nhân tố này bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất, sự phát triển của khoa học kĩ thuật và việc ứng dụnh tiến bộkhoa học kĩ thuật vào sản xuất.
Việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương thức sản xuất nhằm khai thác, sử dụng hợp lí, hiệu quả hơn các nhuồn lực xã hội vào tronh ngành trồng trọt.
Trong lĩnh vực trồng trọt việc xác định cơ cấu cây trồng trước hết phải tìm hiểu nhu cầu của thị trường cả trong và ngoài nước về số lương, chất lương, chủng loại, giá cả. Trên cơ sở đó mà có sự bố trí, sắp xếp hợp lí đáp ứng nhu cầu thị trường thúc đẩy nhanh tái sản xuất mở rộng.
1.4. Nhân tố về tổ chức quản lí.
Mặc dù người sản xuất có tính độc lập và tự chutrong việ sản xuất nông nghiệp của mình nhưng để đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn thì người sản xuất phải có sự hợp tác trong qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từng hộ riêng lẻ không thể chuyển dịch cơ cấu cây trồng có hiẹu quả vì sản xuất nông nghiệp có đặc điểm riêng gắn lion với ddất đai, sinh vật, hệ thống tưới tiêu, bảo vệ thực vật và ruộng đồng… Điều này đòi hỏi việc chuyển đổi cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm phải gắn lion với qúa trình mở rộng các mối quan hệ hợp tác liên kết, liên doanh, đồn đồng đổi thửa…
2. Những yêu cầu đặt ra và xu hướng có tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
2.1. Những yêu cầu.
- Đáp ứng được việc tổ chức các vùng sản xuất chuyên canh có tỷ suất hàng hoá cao.
- Đảm bảo cho việc tổ chức các yếu tố đầu vào hợp lí phát triển sản xuất đa dạng và kết hợp chặt chẽ giữa trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản và chế biến.
Trong qúa trình tái sản xuất bao gồm cả khâu sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, phân phối. Cơ cấu cây trồng không thể dừng lại ở một khâu nào đó mà nó là một qúa trình liên tục, chi phối trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau theo hướng hoàn thiện trong từng hoàn cảnh cụ thể.
2.2. Xu hướng.
Xu hướng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Đây là xu hướng vận động, phát triển tất yếu của nền nông nghiệp nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng. Nền nông nghiệp phát triển có quan hệ chặt chẽ với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhờ có công nghiệp hoá cho phép sản xuất nông nghiệp được thực hiện theo phương pháp sản xuất và quản lí kiểu công nghiệp, nhờ có hiện đại hoá nông nghiệp mà vùng nông thôn có thể tiến kịp thành thị, sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao.
Phát triển sản xuất hàng hoá tạo nên sự năng động trong sản xuất kinh doanh, đặt ra yêu cầu cải tiến nhanh về kĩ thuật, công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
Phát triển sản xuất hàng hoá làm cho sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu sắc, chuyên môn hoá, hợp tác hoá, mối quan hệ giữa các vùng, các ngành ngày càng chặt chẽ hơn và kết quả là đẩy mạnh được qúa trình xã hội hoá sản xuất và lao động.
Sản xuất hàng hoá có quy mô lớn, có ưu thế về trình độ kĩ thuật và khả năng thoả mãn sức mua của xã hội. Xu hướng phát triển cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá phản ánh quy luật cung cầu trong xã hội, có thể they rõ trên các khía cạnh:
+ Nhu cầu ngày càng tăng về số lượng, chất lượng của sản phẩm từ cây lương thực, cây thực phẩm và nhiều loại cây trồng khác.
+ Thị trường cung cầu của sản xuất trồng trọt ngày càng mang tính xã hội hoá và quốc tế hoá.
+ Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có quan hệ tương tác với nông nghiệp và ngày càng thêm chặt chẽ. - Xu hướng phát triển nền nông nghiệp ổn định, bền vững.
Xây dung một nền nông nghiệp bền vững là xu hướng tất yếu của tiến trình phát triển. Nội dung của nền nông nghiệp bền vững là:
+ Một nền nông nghiệp phát triển, bồi dưỡng và sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nông nghiệp đặc biệt là đất đai và nguồn nước.
+ Một nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao, biết kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng các kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học với kinh nghiệm truyền thống sản xuất của người nông dân để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt cung cấp cho xã hội.
+ Một nền nông nghiệp sạch, biết hạn chế một cách tối đa việc sử dụng các hoá chất độc hạicho môi sinh, môi trường và sức khoẻ công nghiệp. Kết hợp hài hoà giữa việc phát triển sản xuất với bảo vệ và tôn tạo môi trường.
+ Một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng và vật nuôi hợp lí, phù hợp với đặc điểm và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng.
- Xu hướng phát triển sản xuất gắn với công nghiệp chế biến.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp ngày càng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao. Hơn nữa để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp trong thị trường nói chung và trong xuất khẩu nói riêng thì càng đặt ra yêu cầu các sản phẩm nông nghiệp phải qua chế biến. Công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp cũng là một khâu then chốt trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vì nó là một trong những nhân tố quyết định tăng thu nhập cho người nông dân, thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, và trang bị công nghệ, vật tư thiết bị tiên tiến cho sản xuất nông nghiệp để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, năng suất cao, sản xuất nông sản hàng hoá.
Như vậy xác định và chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến như là một mục tiêu chiến lược trong sản xuất nông nghiệp nói chung.
III. các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng.
1. Các vấn đề kinh tế của cơ cấu cây trồng.
Cơ cấu cây trồng mới phải đạt giá trị kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng cũ do yêu cầu của sự phát triển. Tuy nhiên giá trị sản xuất có thể tăng lên nwus tăng vụ, vấn đề tăng vụ lại chỉ có thể giải quyết được trong một phạm vi nhất định và chịu sự chi phối khá lớn của điều kiện đất đai, thồi tiết, khí hậu… về mặt kinh tế cơ cấu cây trồng cần thoả mãn yêu cầu sau:
+ Đảm bảo yêu cầu chuyên canh, thâm canh và tỷ trọng hàng hoá cao.
+ Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng tốt các nguồn lợi tự nhiên và xã hội.
+ Đảm bảo giá trị sử dụng và gí trị cao hơn cơ cấu cây trồng cũ.
2. Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo thực hiện có kết quả cao nhất những nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất định với chi phí nhỏ nhất.
Về mặt lượng hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao, chi phí bỏ ra càng nhỏ, hiệu quả thu được càng lớn.
Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lí, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được mục tiêu xã hội.
3. Khái niệm hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Hiệu quả cơ cấu cây trồng là kết quả so sánh giữa các chỉ tiêu kết quả và chi tiêu hao phí, hoặc là thước đo trình độ tổ chức sản xuất và mức độ thực hiện các nhiện vụ cụ thể của hoạt độnh sản xuất trồng trọt.
Khi đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số chỉ tiêu như: năng suất, tổng sản lượng, tổng giá trị, giá thành, thu nhập và mức lãi của các sản phẩm sản xuất ra. Tuy nhiên việc đánh giá này là rất phức tạp và cần có nhiều thời gian.
Đồng thời khi đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng cũng cần chú ý đến các điều kiện ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm như khí hậu, thời tiết, vị trí địa lí và các điều kiện xã hội khác như giá nhân công lao động, giá các loại dịch vụ, nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng.
Đối với qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế phải được tính toán một cách thích hợp. Vì nói đến cơ cấu cây trồng là nói đến việc bố trí các loại cây trồng trên từng laọi đất cụ thể. Mỗi loại cây trồng đều ứng với một diện tích gieo trồng nhất định, quy mô và cơ cấu diện tích gieo trồng nhiều khi quyết định quy mô, số lượng và cơ cấu sản phẩm của ngành trồng trọt. Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng là phải đảm bảo được giá trị mục tiêu quan trọng là thu nhập và lợi nhuận của cơ cấu cây trồng mới tất yếu phải lớn hơn thu nhập và lợi ._.nhuận của cơ cấu cây trồng cũ.
4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
Hiệu quả đầu tư vốn, hiệu quả đầu tư chi phí vật chất biểu hiện kết quả thu được của hoạt động sản xuất kinh doanh tương ứng với mức chi phí đã bỏ ra.
Năng suất đất đai là số lần gieo trồng được trên một đơn vị diện tích đất trong một năm, hệ sốgieo trồng càng lớn biểu hiện năng suất đất đai đạt cao .
Năng suất cây trồng chính là sản lượng mà loại cây trồng đem lại tính trên một đơn vị diện tích gieo trông .
Năng suất lao động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Năng suất lao động phản ánh lượng sản phẩm mà mỗi người lao động tạo ra trong một đơn vị thời gian.
Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ do lao động nông nghiệp s áng tạo ra trong một thời kì nhất định thường là một năm.
