Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam

lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS.TS Đỗ Đức Bình và thầy giáo Trịnh Anh Đức đã trực tiếp tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện bài luận văn tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô, chú nơi thực tập đặc biệt là bác Nguyễn Tiến Đạt- Trưởng phòng Kế hoạch Công ty Xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại Công ty cũng như làm luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu và thực hiện nhưng do trình

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ và năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và các bạn quan tâm. Xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2003 Mục Lục Trang Lời mở đầu 4 Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam I- Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu 6 1- Khái niệm 6 2- Vai trò 6 3- Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 9 II- Nội dung của hoạt động xuất khẩu 12 1- Nghiên cứu thị trường 12 2-Đàm phán và ký kết hợp đồng 14 3- Thực hiện hợp đồng 15 III- Các nhân tố ảng hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản 19 1- Môi trường quốc gia 19 2- Môi trường quốc tế 29 3- Bản thân doanh nghiệp 30 IV- Vai trò của xuất khẩu nông sản 36 Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam 1- Tiềm năng sản xuất hàng nông sản 39 2- Tình hình xuất khẩu hàng nông sản 44 2.1 Kim ngạch xuất khẩu 44 2.2 Xuất khẩu theo mặt hàng 47 2.3 Xuất khẩu theo thị trường 60 3- Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản 67 4-Những bất cập, hạn chế có thể xảy ra 71 Chương III: Giải pháp và kiến nghị chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam 1- Triển vọng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam 81 2- Những biện pháp vĩ mô ( từ phía Nhà nước ) 88 3- Những biện pháp vi mô ( từ phía doanh nghiệp ) 95 Kết luận 102 Tài liệu tham khảo 103 Nhận xét của giáo viên hướng dẫn 105 Nhận xét của giáo viên phản biện 106 Lời mở đầu Sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh, liên tục với tốc độ cao ( bình quân 4,3% ) suốt từ năm 1989 đến nay. Nông nghiệp nước ta đã từng bước chuyển dần từ nền kinh tế tự cung, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá và hướng mạnh ra xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu của mặt hàng nông sản khá cao. Nhiều mặt hàng nông sản của nước ta giờ đây đã có vị thế quan trọng trên thị trường thế giới. Một số mặt hàng chủ lực và có khả năng cạnh tranh khá như gạo, cà phê (xuất khẩu 95% sản lượng làm ra), điều (100%), cao su (85%), hạt tiêu (90%), chè (50%). Đẩy mạnh nông sản xuất khẩu góp phần đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam cũng như cải thiện đời sống của nhân dân Việt Nam. Thông qua việc xuất khẩu nông sản, Việt Nam đã đưa được tên tuổi của mình tới các bạn hàng quốc tế như Mỹ, Châu Âu, và các nước Trung Đông, Trung A’…. Tuy nhiên, việc xuất khẩu nông sản vẫn chưa xứng với tiềm năng nông sản của Việt Nam. Với chất lượng nông sản xuất khẩu còn thấp, chủ yếu là xuất khẩu thô nên số lượng xuất khẩu không được cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tìm biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là một việc làm vô cùng cần thiết và quan trọng. Trong thời gian qua, em đã có cơ hội về thực tập tại Công ty Xuất Nhập Khẩu và Kỹ Thuật Bao Bì Hà Nội. Hoạt động xuất khẩu chủ yếu của Công ty là xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Đây thực sự là một đề tài vô cùng thú vị và hấp dẫn. Do vậy, em đã chọn đề tài “Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam” làm đề tài cho luận văn của mình. Nội dung của Luận Văn bao gồm : 3 chương Chương I – Một số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của xuất xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam. ChươngII – Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III – Giải pháp và kiến nghị chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản. chương I số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với việt nam I. khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu 1. Khái niệm: Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn. 2. Vai trò: Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại chủ yếu của một quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là một nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của một quốc gia. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các nước đi nhanh trên con đường tăng trưởng và phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động. - Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Như chúng ta biết, việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ hoạt động xuất khẩu, do đó gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Và như vậy kết quả sẽ là: Tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Chẳng hạn như gia công, sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc phát triển thì nó tất yếu nó sẽ kéo theo sự phát triển của ngành dệt, ngành trồng bông, và các ngành sản xuất máy móc thiết bị, tư liệu ... phục vụ cho ngành may mặc. - Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách phẩm chất mẫu mã... của sản phẩm thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, phải học hỏi kinh nghiệm. Thực tiễn cho thấy khi thay đổi thị trường buộc chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu và việc đòi hỏi phải thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm sẽ tất yếu xảy ra, điều này kéo theo sự thay đổi trang thiết bị, máy móc, đội ngũ lao động. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. - Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước. Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời với sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo cho phép công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sản xuất ra hàng hoá có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới, giúp cho ta có nguồn lực công nghiệp mới. Điều này, không những cho phép tăng sản xuất về mặt số lượng, tăng năng suất lao động mà còn tiết kiệm chi phí lao động xã hội. - Đẩy mạnh và phát triển xuất khẩu có hiệu quả thì sẽ nâng cao mức sống của nhân dân vì nhờ mở rộng xuất khẩu mà một bộ phận người lao động có công ăn việc làm và có thu nhập. Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu dùng để nhập khẩu các hàng tiêu dùng thiết yếu góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên thương trường. Nhờ có những mặt hàng xuất khẩu mà đất nước có điều kiện để thiết lập và mở rộng các mối quan hệ với các nước khác trên thế giới trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và tiêu dùng của một nước, nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn mức tiêu dùng mà khả năng sản xuất trong nước có thể cung cấp được. Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, khu vực nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư, khả năng tích luỹ của công nghiệp thấp, xuất khẩu có vai trò ngày càng to lớn. Xuất khẩu trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. Thực tế chứng minh rằng, thu nhập hoạt động xuất khẩu vượt xa các nguồn vốn khác. Điều đó chứng tỏ rằng trong quan hệ kinh tế giữa các nước có trình độ phát triển chênh lệch rất lớn thì hoạt động ngoại thương đóng vài trò rất quan trọng, chủ yếu, chứ không phải những điều kiện ưu ái khác như viện trợ chẳng hạn. Xuất khẩu còn đóng vai trò chủ đạo trong việc xử lý vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.Việc đưa ra những nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự phân công kinh doanh quốc tế thông qua các ngành chế biến xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá, giảm bớt những thiệt hại do điều kiện ngoại thương ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu xuất khẩu. Như vậy, phải thông qua xuất nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng, các cơ hội của đất nước trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế. Nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà nó có thể trở thành yếu tố bên trong của sự phát triển, trực tiếp vào việc giải quyết những vấn đề bên trong của nền kinh tế: vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị trường.... 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Điển hình là một số hình thức sau: 3.1- Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước hoặc từ khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp yêu cầu phải có nguồn vốn đủ lớn và đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ để có thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh nhưng nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: - Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu cũng như tình hình của khách hàng nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết. 3.2-Xuất khẩu uỷ thác: Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất qua đó thu được một số tiền nhất định (theo tỷ lệ % giá trị lô hàng). Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp , đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất . Phương thức xuất khẩu uỷ thác có nhược điểm phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nắm bắt thông tin về thị trường chậm.Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình. 3.3- Buôn bán đối lưu: Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không nhằm mục đích thu ngoại tệ mà nhằm mục đích có được lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất khẩu. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. 3.4- Giao dịch qua trung gian: Đây là giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này là đại lý môi giới hay là người trung gian. Đại lý là một tổ chức hoặc một cá nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác, quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng đại lý. Có rất nhiều đại lý khác nhau như đại lý hoa hồng, đại lý toàn quyền, tổng đại lý... Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác. Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế .Tuy nhiên phương thức giao dịch này cũng phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nó làm cho lợi nhuận giảm xuống. 3.5-Gia công quốc tế: Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Đây là hình thức kinh doanh chủ yếu áp dụng cho những nước nơi có nhiều lao động, giá rẻ, nhưng lại thiếu vốn, thị trường. Khi đó các doanh nghiệp có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất và thâm nhập vào thị trường thế giới. Mặc dù đây là hình thức kinh doanh mang lại khoản tiền thù lao thấp nhưng nó giải quyết được công ăn việc làm cho nước nhận gia công khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn ,công nghệ và có thể tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Đối với nước thuê gia công có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công và thâm nhập vào thị trường của nước này. 3.6- Tái xuất khẩu: Tái xuất khẩu là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập nhưng không tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, và nước tái xuất khẩu. Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu, bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu trực tiếp, hoặc thông qua trung gian như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế. Khi đó thông qua phương pháp tái xuất các nước vẫn có thể tham gia buôn bán được với nhau. II. nội dung của hoạt động xuất khẩu 1. Nghiên cứu thị trường: 1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu: Đây là một trong những nội dung ban đầu, cơ bản nhưng rất quan trọng và cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu, phân tích có hệ thống nhu cầu thị trường. 1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu: Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố vi mô cũng như yếu tố vĩ mô và khả năng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. 1.3. Lựa chọn bạn hàng: Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, thanh toán của bạn hàng và căn cứ vào phương thức, phương tiện thanh toán. Việc lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng, các doanh nghiệp thường trước hết lưu tâm đến những mối quan hệ cũ của mình. Sau đó, những bạn hàng của các doanh nghiệp khác trong nước đã quan hệ cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn ở các nước đang phát triển. Các bạn hàng thường được phân theo khu vực thị trường mà tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế, mà các quốc gia ưu tiên. 1.4. Lựa chọn phương thức giao dịch: Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay, có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh. 2. Đàm phán và ký kết hợp đồng Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Đàm phán có thể thông qua thư tín, điện tín và trực tiếp. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó, quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế. Thông thường trong một hợp đồng xuất khẩu có những nội dung sau: a./ Phần mở đầu của hợp đồng xuất khẩu: - Số hợp đồng - Ngày và nơi ký kết hợp đồng. - Tên, và địa chỉ đầy đủ, tel, fax, đại diện của các bên. b./ Điều kiện tên hàng. c./ Điều kiện số lượng d./ Điều kiện về quy cách phẩm chất của hàng hoá. e./ Điều kiện về giá cả. f./ Điều kiện về bao bì , đóng gói , ký mã hiệu. g./ Điều kiện về cơ sở giao hàng. h./ Điều kiện về thời gian, địa điểm, phương tiện giao hàng. i./ Điều kiện về thanh toán. k./ Điều kiện bảo hành (nếu có). l./ Điều kiện về khiếu nại và trọng tài. m./ Điều kiện về các trường hợp bất khả kháng. n./ Chữ ký của các bên. Với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thể thêm các phụ kiện là bộ phận không tách rời của hợp đồng. 3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán: Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau: Sơ đồ: Trình tự các bước thực hiện hợp đồng. Giục mở L/C và kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết tranh chấp (nếu có) Đây là trìn Trình tự những công việc chung nhất cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người thực hiện hợp đồng có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn. * Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó: Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sử dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả ,do lợi ích của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. * Xin giấy phép xuất khẩu. Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục Nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hàng xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương mại quản lý. * Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp, sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật pháp của nước nhập khẩu. * Kiểm định hàng hoá. Tước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và ở cửa khẩu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản xuất. * Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. * Mua bảo hiểm hàng hoá: Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc này cần được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm. * Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: - Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... - Xuất trình hàng hoá. - Thực hiện các quyết định của hải quan. * Giao hàng lên tàu: Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau: - Lập bản đăng ký hàng chuyên chở. - Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng . - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố chí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán. * Thanh toán. Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp, khiếu nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. - Phương thức chuyển tiền. - Phương thức thanh toán mở tài khoản. - Phương thức thanh toán nhờ thu. - Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đối với nhà xuất khẩu, về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau: - Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký. - Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn. Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu ( D/P và D/A) và thư tín dụng (chủ yếu là L/C không huỷ ngang ) được áp dụng phổ biến hơn cả. Đến đây nếu không có sự tranh chấp và khiếu lại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới. iii- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lý như thế nào? ở đây chúng ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ yếu sau: 1. Môi trường quốc gia: Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế: - Các quy định của luật pháp Việt Nam đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ...) - Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia - Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn - Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu (Công ước Viên 1980, Incoterm 1990....) Ngoài những vấn đề nói trên, các chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan... Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, họ phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. Đặc biệt với loại hình xuất khẩu hàng nông sản thì yếu tố thời tiết có ảnh hưởng quan trọng tới việc xuất khẩu. Khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải , tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu.... Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ. Ví dụ: việc mua bán hàng hóa với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với các nước không có cảng biển. Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất... Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin , tạo điều kiện thuận lợi trong việc theo dõi, điều khiển hàng hóa xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng.... Các yếu tố hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, chẳng hạn như: Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho tàng.... . Hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hóa xuất khẩu. Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hóa cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.... Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể. 1.1. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh giá trị hàng hóa trong nước và trên thị trường quốc tế, là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam giảm so với ngoại tệ mạnh (USD, GBP, FRF, DEM...) thì các doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu và ngược lại. Chính vì vậy, các doanh nghiệp có thể thông qua nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái để đưa ra biện pháp xuất khẩu phù hợp, lựa chọn thị trường có lợi, lựa chọn nguồn hàng, đồng tiền thanh toán..... Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như “một chiếc gậy vô hình” đã làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. 1.2. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế: Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì Chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất; mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.... 1.3 Các chính sách thuế: Một số chính sách chủ yếu cần quan tâm đối với nhà xuất khẩu: *Thuế quan: Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung, công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số ít mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu của ngân sách. *Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp Chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu. * Hạn ngạch: Được coi là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu.... 1.4 Điều kiện tự nhiên: Nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng ,chất lượng hàng nông sản xuất khẩu là điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, thời tiết, tài nguyên thiên nhiên,khoáng sản.Như trên ta đã nói chuyển dịch cơ cấu nông sản phải dựa trên cơ sở phát huy lợi thế tiềm năng của mỗi khu vực sinh thái .