Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu với hơn 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% sống bằng nghề nông. Giá trị sản lượng nông nghiệp nặng 2000 đạt 108,113 tỷ đồng chiếm khoảng 25% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò, vị trí to lớn của nông nghiệp coi nông nghiệp là ngành sản xuất đặc biệt quan trọng của nước ta
Công cuộc đổi mới kinh tế nông nghiệp ở nước
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta bắt đầu từ chỉ thị 100 của Ban bí thư (1 - 1981) đến Nghị quyết 10 của Bộ chính trị. Tiếp theo đó là những giải pháp chính sách cụ thể của Chính phủ để tạo ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế nước ta. Những năm qua, nước ta từ một nước tự cung tự cấp các sản phẩm nông nghiệp đã chuyển sang một nước có nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và xuất khẩu lớn trong khu vực và thế giới, kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm trên 3 tỷ USD. Tuy nhiên trong nền kinh tế nông nghiệp vẫn sản xuất chủ yếu tập trung vào trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển nhiều, dịch vụ nông nghiệp còn rất ít. Như vậy , nhanh chóng thay đổi được bộ mặt của nông nghiệp nông thôn nói chung và chuyển dịch ngành trồng trọt nói riêng vì hiện nay ngành trồng trọt chiếm 69,10% cơ cấu ngành nông nghiệp là một vấn đề có tính cấp thiết trong điều kiện hiện nay.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc - Bắc Bộ, có vị trí quan trọng về quốc phòng an ninh không chỉ với vùng Đông Bắc mà còn đối với cả nước.
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.690,72 km2 dân số trung bình năm 2000 là 494.700 người với 9 dân tộc chính sinh sống trong đó dân tộc Tày, Nùng chiếm đa số (78,9%). Trong những năm vừa qua thực hiện Nghị Quyết Đại hội VIII của Đảng và Nghị Quyết Đại hội của tỉnh Cao Bằng lần thứ 14 cùng với cả nước, nền nông nghiệp của tỉnh đã đạt được một số thành tích đáng kể trong phát triển nền kinh tế nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng. Nhiều mô hình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã thành công và được mở rộng. Đó là các mô hình sản xuất Lúa lai, Ngô lai, Thuốc lá giống mới, các mô hình đưa một số cây trồng cạn có hiệu quả kinh tế vào gieo trồng trên đất lúa một vụ trong vụ xuân để tăng nhanh hiệu quả sử dụng đất. Tuy nhiên đến nay sự chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt còn chậm hơn so với một số tỉnh khác trong vùng và một số loại cây trồng mới đưa vào sản xuất chưa đảm bảo ổn định, có tính bền vững cao.
Để tập dượt nghiên cứu những vấn đề thực tiễn em tiến hành chọn đề tài: "Những biện pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng" làm tên chuyên đề tốt nghiệp đại học.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài làhệ thống hoá những vấn đề lý luận về cơ cấu ngành trồng trọt trên cơ sở đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh trong những năm vừa qua và lợi thế của từng vùng sinh thái ở Cao Bằng, để đưa ra những quan điểm, phương hướng, giải pháp để chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng và cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt nói chung ở tỉnh Cao Bằng trong những năm tiếp theo nhằm tạo ra các vùng sản xuất một số loại cây trồng có ưu thế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
a, Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh tập trung theo các hướng chuyển đổi sau:
+ Chuyển đổi giữa các nhóm cây trồng (cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả).
+ Chuyển đổi về giống cây trồng
+ Chuyển đổi về mùa vụ
+ Chuyển đổi về cơ cấu ngành trồng trọt theo vùng lãnh thổ (3 tiểu vùng sinh thái).
b, Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ tỉnh Cao Bằng
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài trong quá trình nghiên cứu tập trung áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp so sánh đối chứng.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp toán thống kê.
- Phương pháp logic và lịch sử.
5. Cấu trúc của chuyên đề.
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề có ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng thời kỳ 1999 - 2000.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng đến năm 2010.
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển
dịch cơ cấu ngành trồng trọt
I. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của cơ cấu ngành trồng trọt.
I.1. Khái niệm về cơ cấu ngành trồng trọt.
Cơ cấu ngành trồng trọt là một phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp, đồng thời cơ cấu ngành trồng trọt cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng của chiến lược nông sản phẩm.
Cơ cấu ngành trồng trọt xuất phát từ thuật ngữ "cơ cấu" theo thuyết cấu trúc và học thuyết tổ chức hữu cơ, thì cơ cấu có thể hiểu như là một cơ thể được hình thành trong điều kiện môi trường nhất định. Trong đó các bộ phận hay yếu tố của nó được cấu tạo có tính quy luật và hệ thống theo một trình tự và tỷ lệ thích ứng. Nội dung cốt lõi của nó là biểu hiện vị trí, vai trò của từng bộ phận hợp thành và có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong tổng thể. Một cơ cấu có thể được thay đổi để phù hợp với điều kiện khách quan nhất định. Suy rộng ra cơ cấu cây trồng có thể quan niệm trên cơ sở của khái niệm cơ cấu kinh tế: "Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác của mỗi bộ phận ấy trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội".
Một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ cho phép tạo nên sự cân đối hài hoà của nền kinh tế để sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, của cải vật chất và lao động. Xem xét cơ cấu kinh tế là xem xét cấu trúc bên trong của quá trình tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế thông qua các mối quan hệ kinh tế. Đó là quan hệ tỷ lệ về lượng và chất. Còn quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm toàn bộ quan hệ sản xuất tồn tại thích ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Cơ cấu kinh tế của một xã hội luôn chịu ảnh hưởng bởi quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Mối quan hệ kinh tế đó không phải những quan hệ riêng lẻ, tách rời của các bộ phận kinh tế mà là những quan hệ tổng thể của các bộ phận cấu thành kinh tế như: quan hệ giữa các ngành kinh tế (Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ …), giữa các vùng kinh tế, giữa các thành phần kinh tế … Những quan hệ này là quan hệ về mặt lượng lẫn mặt chất. Cơ cấu kinh tế bao giờ cũng biểu hiện trong những điều kiện về thời gian và không gian nhất định trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu ngành trồng trọt thích hợp với điều kiện của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi địa phương. Đồng thời cơ cấu kinh tế không tồn tại một cách cố định lâu dài, mà luôn có sự biến động và phải có những chuyển dịch cần thiết thích hợp với sự thay đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đều gây ra những thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy có nên biến đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay không, chuyển dịch nhanh hay chậm không phải dựa vào mong muốn chủ quan mà phải dựa vào mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế xã hội như thế nào. Điều này thật cần thiết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước, mỗi ngành kinh tế trong đó có cơ cấu của ngành nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng.
I.2. Đặc điểm của cơ cấu ngành trồng trọt.
I.2.1. Cơ cấu ngành trồng trọt mang tính khách quan.
Mỗi ngành, mỗi vùng đều có cơ cấu riêng của mình theo điều kiện tự nhiên xã hội, điều kiện kinh tế cụ thể. Đối với cơ cấu ngành trồng trọt cũng vậy sự phát triển của nó cũng còn tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó đã xác lập nhưng tỷ lệ theo các mối quan hệ tất yếu. Vai trò của yếu tó chủ quan là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc của quy luật khách quan mà phân tích, đánh giá những xu hướng phát triển khác nhau đôi khi còn mâu thuẫn nhau, để tìm ra những phương án thay đổi cơ cấu có hiệu quả cao nhất trong những điều kiện cụ thể của đất nước. Do đó con người có thể tác động góp phần thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế hợp lý và ngược lại.
I.2.2. Cơ cấu ngành trồng trọt mang tính lịch sử và xã hội nhất định.
Cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung đều phản ánh lên cái tính quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu này ở mỗi nơi lại khác nhau và trong mỗi nước thì mỗi vùng lại có một cơ cấu khác nhau do đó cơ cấu ngành trồng trọt mang tính "vùng" rõ rệt. Vì vậy đòi hỏi người sản xuất phải tôn trọng tính "vùng" của ngành trồng trọt để có thể xây dựng một cơ cấu ngành linh hoạt, mềm dẻo, tránh tính cứng nhắc của một cơ cấu để đảm bảo hiệu quả kinh tế, phát huy được tính vùng.
I.2.3. Cơ cấu ngành trồng trọt không cố định mà luôn vận động.
Cơ cấu ngành trồng trọt không thể cố định mà luôn có sự biến đổi, điểu chỉnh thích hợp với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ đảm bảo quy mô và phát triển kinh tế. Trong triết học, Các Mác nói rằng: "Sự vật hiện tượng luôn vận động và biến đổi không ngừng". Cơ cấu ngành trồng trọt phát triển và biến đổi chặt chẽ gắn bó với sự phát triển và biến đổi của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì con người càng văn minh, khoa học càng hiện đại, công nghệ càng tiên tiến, chuyên môn hoá và phân công lao động ngày càng cao, tất yếu sẽ dẫn đến cơ cấu kinh tế ngày càng hoàn thiện. Bên cạnh đó là sự vận động và biến đổi của các bộ phận kinh tế. Đây là mối quan hệ chuyển hoá lẫn nhau. Bộ phận kinh tế thay đổi phát triển hơn tất yếu sẽ kéo theo cơ cấu kinh tế ngày một biến đổi hoàn thiện hơn. Từ sự thay đổi về lượng đến sự thay đổi về chất, một cơ cấu kinh tế mới ra đời tiến bộ hơn để phù hợp với sự biến đổi đó, nó phản ánh sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại.
Tuy nhiên cơ cấu kinh tế luôn luôn thay đổi mà nó phải tương đối ổn định nhằm đảm bảo sự phù hợp với quá trình hình thành và phát triển của nó một cách khách quan. Bởi vì sự thay đổi thường xuyên của cơ cấu kinh tế sẽ tạo sự thay đổi không ổn định của sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật gây nên lãng phí tổn thất cho nền kinh tế.
I.2.4. Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt là một quá trình.
Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt là một quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ kinh tế theo mục đích và phương hướng nhất định. Chuyển dịch ở đây cũng có nghĩa là sự vận động, biến đổi của cơ cấu kinh tế từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp.
Nói đến chuyển dịch cơ cấu là một quá trình cũng có nghĩa là một sự nóng vội hoặc bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều có thể gây hại cho nền kinh tế quốc dân. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải là một quá trình nhưng không phải là quá trình tự phát mà con người có thể và nhất thiết phải tác động và thúc đẩy, thậm chí có những can thiệp nhằm thúc đẩy quá trình này. Tất nhiên sự tác động này của con người phải trên cơ sở nhận thức được những quy luật khách quan của chúng để tác động đúng mục tiêu đã được hoạch định. Vấn đề quan trọng phải là từ đầu với những biện pháp nào và tác động vào khâu nào để có thể gây phản ứng dây chuyền tạo ra bước phát triển mới cho tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời ngành trồng trọt lại có những đặc điểm riêng của mình, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Do ngành trồng trọt sản xuất theo phương pháp sinh học nên nó chịu sự chi phối, lệ thuộc rất lớn, rất quan trọng và nghiêm ngặt của các điều kiện tự nhiên. Quá trình hình thành và phát triển cơ cấu ngành trồng trọt gắn với việc bố trí và chuyên môn hoá sản xuất cây trồng. Chuyên môn hoá nông nghiệp nói chung và cây trồng nói riêng nó là một tất yếu tuy nhiên không thể tiến hành một cách cao độ, triệt để như trong công nghiệp được mà cần thiết phải kết hợp với phát triển tổng hợp vì:
Trong nhiều vùng có nhiều loại đất khác nhau không trồng một loại cây như nhau, cần kết hợp với phát triển tổng hợp, sử dụng các tiềm năng đa dạng.
- Các loại cây con có mối quan hệ hữu cơ là điều kiện để hỗ trợ cho nhau vì vậy sản xuất tổng hợp mới đem lại hiệu quả cao.
- Để khắc phục tính thời vụ cao trong ngành trồng trọt.
- Nhiều loại sản phẩm có nhu cầu tiêu thụ nội bộ rất lớn, vì vậy kinh doanh tổng hợp góp phần giải quyết nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển cho xã hội.
Sự rủi ro trong nông nghiệp trong đó có ngành trồng trọt là khá lớn nên kinh doanh tổng hợp đảm bảo an toàn hơn.
I.3. Nội dung của cơ cấu ngành trồng trọt.
Cơ cấu ngành trồng trọt cũng như cơ cấu kinh tế nông nghiệp nó bao gồm: Cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ.