IV – kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
3.1 kinh nghiệm ngoài nước
-kinh nghiệm của nước nga
ở nga các nhà sinh thái học học nghiên cứu nhiều mô hình cơ cấu cây trồng áp dụng cho nhiều vùng như vùng bông TASKEN với mô hình có chu kỳ 5:1( 5 năm trồng bông ,một năm trồng cây khác )
Việc nghiên cứu hệ thống canh tác được tiến hành theo nhiều hướng với nhiều nội dung khác nhau một trong những nội dung đó là vấn đề tăng vụ tăng vụ là chiến lược trung tâm để tăng sản xuất lương thực tạo thêm công ăn việc làm tăng thu nhập .ở một số nước phải đối phó với tình trạng thiếu đất thừa lao động đặc là các nước Châu á trong đó có việt nam
-kinh nghiệm của indonexia
kinh nghiệm của nước này áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp như kết hợp trồng trọt ,chăn nuôi gia súc và cá ,đưa các giống cây trồng có năng xuất cao khả năng trống chịu tốt với sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh không thuận đồng thời đa dạng hoá cây trồng thích hợp trên các loại đất điều này đã mang lại những kết quả trước năm 1975có 64%đất bỏ hoang hoá sau một vụ lúa và chỉ có 32% diện tích là hai vụ đến năm 1984 chỉ còn 27% diện tích là một vụ lúa 69%diện tích đã làm hai vụ hoặc ba vụ
-Kinh nghiệm của trung quốc
Trung quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta trên bước đường chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Kinh nghiệm thực tiễn của trung quốc trong quá trình tổ chức chỉ đạo phát triển nông nghiệp , trước hết phải coi trọng sản xuất lương thực
Quan điểm xuyên suốt của trung quốclà coi nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân trong đó coi sản xuất lương thực là cơ sở của nông nghiệp .trong suốt quá trình cơ cấu sản suất nông nghiệp ,trung quốc luôn đặt lương thực lên vị trí hàng đầu và tập trung mọi mặt để đảm bảo cho sản suất lương thực được mở mang phát triển nông nghiệp nhiều ngành nghề.đây là điểm cơ bản trong chính sách đối với sản xuất nông nghiệp mà trung quốc đã kiên trì trong thời gian dài.trung quốc chủ trương thi hành những biện pháp chủ yếu sau :
-ổn định diện tích gieo trồng cây lương thực
-Nâng cao sản lượng trên đơn vị diện tích bằng con đường thâm canh, xây dựng các vùng lương thực hàng hoá trọng điểm ,Nhà nước thi hành chính sách nângđỡ các vùng trọng điểm sản suất lương thực trọng điểm hàng hoá ,đặt ra các chính sách ưu đãi để giải quyết tốt các vấn đề cơ chế đầu tư thực hiện các giải pháp gán đầu tư với khối lượng thực hiện hàng hoá
-Điều chỉnh hợp lí lợi ích giữa các khu vực sản xuất chủ yếu và khu vực nhận được lương thực từ nơi khác đến Đối với các vùng sản suất lương thực chủ yếu ,trung quốc chủ trương thi hành các biện pháp bảo đảm lợi ích cho họ. Mọi vùng ,mọi địa phương căn cứ vào điều kiện của mình sau khi bảo đảm lương thực mà có sự điều chỉnh cơ câú hợp lí.
Tóm lại nhờ có chiến lược cũng như chính sách đúng trong việc tiếp tục điều chỉnh cơ cấu mà ngày nay trung quốc đã có nhiều thành tựu về phát triển nong nghiệp toàn diện đã trở thành hiện thực
-Kinh nghiệm của thái lan
Nét nổi bật nhất của nông nghiệp thái lan trong những năm gần đây là tốc đọ tăng trưởng nhanh găns liền với đa dạng hoá . đó là nhân tố quan trọng nhất
Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Đa dạng hoá nông nghiệp được tiến hành theo hai hướng chủ yếu sau :
-Tăng diện tích trồng trọt và các loại cây trồng mới ,ngoài lúa gạo . Lúc đầu quá trình này diễn ra tự phát ,từ những năm 1980 nhà nước có chính sách điều tiết
-Phát triển các hoạt động sản suất ngoài trồng trọt như chăn nuôi ,đánh bắt cá.
Khắc phục tình trạng giảm thu nhập do sự giảm giá của một số mặt hàng truyền thống về lâm sản trên thị trường quốc tế.
Bài học kinh nghiệm :
-Thực hiện các chính sách kích thích kinh tế đối vơéi người sản suất để thực hiện đa dạng hoá -Chính phủtài trợ cacvs nguồn đồu vào ,các chính sách khác để khuyến khích nông dân
-Đa dạng hoá gán liền với phát triển thị trường trong nước và thị trường xuất khẩucho các nông sản mới
3.2 Kinh nghiệm trong nước
đối với nước ta việc cải thiện để hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý nên hướng vào đa dạng hoá trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất phù hợp với thế mạnh thật sự cuả từng vùng sinh thái từng địa phương từng cơ sở xản suất kinh doanh nông nghiệp trước hết là những lợi thế về điều kiện tự nhiên (đất đai ,thời tiết ,khí hậu…)và lao động so với các vùng của đất nước cũng như so với quốc tế
Như ở vùng đồng bằng sông cửu long có ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc phát triển lương thực chủ yếu là lúa gạo để xuất khẩu trong khi đó vùng đồng bằng sông hồng lại có ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc phát triển cây trồng xuất khẩu vụ đông đặc biệt là các loại rau đậu cao cấp còn việc nuôi tôm để xuất khẩu có thể có thể tìm thấy khả năng to lớn này ở các tỉnh duyên hải miền trung ý nghĩa quốc gia và quốc tế đối với vùng trung du và miền núi của cả hai miền đất nước lại hướng vào phát triển xuất khẩu một số cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, cây ăn quả, rừng và những đặc sản của rừng như : cà phê,cao su, hồ tiêu ,chè lạc đậu tương ,cam ,dứa chuối , trầm hương ,mật ong ,một số cây ,dược liệu quý .v.v..
- Chuyển dịch cơ cấu trong bản thân nghành nông nghiệp như ta biết thì nông nghiệp có hai nghành chính trồng trọt và chăn nuôi
+ Trong ngành trồng trọt có các tiểu ngành sản xuất lương thực ,cây công nghiệp cây ăn quả cây rau và hoa ,cây dược liệu cơ cấu của ngành trồng trọt nước ta mấy năm nay gần đây đã có những biến đổi tốt theo hướng tiến bộ : cây công nghiệp ,cây ăn quả cây rau và hoa cây dược liệu đã có sự phát triển khá tuy nhiên so với sản xuất lương thực các ngành này vẫn còn phần hết sức nhỏ bé ngành trồng trọt nước ta về cơ bản vẫn là ngành trồng lương thực các mà trong đó chủ yếu là sản xuất lúa gạo hướng đổi mới là tăng năng xuất cây trồng hoặc tăng vụ trong một năm chúng ta đã đưa vào sản xuất một số giống lúa mới ngắn ngày năng xuất cao đã mở ra một khả năng mới tăng vụ đông làm cho diện tích trồng trọt sản lượng tăng lên đáng kể chính điều này cho phép giải phóng đất đai cho các loại cây trồng khác
Theo giáo sư viện Sỹ Đào Thế Tuấn thì muốn tận dụng lợi thế khí hậu mùa đông ở đồng bằngvà các tỉnh phía bắc nên trồng các cây có nguồn gốc xứ lạnh như khoai tây, cải bắp , xu hào …hoặc chọn các cây xứ nóng ngắn ngày như ngô đậu tương …chịu lạnh để trồng vụ đông .Điều này làm tăng hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng mà nó còn có tác dụng bảo vệ và bồi dưỡng đất
Theo tác giả Phạm Chí Thanh, Trần Đức Viên ,Đào Thế Tuấn cho rằng trong nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác phải được bắt đầu bằng công tác kiểm kê điều kiện tự nhiên và đánh giá được hệ thống canh tác truyền thống từ đó xây dựng được cơ cấu cây trồng hợp lý cho mỗi vùng sinh thái và tiểu vùng
+ Với chăn nuôi có các loại :chăn nuôi đại gia súc ,tiểu ra súc, gia cầm ,nuôi ong ,nuôi các loài đặc sản ,và nuôi thuỷ hải sản .Lâu nay chăn nuôi nước ta mới quan tâm chủ yếu đến : trâu ,bò ,lợn và nuôi theo lối tận dụng .Kinh nghiệm là để đổi mới cơ câú một cách thành công là đổi mới đúng và hợp với xu thế phát triển của nhu cầu với thị trường trong ngành chăn nuôi thì phát triển nhanh đàn bò theo hướng lấy thịt và sữa phát triển mạnh đàn lợn theo hướng lợn nạc và mở rộng chăn nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp Đặc biệt quan tâm thoả đáng đến việc nuôi trồng các loài thuỷ hải sản vì đây là thế mạnh của nước ta .Chỉ có theo hướng ấy chúng ta mới thành công trong quá trình chuyển dịch ngành chăn nuôi
từ những kinh nghiệm trên có một số nhận xét:
Một là: Trong mọi điều kiện cơ cấu ngành nông nghiệp đều vận động theo xu hướng chung .Đó là tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế quốc dân đều giảm tương đối
Hai là :sự áp dụng thành tựu khoa học công nghệ mới trong sản xuất năng xuất cây trồng lương thực tăng lên tới một giới hạn nhất định (tức là đảm bảo được vấn đề lương thực) thì khi đó cơ cấu kinh tế sẽ có bước nhẩy đột biến trong nội bộ cơ cấu ngành Đó là tỷ trọng màu cây công nghiệp tăng sản xuất lâm nghiệp chăn nuôi tăng cơ cấu chăn nuôi các con đặc sản có giá trị kinh tế cao và từ đó mở ra khả năng xuất khẩu
Ba là: sự biến đổi cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp dẫn đến kết quả hình thành các vùng chuyên canh mang đặc trưng của sản xuất hàng hoá hướng tới thị trường là chủ yếu làm cho tỷ trọng nông sản phẩm hàng hoá tăng lên
Bốn là :sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu lao động cơ cấu vốn và cơ cấu vùng lãnh thổ ,cũng như cơ cấu thành phần kinh tế .Đồng thời tác động tới cơ cấu tiểu vùng công nghiệp hình thành nghề phụ nghề thủ công chế biến ,dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp làm cho cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội.
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại thành năm ở phía Nam Thành Phố Hà Nội, trong khoảng toạ độ địa lý từ 20050’ đến 21000’ Vĩ độ Bắc và từ 105045’ đến 105056’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp quận Hai Bà Trưng và Quận Thanh Xuân, phía Đông tiếp giáp với huyện Gia Lâm và tỉnh Hưng Yên qua Sông Hồng,phía Tây giáp tỉnh Hà Tây.