Điều kiện tự nhiên,thời tiết,khí hậu ảnh hưởng trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu nông sản nói riêng .Mỗi vùng kinh tế có những lợi thế ,thuận lợi ,điều kiện tự nhiên đất đai để phát triển một hoặc một số loại cây cho năng suất cao và chất lượng tốt. Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có đất đai mầu mỡ là một vựa thóc lớn cung cấp phần lớn lúa gạo cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhu cầu xuất khẩu .Một số vùng đât trồng được những loại gạo đặc sản như gạo tám thơm ở miền Bắc, gạo dự, gạo đặc sản tám xoan ở vùng ĐBSCL mà theo đánh giá của người tiêu dùng có hương vị thơm ngon độc đáo hơn nhiều gạo của các nước khác như gạo đặc sản Mali của Thái Lan. Vùng Đồng Bằng Sông Hồng lại có ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc._. phát triển cây trồng xuất khâủ vụ đông ,đặc biệt là các loại rau đậu cao cấp .Còn việc nuôi trông xuất khẩu lại có thể tìm thấy khả năng to lớn ở các tỉnh Duyên Hải miền trung .Các vùng Trung du miền núi lại có tiềm lực phát triển xuất khẩu một số cây công nghiệp dài ngày , ngắn ngày như cây ăn quả ,các đặc sản của rừng như cà phê, cao su, chè, lạc ,đậu tương, cam, dưa chuột,trầm hương, mật ong và một số cây dược quý hiếm .Dựa vào vùng sinh thái ,từng địa phương, từng vùng hướng chuyên môn hoá , chuyên canh phát triển vật nuôi ,cây trồng hợp lý sẽ tác động chuyển dịch cơ câú vùng kinh tế và cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu .Sự chuyển dịch đó ngày càng có xu hướng hợp lý và cân đối hơn . Điều kiện khí hậu thuận tiện "mưa thuận ,gió hoà " sẽ tạo điều kiện cho sản xuất được tiến hành đồng bộ theo kế hoạch đã định trước và đảm bảo chất lượng cây trồng vật nuôi .Ngược lại , nếu thời tiết thất thường nắng gắt, mưa dầm hay hạn hán lũ lụt nạn dịch sâu bệnh sẽ ảnh hưởng xấu tới việc canh tác, sản xuất của nông dân .Hiện tượng ELNINO vừa diễn ra vào cuối năm 1998 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các vùng sản xuất cà phê của nước ta . Tình trạng thiếu nước dài ngày khíến cây bị chết khô phải thanh lý hoặc cưa bỏ tán cây ,những vùng có nước nhưng không đủ lượng cần thiết khiến quả và nhân kém phát triển dẫn đến chất lượng cây cà phê giảm xướng rõ rệt .Tiếp đó ,mùa mưa cuối vụ 1998 kéo dài đến hết năm đã ảnh hưởng đến tiến độ thu hái và bảo quản .Có nông trường mưa nhiều không thu hoạch kịp để cà phê rụng ,thu về không sấy được khiến cà phê bị hỏng sản lượng thu hoạch giảm xuống chỉ còn 30% mọi năm. 1.5 Khả năng ứng dụng Khoa Học Kỹ Thuật: Nhân tố khác tác động tới xuất khẩu nông sản đó là khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như là vấn đề cơ sở vật chất trang thiết bị máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất ,thu hoạch và trình độ chế biến .Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật , việc ứng dụng các tiến bộ khoa học mới sẽ tác động lớn và có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy sản xuất ,nâng cao năng suất lao động và phát triển nền kinh tế của đất nước. Thâm nhập vào thị trường quốc tế, nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải làm tốt việc nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của mình .Công nghệ chế biến ảnh hưởng nhiều tới chất lượng hàng hoá. Hiện nay, công nghệ chế biến của nước ta còn lạc hậu ,cũ nát có những ngành sản xuất còn sử dụng máy móc từ những năm 1950-1960 mà chưa được thay thế .Những máy móc cũ kỹ không đảm bảo được yêu cầu về chất lượng đối với các sản phẩm được chế biến ra và công suất quá thấp kém. Tại Miền bắc có tới 6 trong 13 nhà maý xay xát gạo được lắp đặt các thiết bị viện trợ từ năm 1960 trở về trước .Về chế biến chè, cả nước có khoảng 76 cơ sở chế biến có quy mô 6 tấn /ngày trở lên với công suất 1,046 tấn chè tươi /ngày .Với năng lực ấy ,ngyên liệu chè tươi trong nước mới đáp ứng được 50-65% công suất .Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta có chất lượng hơn hẳn nước khác nhưng khâu chế biến ,bảo quản không thực hiện tốt làm chất lượng giảm, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản xuất khẩu của nước ta cần phải có các chủ trương đổi mới trong thiết bị sản xuất và chế biến hiện đại để có thể vừa đảm bảo chất lượng hàng hoá vừa nâng cao năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh và thị phần hàng nông sản Việt Nam . 1.6 Các nhân tố khác: Nhân tố tiếp theo là giá cả, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài là hoạt động kinh doanh coi thị trường thế giới là thị trường trung tâm. Nhu cầu Thế Giới có vai trò quan trọng và quyết định tới hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá trong nước. Nhu cầu và giá cả thị trường thế giới là hai nhân tố tác động trực tiếp tới số lượng và khối lượng kim ngạch hàng nông sản .Xem xét trên thị trường cà phê thế giới trong những năm qua đây là thị trường mà giá cả lên xuống thất thường và hiện nay đang có xu hướng giảm giá gây ảnh hưởng tới hoạt động sản suất và xuất khẩu của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Sau một chuỗi những năm sản xuất dư thừa cung vượt qua cầu, năm 1992 giá cà phê xuống thấp đến mức có ngày chỉ có 600USD, thị trường cà phê lại vào thời kỳ cung cấp dưới mức nhu cầu. Vụ cà phê năm 97/98 là năm cuối cùng của thời kỳ thiếu hụt đó. Để từ đó, cung lại vuợt cầu và giá cả cà phê thế giới lại bước vào một giai đoạn sụt giá liên tiếp .Nhu cầu tiêu thụ thế giới từ 98,6triệu bao (mỗi bao 60kg) năm 1997 đạt 100 triệu bao, năm 1998 tăng 1,5%. Sản lượng cà phê vụ 98/99 đạt104 triệu bao so với 96,8triệu bao vụ 97/98 tăng 7,2triệu bao gần 7,5%. Như vậy trong khi nhu cầu tiêu thụ thế giới tăng 1,5% thì sản lượng cung cấp lại tăng những 7,5%, cung lớn hơn cầu 5 lần. Chính mối quan hệ tác động qua lại và sự hoạt động của quy luật cung cầu đã khiến cho giá cà phê bị giảm xuống .Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê của nước ta ,do đó, cũng bị ảnh hưởng .Mặc dù quy mô tăng nhanh cả về diện tích, năng suất và chất lượng nhưng xét về hiệu quả kinh tế và thu nhập từ cà phê lại có 1 nghịch lý là tốc độ tăng của sản lượng xuất khẩu ngày càng thấp so với tốc độ tăng của giá trị kim ngạch xuất khẩu . Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng của cà phê xuất khẩu . Năm 1996 1997 1998 1999 Tốc độ tăng, giảm SL xuất khẩu (%) + 14,6 +37,8 -2,5 +27,6 Tốc độ tăng, giảm giá trị xuất khẩu (%) -19,2 +18,4 +19,4 - 0,4 Đơn giá xuất khẩu (USD/Tấn) 1479 1270 1554 1214 ( Nguồn : Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn ) Năm 1996 tốc độ tăng của sản lượng xuất khẩu là +14,6 thì giá trị kim ngạch thu về lại giảm -19,2%. Không chỉ một mặt hàng cà phê mà tất cả các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung do chưa tìm được một chỗ đứng và vị thế cao trên thị trường quốc tế nên mỗi sự thay đổi nhu cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế đều ảnh hưởng tới sản lượng và và cơ cấu của từng mặt hàng nói riêng và cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu nói chung . Trong thời đại bùng nổ thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin liên lạc ngày càng được mở rộng và phát triển, các phương tiện này là công cụ hữu hiệu và quan trọng hỗ trợ đắc lực các nhà kinh doanh và sản xuất. Đặc biệt trong xuất khẩu các đối thủ cạnh tranh của chúng ta là các cường quốc mạnh về tiềm lực kinh tế và thông tin liên lạc hiện đại. Việc nắm bắt được những thông tin dự báo chính xác các nhu cầu trên thị trường về loại mặt hàng và giá cả sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động có hiệu quả . Việc thiếu thông tin về thị trường đã gây ra sự thua thiệt về giá cả và là một bài học cay đắng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tại Việt Nam. Đầu năm 1997 khi giá bắt đầu tăng từ 1000 USD / tấn lên 1200 đến 1300 USD / tấn thì các doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ bán ngay vì sợ cà phê xuống giá. Đầu tháng 06/1997 giá cà phê tăng mạnh có lúc tăng từ 2400 đến 2500 USD / tấn thì lúc này lượng cà phê còn lại không nhiều chỉ khoảng vài chục tấn. Kết quả vụ cà phê 1996/1997 chỉ xuất được 2230 nghìn tấn nhưng thu về 420 triệu USD. Thiếu thông tin nhạy bén về thị trường luôn là lực cản đáng kể hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam. Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải luôn luôn nắm bắt được các thông tin về thị trường, giá cả và thị hiếu của khách hàng để có những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra Chính phủ và Nhà nước ta cũng cần có sự hỗ trợ cung cấp tin, xây dựng trung tâm nghiên cứu dự báo về xu hướng biến đổi của thị trường giúp các doanh nghiệp cá nhân tổ chức kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông sản hợp lý . Như vậy có rất nhiều các nhân tố tác động tới xuất khẩu nông sản ở Việt Nam. Vấn đề cần đặt ra là chúng ta cần phải phát huy được những tác động tích cực của các nhân tố này, đồng thời phải hạn chế các tác động tiêu cực tới sản xuất và xuất khẩu, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản Việt Nam. Ngày nay qua quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang được đẩy nhanh tốc độ phát triển, các mối quan hệ thượng mại quốc tế ngày càng mở rộng và phức tạp, vấn đề cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Hạn chế những rủi ro của điều kiện khí hậu và biến động xấu của thị trường đồng thời tăng cường việc nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và sự hỗ trợ từ phía chính phủ sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu của mình và tăng thị phần của mình trên thị trường quốc tế đưa Việt Nam thành một cường quốc xuất khẩu hàng hoá hàng đầu trên thế giới trong một tương lai không xa. Các nước khác nhau có tính chất thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu có liên quan tới nền kinh tế của nước mình. Nếu không có bàn tay Nhà nước điều tiết vĩ mô hoạt động này thì nền kinh tế đất nước đó sẽ bị lệch lạc, đi không đúng hướng, mất cân đối về cung cầu, gây ra các cú sốc về kinh tế. Do vậy, để khắc phục những hạn chế đó đối với sự phát triển của đất nước và đời sống nhân dân, Nhà nước phải luôn quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu thông qua các công cụ chính sách của mình mà cụ thể đó là các chính sách ngoại thương. Chính sách ngoại thương nước ta có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất khẩu nhằm đạt được các mục tiêu và yêu cầu về kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Tuỳ vào tình hình và định hướng phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn mà chính sách ngoại thương được thực hiện ở mức độ khác nhau. Sau đây là những công cụ, chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động xuất khẩu. 2. Môi trường quốc tế: 2.1 Biến động thị trường hàng nông sản thế giới Biến động thị trường hàng nông sản thế giới là do cung cầu nông sản không ổn định. Cung không ổn định do đây là ngành mà điều kiện sản xuất cũng như kết quả của sản xuất chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện thời tiết, khí hậu. Trong điều kiện thời tiết thuận lợi thì cung nông sản tăng nhanh, ngược lại thì sản lượng giảm. Cầu nông sản biến động là do xu hướng biến động của nó được xác định theo quy luật tiêu dùng sản phẩm của E.Engel. Quy luật này cho rằng xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cơ bản tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. ở các nước công nghiệp phát triển, mức tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm chỉ xấp xỉ 1/2 mức tăng thu nhập. Quy luật này làm cho cầu nông sản có xu hướng giảm. Một nguyên nhân nữa cũng khiến cho cầu nông sản có xu hướng giảm đó là do khoa học kỹ thuật phát triển, ngày càng có nhiều sản phẩm nhân tạo thay thế sản phẩm tự nhiên. 2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau trong các liên minh Kinh Tế Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế- xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất. ở đây cũng do một phần tác động của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hóa từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu phải đối mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu. Chất lượng hàng nông sản cùng với cơ cấu mặt hàng cũng đang ngày một được nâng cao một cách đáng kể, yêu cầu về mặt hàng nông sản phải có chất lượng cao, cơ cấu mặt hàng phải phong phú. Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được kí kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh tế này hoặc kí kết các hiệp định thương mại thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản đối với việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó. 2.3 Tập quán, thói quen tiêu dùng cùng với nền văn hoá của các quốc gia Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng. Nền văn hóa tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy, văn hóa là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu yếu tố văn hóa ở các thị trường mà mình tiến hành hoạt động xuất khẩu. 3- Bản thân doanh nghiệp (các nhân tố chủ quan): Các nhân tố chủ quan là những đặc điểm, tiềm năng của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, mỗi một doanh nghiệp có một tiềm năng phản ánh thực lực của mình trên thị trường. 3.1 Khả năng về vốn cho hoạt động xuất khẩu: Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất thiết phải xây dựng chiến lược kinh doanh. Trong kinh doanh thuật ngữ “chiến lược” được hiểu là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đến mục tiêu đã định. Chiến lược bao gồm: các đường lối tổng quát, các chủ trương mà doanh nghiệp sẽ thực thi trong một thời hạn đủ dài, các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, các nguồn lực, các tiềm năng được sử dụng để đạt được mục tiêu đó và các chính sách điều hành việc thu hút- phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng cần thiết để đạt mục tiêu này. Bên cạnh một số yếu tố khác thì vốn chính là nhân tố quyết định đến mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu có khả năng vốn mạnh, doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động chất lượng cao, tăng quy mô kinh doanh từ đó tạo thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường. Có thể nói hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của khả năng về vốn của doanh nghiệp. 3.2 Khả năng đội ngũ cán bộ nhân viên làm hoạt động xuất nhập khẩu: Con người luôn là chủ thể của mọi quan hệ xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng về chuyên môn, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước những biến động của thị trường và đặc biệt là có lòng say mê, nhiệt tình trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy, khả năng đội ngũ cán bộ nhân viên quyết định hoạt động của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp muốn hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì nhất thiết phải quan tâm đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ lao động thực sự có năng lực đồng thời chú trọng tới công tác quản lý nhằm tạo động lực cho người lao động làm việc có hiệu quả. 3.3 Uy tín của Doanh nghiệp: Uy tín của doanh nghiệp được đo bằng những “lá phiếu” mà khách hàng dành cho sản phẩm của doanh nghiệp. Quyết định mua hàng của người tiêu dùng ngoài một số nhân tố khách quan, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp. Như vậy uy tín của doanh nghiệp là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh, vị thế của mình trên thị trường. 3.4 Trình độ tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu hàng nông sản: Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra những cơ hội, nhưng cũng gây nên những nguy cơ đối với tất cả các ngành nghề nói chung và đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng những công nghệ mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của chính mình trên thị trường. Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng những công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm sẽ được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đồng thời nó cũng giúp hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả hơn thông qua việc tác động tới hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, vận tải,...Tuy vậy hiệu quả của công nghệ còn phụ thuộc rất lớn vào tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam không ít các doanh nghiệp chỉ quan tâm chạy theo khẩu hiệu “Hiện đại hoá” đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết hiệu quả công nghệ do sự hạn chế về khả năng sử dụng của người lao động. Vì vậy nhập công nghệ hiện đại nhưng cần phải phù hợp với trình độ người lao động thì mới hiệu quả. Đặc biệt trong quá trình chuyển giao công nghệ cần có cán bộ kỹ thuật có trình độ hoặc những chuyên gia giỏi để tránh bị thua thiệt trước “tiểu xảo” của đối tác nước ngoài. Nói tóm lại, trình độ tiếp thu công nghệ có ảnh hưởng lớn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 3.5 Tiềm lực tài chính: Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) Vốn huy động Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi 3.6 Tiềm năng con người: Trong kinh doanh (đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại- dịch vụ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ...một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. 3.7 Tiềm lực vô hình (tài sản vô hình): Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại. Tiềm lực vô hình không phải tự nhiên mà có. Tuy có thể được hình thành một cách tự nhiên, nhưng nhìn chung tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp và cần chú ý đến khía cạnh này trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh nghiệp có thể là: Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp. 3.8 Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hóa và dự trữ hợp lý hàng hóa của doanh nghiệp: Yếu tố này ảnh hưởng tới “đầu vào” của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn cung cấp hàng hóa cho doanh nghiệp thì việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu không thể đảm bảo, có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. 3.9 Trình độ tổ chức, quản lý: Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp 3.10 Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết công nghệ của doanh nghiệp: ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hóa được đưa ra đáp ứng khách hàng trong và ngoài nước. 3.11 Cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp: Cơ sở vật chất - kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng... Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện và có hiệu quả. IV- Vai trò của Xuất khẩu nông sản Xuất khẩu nông sản sẽ giúp cho Việt Nam khai thác được tốt những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng được những nhu cầu cuả thị trường nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mỗi một vùng sinh thái , mỗi địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp đều có thể có những lợi thế về điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiêt, khí hậu và lao động so với các vùng khác của đất nước hay so với quốc tế. Trong thời kỳ bao cấp thực hiện cơ chế tập trung, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm nông sản không được quan tâm chú trọng đúng mức. Hiện nay trong xu thế mở cửa và hội nhập, hàng nông sản không những phải cạnh tranh trên thị trường trong nước mà còn chuyển dịch theo hướng phát triển ra thị trường nước ngoài. Như vậy để đứng vững trên thị trường quốc tế, mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam buộc phảỉ phát huy được những tiềm năng, tận dụng được những ưu thế của từng vùng kinh tế nhằm giảm chi phí tối đa và nâng cao chất lượng hàng nông sản . - Xuất khẩu nông sản góp phần đa dạng hoá về chủng loại và số lượng các mặt hàng xuất khẩu tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chiếm tới 50%. Nguồn ngoại tệ thu được từ việc xuất khẩu nông sản là nguồn tích luỹ lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước chúng ta cần rất nhiều nguồn vốn để đầu tư cho các công trình quan trọng : các hệ thống giao thông vận tải cơ sở hạ tầng cũng như các máy móc thiết bị, công cụ và các dụng cụ, giống cây trồng và công nghệ mới phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong nước . Thực tế cho thấy nhu cầu về vốn thì nhiều mà khả năng đáp ứng thì quá ít. Điều đó sẽ cản trở rất nhiều tới sự phát triển của đất nước. Chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu góp phần giảỉ quyết một phần nào những đòi hỏi bức bách trên . - Việc xuất khẩu nông sản phát huy nội lực đã từng bước giải quyết nhu cầu của đời sống xã hội, giải quyết được vấn đề lương thực. Đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu nội địa có dự trữ và xuất khẩu. Cuộc sống của người dân từng bước được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, góp phần năng cao trình độ dân trí. Trên thị trường các loại hàng hoá đa dạng và phong phú hơn ngày càng đáp ứng tốt hơn thị hiếu của người tiêu dùng. - Xuất khẩu nông sản xuất khẩu đã khẳng định được vị trí hàng nông sản trên thị trường quốc tế, góp phần đưa nước ta tiếp tục phát triển, giảm dần khoảng cách do tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới nâng cao vị thế của Việt Nam và cải thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại. Mở rộng quan hệ giao dịch mua bán môi trường cạnh tranh trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản buộc phải nhanh nhạy trong chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến các sản phẩm của mình tạo điều kiện cho khoa học kỹ thuật thâm nhập vào Việt Nam nâng cao năng suất và chất lượng hàng hoá. - Các mặt hàng nông sản như: gạo, lạc, cà phê, chè, quế, cao su,...là hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất của mỗi quốc gia. Cho nên đa số các nước trên thế giới trực tiếp hoạch định các chính sách can thiệp vào sản xuất, xuất khẩu lương thực và nước nào cũng chú trọng chính sách dự trữ quốc gia và bảo hộ nông nghiệp. - Mặt hàng nông sản là mặt hàng chủ yếu của các nước chậm và đang phát triển. Nó chủ yếu được sản xuất ra và tiêu thụ nội địa là chính, rất ít quốc gia có khả năng xuất khẩu ra bên ngoài. - Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng có tính chất chiến lược, do vậy đại bộ phận buôn bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các nhà nước mang tính dài hạn. - Tình hình buôn bán và sản xuất hàng nông sản phụ thuộc vào tính thời vụ, mùa màng thu hoạch được, phụ thuộc vào nhu cầu và điều kiện thanh toán của từng quốc gia nhập khẩu là chính. Như lạc: các nước nhập khẩu chủ yếu theo yêu cầu chất lượng quốc tế nhưng có một vài thị trường nhập khẩu lạc với chất lượng theo sự chấp nhận của thị trường như: thị trường Singapore, Indonexia,... - Trên thế giới không chỉ có Việt Nam là nước xuất khẩu hàng nông sản mà còn nhiều nước khác tham gia. + Về mặt hàng gạo: có Thái Lan, Malayxia,... Việt Nam đứng thứ hai sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. + Về mặt hàng lạc: có ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Nigiêria. + Về mặt hàng cà phê: Việt Nam chỉ mới tham gia vào thị trường thế giới. Nguồn cung cấp cà phê chính cho thị trường thế giới là: Colombia, Brazil, Indonexia. - Một số mặt hàng khác như: quế, sa nhân...Việt Nam còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trên thị trường thế giới. Chương II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam 1. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam Về sản xuất hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở: 1.1. Về đất đai: Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10-11,157 triệu ha, trong đó khoảng gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm (riêng trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha) và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu ha, trồng cây lâu năm là 86 vạn ha, ngoài ra 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 ha mặt nước. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc đã bị xói mòn, thoái hoá. Diện tích ở vùng miền núi Bắc Bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích, vùng Tây Nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Bắc Bộ khoảng 34%. Diện tích đất này nếu được đầu tư cải tạo thì rất thuận lợi cho phát triển trồng các cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hạt tiêu... Song nó đòi hỏi cần có một sự đầu tư lớn và phải sau một thời gian tương đối mới có thể sử dụng được. Trong khi đó ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Cửu Long diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao, lần lượt chiếm 93% và 82% tổng quỹ đất, nhưng tình trạng thâm canh trong nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, hệ thống thuỷ lợi còn yếu kém, hệ số sử dụng đất mới đạt trung bình 1,4 lần/ năm. Bởi vậy nếu được đầu tư mạnh, phát triển sản xuất theo chiều sâu nhằm khai thác được lợi thế của các vùng đồng bằng trù phú thì sẽ trở thành những trung tâm sản xuất lúa gạo lớn. Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng khá cao nhất là phù sa, đất xám, chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là cơ sở tốt để phát triển nhiều loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác khoa học, hợp lý. 1.2.Về khí hậu: Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiết đới gió mùa do ảnh hường khá sâu của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ Bắc vào Nam, với một mùa đông lạnh ở miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông sản. Thêm vào đó, tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bổ tương đối đồng đều trong nước. Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt nước ta được xếp vào loại giàu. Với độ ẩm tương đối trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn ( trung bình từ 1800- 2000 mm/năm). Kết hợp với nguồn nhiệt giàu có, đây là điều kiện thuận lợi đối với một số loại cây trồng như lúa nước, cà phê, cao su, chè... 1.3. Về nhân lực: Với dân số hơn 77 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có hơn 80% dân số sống bằng sản phẩm nông nghiệp. Có thể nói nguồn cho nông nghiệp là rất dồi dào. Bên cạnh đó, người Việt Nam có đặc điểm là cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Đây là thuận lợi lớn cho Việt Nam để vươn lên một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, tạo nguồn nông sản dồi dào cho tiêu dùng và xuất khẩu. 1.4. Các chính sách của Nhà nước: Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu chính vì vậy nên việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản cũng được chú trọng. Quan tâm việc ưu đãi đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất nông sản nhất là đối với cây trồng lâu năm như cà phê, cao su đã tạo được động lực mới cho sự phát triển ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp cùng tạo ra bước đột phá. Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được tiềm năng đó một cách tốt nhất để giải quyết vững chắc và ổn định lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản và nông sản chế biến tạo thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Để giải quyết vấn đề này, nhiệm vụ đặt ra không phải chỉ do một Bộ, ngành nào mà đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, các ngành và các thành phần kinh tế... Trong những năm qua, nhóm mặt hàng nông sản giữ tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng lên nhanh chóng (từ 1.081 triệu USD năm 1991 đến 3.250 triệu USD năm 1997, tăng bình quân 16,30%). Nguyên nhân chủ yếu do xu hướng phục hồi giá trên thị trường thế giới trong những năm gần đây và chất lượng của sản phẩm được nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, tốc độ tăng của giá trị xuất khẩu hàng nông sản vẫn giảm sút so với giá trị xuất khẩu hàng hóa chung (tăng bình quân 20,56%/ năm). Điều này một mặt phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế chung phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nhưng mặt._.iản hóa hơn các thủ tục cho vay, đặc biệt là đối với các hộ nông dân. - Nghiên cứu áp dụng các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản như bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong những trường hợp cần thiết, cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng, hợp tác tín dụng giữa các quỹ tín dụng, các ngân hàng, kể cả các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng nông sản Việt Nam. - Nghiên cứu xây dựng và triển khai áp dụng quỹ tài trợ xuất khẩu cho các nông sản xuất khẩu chủ yếu (có phạm vi sản xuất rộng và là nguồn thu nhập chủ yếu của đa số nông dân) bằng các nguồn khác nhau từ ngân sách Nhà nước và đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. 2.3- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách về thị trường: - Khuyến khích và tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường và xuất khẩu nông sản trên cơ sở giảm bớt các hạn chế đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu về thủ tục thành lập, kinh doanh và giải thể. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều như khen thưởng, giảm thuế hoặc ưu tiên vay vốn từ các quỹ hỗ trợ của Nhà nước. - Điều chỉnh linh hoạt hạn ngạch xuất khẩu gạo để đảm bảo ổn định nguồn lương thực và giá cả trong nước nhưng không cản trở các doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao, từng bước chuyển sang điều hành bằng thuế, có dự trữ để đảm bảo an ninh lương thực thay vì hạn chế thương mại. - Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thị trường các nước ASEAN cũng sẽ bị hạn chế đối với các nông sản xuất khẩu của Việt Nam do cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam và các nước ASEAN khác tương tự nhau, hơn nữa các nông sản xuất khẩu Việt Nam thường là sản phẩm thô, ít qua chế biến nên việc cắt giảm thuế theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước này không có tác động lớn đến khối lượng xuất khẩu các nông sản của Việt Nam trong tương lai. Bởi vậy, một mặt tiếp tục duy trì thị trường các nước ASEAN (chủ yếu là sản phẩm ngũ cốc, sản phẩm thức ăn gia súc, các nông sản thô ít qua chế biến để phục vụ cho công nghiệp chế biến). Ngoài ra tiếp tục tháo gỡ vướng mắc để khôi phục thị trường Nga và Đông Âu vì đây là các thị trường có dung lượng trao đổi lớn và yêu cầu chất lượng sản phẩm không khắt khe, đồng thời từng bước thâm nhập vào thị trường mới như EU và Mỹ. - áp dụng chế độ quản lý mềm dẻo hơn đối với nhập khẩu vật tư nông nghiệp để khuyến khích sản xuất trong nước nhưng không làm tăng giá cao so với giá quốc tế nhằm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. - Chuẩn bị lộ trình tham gia tự do hóa thương mại theo cam kết với AFTA, APEC và WTO. Khai thác có hiệu quả các cơ hội của thị trường quốc tế, đồng thời bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. 2.4- Chuyển dịch cơ cấu nông sản xuất khẩu phù hợp với yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới, đáp ứng số lượng và kim ngạch xuất khẩu: Từ đó trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu, chúng ta phải ưu tiên lựa chọn những nông sản có giá trị cao, như gạo có chất lượng cao, chè đặc sản, cà phê arabica, dứa cayen, lợn siêu nạc, cho phép trên mỗi đơn vị diện tích trồng trọt và trên mỗi đầu gia súc thu được nhiều kim ngạch xuất khẩu. Như vậy có thể với số diện tích trồng trọt không lớn lắm, với số đầu gia súc không nhiều lắm, chúng ta có thể có hàm ngạch xuất khẩu cao. Đó là xu thế xuất khẩu hiện đại. Muốn làm được điều này, trước tiên cần hết sức quan tâm giải quyết việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi tốt, nhân giống và nếu cần thì phải nhập giống bao gồm cả nhập giống thương phẩm và công nghệ sản xuất giống. Để khắc phục tình trạng sản xuất phân tán và manh mún, thu mua gom nông sản ở nhiều nơi để xuất khẩu, làm giảm chất lượng sản phẩm và tăng chi phí, cần xây dựng và phát triển các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu, có quy mô lớn như các vùng lúa gạo, vùng ngô, vùng cây công nghiệp, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, chè, mía đường, bông, rau quả, vùng chăn nuôi bò sữa, lợn v.v… Trong các vùng đó, gắn khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến, bảo quản, vận chuyển bốc xếp, tiêu thụ sản phẩm thông qua các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp chế biến, nông hội, hợp tác xã, trang trại sản xuất nguyên liệu. Việc phát triển các vùng sản xuất nông sản xuất khẩu tập trung như trên sẽ góp phần quan trọng để đảm bảo số lượng, tăng chất lượng và hạ giá thành nông sản xuất khẩu, giảm được tình trạng đầu cơ, đảm bảo giá mua bán hợp lý, có lợi cho cả nông dân sản xuất nguyên liệu và người tiêu thụ và chế biến nông sản. 2.5- Phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ: là nền tảng vững chắc để tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản. Tồn tại lớn nhất trong xuất khẩu nông sản là chất lượng thấp, giá thành cao, xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô và sơ chế. Nông sản xuất khẩu thô chiếm 70 – 80%, tỷ lệ xuất khẩu qua chế biến chiếm từ 20 – 30% trong khi đó các nước trong khu vực ASEAN đạt trên 50%. Nông sản xuất khẩu dưới dạng thô thường có giá quốc tế thấp hơn, như giá gạo thấp hơn 30-50% USD/tấn, cà phê, chè thấp hơn 100-150 USD/tấn. Muốn giảm nhanh tỷ lệ xuất khẩu nông sản thô, nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản xuất khẩu phải phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng, nâng cao trình độ áp dụng khoa học công nghệ, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản và từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành nông sản xuất khẩu, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu trên thị trường. Việc phát triển kết cấu hạ tầng, áp dụng khoa học và công nghệ phải gắn trước tiên với việc xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung phù hợp với điều kiện sản xuất nông sản xuất khẩu của vùng. ở các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung phải ưu tiên phát triển thuỷ lợi để chống úng, chống hạn, thực hiện tưới tiêu hợp lý, cung cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, cho sinh hoạt của nhân dân. Việc phát triển mạnh mẽ giao thông để vận chuyển sản phẩm, vật tư, hàng tiêu dùng, đi lại của nhân dân ở trong vùng. Phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản trong các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn là vấn đề hết sức quan trọng để giảm bớt hư hỏng sản phẩm sau thu hoạch, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu, tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển, giảm giá thành nông sản xuất khẩu. Phát triển hệ thống điện, dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ ngân hàng tín dụng, kho tàng, bến bãi, cửa hàng thương mại và chợ mua bán nông sản vật tư sản phẩm, một cách hợp lí ở các vùng nông sản nguyên liệu tập trung sẽ cho phép tạo nên một dây chuyền khép kín các khâu sản xuất, chế biến bảo quản, bốc xếp vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, mở ra khả năng xuất khẩu nông sản sản phẩm trực tiếp, không qua trung gian, đưa hàng hoá trực tiếp đến các nước nhập khẩu nông sản phẩm một cách có hiệu quả. 2.6- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu nông sản xuất khẩu: là điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Các nước, kể cả các nước phát triển có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, đặc biệt hỗ trợ xuất khẩu nông sản. Chẳng hạn muốn xuất khẩu nông sản trước tiên phải có chính sách đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu nông sản tập trung, trọng điểm từ khâu sản xuất đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản, đặc biệt đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng thông qua các dự án đầu tư hỗ trợ của Nhà nước. Để có thể nâng cao sức cạnh tranh nông sản xuất khẩu trên thị trường điều hết sức quan trọng là nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, đi đôi với việc nâng cao trình độ trang thiết bị khoa học và công nghệ, cần giảm chi phí không hợp lí. Nên giảm thuế nhập khẩu phân bón, thuốc trừ sâu, giảm thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm nguyên liệu sản xuất trong nước bán cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Loại bỏ các chi phí không cần thiết ra khỏi giá thành, giảm các chi phí dịch vụ đầu tư vào như chi phí dịch vụ bưu chính, hải quan, thanh tra, kiểm tra đến mực tối đa. Cần có chính sách ưu đãi đối với người sản xuất nông sản xuất khẩu như chính sách bảo hiểm, khen thưởng… tham gia các hợp đồng thương mại xuất khẩu của chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho họ vay vốn ngân hàng với thủ tục đơn giản, thời gian trung hạn và dài hạn, lãi suất ưu đãi, quy mô vay vốn… đủ để làm nông sản xuất khẩu. Trợ giá cước hàng xuất khẩu cũng như điều chỉnh thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với những nông sản xuât khẩu chủ lực. Cần có chính sách tăng đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, nắm bắt kịp thời các thông tin thị trường cung cầu về nông sản phẩm, nghiên cứu và dự báo cung cầu thị trường. Đó là cơ sở đẩu tiên để quy hoạch và điểu chỉnh cơ cấu sản xuất nông sản xuất khẩu một cách kịp thời. Làm sao những thông tin đó có thể đến được người sản xuất ( nông hộ, tổ sản xuất, hợp tác xã trang trại…). Người sản xuất phải nắm được đầy đủ các thông tin về tình hình giá cả, tiêu chuẩn chất lượng và số lượng nông sản xuất khẩu, địa điểm xuất khẩu. Người sản xuất phải nắm được các chính sách Nhà nước có liên quan đến xuất khẩu nông sản như chinhs sách thuế, hỗ trợ khen thưởng xuất khẩu, chính sách tài chính tín dụng vay và lãi suất, chính sách khuyến nông và áp dụng khoa học công nghệ. Phải có đầu tư thích đáng để nâng cao trình độ sản xuất và tiếp cận thị trường cho người sản xuất để họ có thể tự chủ trong sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. 2.7- Phân tích và dự báo thị trường thế giới: Đồng thời lựa chọn những mặt hàng nông sản hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường mỗi nước, mỗi khu vực để quy hoạch và đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Một số hàng xuất khẩu có sản lượng tăng nhưng giá trị kim ngạch thì giảm, nhà nước bù lỗ, giá cả bấp bênh, nông dân thua thiệt thì có nên duy trì diện tích sản xuất để xuất khẩu như hiện nay? chẳng hạn như xuất khẩu gạo năm 2000 so với năm 1999 chỉ giảm 23% về lượng, nhưng giá trị giảm 35%, giá lúa trong nước bình quân chỉ băng 84%, giá cà phê thế giới từ 520 USD/ tấn ( 10/2000 ) chỉ còn 400-410 USD/ tấn sau đó chỉ một hai tháng (11/2000 ). Nhà nước bù lỗ xuất khẩu cà phê gần 100 tỷ đồng trong năm 1999. Thị trường thế giới năm 2001 sẽ tiếp tục dư thừa cà phê, giá cà phê giảm xuống mức thấp nhất nên người trồng cà phê sẽ gặp nhiều khó khăn. 2.8- Đồng thời cũng cần có chính sách đầu tư trực tiếp cho nông dân sản xuất nông sản: hàng hoá thông qua vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vay vốn lãi suất thấp cho sản xuất, miễn giảm thuế mất mùa, gặp rủi ro, có chính sách trợ giá vật tư nguyên nhiên liệu cho sản xuất nông nghiệp như : giống cây con,.. thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y.. đặc biệt là giá điện, than phục vụ cho thuỷ lợi, chế biến nông sản. Theo báo cáo của Ban Vật Giá Chính Phủ, nếu so với giá lúa thị trường tháng 3/2001 thì người sản xuất lã mới bù đủ chi phí sản xuất, nếu tính thêm chi phí quản lí Hợp Tác Xã ( 2% ) thuê sử dụng đất nông nghiệp( khoảng 4% sản lượng ).. thì mức lãi cho người sản xuất rất thấp, thậm chí còn lỗ. Hàng nghìn tỷ đồng bù lỗ cho xuất khẩu, bù lỗ mua dự trữ nếu được đầu tư trực tiếp cho nông dân thì chất lượng, giá thành nông sản sẽ có sức cạnh tranh mạnh hơn cả thị trường trong nước và nước ngoài. Chỉ có nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá mạnh mới tạo điều kiện cho nông thôn đổi mới, người nông dân được nâng cao đời sống về vật chất, văn hoá, xã hội, đuổi kịp thành thị. 3. Biện pháp vi mô.