I.3.1. Cơ cấu ngành và nội bộ ngành nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt biểu hiện sự thay đổi. Cây lương thực và cây thực phẩm, cây ăn quả, cây lúa, cây màu … qua sự thay đổi đó cần phân biệt theo đặc trưng kỹ thuật kinh tế đề ra một hệ thống phân công lao động phù hợp giữa các nhóm cây trồng.
I.3.2. Cơ cấu vùng lãnh thổ của ngành trồng trọt.
Đối với cơ cấu ngành trồng trọt, cơ cấu vùng xuất phát từ những hoạt động sản xuất các loại cây trồng, do đó nói về mặt vị trí địa lý các vùng trong nông nghiệp thường là vị trí rộng lớn, thưa dân cư, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng cơ sở hạ tầng, văn hoá, giáo dục … lại kém phát triển hơn các vùng kinh tế khác nhau … và cơ cấu vùng (lãnh thổ) gắn với những điều kiện không gian cụ thể. Do vậy nếu mỗi vùng mỗi địa phương có một cơ cấu cây trồng thích hợp kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi và dịch vụ khác một cách hợp lý có hiệu quả nhất thì sẽ phát huy được thế mạnh của từng vùng, từng địa phương.
I.3.3. Cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế hiện nay, các ngành kinh tế nói chung và các ngành kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng có nhiều sự thay đổi về mặt quản lý, mô hình sản xuất, tổ chức … dẫn đến sự thay đổi đó dẫn đến sự phát triển và hoàn thiện dần cơ cấu các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế hộ nông dân, kinh tế tư nhân.
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành trồng trọt và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
II.1. Những nhân tố tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
Cơ cấu ngành trồng trọt chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, mỗi nhân tố đều có vai trò, vị trí tác động nhất định tới cơ cấu ngành trồng trọt. Có những nhân tố tác động tích cực, nhưng cũng có những nhân tố tác động tiêu cực. Có những nhân tố được coi là năng động vào thời điểm này ở vùng này nhưng ở vùng khác lại bị coi là trì trệ. Tổng hợp các nhân tố có ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế ngành trồng trọt cho phép chúng ta tìm lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương để từ đó có thể lựa chọn được một cách sơ bộ nhất một cơ cấu hợp lý hài hoà, thích hợp nhất với sự tác động của các nhân tố đó.
II.1.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên.
Nhóm này bao gồm các yếu tố: Vị trí địa lý của các vùng lãnh thổ, điều kiện đất đai giữa các vùng, điều kiện khí hậu thời tiết các vùng, các nguồn tài nguyên khác của vùng (nguồn nước, rừng, biển, quỹ gien, khoáng sản …).
Các nhân tố tự nhiên trên tác động một cách trực tiếp với sự hình thành vận động và biến đổi của cơ cấu ngành trồng trọt. Sự tác động với ảnh hưởng của cơ cấu điều kiện tự nhiên tới mỗi loại cây trồng không giống nhau. Chính từ sự tác động không giống nhau đó làm cho số lượng và quy mô của các loại cây trồng khác nhau. Điều này được thể hiện rõ nét trong sự phân biệt về cơ cấu cây trồng giữa các vùng trong cả nước đặc biệt là giữa đồng bằng và miền núi, hay là ngay bản thân trong cùng một lãnh thổ. Do đó phải dựa vào cơ sở của các phương án phân vùng quy hoạch nông nghiệp nhất là việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, hình thành các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao. Cần phải nhận thức rằng không thể dựa vào quan niệm sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún, để bố trí cây trồng một cách dàn trải, bất hợp lý. Nói tóm lại, muốn đạt được một khối lượng sản phẩm cao trên một đơn vị diện tích trong sản xuất trồng trọt phải bố trí một hệ thống cây trồng đảm bảo lợi dụng tốt nhất các điều kiện địa hình, khí hậu đất đai. (Bởi vì bản thân cây trồng đều là cơ thể sống chúng tồn tại sinh trưởng theo quy luật sinh học) và tránh được các tác hại do thiên tai gây ra và còn lợi dụng triệt để những đặc tính sinh học tốt của cây trồng.
Từ những điều kiện đó để bố trí được một cơ cấu ngành trồng trọt hợp lý cần phải phân tích đánh giá được điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu…v quần thể thực vật của vùng.
II.1.2. Nhóm điều kiện kinh tế - xã hội.
Nhóm này bao gồm các nhân tố như: thị trường (thị trường trong và ngoài nước) hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng kinh nghiệm tập quán và truyền thống sản xuất của dân cư, dân số và lao động … Nhóm nhân tố này luôn có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu trồng trọt nói riêng.
Trong các nhân tố trên thì nhân tố thị trường có điều kiện quyết định tới sự phát triển kinh tế nói chung và sự hình thành biến đổi cơ cấu kinh tế, bởi vì nó chỉ tồn tại và vận dụng thông qua hoạt động của con người. Những người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem bán ra thị trường, trao đổi những sản phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi ích thoả đáng, như vậy thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu giá cả, hàng hoá thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường. Do đó chính từ thị trường mà người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường những loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ gì? Với quy mô nào? Thông qua đó phản ánh cơ cấu kinh tế từng vùng, từng địa phương. Tuy nhiên do mức độ tiếp nhận thông tin khác nhau và khả năng xử lý cũng khác nhau, điều kiện sản xuất lại chi phối dẫn đến lượng người tham gia vào việc tạo ra và tiêu thụ sản phẩm cũng không giống nhau.
Cơ cấu ngành trồng trọt về cơ bản phản ánh yêu cầu của sản xuất hàng hoá và thị trường, tuân theo sự phân công lao động xã hội, tính chất chuyên môn hoá tập trung hoá sản xuất. Nhu cầu sản xuất hàng hoá và thị trường là điều kiện quyết định sự biến đổi về chất của cơ cấu cây trồng. Suy cho cùng thì nhu cầu về nông sản và môi sinh của xã hội càng cao thì càng thúc đẩy cơ cấu cây trồng chuyển biến theo hướng tiến bộ.
Từ đặc điểm đó đòi hỏi khi xác định cơ cấu cây trồng thì cần được dựa vào nhu cầu thị trường nông sản, điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, sự phân công vùng quy hoạch nông nghiệp và phương hướng phát triển nông nghiệp trong từng thời kỳ.
II.1.3. Nhóm nhân tố về tổ chức kỹ thuật.
Nhóm này gồm: Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương thức sản xuất nhằm khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội và trong ngành trồng trọt. Thông qua đó thúc đẩy sự phát triển các ngành sản xuất, các vùng kinh tế, đặc biệt là những ngành, những vùng có lợi thế. Như vậy chúng ta thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, hơn nữa các nhân tố đó lại tác động hữu ứng và thay đổi thường xuyên. Nên việc xác định cơ cấu ngành trồng trọt trước hết phải tìm hiểu nhu cầu thị trường cả trong và ngoài nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả. Trên cơ sở đó mà tự có sự bố trí sắp xếp sản xuất hợp lý đáp ứng được nhu cầu thị trường thúc đẩy nhanh tái sản xuất mở rộng.
II.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
Ngành trồng trọt là đối tượng chủ yếu của sản xuất nông nghiệp, ở nước ta hiện nay tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm khoảng 80% tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Do đó để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và tăng nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp cần phải đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt. Muốn vậy trước hết phải sử dụng một cách hợp lý nhất các điều kiện tự nhiên như: Khí hậu đất đai, nước, cây trồng và các nguồn lợi kinh tế - xã hội: như lao động, tiền vốn, vật tư, kỹ thuật … Một trong những biện pháp kinh tế kĩ thuật nhằm tận dụng tối ưu các nguồn lợi tự nhiên và kinh tế - xã hội là bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý với từng vùng, từng địa phương. Nếu mỗi vùng, mỗi địa phương có một cơ cấu cây trồng thích hợp kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi và các ngành dịch vụ khác một cách hợp lý có hiệu quả nhất thì sẽ phát huy được thế mạnh của từng vùng, từng địa phương. Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu cây trồng cần phải được phối hợp với hàng loạt các chính sách khác sao cho hài hoà thích hợp, nhằm khai thác một cách triệt để và có hiệu quả kinh tế các thế mạnh của địa phương.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế mới phát triển như nước ta thì sự chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
III. xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
III.1. Chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá.
Từ lịch sử phát triển của xã hội loài người được đánh dấu một bước tiến bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là sự ra đời và phát triển của lưu thông hàng hoá. Sự phát triển không ngừng của sản xuất hàng hoá trên tất cả các lĩnh vực của hoạt động kinh tế là tất yếu khách quan. Quá trình chuyển dịch từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá cũng là một yếu tố khách quan đối với phát triển một nền nông nghiệp hiện đại. Phải thừa nhận rằng không thể có tái sản xuất mở rộng với nhịp độ phát triển nhanh đối với một nền nông nghiệp và một cơ cấu cây trồng mang tính tự nhiên.
Kinh tế hàng hoá có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, nó thể hiện trước hết ở chỗ nó đòi hỏi mỗi người sản xuất không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách giảm hao phí lao động cá biệt sao cho phù hợp với lao động xã hội cần thiết, nhờ có hiệu quả sản xuất xã hội được nâng cao. Trong nền kinh tế hàng hoá, các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ tiền tệ - hàng hoá và được thực hiện thông qua thị trường do đó phải lấy thị trường làm gốc, là điểm xuất phát cho các dự án và đề án phát triển nông nghiệp hàng hoá.
Phát triển sản xuất hàng hoá phải gắn liền với thị trường, gắn liền với sự trao đổi hàng hoá, với sự điều tiết của Nhà nước. Nhưng Nhà nước cũng không vì thế mà thay thế cho thị trường.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang nền kinh tế thị trường sự phát triển của nông nghiệp nông thôn nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng, cũng phải hướng theo sự phát triển, bởi vì trong nền kinh tế thị trường, thị trường luôn là yếu tố quyết định đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nông thôn nói riêng. Trong khi xã hội không ngừng phát triển, nhu cầu của con người về nông sản phẩm theo đó cũng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, chủng loại … điều đó cũng chính là đòi hỏi của thị trường, buộc sản xuất phải đáp ứng những nhu cầu đó, điều này tất yếu sẽ phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Muốn vậy không thể dừng lại ở cơ cấu kinh tế truyền thống mà đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu và tác động của thị trường.
Trong điều kiện nước ta việc xác định cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá, phải tiến hành nghiên cứu thị trường, làm tốt công tác tiếp thị để tránh thiệt hại do xác định nhu cầu thị trường không chính xác gây ra, có nghĩa là phải nhận thức đầy đủ quan hệ cung cầu để hành động phù hợp với các quy luật của nó. Đối với nước ta hiện nay sản xuất lương thực đã đáp ứng đủ nhu cầu ăn, có dự trữ và hàng năm xuất khẩu đạt khá cao.
III.2. Chuyển dịch theo hướng khai thác tốt lợi thế so sánh từng vùng.
Đặc trưng của thị trường là có sự cạnh tranh vì thế để đảm bảo thắng lợi cho cạnh tranh kinh tế cần phải biết sử dụng lợi thế so sánh. Điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới cho phép gieo trồng và thu hoạch nhiều vụ, nhiều loại cây trồng và sản phẩm đa dạng phong phú.
Do vị trí địa lý, điều kiện đất đai và sự phân bố không đồng đều giữa các tiểu vùng sinh thái khác nhau trong từng địa phương nên các địa phương cần bố trí cây trồng sao cho tận dụng tối đa những lợi thế của mình nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
III.3. Chuyển dịch theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là mục tiêu chính, là đặc trưng cơ bản của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nếu không thì việc chuyển đổi trở nên không có ý nghĩa. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế xã hội cũng cần được xem xét trên quan điểm toàn diện. Do đó chỉ tiêu phải được nghiên cứu đánh giá nhịp độ phát triển của sản xuất nông nghiệp nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải vừa đảm bảo tăng hiệu quả kinh tế vừa phải giải quyết công ăn việc làm cho các tầng lớp dân cư trong nông thôn, phải tham gia xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời cơ cấu cây trồng phải thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển để làm giàu cho bản thân và sự thịnh vượng của đất nước.
III.4. Phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá hình thức sở hữu và tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quá trình chuyển dịch.
Để giải phóng năng lực sản xuất huy động nguồn vốn trong nhân dân trước hết phải coi trọng và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Trong một thời gian khá dài các tổ chức kinh tế hợp tác xã và nông trường quốc doanh là những chủ thể quản lý và sử dụng hầu hết đất nông nghiệp. Do trình độ quản lý thấp, cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ đã tạo cho các cơ sở sản xuất thiếu chủ động và nhạy bén trong sản xuất kinh doanh.
Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc xác định cơ cấu cây trồng được các thành phần kinh tế thận trọng hơn và theo hướng sản xuất nhưng sản phẩm mà thị trường cần chứ không phải sản xuất theo kiểu kế hoạch giao từ trên xuống như trước. Rõ ràng việc xác định cơ cấu cây trồng trong cơ chế quản lý mới đa dạng, phong phú và uyển chuyển hơn trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế sẽ sử dụng đất đai trồng trọt có hiệu quả hơn.
III.5. từng bước hình thành và phát triển các vùng chuyên canh để sản xuất nhiều nông sản xuất khẩu.
Nông nghiệp nước ta phải được trú trọng và phát triển, phải tăng khối lượng nông sản xuất khẩu bằng việc đầu tư vốn và kỹ thuật thâm canh mới đạt hiệu quả và tiêu chuẩn quốc tế. Không thể phủ nhận được rằng, trong điều kiện một nước nông nghiệp có nguồn lao động rất dồi dào thì trong một thời gian dài tích luỹ phải bắt nguồn từ nông nghiệp và kim ngạch xuất khẩu nông sản đem lại. Rõ ràng việc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt phải theo hướng xuất khẩu.
IV. Chủ trương chính sách của Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng.
Trong những năm qua để tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thuận lợi và nâng cao đời sống cho các hộ nông dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách đầu tư vốn, phát triển ngành nghề và du lịch nông thôn, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển sản xuất, thực hiện chuyển giao công nghệ tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao dân trí và điều kiện sống của nông thôn. Đồng thời để tạo điều kiện cho việc thực hiện chuyên môn hoá thâm canh cao trong sản xuất nông nghiệp Nhà nước cũng đã có chính sách ruộng đất (như: giao quyền sử dụng, giao đất giao rừng, cấp thẻ đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất …) đảm bảo cho nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển và đảm bảo tiêu thụ sản phẩm, chính sách đào tạo bối dưỡng nâng cao trình độ của người lao động và chính sách hỗ trợ đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong quá trình thực hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta cũng có chủ trương đẩy mạnh việc đưa công nghệ sinh học vào sản xuất đặc biệt là việc sử dụng các giống cây trồng vật nuôi có năng suất và chất lượng cao nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn và giá trị sản lượng hàng hoá cao đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
V. Kinh nghiệm trong và ngoài nước về chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng là một vấn đề quan trọng của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước đang phát triển. Đó là quy luật chung mang tính toàn cầu. Với chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài, làm bạn với tất cả các nước và học tập kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và nước Trung Quốc láng giềng đã giúp cho chúng ta học hỏi được nhiều vấn đề trong nhiều lĩnh vực. Nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chúng ta học được rất nhiều kinh nghiệm hết sức quý báu, giúp ta có thể mau chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên lợi thế của nước ta với tất cả các nước đang phát triển là ta phát triển sau, những kinh nghiệm và thành tựu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà đất nước bạn đã đạt được, cũng như tránh được những sai lầm mà họ gặp phải trong những năm qua. Đó là những bài học bổ ích cần thiết để vận dụng nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng.
V. 1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu của Trung Quốc.
Trung Quốc là một nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta trên bước đường chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc nghiên cứu những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta là việc cần thiết. Để đạt được kết quả như hiện nay Trung Quốc đã trải qua nhiều khó khăn phức tạp. Chúng ta có thể đúc rút được bài học sau:
Kinh nghiệm thực hiện của Trung Quốc trong quá trình tổ chức chỉ đạo phát triển nông nghiệp, trước hết phải._. coi trọng sản xuất lương thực "phi thương bất phú" tức là không có lương thực thì không thể ổn định được.
Quan điểm xuyên suốt của Trung Quốc là coi nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân, trong đó coi sản xuất lương thực là cơ sở của nông nghiệp. Để đảm bảo ổn định và tăng trưởng lương thực, Trung Quốc thực hiện những biện pháp chủ yếu sau:
- ổn định diện tích gieo trồng lương thực.
- Nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích bằng con đường thâm canh.
- Xây dựng các vùng lương thực hàng hoá trọng điểm. Nhà nước thi hành chính sách nâng đỡ các vùng trọng điểm sản xuất lương thực hàng hoá đặt ra các chính sách ưu đãi, để giải quyết tốt vấn đề cơ chế đầu tư, thực hiện các giải pháp gắn đầu tư với khối lượng thực hiện hàng hoá.
- Điều chỉnh hợp lý lợi ích giữa khu vực sản xuất chủ yếu và khu vực nhận được lương thực chuyển từ nơi khác đến. Đối với các vùng sản xuất lương thực chủ yếu, Trung Quốc chủ trương thi hành các biện pháp đảm bảo lợi ích của họ. Mọi vùng, mọi địa phương căn cứ vào điều kiện của mình, sau khi đảm bảo lương thực tăng trưởng vững chắc mà có sự điều chỉnh cơ cấu ngành phát triển một cách thích đáng cây công nghiệp, nghề rừng và khai thác nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ khác. Đặc biệt Trung Quốc có chủ trương tích cực phát triển những cây trồng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và kinh doanh mở mang nhiều ngành nghề khác trong nông nghiệp.
V. 2. Kinh nghiệm chuyển dịch của Thái Lan.
Nét nổi bật nhất trong nông nghiệp Thái Lan trong mấy năm gần đây là tốc độ tăng trưởng nhanh gắn liền với đa dạng hoá. Đó là nhân tố quan trọng nhất để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng.
Tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước (GDP) về nông nghiệp trong những năm 1960 là 5,6% những năm 1970 là 4,7%; thời kỳ 1980 - 1987 là 3,7%. Trong nông nghiệp Thái Lan thực hiện đa dạng hoá theo hai hướng:
- Tăng diện tích trồng trọt và sản lượng của các loại cây trồng mới ngoài lúa gạo.
- Phát triển các hoạt động sản xuất ngoài trồng trọt như chăn nuôi, đánh bắt cá.
Kết quả đa dạng hoá đã có tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Phần trăm của nông nghiệp trong GDP đã giảm dần.
Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan.
- Thực hiện các chính sách kích thích kinh tế đối với người sản xuất để thực hiện đa dạng hoá, Chính phủ tài trợ các nguồn đầu vào, các chính sách khác để khuyến khích nông dân.
- Đa dạng hoá gắn liền với thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
- Cải tiến xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp để đưa các loại cây trồng mới vào sản xuất.
- Chú trọng phát triển các chương trình nghiên cứu và phát triển, giới thiệu cây trồng, vật nuôi hệ thống canh tác mới.
- Đáp ứng cân đối nhu cầu lương thực trong thời kỳ ngắn hạn và biến đổi cơ cấu cây trồng trong thời kỳ dài hạn.
V.3. Kinh nghiệm từ Indonexia
Bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp như kết hợp trồng trọt, chăn nuôi gia súc và cá, dùng các giống cây trồng có năng suất cao đa dạng hoá cách trồng thích hợp trên các loại đất trong vòng 9 năm đã có được những thay đổi đáng kể, trong đó thay đổi cơ bản về mặt cơ cấu cây trồng: trước năm 1975 có 64% diện tích đất bỏ hoá sau một vụ lúa, chỉ có 32% là diện tích là 2 vụ. Đến năm 1984 chỉ có 27% diện tích là một vụ lúa, 69% diện tích đã làm hai vụ hoặc ba vụ.
Theo HT. Oshia nói là ở các nước Châu á năm 1950 tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp chiếm 20% đến năm 1980 giảm xuống còn 6%. ở khu vực Đông Nam á giảm chậm hơn 1950 là 43,7% đến 1980 vẫn còn 25,7%.
V.4. Kinh nghiệm trong nước.
Để cơ cấu cây trồng mới có sản lượng cao hơn cơ cấu cây trồng cũ có hai phương hướng: Tăng năng suất cây trồng hoặc tăng vụ trong một năm.
Theo giáo sư viễn sĩ Đào Thế Tuấn có hai hướng sử dụng tốt nguồn khí hậu của mùa đông ở đồng bằng và các tỉnh phía bắc là trồng các cây có nguồn gốc sứ lạnh như khoai tây, cải bắp, xu hào … hoặc chọn các cây sứ nóng ngắn ngày như đậu tương, ngô, … chịu được lạnh để trồng cây vụ đông.
Cây vụ đông không những làm tăng tổng sản lượng, tăng hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng mà nó còn có tác dụng bảo vệ và bồi dưỡng đất.
Khi xây dựng cơ cấu ngành trồng trọt thích hợp cho mỗi vùng chúng ta cần nắm bắt được đặc điểm sinh thái của vùng, tiểu vùng. Theo các tác giả như Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên, Đào Thế Tuấn đều cho rằng trong nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác phải được bắt đầu bằng công tác truyền thống.
Tác giả Lê Trọng Cúc đã cho rằng trồng xen giữa cây lương thực và cây họ đậu cho sản lượng tổng hợp cao hơn và cải tạo đất đai tốt hơn.
Tóm lại các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về cơ cấu cây trồng nói riêng và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung ở mỗi vùng sinh thái khác nhau đã giúp cho người nông dân sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lợi tự nhiên cũng như các nguồn lợi về kinh tế xã hội làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp mà đặc biệt là hiệu quả ngành trồng trọt.
Nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Với những chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã làm cho nền kinh tế nước ta nói chung và nền nông nghiệp nói riêng đã có những bước phát triển đáng kể. Nền nông nghiệp đang dần xoá nền sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá.
Vì thế khi nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng phù hợp cho mỗi vùng sản xuất chúng ta cần phải chú trọng đến những cây trồng mà sản phẩm có sức tiêu thụ lớn, có giá trị sản phẩm hàng hoá cao nhằm tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, góp phần ổn định và cải thiện tốt đời sống nông thôn.
Chương II
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành
trồng trọt tỉnh Cao Bằng
I. Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của tỉnh Cao Bằng liên quan đến phát triển ngành trồng trọt.
I.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên.
I.1.1. Vị trí địa lý.
Cao Bằng là tỉnh thuộc vùng núi cao biên giới Đông Bắc Bắc Bộ có toạ độ địa lý:
22022' - 23008' vĩ độ Bắc.
105040' - 106040' kinh độ Đông
- Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) có đường biên giới dài 311 km.
- Phía Tây giáp tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang.
- Phía Nam giáp tỉnh Bắc Cạn.
- Phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn.
Tỉnh lỵ Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km theo đường Quốc lộ số 3 (Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Cạn - Cao Bằng) cách thị xã Lạng Sơn khoảng 120 km, theo đường Quốc lộ 4A qua Đông Khê, Thất Khê và từ đây có thể nối liền với Quảng Ninh về đường quốc lộ 4B.
Cao Bằng là tỉnh có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận với thị trường Trung Quốc có 3 cửa khẩu lớn Tà Lùng, Hùng Quốc, Sóc Hà (Tà Lùng là một trong 6 cửa khẩu lớn của quốc gia). Ngoài ra các tuyến đường giao thông Cao Bằng - Thái Nguyên - Hà Nội, Cao Bằng - Lạng Sơn khá thuận lợi. Khi quốc lộ 4 được nâng cấp, Cao Bằng sẽ có khả năng tiếp cận với cảng Cái Lân tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá giữa Cao Bằng với các vùng khác trong nước và quốc tế.
Với vị trí địa lý và điều kiện giao thông như trên, tỉnh Cao Bằng có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá.
I.1.2. Địa hình.
Cao Bằng là một tỉnh có địa hình phức tạp độ cao trung bình so với mặt biển trên 300 m, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Đỉnh cao nhất là ngọn Pha Dạ thuộc huyện Bảo Lạc có độ cao 1980 m.
Về kiểu địa hình được chia thành 3 vùng rõ rệt:
* Vùng Bồn địa: Địa hình bằng, đồi thấp xen kẽ các cánh đồng rộng, chủ yếu phân bố ở huyện Hoà An, thị xã Cao Bằng và các xã phía nam huyện Hà Quảng. Độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 100 - 200 m.
* Vùng núi đất: Chạy từ phía Tây Bắc huyện Bảo Lạc qua Nguyên Bình xuống phía Tây Nam huyện Thạch An. Độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 300 - 600m là vùng có địa hình chia cắt phức tạp có độ dốc lớn.
* Vùng núi đá vôi: Chạy từ phía Bắc và Đông dọc theo biên giới Việt - Trung, vòng xuống phía Đông nam của tỉnh. Tập trung chủ yếu ở huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Thông Nông, Hạ Lang, Quảng Hoà. Địa hình cao, chia cắt phức tạp, dốc.