Là cửa ngõ phía nam của thành phố, có các trục đường huyết mạch của cả nước chạy qua như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc nam và trong tương lai sẽ có thêm tuyến đường vanh đai III của thành phố chạy qua, sông Hồng chạy dọc theo ranh giới phía Đông của huyện không chỉ là tuyến đường thuỷ chính quan trọng của Thủ đô Hà Nội,mà của cả các tỉnh trong vùng. Đay là điều kiện rất thuận lợi để huyện trở thành điểm trung chuyển hàng hoá từ thành phố đi các tỉnh, cũng như từ các tỉnh về thành phố.
Về mặt địa hình địa mạo Thanh Trì là vùng đất trũng ven đê ở phía nam thành phố với độ cao trung bình từ 4-4,5m, thấp hơn so với khu vực khác của thành phố. Địa hình dốc nghiêng từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang tây. Toàn bộ lãnh thổ huyện được phân định thành hai vùng chính, vùng bãi ven sông và cùng nằm giữa đê sông Hồng với diện tích khoảng 2000 ha, độ cao trung bình của vùng là từ 8 - 9m, trong đó các khu dân cư cao hơn từ 8 - 9,5m. Các vùng bãi canh tác thấp hơn từ 7 -7,5 m chạy ven đê còn có nhiều đầm hồ trũng là nơi giữ nước khi sông cạn. Do nằm ngoái đê nên vùng này thường bị ngập nước vào mùa lũ.
- Vùng nội đồng gồm toàn bộ phần còn lại của huyện với diện tích khoảng 7830 ha. Độ cao trung bình của vùng 4 - 5m, phía Đông quốc lộ 1A thấp hơn từ 3,5 - 4,5m, còn phía Tây quốc lộ 1A cao hơn từ 5- 5,5m, toàn vùng bị chia cắt bởi các trục giao thông quốc lộ 1A, đường Pháp Vân – Yên Sở, đường 70A và các con sông tiêu nước thải của thành phố như sông Kim Ngưu, sông Sét, sông Lừ, sông Tô Lịch… do đó đã hình thành các ô nhỏ khó thoát nước với nhiều đầm, ruộng trũng hay bị ngập úng hàng năm khi có mưa lớn và nước của các con sông lên cao. Do địa hình thấp, trũng nhất thành phố, nên nước thải của nội thành hầu hết dồn về đây, nếu không được xử lý tốt sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường của huyện nói chung và môi trường đất nói riêng.
Toàn bộ lãnh thổ huyện Thanh Trì nằm trên vùng có nền địa chất công trình thuộc loại trung bình (kém thuận lợi) và xấu (không thuận lợi), vì vậy khi xây dựng cần phải có các biện pháp kỹ thuật cần thiết để loại trừ những ảnh hưởng xấu trong thi công và để tăng tuổi thọ của công trình.
1.2. Khí hậu.
Huyện Thanh Trì nằm trongkhí hậu nhiệtđới gió mùa voí 2 mùa chủ yếu trong năm: Mùa nóng vàmùa lạnh. Các tháng 4,10 được coi như những tháng chuyển tiếp tạo cho Thanh Trì có 4 mùa Xuần, hạ, thu, đông.
Nhiệt độ trung bình năm 23,90C.Nắng trung bình năm 1640 giờ. Bức xạ trung bình 4272 Kcal/m2/tháng. Lượng mưa trung bình năm 1649mm, lượng bốc hơi trung bình năm 938 mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 83%. Trong năm có hai mùa giá chính: Gió mùa Đông nam và gió mùa Đông Bắc. Hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoảng 5-7 cơn bão. Bão mạnh nhất lên tới cấp 9, cấp 10 làm đổ cây cối và gây thiệt hại lớn cho mùa màng. Bão thường trùng với thời kỳ nước sông Hồng lên cao đe doạ không chỉ sản xuất nông nghiệp và cả đời sống của người dân.
Do chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa nen khí hậu ở đây biến động thất thường, ảnh hưởng sâu sắc tới mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp và cả quá trình sinh trưởng của các loại cây trồng. Thanh Trì có mùa đông lạnh và khô nhưng chỉ trong thời gian ngắn đầu mùa đồng, đầumùa xuân nhiệt độ không khí đã ẩm lên, có mưa phùn nên độ ẩm cao phù hợp với các loại cay rau, quả ôn đới phát triển. Nếu đảm bảo được các điều kiện vật tư, kỹ thuật có thể phát triển cây vụ đông rải rộng trên diện tích đất canh tác của huyện.
1.3. Thuỷ văn.
Trên địa bàn huyện có các sông lớn chảy qua như sông Hồng, sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Ngừ, sông Sét, sông Kim Ngưu… Bên cạnh đó còn có một diện tích lớn hồ đầm với các hồ đầm như Yên Sở, Linh Đàm, Định Công, Pháp Vân.
- Chế độ thuỷ văn.
Chế độ thuỷ văn của các sông trong huyện chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của chế độ thuỷ văn sông Hồng và được phân thành 2 mùa khá rõ rệt: Mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 10, và mùa cạn từ tháng 5 năm sau.
- Đặc điểm thuỷ chế của các sông.
+ Sông Hồng: Lưu lượng nước trung bình năm khoảng 1220.109m3 trong đó mùa lũ, lưu lượng nước chiếm tới 72,5%, vào tháng 7 mực nước trung bình là 9,2m, lưu lượng là 5990 m3/s (lúclớn nhất lên tới 22200 m3/s) trong khi đó mực nước trung bình của năm là 5,3m vớilưu lượng 2309 m3/s. Nước lũ của sông Hồng là mộthiểm hoạ đối với người dân, đối với các công trình xây dựng và đặc biệt là đối vớisản xuất nông nghiệp ở không chỉ cãcã ngoài bãi mà cả các xã trong đồng. Trong mùa lũ, nước sông Hồng lên to, có nơi mặt sông rộng đến 2-3km, mực nước sông cao hơn mặt ruộng đến 6-7m. Vào mùa cạn, mực nước trung bình là 3,06m với lưu lượng 927m3/s.
+ Sông Nhuệ: Lưu lượng ở đầu nguồn từ 26-150m3/s, mực nước ở hạ lưu đập Hà Đông từ 4,5 – 5,2m.
+ Sông Tô lịch, sông Lừ, sông Sét, sông KimNgưu đều là những sông nội thành phố, làm nhiệmvụ tiêu thoát nước chotoàn thành phố hiện đang bị ô nhiễm nặng do nước thải.
+ Các hồ, đầm: phần lớn các hồ đầm của huyện Thanh Trì hiện đang bị ô nhiễm do lượng mưa và nước thải sinh hoạt không được làm sạch từ khu vực nội thành chảy vào.
1.4. đất đai:
Toàn huyện có 6 loại đất chính sau:
- Đất phù sa không được bồi hoặc giây yếu: có diện tích khoảng 2422 ha phân bố ở những nơi có địa hình cao và trung bình, tập trung ở các xã Định Công, Đại Kim, Thanh Liệt, Hoàn Liệt, Tam Hiệp, Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Vĩnh Tuy, Lĩnh nam, Liên Ninh, Đông Mỹ, và thị trấn Văn Điển. Đất cómàu nâu tươi hay nâu xám, PH từ trung tính đếnít chua thànhphần cơ giới từ cát pha đến thịt nặng, các chất dinh dưỡng tổng số từ khá đến giàu các chất dễ tiêu khá. Đây là loại đất thuận lợi cho phát triển cây thực phẩm, cây lương thực và các loại hoa màu.
- Đất phù sakhông được bồi có giây: có diện tích 1715 ha, phân bố tập trung ở các xã tả Thanh oai, Đại áng và Tân Triều, nằm ở nơi có địa hình thấp. Đất có giây màu xám xanh, dẻo, thành phần cơ giới trung bình đến nặng, độ phì nhiêu tiềm tàng khá, nghèo lân dễ tiêu.
- Đất phù sa ít được bồi, trung tính,kiềm yếu: có diện tích 739 ha phân bố ở dải đất ngoài đê sông Hồng thuộc các xã Lĩnh nam, Trần Phú, Yên Mĩ, Duyên hà và Vạn Phúc. Phần lớn loại đất này có thành phần cơ giới cát pha,khả năng giữ màu, giữ nước kém và không bị chua.
- Đất phù sa không đượcbồi, giâymạnh: có diện tích 60 ha nằm rải rác ở những nơi trũng, lòng chảo thuộc các xã Đại Kim, Thanh Liệp, Tứ Hiệp, và Ngũ Hiệp, hàng năm bị ngập nước liên tục vào mùa hè, nên đất thường ở trong tình trạng yếm khí, tỷ lệmùn khá độ chua PH từ 4,5 - 6 do ảnh hưởng của chất hữu cơ chưa phân giải.
- Đất phù sa được bồi hàng năm trung tính kiềm yếu: có diệntích 197 haphân bố thành dải đất dọc theo bờ sông Hồng ở các xã Thanh Trì, Lĩnh Nam, Vạn Phúc và yên Sở và Duyên hà. Nơi địa hình cao đất có thành phần cơ giới nhẹ; nơi đất thấp có thành phần cơ giới trung bình đến nặng. Nhìn chung loại đất này là một trong những loại đất tốt, chủ yếu trồng màu và những cây công nghiệp ngắn ngày, có năng suất cao.
- Đất cồn cát, bãi cát ven sông: có diện tích 99 ha nằm ở ngoài bãi sông Hổng thuộc xã Vạn Phúc, Thanh Trì, Lĩnh Nam. Hàng năm,nước ngập bãi cát được bồi thêm hoặc bị cuốn đi, do đó địa hình địa mạo luôn bị thay đổi. Cát có phản ứng trung tính, độ phì kém. Hiện tại một phần nhỏ diện tích được sử dụng khai thác cát phục vụ xây dựng, còn lại bỏ hoang.
- Khu vực đất còn lại gồm: đất có mặt nước, sông suối, đất khu dân cư có tổng diện tích 4160 ha.
Biểu 2: Tình hình thổ nhưỡng huyện Thanh Trì.