( Từ phía doanh nghiệp ) 3.1- Tăng cường năng lực chế biến hàng xuất khẩu: - Khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô giá trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu có giá trị cao thông qua việc phát triển công nghiệp chế biến, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đánh thuế cao đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có cơ sở chế biến. - Đầu tư đồng bộ xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các cơ sở, hệ thống sơ chế, chế biến thành phẩm và kho bảo quản chuyên dùng tại nơi sản xuất và cảng xuất hàng nông sản. - Kêu gọi đầu tư nước ngoài, liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng trung, dài hạn để đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, bao bì đẹp và hấp dẫn. - Thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng. - Nghiên cứu, chế tạo, nhập khẩu, phổ biến các loại máy móc, thiết bị với công nghệ tiên tiến để nâng cao các khâu phơi sấy, bảo quản, chế biến nông sản và góp phần giảm hao hụt sau thu hoạch. 3.2- Cơ chế hợp đồng tiêu thụ nông sản: có ý nghĩa to lớn để đảm bảo cho người nông dân sản xuất nông sản phẩm có thể tiêu thụ được với giá cả hợp lí và các doanh nghiệp thu mua chế biến được nông sản phẩm để xuất khẩu cho nước ngoài. Trong thực tế có nhiều trường hợp không thực hiện được hợp đồng đã kí kết do sự biến động phức tạp của giá cả thị trường. Khi giá thị trường cao hơn giá hợp đồng nông dân muốn giữ lại nông sản, đưa ra bán thị trường với giá cao, doanh nghiệp không mua được hoặc mua không đủ nông sản để chế biến và xuất khẩu. Ngược lại khi giá thị trường thấp hơn giá hợp đồng, doanh nghiệp không muốn mua hoặc mua ít nông sản của nông dân mà mua ở thị trường, nông dân không bán được hoặc chỉ bán được ít nông sản sản xuất ra dẫn đến thiếu vốn để tiếp tục sản xuất. Vì vậy khi ký kết hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp, hai bên phải tính toán đầy đủ về sự biến động giá cả của thị trường, quy định rõ trách nhiệm và quyền lực của mỗi bên. Kinh nghiệm của nhiều địa phương cho thấy hợp đồng phải được bàn bạc và ký kết 1- 2 tháng trước khi vào vụ sản xuất. Nội dung hợp đồng phải nói rõ tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng sản phẩm, thời gian, giá cả, địa điểm giao nộp. Để đảm bảo tính khả thi của hợp đồng, phải tính toán đầy đủ các chi phí sản xuất về tư liệu sản xuất và lao động để sản xuất ra sản phẩm. Giá nông dân bán cho doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng là chi phí thực tế sản xuất cộng với tiền nộp thuế ( nếu có ) cộng với chi phí lưu thông (nếu nông dân phải vận chuyển thóc đến doanh nghiệp ) lãi dự tính ( khoảng 20%) để nông dân có thể thực hiện được tái sản xuất mở rộng. Giá ký kết trong hợp đồng phải là giá hai bên ( nông dân và doanh nghiệp ) thoả thuận. Nếu do sự biến động giá cả thị trường thì hai bên phải bàn bạc nhau, không nên để xảy ra tình trạng nông dân không bán hoặc không đủ sản phẩm cho doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp không mua hoặc mua không đủ số lượng nông sản cho nông dân như đã xảy ra trong thực tế. 3.3- Tăng cuờng các biện pháp Marketing đối với hàng hoá nông sản: - Tổ chức nghiệp vụ xuất khẩu hàng nông sản - Nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản. Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu là khâu đầu tiên của quá trình xuất khẩu hàng hoá, là khâu quan trọng trong việc đưa ra quyết định: xuất khẩu mặt hàng nông sản nào để đem lại lợi nhuận lớn nhất. Việc tìm kiếm thông tin, thăm dò thị trường là rất khó vì hiện nay các doanh nghiệp vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong tìm kiếm và xử lý thông tin. Trước kia, Việt Nam xuất khẩu hàng sang các nước Đông Âu và Liên Xô là chủ yếu. Từ năm 1991 tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, thị trường Đông Âu ngày càng co hẹp, thị trường Tây Âu, Châu Phi, Châu á mở rộng, cơ chế hoạt động cũng rất khác so với thị trường Đông Âu cũ. Để giải quyết những khó khăn này, các doanh nghiệp phải đưa ra kế hoạch chi tiết và phù hợp để giải quyết những khó khăn. Đồng thời cần phải nghiên cứu thị trường quốc tế một cách nghiêm túc, có thể tìm kiếm thông tin từ các trung tâm thông tin thương mại, các văn phòng đại diện thương mại, phòng tư vấn thương mại, tạp chí thương mại trong và ngoài nước. Một thực tế khả quan là từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với những thị trường lớn, giầu tiềm năng, lại có vị trí địa lý rất gần với Việt Nam đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Philipin, Thái Lan, Trung Quốc. Hàng năm, số hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường này chiếm từ 65-80% tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản. Trong tương lai, Việt Nam vẫn muốn tiếp tục duy trì quan hệ làm ăn ở các thị trường này và khối lượng hàng xuất khẩu sang khu vực này trong tương lai sẽ còn tăng mạnh. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường quốc tế, các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực nghiên cứu thị trường trong nước để tạo nguồn hàng xuất khẩu bảo đảm cả về số lượng, chất lượng, thời gian... 3.4- Tổ chức tạo nguồn và mua hàng xuất khẩu: Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng bao gồm các khâu nghiên cứu, lựa chọn nguồn hàng, phương thức mua, ký kết hợp đồng mua bán, hình thành đơn nguyên hàng xuất khẩu. Nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm nguồn hàng, lựa chọn khu vực đặt hàng, địa điểm giao hàng, phương thức mua bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian và thuận tiện cho vấn đề tài chính, huy động vốn. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam thường dùng các hình thức: mua bán đứt đoạn, xuất khẩu, uỷ thác, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Tuỳ từng trường hợp cụ thể để lựa chọn cho thích hợp trên cơ sở căn cứ vào yêu cầu của bên nhập khẩu, về hiện trạng của doanh nghiệp, về cán bộ kỹ thuật viên, lao động, vốn,... ở khâu này, việc ký kết hợp đồng của doanh nghiệp được cân nhắc cẩn thận, có sự thoả thuận bằng văn bản giữa hai bên về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, bao bì, ký mã hiệu, giá cả, thời gian địa điểm giao hàng và mức độ thưởng phạt. Việc ký kết hợp đồng phải được dựa trên pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 21/9/1989 mà thực hiện đối với hàng nông sản trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Khi ký kết hợp đồng xong, hình thành đơn nguyên hàng nông sản, nhằm phân định rõ ràng các mẫu mã, tiện cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng, đồng thời giúp cho người nhập khẩu phân chia hàng được thuận tiện. Phương pháp này hiện nay được sử dụng là bảng kê khai chi tiết (packing list) trong đó hàng được bao gói theo yêu cầu, được đánh số thứ tự sau đó ghi chi tiết lên bảng kê gồm: số lượng hàng bên trong, trọng lượng tịnh của kiện hàng. 3.5- Đàm phán và ký kết hợp đồng: Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác thì công việc tiếp theo trong hoạt động nghiệp vụ của doanh nghiệp là thực hiện đàm phán và ký kết hợp đồng. * Các phương pháp đàm phán là đàm phán qua điện thoại, thư tín và đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. - Đàm phán qua điện thoại, thư tín: vì hầu hết khách hàng của các doanh nghiệp Việt nam là những khách hàng quen, làm ăn lâu năm nên đây là phương pháp đàm phán được sử dụng chủ yếu của các doanh nghiệp. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: phương pháp này được doanh nghiệp sử dụng khi đàm phán với những đối tác mới, đặc biệt là với các đối tác kinh doanh những mặt hàng mà doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu. * Ký kết hợp đồng. Sau khi đàm phán để thoả thuận các điều kiện có liên quan thì các phòng nghiệp vụ phải lập phương án và kế hoạch xuất khẩu trình giám đốc phê duyệt. Nếu phương án kinh doanh có khả thi, có khả năng đem lại lợi nhuận và phù hợp với các quy định của chính sách Nhà nước thì giám đốc doanh nghiệp sẽ chính thức phê duyệt. Khi ký kết hợp đồng, các doanh nghiệp thường căn cứ vào các định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế xã hội hiện hành, khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mỗi bên khi tham gia ký kết hợp đồng. 3.6- Quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp được tiến hành như sau: - Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá. Giấy phép xuất khẩu của doanh nghiệp do Bộ Thương Mại cấp. Đối với hàng nông sản xuất khẩu không cần hạn ngạch thì doanh nghiệp có thể nhanh chóng đăng ký hải quan, kê khai hải quan để kiểm tra hàng hoá và nộp thuế hải quan. Sau đó cơ quan hải quan cấp cho doanh nghiệp giấy phép xuất khẩu hàng hoá. - Kiểm tra thư tín dụng (L/C). - Chuẩn bị hàng xuất khẩu: nguồn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp phần lớn được thu gom từ các bạn hàng truyền thống, đó là các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất chế biến, doanh nghiệp thu mua thu gom. - Thuê tàu lưu cước và mua bảo hiểm - Kiểm tra hàng hoá: Nếu là hàng lẻ thì việc kiểm tra được thực hiện tại cơ quan hải quan làm thủ tục giấy tờ xuất khẩu. Nếu là hàng trở theo container thì việc kiểm tra hàng hoá được thực hiện