Về địa thế Cao Bằng là một tỉnh có độ dốc cao đặc biệt là ở vùng núi đất.
I.1.3. Khí hậu
Do nằm sát chí tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, nên khí hậu của tỉnh Cao Bằng mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Trong năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11 đến tháng 3.
Khí hậu Cao Bằng mang tính chất đặc thù của dạng khí hậu lục địa miền núi cao, có nét đặc trưng riêng với các tỉnh khác trong vùng Đông Bắc là ở tỉnh Cao Bằng có một số tiểu vùng có khí hậu đặc biệt cho phép phát triển những loại cây trồng đặc thù như Dẻ (Trùng Khánh), Hồi (Trà Lĩnh).
- Về chế độ nhiệt: Nhìn chung không có sự khác biệt nhiều giữa các khu vực trong tỉnh. Nhiệt độ trung bình năm chênh lệch giữa các huyện vùng núi đá và vùng bồn địa Hoà An chỉ khoảng 20C. Biên độ nhiệt ngày khá cao từ 7,2 - 7,80C. Tổng tích ôn trong năm đạt 7000 - 75000C. Nhiệt độ trung bình năm 19,8 - 21,60C, nhiệt độ trung bình thấp nhất 16,7 - 18,30C. Nhiệt độ tối cao tuyệt đối là 35 - 360C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối ở vùng núi đá là -3,40C và ở vùng bồn địa là -1,30C.
- Về chế độ mưa: Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng Đông Bắc - Bắc Bộ mưa ở Cao Bằng thường tập trung từ tháng 3 đến tháng 10, lượng mưa trong thời gian này thường chiếm trên 70% lượng mưa cả năm.
Do sự chi phối của địa hình nên lượng mưa có sự khác nhau giữa các khu vực. Tại thị xã Cao Bằng là khu vực mưa vừa, có lượng mưa trung bình năm đạt 1.442,7 mm, tại Hà Quảng là khu vực có lượng mưa lớn đạt 1637,8 mm. Tại Thạch An, Bảo Lạc có lượng mưa thấp nhất (1000 - 13000 mm).
Tháng có lượng mưa lớn nhất cũng có sự khác nhau ở các khu vực tại thị xã Cao Bằng mưa lớn nhất vào tháng 8 với lượng mưa là 267,1 mm/tháng. Tại Trùng Khánh mưa lớn nhất vào tháng 7, lượng mưa đạt 309,8 mm/tháng còn ở Hà Quảng mưa lớn nhất trong tháng 6 với lượng mưa 308,5 mm/tháng.
- Lượng bốc hơi: Trung bình năm ở Cao Bằng biến động từ 850mm đến 1000mm. Tại thị xã Cao Bằng có tới 6 tháng, tại Trùng Khánh và Hà Quảng có 5 tháng lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa.
Để đánh giá một cách khái quát về cán cân mưa - ẩm của tỉnh cần phải xem xét chỉ số ẩm ướt của các khu vực trong tỉnh. Nhìn chung chỉ số ẩm ướt trung bình trong năm ở Cao Bằng trong phạm vi từ 1,4 - 2,0. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là các tháng mùa mưa chỉ số này lên tới 4 - 5 ngược lại trong các tháng mùa khô chỉ số này thường dưới 0,5 nên gây ra tình trạng khô hạn.
Do sự chi phối của địa hình nên khí hậu Cao Bằng mang tính chất đặc thù của khí hậu lục địa miền núi cao. Với đặc điểm khí hậu như trên cho phép phát triển được một nền nông nghiệp đa dạng và gieo trồng được nhiều vụ trong năm.
I.1.4. Thuỷ văn.
Chế độ thuỷ văn các sông ở tỉnh Cao Bằng phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và khả năng điều tiết của lưu vực. Có thể chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn.
- Chế độ mùa lũ:
Mùa lũ trên các sông ở Cao Bằng bắt đầu tương đối đồng nhất về thời gian, thường bắt đầu vào tháng 6 và kết thúc và tháng 10. Tuy nhiên trong những năm cụ thể, giới hạn này có thể dao động trong phạm vi một tháng (nhưng ít xảy ra).
Lượng nước trên các sông suối trong mùa lũ thường chiếm khoảng 65 - 80% lượng nước cả năm. Những lưu vực có nhiều đá vôi, tỷ lệ lượng nước trong mùa lũ so với lượng nước cả năm có phần lớn hơn tỷ lệ chung nêu trên.
Trong mùa lũ phân phối dòng chảy của các tháng không đều. Lũ lớn thường tập trung vào tháng 3, lượng nước của 3 tháng này có thể bằng 55 - 65% lượng nước cả năm. Các tháng 6, 7, 8 và đặc biệt tháng 7, 8 thường là những tháng có dòng chảy lớn nhất.
- Chế độ mùa cạn:
Chế độ thuỷ văn trên các sông suối ở Cao Bằng trong mùa cạn có quan hệ mật thiết với các yếu tố. Dòng chảy năm, lượng mưa năm và các điều kiện khác của lưu vực như diện tích hứng nước, thổ nhưỡng, thảm thực vật, cấu trúc địa tầng, mức độ hang động của đá vôi và các yếu tố khí hậu. Những nhân tố này có tác dụng làm quá trình điều tiết dòng chảy mùa cạn nhanh hay chậm. Đặc điểm của lưu vực một số sông suối ở Cao Bằng có nhiều đá vôi, làm phức tạp thêm quá trình hình thành nước sông trong mùa cạn. Đường phân nước trên mặt lưu vực có khi không trùng với đường phân nước của các địa tầng dẫn đến lưu vực này mất nước, lưu vực kia nhận thêm nước.
Nhìn chung trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đỉnh mùa cạn của các sông suối kéo dài khoảng 3 tháng (1 - 3) mùa cạn thường bắt đầu vào tháng 9, 10 có năm muộn vào tháng 11. Mùa cạn kết thúc vào tháng 4 có năm muộn là tháng 6,7. Thời điểm bắt đầu và kết thúc mùa cạn ít biến đổi từ khu vực này sang khu vực khác. Thời điểm kết thúc của mùa cạn có thể muộn hơn thời điểm bắt đầu của mùa mưa, có khi trên địa bàn tỉnh có nơi có mưa rào nhưng ở một số sông suối trong thời gian đó vẫn ở mức cạn kiệt nhất.
Với chế độ thủy văn như trên cần bố trí trồng các cây phù hợp trong các mùa thủy văn nhằm hạn chế những bất lợi do chế độ thủy văn gây ra.
Cao Bằng là vùng thượng nguồn của một số sông thuộc hai hệ thống sông Hồng và sông Tả Giang (Trung Quốc). Trên địa bàn có khoảng 1200 con sông suối có chiều dài từ 2 km trở lên với tổng chiều dài 3.175 km, mật độ sông suối 0,41 km/km2.
Các sông chính bao gồm sông Bằng, sông Năng, sông Quây Sơn, sông Gâm.
- Sông Bằng: Sông này gồm 2 nhánh chính, nhánh phía tây bắt nguồn từ huyện Thông Nông, nhánh phía đông bắt nguồn từ huyện Trùng Khánh và đổ vào Trung Quốc qua Thuỷ Khẩu. Diện tích lưu vực tính đến thuỷ khẩu là 4560 km2 (phần Việt Nam 4000 km2). Đây là con sông lớn nhất tỉnh Cao Bằng lưu lượng nước trung bình của sông này là 72,5 m3/s.
- Sông Gâm: Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Bảo Lạc sau đó nhập với sông Nho Quế chảy từ Hà Quảng sang. Diện tích lưu vực tính đến Bảo Lạc là 4060 km2 chiều dài sông chính là 113 km.
- Sông Quây Sơn: Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Trùng Khánh sau đó lại chảy sang Trung Quốc đến thác Bản Dốc là 1570 km2 chiều dài sông chính 89 km (phần chảy qua Việt Nam 38 km).
I.1.5. Đặc điểm đất đai
Kết quả điều tra bổ sung xây dựng bản đồ đất tỉnh Cao Bằng (tỷ lệ 1/100.000) cho thấy sự chi phối của địa hình và khí hậu đất đồi núi ở Cao Bằng chiếm tới trên 90% và được hình thành do kết quả phong hoá nhanh, mạnh, triệt để, đồng thời cũng dể bị thoái hoá, rửa trôi, xói mòn mạnh một khi mất cân bằng sinh thái.
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có các loại đất chính sau đây:
* Đất phù sa (P) Fluvisols (FL). Diện tích 4.273 ha.
Đất phù sa ở tỉnh Cao Bằng hình thành từ các sản phẩm bồi tụ của các sông suối (sông Gâm, sông Bắc Vọng và sông Quây Sơn …). Loại đất này được phân bố tập trung ở các huyện Hoà An, Trùng Khánh, Nguyên Bình, Hà Quảng.
Đa số đất phù sa ở Cao Bằng có phản ứng từ chua đến trung tính là kiềm yếu. Độ phì nhiêu thuộc loại trung bình so với đất phù sa thuộc vùng trung du và miền núi ở nước ta. Diện tích đất phù sa chua nhiều, có dấu hiệu và đang thoái hoá và độ phì nhiêu thấp chỉ khoảng 7% của nhóm đất này.
* Đất Glây (GL) Gleysols (GL). Diện tích 354 ha.
Đất Glây chia ra 1 đơn vị: Đất Glây chua (GLc) và một đơn vị đất phụ: Đất Glây chua kết von rất sâu (GLc - Fez)
Đất Glây có thành phần cơ giới nặng, giàu hữu cơ và đạm tổng số. Tuy nhiên hạn chế chính của nhóm đất này là cấu trúc kém, khó thoát nước, chua chứa một số đặc tố cây trồng.
* Đất than Bùn (T) Histoslos (HS). Diện tích 11 ha.
Đất than Bùn chiếm diện tích nhỏ ở Lăng Hiếu, Trùng Khánh, Cao Bằng.
* Đất Xám (X) Acrisol (AC). Diện tích 325.269 ha.
Đây là loại đất có diện tích lớn phân bố hầu hết ở các huyện của tỉnh Cao Bằng. Nhóm đất này có đặc điểm rất đa dạng và phức tạp.
* Đất Đỏ (F) Ferralsols (FR). Diện tích 40.345 ha.
Nhóm đất này chiếm 6% diện tích tự nhiên của tỉnh Cao Bằng. Nhìn chung đất đỏ ở Cao Bằng phát triển chủ yếu trên đá macma bazơ và trung tính, đá vôi. Đặc điểm của chúng rất đa dạng, tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu, sinh vật đá mẹ và các hoạt động sản xuất đa dạng. Tuy nhiên cần nhấn mạnh một số đặc điểm chung của nhóm đất này là: chua, độ no bazơ thấp, dung tích hấp thụ thấp, giàu khoáng sét Kaolinit, axit mùn chủ yếu là Fulvic, chất dễ hoà tan bị rửa trôi, có quá trình tích luỹ Fe, Al tương đối và tuyệt đối, cấu trúc phát triển và hạt két bền.
Đây là nhóm đất tốt vùng đồi núi tỉnh Cao Bằng thích hợp để phát triển nhiều loại cây lâu năm, cây ăn quả, dược liệu, cây trồng cạn. Tuy nhiên diện tích đáng kể của tầng đất này có tầng không dày, nhiều đá lộ đầu, đá lẫn. Tình trạng rửa trôi xói mòn và khô hạn trên nhóm đất này cũng khá nghiêm trọng.
* Đất đen và nâu (R) Luvisols (LV). Diện tích 14.864 ha
Nhóm đất này có phản ứng ít chua đến kiềm yếu: mùn trung bình đến giàu. Dung tích hấp thụ cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng, thuộc loại trung bình và tương đối cân bằng.
Đất đen và đất nâu thích hợp cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng: ngô, đậu tương, lúa, mía, cây ăn quả, cây dược liệu. Tuy nhiên đây là nhóm đất thường có tầng không dày, lẫn nhiều đá, bị khô hạn nặng nề về mùa khô.
* Đất đen Secpentin (RR) Vertisols (VR). Diện tích 10 ha.
Nhóm đất đen Secpentin có diện tích nhỏ ở khu vực xã Ngũ Lão, Hoà An nhóm này chỉ có ở một đơn vị.
Đất đen Secpentin có tầng đất mỏng và lẫn nhiều đá. Màu đất xám nâu đến đen, nứt nẻ mạnh trong phẫu diện từ mặt đất xuống lớp mẫu đất.