STT
Tên đất
Ký hiệu
Diện tích (ha)
1
Đất phù sa không được bồi, không giây hoặc giây yếu
ph
2422
2
Đất phù sa không được bồi có giây
P
17,5
3
Đất phù sa ít được bồi trung tính kiềm yếu
pb.i.k
793
4
Đất phù sa không được bồi, giây mạnh, úng nước mùa hè
PJ
60
5
Đất phù sa được bồi hàng năm trung tính kiềm yếu
pb.k
197
6
Đất cồn cát
cc
99
7
Đất có mặt nước, sông suối và dân cư
4542,54
S
9828,54
Nguồn: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp.
2. Điều kiện kinh tế xã hội.
2.1. Dân số và lao động.
Trong những năm gần đây dân số huyện Thanh Trì đã có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên không ngừng giảm qua các năm 1998, 1999, 2000, 2001 (theo biểu).
Biểu 3: Dân số và lao động qua các năm.
STT
Chỉ tiêu
đơn vị
1999
2000
2001
1
Dân số trung bình
Người
226.800
227.305
230.870
Dân số nông nghiệp, TS
Người
127.479
140.000
145.000
2
Tổng số lao động
Người
111.772
112.400
113.400
Lao động nông nghiệp,TS
Người
49.572
50.300
50.835
3
Tỷ lệ sinh
%
1,05
1,6
1,55
Tỷ lệ tăng tự nhiên
%
1,5
1,4
1,32
Nguồn: Phòng kinh tế – UBND huyện Thanh Trì.
Qua bảng trên ta thấy dân số Thanh Trì qua các năm gần đây khá cao, đó là nguồn nhân lực khá dồi dào trong ngành nông nghiệp, thuỷ sản. Năm 1999 dân số huyện Thanh Trì có 226800 người, năm 2000 tăng lên 227305 người, năm 2001 tăng lên 230870 người trong đó dân số nông nghiệp, thuỷ sản chiếm 60% dân số toàn huyện.
Thanh Trì có nguồn lao động trong độ tuổi tương đối lớn. Năm 2000 tổng số lao động huyện là 112400, chiếm 48% dân số toàn huyện; tốc độ tăng lao động đến năm 2000 so với năm 1998 khoảng 10% tương ứng với số tuyệt đối là 10000 người. Dân số và lao động tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, thuỷ sản với 60% dân số nông nghiệp và 44% lao động nông nghiệp. Thanh Trì là huyện tập trung nhiều ngành truyền thống trong các lĩnh vực: tiểu thủ công nghiệp, nuôi cá, chế biến nông sản thực phẩm làm bún bánh. Với nguồn lao động dồi dào và chất lượng lao động có mặt bằng khá cao, hơn các vùng khác nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2. Tình hình kinh tế.
Kinh tế nông thôn bao gồm: nông nghiệp (nông - lâm - ngư nghiệp), công nghiệp nông thôn (công nghiệp khai thác, chế biến, tiể thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống), dịch vụ nông thôn (dịch vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ đời sống). Kinh tế nông thôn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Kinh tế nông thôn của cả nước nói chung, Thanh Trì nói riêng trong những năm qua đã có những chuyển biến đáng kể, đặc biệt làcơ cấu kinh tế đã có chuyển biến theo hướng nền kinh tế hàng hoá có cơ cấu đa dạng: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Kinh tế huyện Thanh Trì trong thời gian qua đã có những bước phát triển khá. Ngành nông nghiệp vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong kinh tế huyện với hơn 50% trong tổng giá trị sản xuất hàng năm của huyện.
Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện được thể hiện trong biểu:
Biểu 4: Biến động sản lượng lương thực và giá trị sản xuất.
Chỉ tiêu
đ.vị
1997
1998
1999
2000
2001
1.Tổng giá trị sản xuất
tr.đ
312.884
344.390
375.675
395.333
435.697
- Nông nghiệp
tr.đ
165949
185400
191137
208341
211222
- Công nghiệp
tr.đ
107185
116620
125485
130855
159.475
- Dịch vụ
tr.đ
39750
42370
50670
55686
65.000
2. Tổng sản lượng lương thực quy thóc
Tấn
23766
22922
24125
24670
23.535
3. Cơ cấu
- Tổng giá trị sản xuất
%
100
100
100
100
100
- Nông nghiệp
%
54,61
55,00
55,89
52,7
48,5
- Công nghiệp
%
31,6
31,87
30,53
33,1
36,6
- Dịch vụ
%
13,79
13,13
13,58
14,2
14,9
Nguồn: Phòng kinh tế – UBND huyện Thanh Trì.
Qua biểu trên, có thể thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản xuất của huyện với hơn 53%/năm trong giai đoạn 1997 - 2001. Trong ba năm trở lại đây, tỷ trọng đó có xu hướng giảm xuống: năm 1999 là 55,89%, năm 2000 giảm xuống còn 52,7%, năm 2001 còn 48,5%. Tuy nhiên con số này vẫn còn rất cao so với tỷ trọng nông nghiệp cả nước là 23,4%. Điều này nói lên rằng sự phát triển của các ngành kinh tế khác trong huyện còn nhiều hạn chế.
Giá trị sản xuất của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và xây dựng chiếmkhoảng 33% bình quân năm trong cả giai đoạn 1997 - 2001. Trong ba năm trở lại đây ngành này đã có bước phát triển khá với mức tăng trưởng trên 10%/năm.
Với mức bình quân lương thực trên đầu người thấp, chỉ đáp ứng được phần nào cho nhu cầu sinh hoạt và cung cấp cho chăn nuôi; sản xuất lương thực hàng hoá của huyện chỉ chiếm một phần rất nhỏ và không là mục tiêu sản xuất hàng hoá của huyện. Với điều kiện đất chật người đông, sản phẩm nông nghiệp hàng hoá của huyện phải theo hướng sản xuất các loại rau, hoa màu,lúa đặc sản… có giá trị kinh tế cao kết hợp với phát triển chăn nuôi để tận dụng nguồn lực lao động dồi dào và khả năng tăng vụ trên đất trồng lúa, trồng màu.
Xét cơ cấu các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp ta có biểu sau:
Biểu 5: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp các năm
Đơn vị: %.
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Giá trị sản xuất nông nghiệp
100
100
100
100
100
100
Trong đó:
- Trồng trọt
59,00
58,47
55,45
56,72
53,41
47,93
- Chăn nuôi
41,00
41,53
44,35
43,28
46,59
52,07
Nguồn: phòng kế hoạch huyện thanh trì
Như vậy trong cơ cấu nộibộ ngành nông nghiệp, ngành trồng trọt vẫn chiếm một tỷ trọng lớn và có xu hướng giảm dần qua các năm và đặc biệt giảm nhanh từ năm 1998 đến nay. Do đó đã tạo ra sự cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi. Đặc biệt ngành chăn nuôi đã có bước phát triển khá với mô hình nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi bò sữa, nông nghiệp Thanh Trì đang phát triển theo hướng đưa ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất chính với giá trị hàng hoá cao.
2.3. Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở vật chất của huyện được xây dựng trong một quá trình lâu dài và hàng năm huyện đã củng cố, tu bổ và xây dựng từng bước cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Về thuỷ lợi: toàn huyện có 101 trạm bơm (vào năm 2000) với từ 1-3 máy/trạm, công suất mỗi máy từ 500-2500m3/giờ. Nguồn nước tưới trong vùng khá dồi dào đủ để đảm bảo cung cấp cho cây trồng.
Trên địa bàn huyện, hệ thống kênh mương có chiều dài 3207,8 km. Hàng năm huyện chỉ đạo cãcã tu bổ, nạo vét các công trình thuỷ nông đảm bảo đủ nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp đồng thời chống úng vào mùa mưa.
- Về hệ thống điện:
Một trămphần trăm số xã đều có điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt toàn huyện có trên 100 trạm biến áp lớn nhỏ với công suất từ 100 đến 2800 KVA, phân bố đều ở hầu hết các xã, có nhiều xã có từ 3 trạm trở lên.
Số hộ dùng điện trên địa bàn huyện là 100%.
- Về hệ thống giao thông:
Hệ thống giao thông đường bộ của huyện khá thuận tiện, các đường trục của xã huyện đảm bảo giao lưu hànghoá khá thuận lợi. Tổng số đường của huyện, xã quản lý là 63,5 km; trong đó đường nhặ, bê tông: 33,5 km; đường cấp phối: 24,1 km; đường gạch 5,9 km. Tỷ lệ đường nhựa, bê tổng, cấp phối, gạch trong tổng số là 100%.
Trên địa bàn huyện Thanh Trì, về dường bộ có tuyến dường của quốc gia và thành phố, tổng chiều dài là 49,75 km chiếm diện tích đất là 20,59 ha. Trong đó gồm quốc lộ 1A, đường 70A, 70B. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có tuyến đường sắt dài 17 km và tuyến đường thuỷ 15 km (sông Hồng) có thể khai thác vận tải đường thuỷ.
Tóm lại, Thanh Trì là huyện ngoại thành Hà Nội có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong huyện theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng hoá. Có thể kể ra một số thuận lợi sau:
- Là huyện có nguồn nước khá dồi dào, đất đai đa dạng và tương đối màu mỡ cho phép đa dạng hoá cây trồng trên địa bàn; vấn đề là xem xét nhu cầu thị trường mà lựa chọn sản phẩm sản xuất đó là cây gì, chất lượng và số lượng ra sao. Địa hình đất canh tác trên địa bàn huyện cũng cho phép chuyển đổi công thức luân canh trên đồng ruộng một cách linh hoạt như trồng hai vụ lúa hay một lúa, một cá hoặc chuyển đất lúa sang nuôi tôm.