tại kho của doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền giám định. Đây là khâu kiểm tra toàn diện xem có phù hợp với điều khoản của hợp đồng không. Mục tiêu chủ yếu của công việc này nhằm phát hiện sai sót và khuyết tật về chất lượng hàng hoá xuất khẩu để nhanh chóng khắc phục sai sót nếu có, kịp giao hàng đúng thời gian. Kết thúc kiểm tra bao giờ cũng phải lập một chứng từ bằng tiếng Việt và một bản bằng tiếng nước ngoài theo yêu cầu của phía bên kia. - Tổ chức khai báo làm thủ tục hải quan - Giao hàng lên tàu và làm vận đơn - Nghiệp vụ thanh toán: lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý, sau khi giao hàng tuỳ từng hợp đồng xuất khẩu mà có phương thức thanh toán riêng. Chủ yếu sử dụng phương thức thanh toán bằng chứng từ hoặc mở L/C. Kết luận Xuất khẩu nông sản đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm trở lại đây, Việt Nam đã nhanh chóng đạt được những thành tựu to lớn như năm 1999, xuất khẩu hạt tiêu của nước ta đứng thứ nhất thế giới, gạo đứng thứ hai và chiếm 20% thị phần gạo thế giới, cà phê đứng thứ ba và chiếm 19% thị phần cà phê thế giới. Nhờ vào việc nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng tìm ra những phương thức giúp cho hoạt động xuất khẩu diễn ra thuận lợi hơn đồng thời với số lượng lớn hơn. Khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cũng tìm ra biện pháp khắc phục những khó khăn, bất cập của việc xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, khi nhăc tới xuất khẩu nông sản không thể không nhắc tới vai trò của ba thành phần khác. Đó là : Nhà nước, người nông dân và doanh nghiệp sản xuất nông sản. Khi có sự kết hợp tuyệt vời những nhân tố trên thì việc xuất khẩu nông sản sẽ có hiệu quả cao. Từ những kết quả trên cho thấy việc nghiên cứu những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là vô cùng cần thiết và quan trọng. Như vậy sẽ giúp cho Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp, cho nên xuất khẩu nông sản sẽ giúp cải thiện đời sống của nhân dân, tạo ra việc làm cho người dân, cải thiện cán cân thanh toán, thu thêm nhiều ngoại tệ phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế của Việt Nam. Tài liệu tham khảo _ Giáo trình Kinh Tế Quốc Tế – Khoa Kinh Tế và Kinh Doanh Quốc Tế, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. _ Tạp chí Kinh Tế Phát Triển- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. _ Tác động của công nghệ đối với sự phát triển của nông nghiệp nông thôn hiện nay. ( PGS>TS Phạm Quang Phan- Trần Mai Hương ). Số 41/2000 _ Định hướng có tính chiến lược đối với phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta giai đoạn 2001-2010( PGS.TS KH Lê Du Phong ) số 40/2000. _ Chính sách tài chính thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn ( PGS.TS Tống Văn Đường ) số 40/2000. _ Một số giải pháp chủ yếu nhằm kích cầu và phát triển thương mại hàng hoá nông sản nước ta (PGS.TS Nguyễn Bách Khoa ) số 40/2000. _ Một số giải pháp phát triên thị trường nông sản và thương mại nông thôn nước ta hiện nay ( PGS.TS Phạm Vũ Luân ) số 39/2000. _ 10 năm xuất khẩu hàng hoá nông sản ở Việt Nam . Số 38/2000. _ Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thực trạng và những vấn đề cấp bách.( Thạc Sĩ Ngô Thị Tuyết Mai ). số 37/2000. _ Tạp chí Kinh Tế và Dự báo + Thành tựu 10 năm nông nghiệp nước ta ( Bùi Văn Can ) số 1/2000. + Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy tiêu thụ nông sản ở nước ta. Số 6/2000. _ Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới 2010. Chủ biên : TS Phạm Quyền – TS- Lê Minh Tâm. Nhà xuất bản Thống Kê năm 1997. _ Việt Nam chính sách Thương Mại và Đầu Tư. Chủ biên Viện sĩ Võ Đại Lược- Viện nghiên cứu Kinh Tế Thế Giới- 1997. Nhận xét của giáo viên hướng dẫn. Nhận xét của giáo viên phản biện. Biểu 1 Kết Cấu Luận Văn Đề Tài : Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam Lời Mở Đầu. Chương I – Một số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam. Chương II – Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong những năm gần đây. Chương III – Giải pháp và kiến nghị chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam. Kết Luận. Tài Liệu Tham Khảo. Biểu 2 Một số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam I- Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. _ Khái niệm xuất khẩu. _ Vai trò của xuất khẩu. _ Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. II- Các nội dung chính của hoạt động xuất khẩu. 1_ Nghiên cứu thị trường 2_ Đàm phán và ký kết hợp đồng. 3_ Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán. III- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản. 1_ Môi trường quốc gia. 2_ Môi trường quốc tế. 3_ Bản thân Doanh nghiệp. IV- Vai trò của xuất khẩu nông sản. Biểu 3 Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Bảng Giá trị xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 1998- 2001 (Triệu USD) Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Giá trị XK nông sản 2565 3136 2800 2457 ồ Giá trị xuất khẩu của cả nước 9324 11540 14449 15027 (Nguồn: Tổng cục Công nghệ Thông tin thuộc Tổng cục Hải quan) Biểu 4 Cơ Cấu Hàng Nông Sản Xuất Khẩu Bảng Khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Năm Gạo (1000 tấn) Cà phê (tấn) Cao su (tấn) Chè (tấn) Hồ tiêu (tấn) Điều thô (1.000 tấn) Rau quả (1000 USD) 1995 1.988 248.087 138.105 18.825 17.950 98,8 56.119 1996 3.003 283.000 194.000 20.800 25.300 23 - 1997 3.680 390.000 197.000 31.500 26.000 32 68.000 1998 3.720 390.000 191.000 33.500 23.500 26 57.000 1999 4.508 733.935 278.401 55.660 73.001 34 213.554 2000 3.476 733.935 273.401 55.660 37.004 34 213.554 2001 3.729 931.198 308.073 68.217 57.002 43 329.972 2002 3.240 718.575 448.645 74.812 76.607 62 201.156 (Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan ) biểu 5 Thị Trường Xuất Khẩu Hàng Nông Sản. Dựa vào số lượng xuất sang các thị trường, giá của mặt hàng so với giá của nó trên thị trường thế giới. Em đã rút được một số kết luận sau: - Thị trường gạo : Châu á chiếm 70% trong đó ASEAN 36%, Tây Âu chiếm 11%, Châu Phi 2%, Đông Âu 2%. - Thị trường cà phê : Mỹ 33,42%, Đức 11,33%,Ba Lan 7,11%, Anh 5,76%, ý 4,88%, Pháp 4,17%, Nhật 4,04%.. - Thị trường cao su : Trung Quốc 50%, Singapore và các nước Châu á 20%, Mỹ và EU 15% còn lại là Đông Âu. - Thị trường chè : Anh, Mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản, Pháp. - Thị trường hạt điều : Bắc Mỹ 30%, Châu Âu 30% còn lại là Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN là 40%. biểu 6 Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản. 1_ Nhóm có khả năng cạnh tranh cao. _Gạo : Việt Nam có truyền thống sản xuất gạo lâu đời, chi phí sản xuất thấp, khiến cho giá gạo thấp so với giá gạo trên thị trường quốc tế. _ Cà phê : điều kiện tự nhiên ở vùng cao nguyên phù hợp với việc trồng cà phê. Cho nên chất lượng và phê khá cao và cà phê có mùi vị thơm ngon. _ Hạt điều : phẩm chất cao, chủ yếu được sản xuất bằng công nghệ tách vỏ bán tự động, do các chuyên gia Việt Nam thiết kế nên rất phù hợp với điều kiện nước ta. 2_ Nhóm có khả năng cạnh tranh trung bình. _ Cao su : chi phí sản xuất thấp, nguồn lao động dồi dào.. _ Chè : năng suất chè thấp, chất lượng chè thấp khiến giá chè thấp. 3_ Nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh kém. _ Mía đường : do tính hiệu quả kinh tế nhỏ, quy mô các nhà máy nhỏ. Chi phí sản xuất, vận chuyển… lớn. biểu 7 Đánh Giá Chung. I_ Thuận lợi của hàng nông sản Việt Nam. _ Thuận lợi về điều kiện tự nhiên. _ Thuận lợi về nhân lực. _ Thuận lợi do có các chính sách Nhà nước. II_ Hạn chế _ Cơ sở vật chất yếu, kém sự đồng bộ của các yếu tố sản xuất tại các vùng chuyên canh sản xuất nông sản. _ Công nghệ sau thu hoạch và chế biến còn nhiều bất cập. _ Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu còn yếu kém….. III_ Những nguyên nhân chủ yếu. _ Sự kết hợp giữa bốn nhà chưa có hiệu quả. _ Việc quy hoạch các vùng sản xuất chưa có cơ sở khoa học. _ Chưa đầu tư đúng mức cho việc áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp. Đầu tư cho nông nghiệp của Nhà nước chưa cao. _ Dự báo thị trường nông sản thế giới, khu vực chưa nhanh nhạy và chính xác. Khả năng dự báo, dự phòng các loại rủi ro trong sản xuất chưa cao. …. biểu 8 Triển Vọng Xuất Khẩu Hàng Nông Sản Việt Nam Bảng Dự báo sản lượng một số hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam năm 2010. Mặt hàng Diện tích (ngàn ha) Sản lượng XK (ngàn tấn) Kim ngạch XK (trUSD) Tỷ trọng trong % N.sản XK Cà phê 350 420 700 8.2 Cao su 700 300 450 5.9 Điều nhân 300 60 300 3.5 Chè 100 100 140 1.65 Lạc nhân 300 250 150 1.76 Hạt tiêu 10 40 150 1.76 (Nguồn :Bộ Nông nghiệp và PTNT) Bảng Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010 Đơn vị tính :%. Châu lục 1991-1995 2000 2010 Châu á-TBD 80 50 45 Châu Âu 15 25 25 Châu Mỹ 2 20 25 Châu Phi 3 5 5 ( Nguồn : Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư ) biểu 9 Giải Pháp Và Kiến Nghị I _ Những biện pháp vĩ mô ( từ phía Nhà nước ). _ Đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. _ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. _ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách về thị trường. _ Chuyển dịch cơ cấu nông sản xuất khẩu sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới. _ Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu nông sản. chính sách đầu tư trực tiếp cho nông dân sản xuất nông sản. _ Phân tích và dự báo thị trường thế giới. II_ Những biện pháp vi mô ( từ phía Doanh nghiệp ). _ Tăng cường năng lực chế biến hàng xuất khẩu. _ Cơ chế hợp đồng tiêu thụ nông sản. _ Tăng cường các biện pháp Marketing đối với hàng nông sản. _ Tổ chức tạo nguồn và thu mua hàng xuất khẩu. _ Đàm phán và ký kết hợp đồng cùng với việc tổ chức thực hiện hợp đồng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29747.doc
Tài liệu liên quan