Hàm lượng mùa khá, phản ứng đất kiềm yếu. Loại đất này đang được sử dụng trồng lúa, rau và màu. Tuy nhiên đất này chứa lượng (Mg) khá cao dễ gây độc hại cho cây trồng.
* Đất tích Vôi (V) Calsisols (VR). Diện tích 4.575 ha.
Nhóm đất này tập trung ở vùng núi đá vôi và được chia ra hai đơn vị trên bản đồ đất 1/100.000 tỉnh Cao Bằng.
Đất tích vôi ở mức độ khác nhau đã được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp để trồng các cây rau, màu, lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên khi sử dụng nhóm đất này cần chú ý đến hiệu quả của các loại phân bón.
* Đất mùn Alit núi cao (A) Alisols (AL). Diện tích 89 ha.
Đất này tập trung chủ yếu ở độ cao trên 1800 m thuộc núi Phia Bioc (Nguyên Bình, Cao Bằng)
Nhóm đất này nằm ở địa hình cao, chia cắt dốc nhiều. Tầng đất mịn mỏng dưới 50 cm. Trên mặt có lớp tàn tích thực vật dày. Phản ứng của đất chua.
Đất mùn Alit núi cao cần được bảo vệ bằng cách giữ rừng và phát triển các cây đặc sản, cây dược liệu phù hợp với vùng sinh thái ở đây.
* Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá (E) Leptosolos (LP). Diện tích 5914 ha.
Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá cần được sử dụng hợp lý. Trước hết cần nhanh chóng phủ xanh bằng thảm thực vật đa dạng và đa dạng phù hợp với môi trường sinh thái cụ thể. Đây là việc làm thiết thực nhất để bảo vệ môi trường, giữ đất, giữ màu phục hồi độ phì nhiêu của đất.
I.1.6. Đặc điểm tài nguyên thực vật.
I.1.6.1. Cây trồng nông nghiệp.
Do cấu trúc địa hình và khí hậu đa dạng nên đã tạo ra sự đa dạng về cây trồng. ở Cao Bằng cũng có khá nhiều loại cây trồng có nguồn gốc từ nhiệt đới đến á nhiệt đới và ôn đới.
- Các cây trồng nhiệt đới:
+ Cây lúa: Ngoài những giống lúa địa phương và giống lúa thuần mới đưa vào vùng, hiện nay đã có một số giống lúa lai.
+ Cây ngô: Ngoài những giống ngô địa phương, hiện nay đã đưa vào mỗi vùng một số giống ngô có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt như: ngô lai số 5, 6, 8 Bioseed, LVN 10, VM 1, LVN 5 …
+ Cây đậu tương: Hiện nay trong tỉnh đã phát triển giống đậu tương DT 84, DT 80, DT 90. Đây là những giống đậu tương ngắn ngày, năng suất cao phù hợp với điều kiện sản xuất.
+ Cây mía: Trong vùng hiện đang được mở rộng diện tích trồng giống ROC 1, ROC 10. Đây là các giống có trữ lượng đường cao, năng suất khá.
+ Cây thuốc lá: Hiện nay tỉnh là vùng trọng điểm về trồng cây thuốc lá.
+ Cây ăn quả: Cây ăn quả có nguồn gốc nhiệt đới đang được phát triển trong vùng.
- Cây trồng á nhiệt đới:
+ Cây chè: Đây là cây trồng được phát triển khá rộng rãi trong vùng. Ngoài những giống chè đã có trước đây. Hiện nay trong vùng đã đưa vào trồng một số giống chè mới có chất lượng cao như TR 1 - 177, H3, Ô Long Đài Loan …
+ Cây ăn quả có mùi (gồm cam, quýt, bưởi): Cao Bằng được coi là vùng thích hợp với cây ăn quả có mùi với điều kiện khí hậu mùa đông lạnh và đất tốt cây ăn quả có mùi có năng suất cao, ngon, mẫu mã đẹp.
- Cây trồng có nguồn gốc ôn đới: Hiện nay trong vùng đã đưa vào trồng một số loại cây trồng có nguồn gốc ôn đới cho kết quả khá tốt như tập đoàn cây dược liệu, tập đoàn cây ăn quả ôn đới (mận, lê, đào, táo …), các giống khoai tây nhập nội.
I.1.6.2. Tài nguyên rừng.
Hiện nay diện tích đất rừng 267.104,3 ha, trong đó diện tích rừng trồng là 10.712,7 ha. Như vậy tỷ lệ che phủ của thảm thực vật rừng trên địa bàn tỉnh đạt 30,95% diện tích tự nhiên. Đây là một tỷ lệ che phủ tương đối khá so với các tỉnh ở vùng miền núi phía bắc.
Nhìn chung rừng tự nhiên của tỉnh suy thoái nhanh, tán che thấp, chủ yếu là rừng nghèo kiệt. Theo điều tra, trong tổng số 196.391,6 ha rừng tự nhiên của tỉnh có tới 67,42% diện tích là rừng non.
Về động vật rừng của Cao Bằng, hiện nay chỉ còn các loài chim, thú. Những động vật rừng quý hiếm như hổ, gấu, hươu đã di cư đi nơi khác, số còn lại gần như bị diệt chủng.
I.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
I.2.1. Tình hình dân số, lao động, thu nhập và mức sống.
Theo ước tính, dân số trung bình của tỉnh năm 2000 là 494.742 người cư trú ở 175 xã phường, thị trấn thuộc 11 huyện thị. Có 9 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người Tày đông nhất chiếm 43,6%, người Nùng 35,3%, người Dao 8,9%, người H'Mông 6,4, người Kinh 3,9%, người Sán Chỉ 1,1%, người Lô lô 0,15%.
Dân tộc Tày, Nùng, Kinh phân bố ở tất cả 11 huyện thị của tỉnh. Trong đó huyện Hoà An có số lượng người Tày, huyện Hà Quảng có số lượng người Nùng và thị xã có số lượng người Kinh đông nhất so với các huyện khác. Còn dân tộc H'Mông, Dao tập trung nhiều ở Bảo Lạc, Nguyên Bình.
Các dân tộc Cao Bằng có truyền thống cách mạng, cần cù, chịu khó, đoàn kết, có ý thức vươn lên. Nhân dân Cao Bằng có truyền thống hiếu học, ham hiểu biết. Hiện toàn tỉnh có khoảng hơn 3.700 cán bộ đại học, 3000 cán bộ trung cấp và cao đẳng, hơn 1.200 công nhân kỹ thuật. Đây là vốn quý nhân lực của tỉnh.
Mỗi dân tộc sinh sống ở tỉnh Cao Bằng đều có văn hoá bản sắc riêng tạo nên một nền văn hoá đa dạng phong phú cần được giữ gìn bảo vệ.
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có nhiều khu di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Đó là tài nguyên nhân văn quan trọng góp phần vào phát triển kinh tế của tỉnh như: khu di tích lịch sử Pác Bó (Hà Quảng), khu di tích lịch sử Trần Hưng Đạo (Nguyên Bình) …
I.2.1.1. Dân số.
Theo điều tra dân số ở Cao Bằng có 492.643 người năm 1999 đến năm 2000 đã có 494.742 người với mật độ dân số là 74 người/ km2 tại thị xã Cao Bằng mật độ là 978 người/ km2 (gấp hơn 13 lần mật độ dân số trung bình chung của tỉnh).
Trong những năm qua công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ở tỉnh Cao Bằng đã có nhiều chuyển biến, là một trong những chương trình kinh tế xã hội của tỉnh, nhưng hiện nay Cao Bằng vẫn là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển dân số rất nhanh, tỷ lệ tăng tự nhiên hàng năm vẫn còn cao 1,3% năm 2000.
Qua điều tra cho thấy ở khu vực thành thị, tỷ suất sinh giảm khá nhanh từ 2,93% thời kỳ 1986 - 1990 xuồng còn khoảng 2,2 - 2,3% thời kỳ 1991 - 1998 và tỷ lệ chết ổn định từ 0,5 - 0,6% nên tỷ suất tăng tự nhiên thấp chỉ ở mức 1,3 - 1,5%/ năm. Còn ở nông thôn vẫn còn rất cao từ 3,5 - 3,8%/ năm nên tốc độ tăng tự nhiên khá cao trên 2,5%/ năm.
Biểu 1: Diện tích và dân số tỉnh Cao Bằng năm 2000
Số xã
Số phương thị trấn
Diện tích (km2
Dân số trung bình (người)
Mật độ dân số (người/km2)
Tổng số
175
14
6690,72
494742
74
Thị xã Cao Bằng
3
4
44,04
43066
978
Huyện Bảo Lạc
23
1
1821,75
91006
50
Huyện Hà Quảng
18
453,67
33948
75
Huyện Thông Nông
9
1
360,49
22859
63
Huyện Trà Lĩnh
9
1
256,98
21314
83
Huyện Trùng Khánh
18
1
469,15
49795
106
Huyện Nguyên Bình
18
2
837,2
39081
47
Huyện Hoà An
24
1
667,67
72141
108
Huyện Quảng Hoà
24
2
633,41
64143
101
Huyện Hạ Lang
14
463,35
26033
56
Huyện Thạch An
15
1
683,11
31356
46
Nguồn: niên giám thống kê Cao Bằng năm 2000
I.2.1.2. Lao động và việc làm.
Theo số liệu thống kê năm 1998 nguồn lao động của công nghiệp có khoảng 285.000 lao động chiếm khoảng 54% so với dân số chung của tỉnh. Trong đó, lao động nông, lâm nghiệp có khoảng 245.000 lao động chiếm 87,3% tổng nguồn lao động của tỉnh.
Kết quả điều tra cho thấy lao động nhiều, việc làm ở khu vực nông thôn hiện nay số giờ làm việc trong ngày của người lao động thường chỉ 3 - 4 giờ đồng hồ, số ngày công trong năm chỉ có từ 125 - 150 ngày công.
Theo báo cáo về giải quyết việc làm của ngành lao động ở tỉnh Cao Bằng có thể bố trí giải quyết việc làm tại chỗ cho được khoảng 80% số lao động của tỉnh, số lao động còn lại cần phải điều phối giữa các khu vực sản xuất và giữa các huyện thị trong tỉnh. Thậm chí có thể phải nghiên cứu thêm 10 - 15% lao động của tỉnh ngoài tỉnh để tạo việc làm ổn định, lâu dài.
I.2.1.3. Thu nhập và mức sống.
Nằm trong tình trạng chung của các tỉnh thuộc vùng miền núi Bắc Bộ, tình hình thu nhập và mức sống hiện nay của cộng đồng các dân tộc ở Cao Bằng còn ở mức thấp. Bình quân GDP trên đầu người của tỉnh chỉ bằng khoảng 60% bình quân chung của cả nước.
Theo thống kê năm 2000 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có tới 130 xã thuộc diện đói nghèo. Đời sống đại bộ phận nhân dân trong tỉnh còn gặp nhiều thiếu thốn, nhất là đồng bào H'Mông, Dao, Lô lô, Sán Chỉ … sống ở vùng cao, vùng sâu.
I.2.2. Tình hình cơ sở hạ tầng liên quan đến ngành trồng trọt.
Sau hơn 20 năm khắc phục hậu quả chiến tranh biên giới, Cao Bằng đã khôi phục và xây dựng mới được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và đời sống, mặc dù hiện nay hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhưng đây là thành quả và tiền đề quan trọng của bước đi ban đầu.
* Hệ thống đường giao thông của tỉnh gần 347 km đường quốc lộ (ba tuyến đường) 467 km đường tỉnh lộ, 651 km đường huyện lộ, 95 kim ngạch đường đô thị và 1023 km đường xã.
Nhìn chung hệ thống đường giao thông trong tỉnh phân bố khá đều và đang từng bước được đầu tư nâng cấp, giúp cho vận chuyển hàng hoá được thuận lợi hơn nhất là khi hàng hoá mà người nông dân sản xuất ra đem bán. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt cũng dễ dàng thực hiện hơn khi con đường để lưu thông hàng hoá.
* Hệ thống công trình thuỷ lợi.
Việc phát triển hệ thống các công trình thuỷ lợi ở vùng Trung Du Miền Núi phía bắc nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng đã giúp cho các dân tộc có điều kiện thực hiện thâm canh cây lúa và sản xuất đa dạng hoá cây trồng trên đất rừng góp phần quan trọng vào giải quyết an ninh lương thực và xoá đói giảm nghèo cho nhân dân trong tỉnh.