- Với lực lượng lao động dồi dào, cơ sở hạ tầng khá phát triển và đặc biệt là gần một thị trường lớn là thủ đô Hà Nội nên có khả năng trao đổi, giao lưu thuận lợi, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên cũng có thể kể ra một số khó khăn nhất định đối với ngành trồng trọt của huyện như tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp từ đô thị và cả nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý gây ra tình trạng nhiễm bẩn đối với nhiều sản phẩm trồng trọt ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, điều kiện thời tiết khí hậu của huyện là vùng nhiệt đới vào mùa mưa có thể gây úng ngập nhiều diện tích trồng trọt làm giảm năng suất cây trồng; vào mùa rét có thể gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại và phát triển của một số loại cây trồng.
II. Tình hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng huyện Thanh Trì.
1. Cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì.
1.1. Cơ cấu giá trị sản lượng cây trồng.
Để tiện cho việc tính toán, so sánh giá trị,thu nhập, lợi nhuận hay chi phí của các loại cây trồng, ta tính toán các chỉ tiêu này theo giá cố định 1994.
Biểu 6: Cơ cấu giá trị sản lượng cây trồng.
Loại cây
2000
1999
2001
GTSL(tr)
%
GTSL(tr)
%
GTSL(tr)
%
1. Cây lương thực
- Lúa
39476,8
46,6
36518,4
47,1
32976
41,3
- Ngô
1716
2
2733,4
3,5
1986
2,5
- Khoai
87
0,1
199
0,3
136
0,2
2. Rau đậu các loại
39562,7
46,67
33440,8
43,2
39278,8
49,2
3. Cây công nghiệp
- Đỗ tương
142,8
0,2
173,4
0,2
112,2
0,1
- Lạc
403
0,5
448
0,6
851,2
0,1
4. Cây trồng khác
3382,7
4
3981
5,1
4455
5,6
Tổng
84771
Nguồn: Phòng Thống kê huyện Thanh Trì.
Nhìn chung trong ba năm qua, giá trị sản lượng cây lương thực và giá trị sản lượng cây rau đậu các loại chiếm phần lớn trong tổng giá trị sản xuất năm. Tỷ trọng giá trị sản lượng cây lượng thực giảm xuống nhanh qua các năm. Năm 1999 chiếm 50,9% tổng giá trị sản lượng, năm 2000 còn 48,5%, năm 2001 xuống còn 44%. Thanh Trì là huyện có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho sản xuất lương thực (hàng năm mưa lớn thường ngập úng khá lớn diện tích trồng lúa) cho nên năng suất, sản lượng cây trồng lương thực không cao, dẫn đến giá trị sản lượng cũng không cao. Trong cơ cấu cây lương thực thì lúa chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối với trên 90% tổng giá trị sản lượng lươgn thực. Giá trị sản lượng cây rau đậu các loại chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh qua các năm. Năm 1999 chiếm 43,2%, năm 200 tăng lên 46,67%, năm 2001 tăng lên 49,2%. Cây công nghiệp có giá trị sản lượng thấp chiếm 0,8% năm 1999 và tăng lên 1,2% năm 2001, trong đó giá trị sản lượng cây lạc tăng lên đặc biệt là vào năm 2001 với 851,2 triệu . Ngược lại cây đậu năm 2000 là 403 triệu. Cây hàng năm khác bao gồm: hoa cây cảnh, cây làm thuôc, cây thức ăn gia súc cho giá trị sản lượng khá với tỷ trọng bình quân trên 5% mỗi năm nhìn chung giá trị sản lượng có tăng lên do áp dụng giống mới và kỹ thuật mới vào sản xuất .
1.2. Cơ cấu diện tích cây trồng chính.
Biểu 7: Cơ cấu diện tích gieo trồng các loại cây chính hàng năm
Loại cây trồng
1999
2000
2001
DT(ha)
TL(%)
DT(ha)
TL(%)
DT(ha)
TL(%)
1. DT cây lương thực
6295,5
78,50
6214,3
77,52
5677
77,26
- Lúa
5532
68,96
5511
68,75
4955
67,43
Trong đó lúa đặc sản
208
2,59
208
2,59
170
2,31
- Ngô
711
8,87
680
8,48
688
9,36
- Khoai lang
51
0,64
21
0,26
32
0,41
- Khoai sọ
1,5
0,02
2,3
0,03
2
0,03
2. Rau các loại
1381,3
17,22
1470,6
18,34
1382
18,81
Trong đó rau sạch
110
1,37
142
1,77
145
1,97
- Rau muống
676,4
8,43
774
9,66
736
10,02
- Cải bắp
25
0,31
27,3
0,34
22
0,3
- Cải các loại
123,4
1,54
179,9
2,24
120,4
1,64
- Xu hào
65
0,81
50
0,62
43
0,59
- Khoai tây
46
0,57
22
0,27
17
0,23
- Hành tỏi
22
0,27
22
0,27
24
0,33
- Bầu bí, mướp
48,8
0,61
83,9
1,05
82,1
1,12
- Cà chua
81
1,01
86
1,07
71
0,97
- Rau khác
293,7
3,66
255,5
3,19
266,5
3,63
3. Đậu xanh
20,5
0,26
105
1,31
7
0,095
4. Cây công nghiệp
200
2,494
126,9
1,58
172
2,34
- Đỗ tương
28
0,35
23,2
0,29
18
0,24
- Lạc
165
2,06
96,7
1,21
150
2,04
- Mía
7
0,09
7
0,09
4
0,05
5. Cây trồng khác
122,2
1,52
99,6
1,24
110
1,5
- Cây làm thuốc
21
0,26
16,8
0,21
19
0,26
- Hoa cây cảnh
101,2
1,26
82,8
1,03
76
1,03
- Cây thức ăn gia súc
15
0,20
Tổng DTGTr
8019,5
8016,4
7348
Nguồn: Phò._.ển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng của các ngành do huyện quản lý: công nghiệp xây dựng 39%, nông lâm thuỷ sản 45%, dịch vụ 16%.
Hàng năm từng vụ phải cấy trồng đảm bảo diện tích theo kế hoạch, lựa chọn giống lúa có năng suất cao, thích hợp với từng vùng để gieo cấy đại trà. Thực hiện quy vùng giống cây trồng tạo thuận lợi cho việc chăm sóc, bảo vệ thực vật. Coi trọng các biện pháp thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, gieo cấy vào thời vụ tốt nhất để tăng năng suất lúa. Tích cực tìm kiếm cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ để đưa vào sản xuất.
Bảng 29: Dự kiến cơ cấu sản lượng cây trồng
Sản phẩm nông nghiệp
Đơn vị
2003
2004
2005
- Sản lượng lương thực quy thóc
Tấn
24.600
24.048
27.000
Trong đó: thóc
Tấn
21.800
21.500
21.400
- Rau các loại
Tấn
39.000
39.500
40.000
Tổng giá trị sản lượng
Triệu
103.415
409.092
115.240
Nguồn: Phòng kế hoạch huyện Thanh Trì
Qua biểu trên ta thấy, trong những năm tới sản lượng thóc có giảm xuống qua các năm nhưng sản lượng lương thực quy thóc tăng lên; như vậy đến năm 2005 cây lương thực màu phải được trú trọng sản xuất hơn để đáp ứng nhu cầu cho ngành chăn nuôi đang phát triển với tốc độ khá nhanh. Sản lượng ra các loại tăng nhanh và đều đặn mỗi năm 500 tấn. Giá trị sản lượng ngành trồng trọt theo giá cố định năm 1994 cũng tăng lên đáng kể.: gần 6 tỷ đồng mỗi năm.
Trong những năm tới cần nhanh chóng thay đổi giống ngô cũ năng suất thấp bằng giống ngô mới, ngô lai cho năng suất cao hơn trên toàn bộ diện tích gieo trồng ngô. Năng suất, sản lượng lương thực màu cao đáp ứng nhu cầu thức ăn cho ngành chăn nuôi, chế biến sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển một phần diện tích gieo trồng sang loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như rau, rau sạch, cây làm thuốc, hoa cây cảnh.
Thực hiện công thức luân canh thích hợp đối với từng loại ruộng đất khác nhau để có hệ thống sản xuất cao hơn. Để làm được việc này cần phải tiến hành nghiên cứu phân chia ruộng đất thành các tiểu vùng phân biệt với nhau bởi chất đất, điều kiện tự nhiên. Từ đó xem xét có thể áp dụng cây trồng phù hợp. Trong những năm tới, ngoài việc áp dụng những công thức luân canh truyền thống như hai vụ lúa một vụ màu để đảm bảo váan đề lương thực trong huyện, cũng cần phải đưa những công thức luân canh và mô hình mới có giá trị sản lượng cao vào sản xuất như hai vụ lúa một vụ rau, mô hình lúa cá...
3. Dự kiến cơ cấu ngành trồng trọt đến năm 2005.
Biểu 30: Dự kiến diện tích gieo trồng đến năm 2005
Loại cây
2003
2004
2005
DT (ha)
%
DT (ha)
%
DT (ha)
%
Tổng diện tích gieo trồng
7.506
100
7.408
100
7.007
- Diện tích lúa
5.250
69,9
5.150
69,5
5.100
72,8
- Diện tích rau các loại
1.450
19,3
1.450
19,6
1.500
21,4
- Diện tích trồng hoa
90
1,2
80
1,2
80
1,1
- Diện tích cây ăn quả
180
2,4
180
2,4
185
2,6
Nguồn: Phòng kế hoạch huyện Thanh Trì
Qua biểu trên ta thấy cơ cấu cây trồng theo diện tích gieo trồng từ năm 2003 đến năm 2005 đã có những thay đổi đáng kể so với cơ cấu diện tích năm 2001. Lúa và rau các loại là hai loại cây trồng chính trong đó diện tích gieo trồng và tỷ trọng diện tích cây lúa thấp đi nhiều so với năm 2001 và ngược lại đối với diện tích và tỷ trọng diện tích trồng rau. Các loại cây khác ít biến động tuy nhiên diện tích và tỷ trọng diện tích trồng cây ăn quả tăng leen bao gồm diện tích vườn tạp và diện tích cây ăn quả của mô hình cá - cây ăn quả. Mô hình cá - cây ăn quả là mô hình sản xuất mang tính chiến lược của huyện, đáp ứng nhu cầu, sở thích của người thủ đô trong tương lai. Dự kiến đến năm 2010 tổng diện tích của mô hình này là 700 ha trong đó 560 ha nuôi cá và 140 ha cây ăn quả. nằm chủ yếu trên các xã Đông Mỹ, Liên Ninh, Vĩnh Quỳnh, Tả Thanh Oai, Hữu Hoà, Ngọc Hồi.
Năm 2010 hình thành vùng rau chủ yếu là rau sạch tập trung với diện tích 250 - 300 ha vũng bãi. Chuyển đổi một số diện tích cao vùng bãi (50 ha) trồng màu hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cây ăn quả kết hợp với đào ao thả cá và kinh tế dịch vụ.
Thanh Trì có nhiều lợi thế để phát triển hoa các loại, trước mắt tiếp tục duy trì phát triển vùng hoa ở Vĩnh Tuy và phần nhỏ ổn định cây trên cơ sở tích cực chuyển đổi sang các giống hoa mới có giá trị kinh tế cao được thị trường ưu chuộng. Thực hiện cưo chế vừa khuyến khích vừa quản lý chặt chẽ quy hoạch sử dụng đất để duy trì vùng hoa Vĩnh Tuy phát triển mô hình nhà vườn. Tích cực hỗ trợ để đưa cây hoa phát triển trên vùng bãi một số xã theo mô hình vùng hoa Tứ Liên của Tây Hồ.
Thanh trì sẽ phát triển vùng lúa tập trung có chất lượng cao với diện tích khoảng 1.400 ha - 1.500 ha trên các xã Tây nam huyện. Diện tích trồng Ngô vũng bãi sẽ dần dần chuyển sang trồng một số loại cây cao ngắn ngày như lạc, cây dược liệu. Một số diện tích năng suất thấp bấp bênh của hoặc trồng cây màu hiệu quả thấp chuyển sang trồng cây TAGS phục vụ chăn nuôi bò sữa.
IV. Những giải pháp kinh tế chủ yếu.
1. Giải pháp về vốn.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải hướng tới một cơ cấu cây trồng hợp lý trong quá trình xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện. Xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn mà nước ta nói chung, từng địa phương nói riêng đang thực hiện. Trong đó sản xuất nông nghiệp cần được cơ giới hoá cao, tách một phần lao động thủ công trực tiếp sang lao động bằng máy móc, hơn nữa nó cần được đầu tư thâm canh tăng năng suất, sản lượng cũng như chất lượng sản phẩm. Có nghĩa là phải có một phương pháp canh tác hiện đại và hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện nên nó cũng nằm trong xu hướng đó. Hơn nữa để đạt được hiệu quả cao của ngành trồng trọt thì cần phải gắn nó với thị trường và ngành công nghiệp chế biến. Từ đó thấy rằng để chuyển dịch cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn thì đầu tư vốn là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu. Để có một cơ cấu cây trồng hợp lý cần phải và ổn định tương đối trong một giai đoạn nhất định thì cần phải đầu tư vốn rất nhiều từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá và thuỷ lợi hoá phục vụ trực tiếp cũng như gián tiếp cho cơ cấu cây trồng đó đến việc đầu tư thâm canh tăng năng suất, chuyển đổi giống cây trồng sang những giống mới có năng suất, chất lượng sản phẩm cao hơn đáp ứng yêu cẩu của thị trường cũng như ngành công nghiệp chế biến. Hơn nữa tính thời vụ của sản xuất trồng trọt đã chi phối nhiều đến việc sử dụng máy móc, thiết bị, vật tư trong các khâu của quá trình sản xuất trồng trọt như làm đất, gieo trồng, tưới tiêu đặc biệt là vấn đề bảo quản và chế biến nông sản... Ngoài việc Nhà nước đầu tư máy móc thiết bị cho các cơ sở thuộc sở hữu Nhà nước, đầu tư một phần cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá hay tổ chức nghiên cứu lai tạo những giống mới... phần còn lại là của tư nhân đầu tư mua sắm, làm dịch vụ... Như vậy người nông cần đầu tư nhiều trong sản xuất nông nghiệp của riêng mình để thực hiện hay từ đó tạo ra quá trình chuển dịch cơ cấu trên toàn địa bàn. trong khi đó nông dân nước ta còn nghèo, vốn đầu tư tự so rất ít vì vậy những chính sách về vốn của Nhà nước đối với hộ nông dân là rất quan trọng.
Thanh Trì là một huyện của thủ đô nên không được hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước như ở những vùng, địa phương khác. Nhìn chung cơ sở hạ tầng trong đó giao thông, thuỷ loại khá tốt; tình hình cho vay vốn đối với hộ nông dân trực tiếp sản xuất đạt tỷ lệ chưa cao trong khi đó chuyển dicj cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện phần nhiều đi từ sự chuyển đổi diện tích gieo trồng như thay việc sản xuất lúa bằng việc thực hiện những mô hình mới như nuôi tôm, thả cá hay cá - cây ăn quả, mà những mô hình này đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Mặt khác những đầu tư khác cho nông nghiệp như đầu tư cho giao thông, điện... rất khó tách bạch phần nào là đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn nói chung và đầu tư cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng. Hơn nữa, từ thực trạng của cơ cấu cây trồng trong những năm qua có thể thấy rằng ngoài xu hướng chung trên địa bàn, một số loại cây trồng còn có những biến động phức tạp về diện tích gieo trồng, năng suất sản phẩm... Điều đó có một phần do sự sản xuất tự phát của người nông dân mà nguyên nhân của nó là thiếu thông tin về thị trường, giống cây trồng năng suất thấp.
Từ đó đòi hỏi các cấp lãnh đạo huyện phải có quyết định hợp lý khuyến khích người nông dân vay vốn sản xuất, nghiên cứu thị trường và xúc tiến thị trường từ đó hướng dẫn người nông dân sản xuất. Ngoài ra cần tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống thuỷ lợi nói chung, cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng và xây mới bổ sung ở những nơi cần thiết.
Kế hoạch về số vốn đầu tư thực hiện cho việc xây dựng giao thông, đường làng ngõ xóm và thuỷ lợi huyện Thanh Trì trong những năm tới như sau:
Biểu 31: Danh mục kế hoạch các dự án đầu tư 2001 - 2005
Nguồn vốn sự nghiệp đầu tư
Đơn vị tính: Triệu đồng
Danh mục đầu tư
(theo loại công trình)
Tổng vốn đầu tư thực hiện
Tổng số
2001
2002
2003
2004
2005
Giao thông, đường làng ngõ xóm
8.300
1.500
1.600
1.700
1.700
1.800
Thuỷ lợi
16.800
3.000
3.200
3.400
3.500
3.700
Nguồn: Phòng kế hoạch huyện Thanh Trì
So sánh số vốn đầu tư theo kế hoạch này so với số vốn đầu tư đã thực hiện giai đoạn 1996 - 2000 riêng về thuỷ lợi như sau: năm 1996 là 2.500 triệu đồng, năm 1997 là 1.708 triệu đồng, năm 1998 là 2.330 triệu, năm 1999 là 2.798 triệu đồng và năm 2000 là 2.779 triệu đồng; Tổng số là 11.615 triệu đồng. sự tăng lên về vốn đầu tư cho thuỷ lợi trong thời gian qua và trong những năm tới là hoàn toàn hợp lý cho sự phát triển của nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng.
2. Giải pháp về thị trường.
Trong nông nghiệp, sản xuất hàng hoá thì thị trường là nhân tố cực kỳ quan trọng. Nông sản hàng hoá cũng tuân theo những quy luật chung của thị trường nhưng nó cũng có những đặc điểm riêng của nó. Đó là những sản phẩm hàng hoá thiết yếu đối với nhu cầu của con người và đặc biệt hơn là nó mang tính thời vụ. Chính tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp đã làm cho việc gắn sản xuất với thị trường trở lên phức tạp.
Thị trường tiêu thụ nông sản ổn định là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát triển nông nghiệp ổn định. Từ đó có thể xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý và ổn định tương đối trên mỗi địa bàn sản xuất và gán với thị trường của nó. Thành tựu cơ bản trong quá trình đổi mới là Nhà nước đã tháo gỡ những chướng ngại của sự phát triển thị trường tiêu thụ như xoá bỏ tình trạng cát cứ địa phương, phát triển mạng lưới giao thông...
Theo quan điểm chuyển dịch cơ cấu cây trồng thì quá trình chuyển dịch cơ cấu phải theo hướng sản xuất hàng hoá, có nghĩa là dẫn dần hình thành cơ cấu cây trồng và sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để tiêu thụ trên thị trường chứ không phải tiêu dùng trong gia đình. Do đó việc sản xuất ra các loại hàng hoá gì, số lượng bao nhiêu, chất lượng thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ và khả năng tiêu thụ của thị trường, do sự chi phối của thị trường. Việc gắn quan hệ giữa thị trường với sản xuất, giữa sản xuất với thị trường là một vấn đề phức tạp đòi hổi người sản xuất phải nhận thức được và biết vận dụng tính quy luật, những cơ chế vận động của chúng để điều tiết theo hướng phục vụ lợi ích của mình.
Như vậy trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhằm tiến tới một cơ cấu cây trồng hợp lý nhất định theo hướng sản xuất hàng hoá thì phải xem nhân tố thị trường như là sự sống còn đối với sản xuất. Do đó cần phảu tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nghiên cứu, thăm dò thị trường để xác định với mỗi loại cây cần sản xuất với số lượng bao nhiêu, chất lượng thế nào trong một năm và trong một giai đoạn nhất định để điều tiết sản xuất. Đó là công việc của cơ quan lãnh đạo mỗi địa phương nhằm dự báo cho người sản xuất tránh tình trạng sản xuất tự phát, thiếu thông tin thị trường gây thiệt hại đối với người sản xuất.