Theo thống kê của ngành thủy lợi tính đến năm 2000 tỉnh Cao Bằng đã có 25 hồ chứa, 1288 phai đập, 99 trạm bơm, 1899 km mương tự chảy và gần 700 khe rạch, giếng cạn phục vụ tưới khoảng 23.000 ha các công trình phục vụ nước sinh hoạt gồm có 9656 bể bê tông (6m3/1 bể), 10 tuyến ống dẫn nước tổng chiều dài là 12,8 bể chứa nước công cộng.
Nhìn chung các công trình thuỷ lợi đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Hồ chứa bị tháo cạn kiệt, các trạm bơm thiết bị cũ hư hỏng nhiều, các công trình mương phai không có người quản lý, không đảm bảo khả năng chuyển tải và dâng nước.
* Hệ thống mạng lưới điện.
Hiện tại 11/11 huyện của tỉnh đã có điện. Tuy nhiên điện vẫn chưa đến được từng bản từng xã hiện nay vẫn còn hơn 90 xã chưa có điện.
* Hệ thống trạm trại kỹ thuật nông nghiệp
Ngoài hệ thống thuỷ lợi ở trên còn có hệ thống dịch vụ nông nghiệp (như: Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, Công ty vật tư nông nghiệp, trại nghiên cứu thực nghiệm kỹ thuật nông nghiệp, Công ty giống cây trồng, Công ty mía đường …) và hệ thống chế biến nông sản ở Cao Bằng, hệ thống chế biến nông sản nói chung là chưa có cơ sở nhiều đủ đáp ứng để chế biến nông sản mà địa phương sản xuất ra. Chỉ có một nhà máy đường Phục hoà. Do vậy Cao Bằng cần phải xây dựng thêm các cơ sở chế biến nông sản hơn nữa để người sản xuất yên tâm.
I.2.3. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
I.2.3.1. Tình hình tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh.
Cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước trong thời kỳ đổi mới, trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh Cao Bằng đã có sự tăng trưởng đáng kể.
- Đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng có sự chuyển đổi theo xu thế chung của cả nước. Tuy nhiên hiện nay cơ cấu kinh tế của tỉnh còn nặng về nông - lâm nghiệp nhưng đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Biểu so sánh số liệu dưới đây cho ta thấy rõ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Cao Bằng trong những năm qua.
Biểu 2: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Cao Bằng thời kỳ 1996 - 2000
Hạng mục
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng GDP
100
100
100
100
100
Trong đó:
- Nông - lâm nghiệp
64,47
60,38
60
57
53
- Công nghiệp - xây dựng
8,11
10,22
10
14
16
- Thương mại - dịch vụ
27,42
29,40
30
29
31
Nguồn: Niên giám thống kê Cao Bằng
I.2.3.2. Thực trạng phát triển của ngành.
* Ngành nông - lâm nghiệp.
Sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh Cao Bằng trong những năm qua không ngừng phát triển. Trong nông nghiệp đã xoá dần thế độc canh cây lương thực, chuyển sang phát triển đa dạng hoá cây trồng, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển tổng hợp, kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi (kể cả nuôi trồng thủy sản) và ngành nghề nông nghiệp đã gắn với lâm nghiệp.
- Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 171.880 tấn, bình quân lương thực quy thóc trên đầu người 332 kg/ người. Cao Bằng là một trong mấy tỉnh miền núi bắc bộ có mức lương sản xuất bình quân trên đầu người vượt mức 300 kg/ người/ năm.
Do đẩy mạnh thực hiện phát triển đa dạng hoá cây trồng nên cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả cũng đều có sự gia tăng đáng kể. Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày của tỉnh năm 2000 là 11474 ha, diện tích cây thực phẩm là 3.661 ha (tăng 812 ha so với năm 1996), diện tích cây ăn quả 2114 ha.
- Đi đôi với phát triển trồng trọt, trong những năm qua ngành chăn nuôi cũng đã được chú ý phát triển.
- Về lâm nghiệp tuy chưa được phát triển theo đúng tiềm năng của nó, rừng tự nhiên đã đỡ mất diện tích, rừng trồng đã tăng, diện tích đất lâm nghiệp được đưa vào khoanh nuôi để phục hồi rừng ngày càng ._.ng đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi, để đưa diện tích lúa đông xuân từ 3400 ha hiện nay lên khoảng 3500 ha. Như vậy, diện tích gieo trồng lúa của tỉnh giữ ổn định ở mức khoảng 30.000 ha.
áp dụng rộng rãi hơn các giống lúa lai có ưu thế để nâng cao năng suất và sản lượng lúa. Theo dự kiến của ngành nông nghiệp tỉnh đến năm 2005 diện tích gieo trồng lúa lai, lúa thuần đạt khoảng 50% diện tích gieo trồng lúa của tỉnh trong đó lúa lai chiếm khoảng 20% và đến năm 2010 tỷ lệ lúa lai đạt 40 - 50%.
Đầu tư xây dựng vùng lúa thâm canh cao sản lượng khoảng 1500 ha, tập trung ở cánh đồng Hoà An đạt năng suất bình quân vụ xuân 6,5tấn /ha.
* Cây ngô:
- Mở rộng diện tích gieo trồng trên cơ sở tăng thêm khoảng 3000 - 4000 ha ngô xuân trên đất ruộng 1 vụ, 3000 - 4000 ha trên đất màu theo chế độ luân canh. Ngô xuân (xen đậu tương) - ngô hè thu và khoảng 1000 ha trồng ngô trên đất hiện đang trồng khoai lang, sắn để chuyển đổi cây trồng. Định hướng sản xuất ngô như vậy diện tích gieo trồng ngô đạt khoảng 35.000 ha (gồm 33.000 ha ngô vụ xuân và 12.000 ha ngô vụ hè).
- Với định hướng phát triển ngô như trên đến năm 2010 ngô là cây trồng có diện tích lớn nhất trong tập đoàn cây lương thực của tỉnh (hiện nay có diện tích thấp hơn cây lúa)
Đây là hướng chuyển đổi cây lương thực phù hợp với điều kiện thực tế của Cao Bằng và kinh tế thị trường ngô sẽ là một cây trồng hàng hoá của tỉnh.
Dự kiến diện tích gieo trồng giống ngô lai chiếm khoảng 70% tổng diện tích gieo trồng ngô của tỉnh để đưa năng suất ngô bình quân từ 24 tạ/ ha hiện nay lên đến 35 tạ/ ha.
* Cây lương thực khác:
- Trong tập đoàn các cây lương thực khác, đối với sắn, khoai lang hướng là chuyển khoảng 1000 ha hiện nay đang trồng 2 loại cây lương thực này sang trồng ngô ở những vùng đất bằng thoải. Trên diện tích còn lại đầu tư xây dựng nương ổn định để có điều kiện thực hiện đầu tư thâm canh đưa năng suất khoai lang đạt 70 tạ/ ha và năng suất sắn đạt 100 -110 tạ/ ha.
Trên cơ sở kết quả trồng thực nghiệm lúa mì, Kiều mạch và Cao lương Chân trâu ở một số nơi trên địa bàn của tỉnh. Khi có thị trường tiêu thụ sẽ mở rộng diện tích ba loại cây lương thực này để đưa cây lúa mì, Kiều mạch và Cao lương tham gia vào tập đoàn cây lương thực của Cao Bằng.
II.2.2. Định hướng chuyển dịch các cây công nghiệp ngắn ngày.
* Cây đậu tương:
- Mở rộng diện tích đậu tương trên cơ sở tăng thêm diện tích đậu tương và đậu tương xuân trên đất ruộng và trồng xen, trồng luân canh với ngô và mía đưa diện tích của tỉnh lên khoảng 10.000 ha năm 2010 tăng so với hiện nay 3126 ha.
- Mở rộng diện tích trồng đậu tương giống mới DT 84, DT 90, DT 80, đưa diện tích trồng đậu tương giống mới đạt 80 - 90% tổng diện tích gieo trồg đậu tương của tỉnh.
* Cây mía:
- Để đảm bảo đủ nguyên liệu cho nhà máy đường hoạt động trong 5 tháng/ năm và đáp ứng cho chế biến phục vụ đường phên truyền thống của tỉnh cần phải mở thêm 1 ha trồng mía, đưa diện tích mía của tỉnh đạt 3500 ha. Trong đó vùng nguyên liệu cho nhà máy 3000 ha.
- Từng bước thực hiện các biện pháp nhằm thay thế dần các giống mía cũ hiện nay đang trồng (F 134, F 156) bằng các giống mới năng suất cao trữ lượng đường khá.
* Cây thuốc lá:
- Trên cơ sở khả năng bao tiêu sản phẩm thuốc lá của tổng Công ty thuốc lá Việt Nam dự kiến mở rộng diện tích trồng thuốc lá sợi vàng của tỉnh đạt 3000 ha.
- Từ thực tế trồng thực nghiệm thuốc lá nâu ở các xã vùng cao để thay thế cây thuốc phiện, trên cơ sở bao tiêu sản phẩm của tổng Công ty thuốc lá Việt Nam có thể mở rộng diện tích thuốc lá nâu lên khoảng 1500 ha ở các xã vùng cao, thực hiện đưa cây trồng mới vào vùng trước đây trồng thuốc phiện.
Biểu 16: Dự kiến diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng chính của tỉnh Cao Bằng đến năm 2010
Cây trồng
Năm 2000
Năm 2010
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
- Cây lúa
28688
30,65
87942
30.000
50
150.000
- Cây ngô
31511
24,06
75833
35.000
35
122.500
- Cây đậu tương
6874
6,21
4272
10.000
13
13.000
- Cây thuốc lá
1312
13,9
1828
3.000
28
8400
- Cây mía
2561
460,66
117974
35.000
570
199.500
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Cao Bằng đến 2010
* Cây công nghiệp ngắn ngày khác:
Đối với các cây công nghiệp ngắn ngày khác như lạc, bồng, dâu tằm … hướng giữ diện tích như hiện nay. Tập trung đầu tư thâm canh để tăng năng suất và sản lượng.
* Cây thực phẩm:
- Cây rau: Cao Bằng có vùng khí hậu mát, thích hợp cho sản xuất các loại rau cao cấp cho miền xuôi và tiến tới có thể phục vụ cho xuất khẩu. Do trong những năm tới, ngoài việc đầu tư xây dựng các vùng rau thực phẩm xung quanh khu vực đô thị, cần từng bước đầu tư phát triển sản xuất các loại rau cao cấp. Dự kiến diện tích các loại rau của tỉnh đến năm 2010 đạt khoảng 2500 - 3000 ha.
- Đậu đỗ các loại: Tuỳ điều kiện từng nơi và nhu cầu tiêu thụ mà phát triển các loại đậu đỗ thực phẩm. Dự kiến khoảng 2000 ha.
Như định hướng đã đề ra tỉnh Cao Bằng đã dự kiến sản xuất một số cây trồng chính phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh.
II.2.3. Định hướng chuyển dịch cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả.
* Cây chè:
Trong những năm tới ngoài việc đầu tư thâm canh trên diện tích hơn 100 ha chè búp hiện có rải rác trong địa bàn tỉnh. Để đáp ứng nhu cầu tại chỗ cần tập trung đầu tư phát triển cây chè đắng ở huyện Hạ Lang và Thạch An. Dự kiến trồng khoảng 500 - 1000 ha cây chè đắng để làm hàng hoá và đưa cây chè đắng vào cơ cấu tập đoàn các cây phổ biến của Cao Bằng.
* Cây dẻ ăn quả:
Quả dẻ là một loại quả đặc sản của Cao Bằng tuy nhiên hiện nay diện tích mới chỉ có khoảng 300 ha (quy đổi từ cây trồng phân tán tại các hộ gia đình ra diện tích). Đây là cây trồng có giá trị kinh tế cao (giá bình quân 1500 - 2000 đ/kg) nhưng hạn chế chính hiện nay là vấn đề bảo quản hạt sau thu hoạch và nhân giống. Để khai thác nguồn lợi này, dự kiến mở rộng diện tích trồng dẻ ra huyện Hạ Lang và đưa diện tích trồng dẻ của tỉnh lên 3000 ha.
* Tập đoàn cây ăn quả:
Cao Bằng là một tỉnh có tiềm năng phát triển cây ăn quả rất lớn, nhưng trong thời gian qua chưa được chú ý đầu tư khai thác tiềm năng này. Theo thống kê về diện tích cây ăn quả, hiện nay Cao Bằng là tỉnh có diện tích cây ăn quả vào loại thấp nhất trong các tỉnh ở vùng trung du miền núi. Để nâng cao tỷ trọng diện tích cây ăn quả trong tổng số diện tích gieo trồng, nhằm tăng cơ cấu cây trồng hàng hoá và khai thác lợi thế của tỉnh, dự kiến phát triển một số cây ăn quả của tỉnh như sau:
Các loại cây có múi:
Hiện nay ở Cao Bằng có loại cam An Lại được trồng ở Hoà An là loại cam có giá trị hàng hoá, được người tiêu dùng ưa chuộng. Do đó trong thời gian tới, đi đôi với việc phát triển một số giống quýt, bưởi mới đưa vào vùng, cần tập trung phát triển loại cam này. Dự kiến đưa diện tích các loại cây ăn quả có mùi đạt khoảng 2000 ha.