Đối với sản xuất trồng trọt huyện Thanh Trì thì cây lúa và cây màu khác có giá trị kinh tế thấp, tỷ suất hàng hoá thấp; sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong huyện. Cây rau có thị trường tiêu thụ lớn và ổn định, sản xuất rau chủ yếu là để bán; vấn đề là phải tính toán sản lượng theo từng mùa vụ và năm đối với rau để sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao. Cây công nghiệp và cây hàng khác cần thiết phải tìm được thị trường tiêu thụ ổn định để sản lượng sản xuất, đồng thời đưa giống mới vào sản xuất để tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích.
Như vậy tìm ra các giải pháp để có thị trường tiêu thụ ổn định và hữu hiệu sẽ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng một cách có hiệu quả. Để làm được việc đó, nhiệm vụ quan trọng trước hết thuộc về huyện, đồng thời không thể tách rời những định hướng của thủ đô, chủ trương chính sách của Nhà nước.
3. ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Nông nghiệp truyền thống dựa vào kỹ thuật cổ truyền mang tính thủ công và kinh nghiệm. Kỹ thuật đã tạo ra nhiều vùng nông nghiệp thâm canh truyền thống. Khi công nghiệp hiện đại ra đời và phát triển, nghiên cứu khoa học nông nghiệp được hình thành, từ đó kỹ thuật hiện đại đã dần dần được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp mang lại cho ngành nông nghiệp những khả năng to lớn, năng suất, sản lượng không ngừng gia tăng, nhiều cây trồng, vật nuôi mới được hình thành mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong nông nghiệp nhất là ngành trồng trọt đặt ra yêu cầu là sản xuất cây trồng phảu ngày một tăng, chất lượng sản phẩm thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng trong nớpc và xuất khẩu. Giảm ô nhiễm môi trường cũng là đòi hỏi cần thiết đối với ngành nông nghiệp và đặc biệt là trồng trọt hiện nay.
Việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ góp phần quan trọng vào sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng để đạt tới một cơ cấu cây trồng hợp lý. Sản xuất nông nghiệp nói chung, trồng trọt nói riêng vốn mang tính thời vụ do đó sản xuất phải có cơ cấu theo mùa vụ thích hợp; người nông dân có thể trồng dải vụ trong năm, tránh dồn dập vào lúc gieo trồng cũng như thu hoạch. Nó giúp nông dân hạn chế rủi ro thiên tai. Trong mỗi mùa vụ đối với loại cây trồng có tỷ suất hàng hoá thấp thì cần thiết áp dụng những biện pháp thâm canh tăng năng suất hay áp dụng những giống mới có năng suất cao để có thể chuyển đổi một phần diện tích cây trông đó sang loại cây trồng khác có tỷ suất hàng hoá và giá trị sản lượng cao cũng như hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngoài ra, việc áp dụng tiến bộ khoahọc kỹ thuật vào sản xuất còn góp phần thực hiện kế hoạch sản xuất đúng tiến độ sản xuất, tránh tồn đọng sản phẩm và hư hao sản phẩm do đó giảm được thiệt hại trong sản xuất, từ dó góp phần ổn định cơ cấu cây trồng.
Đối với huyện Thanh Trì, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất có tác dụng trực tiếp mạnhmẽ đến quá trình phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, tạo ra sự phân công lao động mới, là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong sản xuất trồng trọt.
Ưu thế của huyện Thanh Trì là ngành trồng trọt có thị trường tiêu thụ rộng lớn (thủ đô Hà Nội). Đây là thị trường tốt để huyện có thể sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm nông nghiệp có chất lượng và giá trị kinh tế cao. Do đó ứng dụng những thành tựu mới của cách mạng sinh học, cách mạng giống sẽ có những cây trồng mới có năng suất cao và khả năng thích ứng rộng rãi. Qua thực trạng sản xuất trồng trọt của huyện trong những năm qua có thể thấy rằng ngoài cây rau là cây có tỷ suất hàng hoá cao, năng suất sản lượng và giá trị kinh tế cũng như hiệu quả sản xuất cao; còn lại hầu hết các cây trồng khác nha cây lương thực, cây công nghiệp đều cho năng suất và sản lượng thấp nên giá trị kinh tế không cao. Từ đó dặc ra yêu cầu cấp thiết phải thử nghiệm và đưa vào sản xuất những giống cây trồng mới có năng suất cao như lúa, ngô,khoai, lạc giống mới… Điều đó sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng của huyện theo hướng tích cực.
Với lợi thế về vị trí địa lý, huyện Thanh Trì là huyện ngoại thành Hà Nội, gần với nhiều cơ quan khoa học như cac trường đại học và trung học chuyên nghiệp, các viện và các trung tâm nghiên cứu. Mối liên kết với các cơ quan khoa học đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho huyện dưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất như tạo giống cây mới thích hợp với điều kiện của huyện, ứng dụng kỹ thuật canh tác, ứng dụngmáy móc vào các khâu làm đất, thu hoạch… của sản xuất trồng trọt tạo cho sản xuất trồng trọt kịp thời vụ, tăng năng suất và hạ giá thành.
4. Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Phát triển sản xuất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì xây dựng cơ sở hạ tầng là việc làm quan trọng. Nó góp phần thúc dẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, áp dụng phổ biến những biện pháp thâm canh, tạo khả năng tiếp cậntt một cách tốt hơn.
Cơ sở hạ tầng là một hệ thống bao gồm giao thông, thuỷ lợi, điện nước… trong dó cơ sở hạ tầng nông thôn góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Đối với ngành trồng trọt thì thuỷ lợi luôn là biện pháp hàng đầu để phát triển sản xuất. Thuỷ lợi gắn trực tiếp với sản xuất nông nghiệp bao gồm hệ thống trạm bơm và kênh mương thực hiện tưới tiêu, giữ nước.
Đối với huyện Thanh Trì, cơ sở hạ tầng nông thôn được xây dựng tương đối tốt, hầu hết đường làng, ngõ xóm… được bê tông hoá hoặc phối cấp, tỷ lệ số hộ được sử dụng điện sinhhoạt là 100%. Tuy nhiên hệ thống thuỷ lợi bao gồm kênh mương, trạm bơm đã có biểu hiện xuống cấp và hàng năm huyện vẫn phải đầu tư tu bổ. Nhiều km kênh mương chưa được kiên cố hoá nên hàng năm vẫn phải nạo vét gây khó khăn cho sản xuất.
Trong những năm tới huyện cần đầu tư hơn nữa cho cơ sở hạ tầng bao gồm thực hiện bê tông hoá tòn bộ hệ thống giao thông đường làng, ngõ xóm và trên các cánh đồng; xây dựng hệ thống kênh mương kiên cố hoá góp phần giảm diện tích hệ thống thuỷ lợi và ổn định nước tưới, tiêu. ổn định chế độ tưới tiêu nước là một trong những biện pháp ổn định sản xuất trồng trọt nói chung, cơ cấu trồng trọt nói riêng.
5. Giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sach kinh tế của Đảng và Nhà nước là giải pháp cực kỳ quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế quốc gia. Thực hiện một chính sách kinh tế có thể đem lại sự giải phóng hoặc kìm hãm năng lực phát triển kinh tế của đất nước. Những chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu đối với nông nghiệp gồm chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư vốn, đảm bảo an toàn lương thực, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
- Chính sách ruộng đất: những quan điểmmới về ruộng đất của Đảng và Nhà nước ta đã tạo động lực mới trong quá trình phát triển nông nghiệp. Cùng với việc thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, Đảng và Nhà nước đã có chính sách giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân.
Chính sách ruộng đất có vụi trí quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Chính sách ruộng đất hợplý cho phép sử dụng hợp lý và đầy đủ, có hiệu quả ruộng đất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung cơ cấu cây trồng nói riêng theo hướng sản xuất hàng hoá.
Trong thời kỳ tập trung hoá vừa qua, chính sách sơ cứng theo chế độ công hữu hoá tư liệu sản xuất chủ yếu ở nông thôn trong đó có ruộng đất đã kìm hãm quá trình sử dụng đất đai nông nghiệp. Huyện Thanh Trì sau khi thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân theo tinh thần của Nghị quyết 64 và nghị định 02/CP của TTCP đã phát huy tác dụng nâng caohiệu quả sử dụng ruộng đất vì người nông dân được tự chủ trên phần ruông đất củamình đãlinh hoạt sử dụng sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Chính sách đầu tư vốn: Thực tiễn ở Thanh Trì cho thấy, nhờ có vốn ngân sách cấp kết hợp với vốn của nhân dân màmột số cơ sở vật chất hạ tầng dược xây dựng kiến cố. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn cần rất nhiều vốn. Do vậy chính sách về vốn đối với phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung ngành trồng trọt nói riêng là rất quan trọng.
Các giải pháp về vốn của huyện là:
+ Đưa chương trình khuyến nông của huyện, xã và tranh thủ chương trình khuyến nông của Trung ương để khuyến khích sản xuất.
+ Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, ngoài nguồn vốn được hỗ trợ, được vay ngân hàng với lãi suất thấp, huyện huy động nguồn vốn của nhân dân, kêu gọi các tổ chức, cá nhân ngoài dịa phương trong và ngoài nước tài trợ, đóng góp xây dựng quê nhà.
- Chính sách đảm bảo an toàn lương thực: vấn đề an toàn lương thực là chiến lược kinh tế, chính trị và xã hội của Đảng bvà Nhà nước. Thanh Trì là một huyện đồng bằng đất trũng, trong những năm qua sản xuất lương thực đạt năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế không cao,lương thực sản xuất ra chủ yếu tiêu dùng trong huyện. Tuy nhiên trong những năm qua sản xuất lương thực trong đó đặc biệt là lúa vẫn chiếm một ty trọng lớn trong ngành trông trọt. Diện tích lúa cả năm giảm ít.