* Cây lê:
Hiện ở Cao Bằng tại huyện Bảo Lạc và Thạch An có giống lê xanh Bảo lạc và giống lê trắng Trung Quốc có chất lượng tốt. Dự kiến phát triển lê ở 2 huyện trên dễ có diện tích trồng lê khoảng 500 ha.
* Cây mơ, mận:
Thực hiện chương trình cải tạo vườn tạp, trong những năm qua, hội làm vườn tỉnh đã phối hợp với trung tâm khuyến nông, khuyến lâm đưa vào trồng một số cây mơ, mận ở Thạch An, thị xã Hoà An có kết quả rất tốt.
Tuy nhiên hiện nay do thị trường tiêu thụ bị hạn chế nên không mở rộng diện tích được. Dự kiến trong những năm tới, cần tập trung đầu tư chăm sóc diện tích mơ, mận hiện có, khi có thị trường tiêu thụ sẽ mở rộng diện tích mơ, mận (khả năng có thể trồng được khoảng 1000 - 1500 ha).
- Cây mác mật:
Đây là cây trồng đặc thù của tỉnh Cao Bằng hiện nay chủ yếu do dân trồng tự phát để tiêu dùng nội bộ và trao đổi trên thị trường. Mấy năm gần đây, thông qua chế biến thủ công, mác mật đã trở thành sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Mác mật là cây trồng rất dễ phát triển ở Cao Bằng do đó dự kiến sẽ phát triển cây này có quy mô 500 - 1000 ha và đưa cây mác mật vào cơ cấu tập đoàn cây ăn quả của Cao Bằng.
Biểu 17: Dự kiến số lượng và cơ cấu diện tích theo các nhóm cây trồng ở tỉnh Cao Bằng đến năm 2010.
Chỉ tiêu
2000
2005
2010
Tổng số
82.467
100
92.136
100
108.097
100
Cây lương thực
64.836
78,62
64.936
70,48
65.000
60,13
Cây thực phẩm
3661
4.43
4200
4,56
5000
4,63
Cây CN ngắn ngày
11.474
13,92
13.000
14,11
17.097
15,81
Cây CN dài ngày
355
0,43
6000
6,51
11.000
10,18
Cây ăn quả
2141
2,6
4000
4,34
10.000
9,25
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Cao Bằng năm 2010.
II.3. Định hướng cơ cấu chuyển dịch theo vùng lãnh thổ.
- Vùng bồn địa:
Định hướng sản xuất của tiểu vùng này là tập trung thâm canh lúa, ngô, sản xuất lúa giống để cung cấp đủ giống tốt cho nhu cầu toàn tỉnh. Phục hồi phát triển cây thuốc lá, các loại cây ăn quả như mơ, mận, cam, quýt, tích cực chuyển dịch cơ cấu mùa vụ khai thác đất bỏ hoá vụ đông xuân để trồng đậu tương hoặc ngô xuân với các giống có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn.
- Vùng núi đất:
Đây là vùng đất đai rộng lớn có điều kiện để phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: hồi, quế, phát triển cây ăn quả: lê, hồng không hạt, mơ, mận …
- Vùng núi đá vôi:
Đây là vùng chính phát triển ngô, đỗ tương của tỉnh trong những năm tới cần thâm canh để tăng năng suất, đồng thời vùng này cần tập trung phát triển cây dẻ Trùng Khánh đây là cây trồng có giá trị kinh tế cao, dự kiến mở rộng diện tích ra huyện Hạ Lang và đưa diện tích trồng dẻ của tỉnh lên 3000 ha phát triển nhanh diện tích mía với các loại giống mới để tăng năng suất sản lượng dự kiến đến năm 223.000 tấn.
III. Các giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
Để thực hiện được định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở tỉnh như đã đề cập ở trên. Theo chủ trương của tỉnh trong những năm tới cần thực hiện một số giải pháp hỗ trợ cho việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng như sau:
III.1. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành trồng trọt của tỉnh trong những năm tới theo hướng chuyên môn hoá.
Quy hoạch nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển của ngành. Rà soát bổ sung quy hoạch nông nghiệp của tỉnh giúp cho việc xác định cơ cấu ngành trồng trọt phù hợp có căn cứ khoa học, do đó đây là giải pháp đầu tiên cần được tập trung giải quyết để thực hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng của tỉnh Cao Bằng.
Sản xuất ngành trồng trọt ở các tỉnh trung du miền núi bắc bộ nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng trong những năm qua cho thấy do yêu cầu của thị trường và thực tế sản xuất trên địa bàn các tỉnh đã hình thành các trang trại sản xuất một số loại cây trồng hàng hoá mà trước đây chưa đề cập trong các phương án quy hoạch như mía, hồi, dẻ ăn quả. Mặt khác trong mấy năm qua có nhiều tiến bộ mới về giống cây trồng, mô hình đa dạng hoá cây trồng. Do đó cần phải rà soát hoàn chỉnh quy hoạch ngành trồng trọt.
Vừa qua bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có chủ trương tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch nông nghiệp của các tỉnh trong cả nước.
Thực hiện chủ trương trên và để góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng của tỉnh Cao Bằng như phần phương hướng đã đề cập trong những năm tới cần điều tra, bổ sung nắm vững các nguồn lực có liên quan đến sản xuất ngành trồng trọt và quy hoạch các vùng sản xuất cây trồng có chiến lược của tỉnh theo hướng tập trung chuyên môn hoá, sản xuất hàng hoá. Đây là một giải pháp quan trọng nhằm khai thác có hiệu quả sử dụng đất đai và tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Tránh tình trạng quy hoạch không phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế ở vũng lãnh thổ của tỉnh.
- Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu mía phục vụ cho nhà máy đường Phục Hoà.
- Quy hoạch vùng phát triển cây ăn quả.
- Quy hoạch vùng thâm canh lúa và đa dạng hoá cây trồng ở cánh đồng Hoà An.
III.2. Giải pháp về thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng là một quá trình phải trải qua nhiều nấc thang của sự phát triển. Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đối với ngành trồng trọt muốn phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá thì tất nhiêu thị trường phải là yếu tố quyết định và quan trọng nhất. Mở rộng và phát triển thị trường đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới "đầu vào" và "đầu ra". Nếu không giải quyết được "đầu ra"thì việc đầu tư cho "đầu vào" cũng không có ý nghĩa vì vậy tìm hiểu thị trường "đầu ra" cho nông phẩm hàng hoá từ nông thôn, tổ chức tốt thị trường này thực chất nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Việc mở rộng thị trường phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường trong nước đi đôi với việc phân tích tìm kiếm thị trường ngoài nước, gắn chặt lưu thông hàng hoá với sản xuất hàng hoá. Đặc biệt coi trọng các loại hình dịch vụ nông nghiệp nông thôn.
Theo định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng đối với điều kiện cụ thể của tỉnh để thực hiện giải pháp về thị trường cần phải:
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức về thị trường, đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước.
- Tổ chức khuyến mãi, giới thiệu sản phẩm, hội nghị khách hàng, thành lập đại diện thương mại tại các thành phố lớn.
- Nhà nước thông qua các tổ chức của mình để tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, nhất là khâu dự báo cung cầu thị trường trong nước và quốc tế thông tin này đến với người sản xuất thông qua nhiều kênh, trong đó qua hệ thống khuyến nông là một hệ thống đáng khuyến khích, mặt khác đưa ra các thông tin về thị hiếu, tập quán sở thích của người tiêu dùng.
- Tạo điều kiện cho các trung gian kinh tế nhất là trung gian thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, đảm trách khâu tiêu thụ cho nông dân, hình thành cơ chế gắn bó giữa người sản xuất và người tiêu dùng, các trung gian thương nghiệp có thể do người sản xuất tự nguyện lập ra dưới hình thức hiệp hội, cũng có thể do các tổ chức kinh tế Nhà nước thực hiện.
- Sản phẩm ngành trồng trọt hiện nay tiêu thụ trên thị trường là sản phẩm thô chưa qua chế biến, bảo quản do đó thị trường bị thu hẹp cả về chiều rộng và chiều sâu. Bởi vì sản xuất ngành trồng trọt còn mang nặng tính thời vụ cho nên khi có thì ồ ạt rất nhiều nhưng trong thời gian ngắn mà nhu cầu thì lại quanh năm. Chính vì vậy, cần phải phát triển công nghệ chế biến bảo quản nông sản phẩm để kéo dài thời gian tiêu thụ mà chất lượng sản phẩm không thay đổi do đó sẽ làm tăng nhu cầu thị trường thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuyên truyền và khuyến khích thay đổi tập quán tiêu dùng của nhân dân. Trước kia, chúng ta chỉ nghĩ tới ăn về số lượng, chưa nghĩ đến ăn có chất lượng ăn song phải có quả tráng miệng … thay đổi được nhận thức đó tức là thay đổi được sinh hoạt, cách tiêu dùng … nâng cao sức mua của dân cư, qua đó tác động đến thị trường.
- Từng bước phân tích tìm kiếm thị trường ngoài nước thông qua xuất khẩu.
III.3. Giải pháp về vốn.
Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh từng bước chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá thì yêu cầu phải đầu tư cho sản xuất kể cả cơ sở hạ tầng. Từ việc xác định nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ trọng yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nhà nước cần phải có kế hoạch bổ sung thêm nguồn vốn và đầu tư có hiệu quả vào phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Để chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Cao Bằng đến năm 2010 có nhu cầu đầu tư rất lớn cho sản xuất hướng đầu tư tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giống cây có năng suất chất lượng tốt, hình thành vùng nguyên liệu tập trung.
Với hướng đầu tư và có nhu cầu vốn lớn như vậy để đảm bảo có đủ vốn cho phát triển ngành trồng trọt Cao Bằng cần có những biện pháp thực hiện như sau:
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp: Việc huy động vốn đầu tư các doanh nghiệp sẽ mang lại kết quả quan trọng. Dự kiến nguồn này là đáng kể, vì địa bàn tỉnh hiện nay các doanh nghiệp đã tham gia tích cực và phát triển sản xuất và cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Huy động vốn từ nhân dân qua hệ thống tài chính, ngân hàng đây là nguồn vốn lớn còn lại chưa khai thác triệt để.
- Thu hút đầu tư nguồn ODA: Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng các vùng nghèo đặc biệt khó khăn.
- Thu hút đầu tư nguồn FDI: Vào phát triển các lĩnh vực khai thác khoáng sản, cây ăn quả và công nghiệp chế biến nông - lâm sản.
- Thu hút đầu tư từ nguồn tài trợ phi chính phủ (NGO) theo dự án cho các xã đặc biệt khó khăn, phát triển giáo dục, y tế, cải thiện hạ tầng nông thôn
III.4. Giải pháp về ruộng đất.
Thực hiện nghị định 64/CP của Thủ tướng chính phủ về giao quyền sử dụng đất ruộng ổn định và lâu dài cho hộ nông dân. Việc thực hiện giao đất và cấp giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định có tác động tốt đối với hoạt động kinh tế xã hội. Phần lớn đất nông nghiệp đã có chủ sử dụng cụ thể gắn quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng, việc tranh chấp giảm xuống, đang tạo ra cơ chế mới hợp lý cho việc đổi, thuê đất vào mục đích nông nghiệp kích thích các hộ nông dân tăng cường vốn đầu tư để thực hiện thâm canh, bố trí sắp xếp cây trồng vụ mùa thích hợp có hiệu quả. Song trên thực tế việc thực hiện chính sách ruộng đất vào giao quyền sử dụng đất lâu dài vẫn chưa thông thoát trong xử lý mối quan hệ giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng đất đai. Nhưng trong cuộc sống đời thường xã hội, đã từ lâu đất đai vẫn là đối tượng trao đổi, mua bán ngấm ngầm. Gây thất thu lớn cho ngân sách, mặt khác không tạo được tiền đề cho việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất làm ách tắc lại quá trình phân công lao động. Từ đó gây nên một tác động dây truyền như: Phân công lao động bị kìm hãm, ngành nông nghiệp không bứt lên được … Khi các vấn đề nảy sinh trên không được giải quyết triệt để thì các vấn đề xã hội tiêu cực cũng được nảy sinh làm cho luật pháp không được tôn trọng. Vì vậy để từng bước khắc phục những hạn chế trên làm cho các hộ nông dân yên tâm đầu tư thâm canh thực hiện đa dạng hoá sản xuất nhằm góp phần thực hiện phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh cần tập trung giải quyết theo phương châm:
- Thực hiện nhanh chóng luật đất đai, sớm hoàn thành thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Cần phải hoàn thành việc giao đất, khoán rừng cho nông dân và công nhân.
- Khuyến khích việc chuyển đổi tích tụ và tập trung đất vào những người có khả năng sản xuất và kinh doanh giỏi.
- Nghiên cứu và tìm hướng giải quyết về mặt pháp lý những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất diễn ra nhanh chóng.
III.5. Giải pháp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Việc thực hiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của mỗi quốc gia và địa phương. Coi khoa học công nghệ là một trong những giải pháp hàng đầu là trọng điểm đầu tư. Nhưng trước hết tập trung vào các khâu trọng yếu: Giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng tốt, kỹ thuật canh tác tiên tiến, phòng chống dịch bệnh, chế biến và bảo quản nông sản … phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp.
Lựa chọn ứng dụng nhanh những tiến bộ kỹ thuật đã qua khảo nghiệm đạt kết quả tốt vào sản xuất kinh doanh.
Đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo quản, chế biến để giảm hư hao, tăng lượng giá trị hàng hoá đặc biệt là hoa quả tươi để vận chuyển đi xa tiêu thụ.
Cơ chế đãi ngộ hấp dẫn để thu hút cán bộ đầu ngành Trung ương về giúp tỉnh giải quyết một số lĩnh vực khó mà lực lượng cán bộ của tỉnh chưa thể giải quyết được ngay. Đồng thời sử dụng tốt lực lượng cán bộ hiện có cho hiệu quả. Cơ chế đãi ngộ thoả đáng để thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý đi công tác các xã vùng cao, biên giới đặc biệt khó khăn.
III.6. Đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất ngành trồng trọt.
Cơ sở hạ tầng ở một vùng lãnh thổ hoặc ở một địa phương là môi trường để phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng của vùng hoặc của địa phương đó. Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp như giao thông, thuỷ lợi, trạm trại kỹ thuật cơ sở dịch vụ nông nghiệp càng hoàn thiện thì càng tạo ra môi trường thuận lợi cho sản xuất theo hướng thâm canh, đa dạng hoá sản phẩm. Do đó giải pháp xây dựng hạ tầng cơ sở là giải pháp không thể thiếu được trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt.
Thực tế ở tỉnh Cao Bằng những năm qua cho thấy để được những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất tạo điều kiện cho các hộ nông dân tham gia vào các chương trình thâm canh cây lương thực và chương trình sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, chương trình sản xuất hàng hoá … thì việc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, tạo mặt bằng cho sản xuất có ý nghĩa quan trọng. Vừa qua được sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, tỉnh Cao Bằng đã đầu tư xây dựng được một số hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất tương đối khá như hệ thống giao thông nông thôn, thuỷ lợi. Song so với yêu cầu để phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì cần tiếp tục đầu tư xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Cần củng cố và nâng cao năng lực của các công trình thuỷ lợi đảm bảo cho thâm canh và đa dạng hoá cây trồng, củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của các trạm bảo vệ thực vật, trạm vật tư …
III.7. Đẩy mạnh công tác khuyến nông.
ở tỉnh Cao Bằng trong những năm qua công tác khuyến nông đã có vị trí hết sức quan trọng trong sự phát triển ngành trồng trọt. Do đó để thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh, nhất là việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân trong những năm tới cần đẩy mạnh công tác khuyến nông, xây dựng các mô hình khuyến nông để lựa chọn các giống cây trồng mới có năng suất cao và chất lượng tốt phù hợp với điều kiện của tỉnh. Cụ thể cần tập trung làm tốt một số vấn đề sau:
Tăng cường củng cố hệ thống làm công tác khuyến nông từ tỉnh đến các huyện và cơ sở các xã, phường, làm cho hệ thống khuyến nông của tỉnh đủ năng lực giúp tỉnh quản lý Nhà nước về giống cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu theo qui định hiện hành. Đối với các xã phải chọn những nông dân giỏi có hiểu biết, được nhân dân tín nhiệm để đào tạo thành cán bộ khuyến nông ở cơ sở và có chế độ đãi ngộ thích hợp để động viên, khuyến khích các cán bộ này tích cực hướng dẫn đồng bào trong việc thực hiện các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả.
Tỉnh cần nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ thực hiện các chương trình khuyến nông do các hộ gia đình các chủ trang trại đề xuất, hoặc yêu cầu. Đồng thời tạo điều kiện và hỗ trợ để các doanh nghiệp Nhà nước làm tốt công tác dịch vụ kỹ thuật đến các hộ nông dân.
III.8. Giải pháp về chính sách.
Thực hiện nghiêm túc những chính sách kinh tế Nhà nước ban hành để hỗ trợ, khuyến khích động viên và làm cho các hộ nông dân yên tâm đầu tư thực hiện việc chuyển đổi về cơ cấu cây trồng, nhất là chuyển đổi cây trồng hàng hoá như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách vay vốn tín dụng và chính sách hỗ trợ sản xuất cây trồng mới và chính sách đối với vùng cao. Cụ thể:
- Chính sách về đất đai: Thực hiện triệt để việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình để các hộ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Cần ưu tiên và tạo điều kiện giao đất thuận lợi cho các hộ, tổ chức nhận đất trống đồi núi trọc để phát triển trang trại, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng hàng hoá ở vùng đất trống đồi núi trọc theo tinh thần nghị quyết số 03/2000/NQ - CP về phát triển sản xuất trang trại.
- Chính sách về vốn: Cao Bằng là 1 trong những tỉnh nghèo, ngân sách Nhà nước của tỉnh đưa vào sản xuất có hạn. Do vậy, vốn đầu tư để thực hiện tốt chuyển đổi cơ cấu cây trồng là vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng, phải thực hiện tốt chính sách về vốn. Ngoài sự huy động nguồn vốn tự có của các hộ, Nhà nước cần có các giải pháp hỗ trợ vốn đầu tư cho sản xuất và vốn đầu tư cho phát triển các cây trồng đặc sản.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển cây trồng vụ đông, chính sách khuyến khích tăng vụ trên đất ruộng 1 vụ.
- Tiếp tục hoàn thành các chính sách thuế có mối quan hệ mật thiết với ngành trồng trọt theo hướng đơn giản hoá quy định về thuế suất, diện chịu thuế thu hẹp số lượng thuế suất.
- Đối với vùng núi, vùng cao là địa bàn làm ăn sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, có mức sống và trình độ dân trí thấp kinh tế thì lạc hậu, nên miễn toàn bộ các khoản đóng góp bao gồm cả thuế. Thực tế các khoản đóng góp Nhà nước thu được hàng năm từ các xã này không đáng kể so với khoản Nhà nước trợ cấp cho họ. Chính sách miễn giảm thuế lâu dài sẽ kích thích và tạo tiền đề cho các hộ gia đình khai thác nguồn tài nguyên đất nông nghiệp tốt hơn. Đó chính là giải pháp hỗ trợ định canh định cư ở vùng cao.
Kết luận
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt nói riêng là một quá trình trải qua nhiều nấc thang của sự phát triển. Do đó, thực trạng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng có hiệu quả đang được Đảng và Nhà nước quan tâm không ngừng đổi mới và đưa ra những giải pháp thích hợp.
Trong mấy năm qua điều tra hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng của tỉnh Cao Bằng cho phép rút ra một số kết luận
1. Tỉnh Cao Bằng có địa hình, đất đai, khí hậu đa dạng được chia thành 3 tiểu vùng sinh thái có các đặc trưng khác nhau. Trong các tiểu vùng sinh thái có những nét chung về điều kiện sản xuất song trong mỗi tiểu vùng có những nét riêng về đặc điểm dân cư, tập quán canh tác.
Trong cả tỉnh ngoài hệ thống cây trồng chung, trong mỗi tiểu vùng có những hệ thống cây trồng đặc thù. Trong quá trình tổ chức thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng của tỉnh cần phải tôn trọng các đặc thù của từng tiểu vùng để hoạch định chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp nhằm khai thác được lợi thế của từng tiểu vùng sinh thái.
2. Kết quả nghiên cứu thực trạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở tỉnh Cao Bằng cho thấy tỉnh Cao Bằng đã từng bước thực hiện đa dạng hoá cây trồng. Hiện tại lương thực vẫn là cây trồng chính của tỉnh chiếm 78,75% tổng diện tích ngành trồng trọt. Trong những năm qua thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng của Đảng và Nhà nước tỉnh Cao Bằng đã đạt được một số kết quả nhất định trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng của vùng được thể hiện theo hướng chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, chuyển đổi mùa vụ gieo trồng, chuyển đổi cây trồng trên đất lúa một vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất dốc. Với hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng như trên, hiện nay ngoài những cây trồng truyền thống đã đưa được một số cây trồng mới vào vùng và thiết lập được một số hệ thống canh tác tiên tiến thay cho hệ thống canh tác cũ ít hiệu quả.
3. Qua điều tra Cao Bằng thực hiện chuyển đổi qua lúa lai, lúa thuần vào để thâm canh tăng năng suất và đưa thêm cây trồng vào vụ đông chuyển từ chế độ canh tác 2 vụthành 3 vụ/ năm. Trên đất ruộng 1 vụ lúa mùa thực hiện đưa thêm cây trồng chịu hạn khá vào trồng trong vụ xuân. Chuyển từ chế độ canh tác một vụ thành 2 vụ/ năm và chuyển đổi cây trồng khác thay cây lúa. Trên đất đồi, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng cây ăn quả để tăng sản phẩm hàng hoá.
4. Để góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hoá nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân. Cần có các giải pháp hỗ trợ để xúc tiến nhanh hơn nữa quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tăng tỷ trọng giống lai, giống chất lượng tốt, tăng vụ phát triển các cây trồng có giá trị hàng hoá cao. Các giải pháp hỗ trợ chính cần tập trung giải quyết là thực thi đồng bộ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích sản xuất để các hộ thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng và làm tốt công tác khuyến nông ở cơ sở.
Kiến nghị
Để tỉnh Cao Bằng có điều kiện thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá đề nghị Nhà nước, các cấp chính quyền của tỉnh, các ngành giúp đỡ hướng dẫn tỉnh làm tốt một số vấn đề:
- Tiến hành khẩn trương việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân, đề cho các hộ nông dân yên tâm và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước cho các hộ nông dân vay vốn để tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân phát triển.
- Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn và có chính sách phù hợp nhằm tạo môi trường cho các hộ nông dân phát triển kinh tế. Đồng thời tăng cường việc đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật cho lực lượng lao động chính ở nông thôn.
- Mở rộng quan hệ thị trường, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm để phát huy thế mạnh của địa phương, nhất là ngành nghề mới, truyền thống.
- Đối với từng ngành, từng vùng phải có quy hoạch và đề án phát triển cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn.
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình Kinh tế nông nghiệp
NXB Nông nghiệp năm 1996
2- Báo cáo kết quả nghiêncứu đề tài "Nghiên cứu mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn vùng miền núi Bắc Bộ".Bộ Nông nghệp và phát triển nông thôn Hà Nội tháng 1/1998
3- Báo cáo kết quả điều tra về thực trạng sản xuất các loại cây trồng ở tình Cao Bằng.Sở Nông nghiệp và PTNT Cao Bằng năm 1999
4- Báo cáo kết quả điều tra thực trạng sản xuất và hướg chuyển đổi cây trồng ở các tỉnh Trung du - Miền núi Bắc Bộ.Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp.Hà Nội tháng 12 năm 2000
5- Kinh nghiệm và những chính sách phát triển kinh tế ở Trung Quốc Thái Lan, Indônêxia
6- Giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp
NXB Thống kê Hà Nội năm 2001
7- Niên giám thống kê Cao Bằng năm 2001
8- Báo cáo quy hoạch sử dụng đất đai tỉnh Cao Bằng thời kỳ 1998 - 2010
UBND tỉnh Cao Bằng tháng 11.1999
9- Chương trình hành động của tỉnh Cao Bằng.Tỉnh uỷ Cao Bằng tháng 1/1999
10. Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá giai đoạn 1996 - 2000 tỉnh Cao Bằng
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tháng 9/1996.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33614.doc