Hiện nay chính sách về bảo đảm an toàn lương thực cần xem xét theo quan điểm mới: xét tren phạm vi cả nước, sản xuất nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung cần có sự quy hoạch phân vùng sản xuất nhất định phù hợp với điều kiện và lợi thế của từng địa phương. Từ đó mà xác định vấn dề an toàn lương thực quốc gia chứ không nhất thiết mỗi vùng phải đảm bảo an toàn lương thực cho mình mà có thể sản xuất các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn, tỷ suất hàng hoá cao đem ra thị trường và mua lương thực về cho vùng mình. Do đó vận dụng một cách cứng nhắc chính sách an toàn lương thực có thể gây cản trở quá trình chuyẻen dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn. Từ đó việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì theo hướng giảm diện tích gieo trồng cây lương thực tăng diện tích cây có giá trị kinh tế, tỷ suất hàng hoá cao như rau, cây công nghiệp… cũng chính là việc bảo đảm an toàn lương thực trên địa bàn.
- Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần: Nông nghiệp là ngành có sự thamgia của năm thành phần kinh tế như các ngành khác, mỗi thành phần kinh tế có những đặc điểm riêng mà từ đó ảnh hưởng tới quá trình cũng như khả năng, tốc độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng khác nhau.
Việc thực hiện chiónh sách phát triển kinh tế nhiều thành phần cùng với quan hệ thị trường sẽ buộc các thành phần kinh tế thamgia sản xuất phải chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao trong sản xuất.
Thực hiện chính sách trên ở huyện Thanh Trì trong những năm qua, thành phần kinh tế cá thể (hộ gia đình) vẫn là thành phần kinh tế chiếmphần lớn trong tỷ lệ sử dụng ruộng đất. Đây là thành phần kinh tế khá năng động, có khát vọng làmgiàu nhưng có đặc điểm là rụt rè đối với những cái mới. Do đó huyện cần thực hiện những chương trình thí điểm và khuyếnkhích, giúp đỡ đối với nông dân trong quá trình sản xuất.
- Chính sách thuế: thuế thu từ sản xuất nông nghiệp không nhiều, thậm chí chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên nó vẫn dược sử dụng như là một chính sách có tác dụng là đòn bẩy kinh tế đối với quá trình sản xuất.
Với một mức thuế cố định tính trên một đơn vị diện tích đất canh tác, người nông dân sẽ tính toán và thực hiện việc sản xuất trên phần đất củamình sao cho thu nhập từ nó vượt càng xa khoản thuế phải đóng càng tốt. Từ đó chính sách thuế sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành trồng trọt và chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng trên địa bàn. Hơn nữa, thuế thu được từ mỗi địa phương lại được đầu tư trở lại cho nông nghiệp như xây dựng cơ sở hạ tầng…
6. Củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp người nông dân được Nhà nước giao quyền sử ụng ruộng đất lâu dài để sản xuất và trong quá trình sản xuất họ vẫn phải hợp tác với nhau đối với những khâu họ không làm được hoặc làm kém hiệu quả như khâu thuỷ lợi, điện, giống, kỹ thuật.
Huyện đã có chương trình củng cố quan hệ sản xuất cho những năm sau, hiện tại trên địa bàn huyện hầu hết các hợp tác xã đã thực hiện chuyển đổi. Toàn huyện có 55 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hoạt động theo luật hợp tác xã, nhìn chung các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp sau chuyển đổi đã hạch toán, khấu hao được tìa sản cố định, các dịch vụ triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật, cung ứng vật tư, thuỷ lợi, làm đất, điện… đã tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Phát huy những mặt mạnh trong phương thức hoạt động và quản lý của hợp tác xã nông nghiệp hiện nay, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp làm ăn khá, hướng sản xuất và điều hành,quản lý các dịch vụ tốt, tiếp tục đổi mới quản lý, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động dịch vụ.
Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác xã đa dạng ở nông thôn theo đúng quy định và luật hợp tác xã như hợp tãcã tín dụng, hợp tác xã vận tải, hợp tác xã thuỷ lợi, hợp tác làm đất…
Trong đó coi trọng phát triển quỹ tín dụng nhân dân nhằm huy động vốn, phục vụ tại chỗ cho nhân dân vay, có vốn sản xuất kinh doanh. Tiếp tục xây dựng và củng cố các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hương skhuyến khích góp cổ phần để huy động được nhiều vốn nhằm tạo cơ sở cho sản xuất thủ công bằng thiết bị tiến tiến phục vụ cho sản xuất theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tiếp tục chuyển đổi nốt HTX Sở Thượng Yên Sở và thực hiện tốt luật HTX đã được quốc hội thông qua. Đổi mới HTX cả về quản lý và tổ chức. Đối với cán bộ HTX, cần xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ, để chỉ dạo HTX làm tốt các khâu dịch vụ cho nông dân. Quản lý phải không ngừng phát huy ứng dụng các tiến bộ hiện dại trên cơ sở kế thừa chọn lọc những cái cũ, không quan liêu bao cấp mà phải năng động, nhanh nhạy trong cơ chế mới.
7. Nâng cao trình độ văn hoá cho người nông dân.
Văn hoá là chìa khoá để tiếp thu khoa học kỹ thuật. Hiện tại, trình độ văn hoá của nông dân trong huyện tương đối cao, tuy nhiên trong quá trình sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì vấn đề rất cần thiết phải nâng cao dân trí. Muốn nâng cao dân trí phải biết kết hợp nhiều biện pháp, cả giáo dục thông qua trường lớp lẫn việc giao dục thông qua phát thanh, truyền hình.
Thực hiện công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho người nông dân là rất quan trọng nhằm nâng cao chấtlượng toàn diện. Giáo dục thường xuyên, mở rộng các cơ sở dạy nghề hướng nghiệp, chú trọng hình thức đào tạo tại chỗ để đáp ứng yêu cầu của xã hội cả về nhân lực và trí tuệ cũng như kỹ thuật công nghệ.
Trong những năm tới huyện có chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ nông nghiệp phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện theo hướng sau:
+ Quy hoạch đội ngũ cán bộ phát triển nông nghiệp: Trên cơ sở đó có các kế hoạch đào tạo theo các phương châm: Đào tạo dài ạhn ở các trường chính quy, đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn dươi nhiều hình thức.
+ Bồi dưỡng cơ bản những kiến thức về kinh tế thị trường cho cán bộ nông nghiệp để giúp họ có điều kiện hướng dẫn nông dân tiếp cận thị trường để hình thành cơ cấu sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường.
Bên cạnh đó phải đào tạo,mở rộng hiểu biết cho dân cư nông thôn đặc biệt là người nông dân để họ nhận thức được vấn đề bồi dưỡng kiến thức cho bản thân họ là cần thiết. Đồng thời qua đó giúp cho cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp phổ biến, hướng dẫn kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp được thuận lợi và hiệu quả hơn.
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy thanh trì là huyện có vị trí địa lí tương đối thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các khu vực khác , có thị trường tiêu thụ rộng lớn là thủ đô hà nội ,với lực lượng lao động dồi dào ;trong những năm qua nông nghiệp hyện Thanh trì đã có những biến đổi tích cực
Ngành trồng trọt vẫn chiếm tỉ trọng tương đới lớn , trong những năm qua cùng với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung thì cơ cấu cây trồng nói riêng cũng có những biến đổi tích cực:
-Cây lương thực trong đó chủ yếu là lúa vẫn là cây trồng chiếm tỉ trọng lớn về diện tích và có xu hướng giảm xuống .Cây rau đậu các loại ngày càng trở thành cây trồng chính với giá trị kinh tế cao
-Nhìn chung trong những năm qua cơ cấu cây trồng huyện thanh trì đã biến động theo hướng tăng tỉ trọng giá trị sản lượng hàng hoá với các cây có giá trị hàng hoá lớn như rau đậu , hoa cây cảnh .
Tuy nhiên sự chuyển dịch trên chưa mạnh mẽ do còn nhiều cản trở trong quá trình chuyển dịch .Để thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng hơn nữa cần có cuộc cách mạng về giống cây ,kĩ thuật canh tác . Đồng thời hỗ trợ những mô hình kinh tế mới phát triển mạnh
Kiến nghị
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo quy hoạch đến năm 2005 và năm 2010,ngoài những giải pháp trên, huyện cần thực hiện tốt vấn đề sau:
-Có biện pháp thiết thực trong việc hỗ trợ nông dân tìm hiểu và nắm bắt thông tin thị trường
-Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình chuyển đổi ruộng đất để cho các hộ có điều kiện tập trung ruộng đát phát triển những mô hình kinh tế mới,đặc biệt là mô hình lúa - cá hoặc cá - cây ăn quả kết hợp dịch vụ
tài liệu tham khảo
1. giáo trình kinh tế nông nghiệp
(nhà xuất bản nông nghiệp năm 1996)
2. giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp
( nhà xuất bản thống kê (hà nội năm 2001))
3. giáo trình kinh tế nông thôn
( nhà xuất bản nông nghiệp năm 1995)
4. kinh tế các ngành sản xuất vật chất
( nhà xuất bản giáo dục năm 1996 )
5. báo cáo quy hoặch sử dụng đất huyện thanh trì thời kỳ 2001-2010
6. quy hoặch tổng hợp kinh tế huyện thanh trì thời kỳ 2001-2010
7. niên giám thống kê huyện thanh trì năm 2001
8. nguyên lý kinh tế nông nghiệp (khoa kinh tế nông nghiệp trường đại học tổng hợp manchester) nhà xuất bản nông nghiệp 1994
9. báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội –an ninh quốc phòng các năm(1999-2000-2001) của huyện thanh trì
10. Tạp chí
- Quản lý Nhà nước Số 5/2001
- Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1/2001
- Kinh tế dự báo 6/2001
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29099.doc