Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện Lực 1

Lời Mở đầu Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Không như những năm trước đây, Nhà nước sâu vào hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp mà ngày nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, tự tìm cách để cho doanh nghiệp của mình tự đứng vững và ngày một phát triển. Hạ giá thành sản phẩm? Giảm chi phí sản xuất ở các yếu tố đầu vào? Đây là mối quan tâm chính của các doanh nghiệp trong cơ chế thị

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện Lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường hiện nay. Trong thời gian qua, điện lực là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, có vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Thêm vào đó, tính phức tạp của công việc và sản phẩm xây lắp điện, vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả và quản lý các chi phí đầu vào càng phức tạp, làm thế nào để tránh lãng phí, để tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế lại càng trở nên cấp bách hơn. Cùng với các doanh nghiệp trong cả nước Xí nghiệp Xây Lắp Điện - Công ty Điện lực 1 thuộc Tổng công ty Điện lực đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong công ty nói riêng và trong ngành điện nói chung bằng cách nâng cao trình độ, phương pháp quản lý các công trình đồng thời hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín chất lượng và khả năng thắng thầu các công trình. Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác hạ giá thành và thực trạng của Xí nghiệp Xây Lắp Điện, được sự đồng ý và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Đỗ Văn Lư cùng toàn thể các cô chú trong Xí nghiệp em xin chọn đề tài: "Những biện pháp cơ bản phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện- Công ty Điện Lực 1" Với mong muốn vận dụng kiến thức đã học vào thực tế và góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần: Phần I: Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường Phần II: Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Phần III: Những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đỗ Văn Lư và các cô chú trong Xí Nghiệp Xây Lắp Điện đã giúp em nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Phần i Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và LÂU DàI củA CáC DOANH NGHIệP hoạT Động trong cơ chế thị trường I. Khái niệm và các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành 1. Khái niệm giá thành và các cách phân loại chi phí trong gía thành Khái niệm giá thành Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ. Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản: - Tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những TSCĐ khác. - Đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu... - Sức lao động của con người. Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, tương ứng với việc sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu... là những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, tương ứng với việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên điều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá. Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến hoạt động sản xuất ra sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp... chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được coi là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí của doanh nghiệp về sử dụng tư liệu sản xuất, trả lương, phụ cấp ngoài lương và những chi phí phục vụ khác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quá trình sản xuất ở một doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất, mặt khác kết quả sản xuất doanh nghiệp thu được những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội. Những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải tính được gía thành tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm đạt được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Gía thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Quan hệ giữa chi phí sản xuất với gía thành. Chi phí sản xuất và gía thành là 2 khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau: - Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn gía thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành. - Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng chưa thực tế phát sinh. Ngược lại giá thành sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ. - Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và gía thành có mối quan hệ rất mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ là cơ sở để tính gía thành của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến gía thành sản phẩm hạ hoặc cao. Quản lý gía thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. Để làm rõ hơn bản chất của chi phí ta hãy xem xét nó trong mối quan hệ với giá trị và giá cả hàng hoá. Quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá trị. Về kết cấu cả chi phí và giá trị đều bao gồm ba bộ phận C - V và m. Tuy nhiên chi phí và giá trị có sự khác nhau cả về lượng lẫn chất. Trước hết, chi phí là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong kỳ kinh doanh. Còn giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm, trong đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Chi phí là một đại lượng cụ thể còn giá trị mang tính trừu tượng. Mặt khác, chi phí chủ yếu bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Các Mác viết : "Về mặt số lượng, chi phí sản xuất TBCN của hàng hoá khác với giá trị của hàng hoá vì rằng nếu V= K + m thì K = V - m. Hao phí về lao động trong chi phí chỉ là một phần của toàn bộ lượng lao động kết tinh trong giá trị hàng hoá. Điều đó có nghĩa là giữa giá trị và chi phí còn một khoản chênh lệch - đó chính là phần giá trị thặng dư do lao động mới sáng tạo ra cho xã hội. Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá cả. Giữa chi phí và giá cả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp. Các- Mác viết : "Giới hạn thấp nhất của giá bán hàng hoá là do chi phí sản xuất của nó quy định". Hơn nữa chi phí lại bị ảnh hưởng của sự thay đổi về giá cả thị trường. Giá cả của sản phẩm này thay đổi kéo theo sự biến động về giá của các sản phẩm khác. Và như vậy gián tiếp nó sẽ ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá cả và chi phí, Các - Mác đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng như sau: "Giá cả của hàng hoá được xây dựng trên chi phí. Ngoài ra chi phí sản xuất chính là giá mua mà bản thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá, nghĩa là giá mua do chính ngay quy trình sản xuất hàng hoá quyết định" Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả do quan hệ cung - cầu quyết định. Vì vậy, chi phí chỉ cung cấp thông tin để nhà quản trị ra quyết định đúng đắn, linh hoạt và kịp thời. b. ý nghĩa kinh tế của chỉ tiêu gía thành Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động... trong sản xuất, cũng như trong các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ gía thành. Nó thể hiện được trình độ tiến bộ của kỹ thuật - công nghệ sản xuất, trình độ tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ý nghĩa của chỉ tiêu gía thành sản phẩm được thể hiện trên các mặt sau đây: Giá thành sản phẩm là thức đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm cơ sở để tính giá cả tiêu thụ và xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm, tính lơi nhuận của doanh nghiệp và do đó nó là căn cứ xác định các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp đưa ra các phương án sản xuất, các quyết định đúng đắn về chính sách sản phẩm, các biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cao. Giá thành sản phẩm là cơ sở chính sách để kiểm soát tình hình, chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tìm ra những nguyên nhân dẫn đến chi phí phát sinh không hợp lý để loại trừ. Mặt khác, các doanh nghiệp thấy rõ sự cần thiết và khả năng của doanh nghiệp trong việc giảm từng loại chi phí để có hướng đầu tư tích cực, hạ thấp tối thiểu mức chi phí trong từng khoản mục cấu thành giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu khác, nó vừa là mục tiêu, vừa là kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu khác như: tăng năng suất lao động, giảm định mức tiêu hao nguyên vât liệu,nhiên liệu, năng lượng, chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản trị. Giá thành sản phẩm là một công cụ sắc bén trong việc hạch toán kinh doanh, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, chỉ tiêu giá thành sản phẩm đòi hỏi phải được tính toán chính xác. Những chi phí đưa vào gía thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong gía thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Chính vì vậy trong công tác quản lý doanh nghiệp, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, những quản lý doanh nghiệp nắm vững được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng hoạt động, từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân tích, đánh giá tình hình kế hoạch của doanh nghiệp, để có các quyết định quản lý thích hợp. c. Các cách phân loại chi phí trong gía thành. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau, để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm theo các tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí và theo công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất Trước hết, theo nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất được phân thành tám yếu tố chi phí sản xuất. Những yếu tố này được sử dụng khi lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn định mức. Phân loại theo nội dung kinh tế giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đều là chi phí ban đầu do doanh nghiệp chi ra và không phân tích được nữa. Mối yếu tố đều bao gồm mọi khoản chi có cùng nội dung và tác dụng kinh tế giống nhau, không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá trình sản xuất như thế nào. Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất người ta chia các chi phí thành những khoản mục nhất định. Các khoản này được dùng trong việc xác định giá thành đơn vị sản phẩm cũng như giá thành sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra, cách phân loại này còn cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục đến kết cấu và sự thay đổi của giá thành. Qua đó nó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Những yếu tố chi phí sản xuất và những khoản mục chi phí để tính gía thành đối chiếu với nhau và được sắp xếp theo bảng sau: Bảng 1: Nội dung của yếu tố chi phí sản xuất và khoản mục tính gía thành sản phẩm Yếu tố chi phí sản xuất Khoản mục tính gía thành Nguyên vật liệu chính mua ngoài Vật liệu phụ mua ngoài Nhiên liệu mua ngoài Năng lượng mua ngoài Tiền lương CNVC Bảo hiểm xã hội CNVC Khấu hao TSCĐ Các chi phí khác bằng tiền Nguyên vật liệu chính Vật liệu phụ Nhiên liệu dùng vào sản xuất Năng lượng dùng vào sản xuất Tiền lương của CNSX BHXH của CNSX Khấu hao TSCĐ dùng vào sản xuất Chi phí phân xưởng Chi phí quản lý doanh nghiệp Thiệt hại về ngừng SX và SP hỏng Chi phí ngoài sản xuất Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành, người ta chia ra: Chi phí trực tiếp và chi phí gián Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất ra từng loại sản phẩm và được tính trực tiếp vào giá thành của đơn vị sản phẩm hay loại sản phẩm. Chi phí trực tiếp bao gồm: + Tiền lương và bảo hiểm xã hội của sản xuất. + Nguyên vật liệu chính, phụ dùng vào sản xuất. + Nguyên liệu, động lực dùng vào sản xuất. + Công cụ lao động nhỏ dùng vào sản xuất. + Chi phí trực tiếp khác bằng tiền. Chi phí gián tiếp là những chi phí có quan hệ đến hoạt động chung của phân xưởng, của doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp bằng phương pháp phân bổ: Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng giống như chi phí trực tiếp, nhưng những khoản này được chỉ ra cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp hoặc các bộ phận khác của doanh nghiệp. Cách phân loại này không cứng nhắc, cố định mà tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp công nghiệp. Phân loại theo cách này có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm và sản lượng hàng hoá. Phân loại chi phí căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và tình hình tăng giảm sản lượng hàng hoá, người ta chia ra: Chi phí biến đổi (biến phí) và chi phí cố định (định phí) - Chi phí biến đổi là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này như là chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Trong chi phí biến đổi người ta còn chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (là chi phí biến đổi cùng hướng và cùng mức độ với sự biến đổi của sản lượng sản phẩm làm ra) và chi phí biến đổi không cùng tỷ lệ (là những chi phí có thể tăng nhanh hơn kết quả sản xuất hoặc cũng có thể chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất) - Chi phí cố định là những chi phí về nguyên tắc không thay đổi theo sản lượng sản phẩm trong giới hạn đầu tư. Đó là những khoản chi mà doanh nghiệp phải ứng chịu trong mỗi đơn vị thời gian cho các đầu vào cố định. Nói một cách khác, chi phí cố định là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không sản xuất sản phẩm, nó hoàn toàn không chịu sự tác động của bất kỳ sự biến đổi nào của việc thay đổi sản lượng sản phẩm trong một giới hạn quy mô nhất định. Ví dụ: Khấu hao TSCĐ, chi phí lãi vay ngân hàng (trung và dài hạn), chi phí bảo hiểm, tiền thuê đất đai, tiền lương của những người quản lý... Thông thường chi phí trực tiếp là chi phí biến đổi, còn một số bộ phận trong chi phí gián tiếp thuộc chi phí cố định. Nhờ cách phân loại này người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lý của chi phí sản xuất chi ra. Mặt khác đó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng sản phẩm tối thiểu và xây dựng một chính sách giá cả hợp lý linh hoạt đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Ngoài việc phân loại chi phí theo các cách chủ yếu trên đây, trong thực tế còn rất nhiều cách phân loại khác nữa, chẳng hạn như căn cứ vào cấu thành của chi phí, căn cứ vào quá trình luân chuyển của chi phí... Bằng những tiêu thức phân loại khác nhau, cho phép nhà quản trị doanh nghiệp với những mục tiêu cụ thể sẽ vận dụng ý nghĩa của từng phương pháp vào quá trình phân tích và quản lý chi phí, nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến gía thành sản phẩm Nhân tố công nghệ - kỹ thuật sản xuất Giá thành sản phẩm phụ thuộc nhiều vào cấu trúc sản phẩm, quá trình công nghệ sản xuất và máy móc thiết bị. Sản phẩm thiết kế càng hợp lý thì vừa có chất lượng cao lại vừa giảm được chi phí nguyên vât liệu, năng lượng để sản xuất ra sản phẩm. Với công nghệ tiên tiến, khép kín, máy móc thiết bị hiện đại càng làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, là tăng sản lượng sản phẩm ... điều đó cho phép hạ chi phí sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm. b. Các định mức kinh tế - kỹ thuật Định mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở cho việc tính các chi phí trong gía thành. Đồng thời đó là chỉ tiêu để quản lý các chi phí trong sản xuất, đánh giá kiểm tra chất lượng công tác. Nếu định mức xây dựng các chi phí cao, không hợp lý sẽ gây nên tình trạng lãng phí. Các đơn vị sản xuất do thực hiện các định mức dễ dàng nên không đầu tư biện pháp để tiết kiệm các chi phí, sẽ không khuyến khích người lao động tìm các biện pháp để nâng cao năng suất lao động, giảm tiêu hao nguyên vât liệu, từ đó dẫn đến không tiết kiệm các chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Ngược lại nếu định mức xây dựng các chi phí thấp hơn khả năng thực tế có thể thực hiện được thì sẽ mất đi ý nghĩa thực tế của nó, các đơn vị sản xuất, người lao động đã cố gắng nhưng không thực hiện được mức, sẽ gây chán nản, phát sinh tư tưởng. Đồng thời gía thành kế hoạch sẽ không chính xác, dẫn đến các chính sách giá không đúng gây bất lợi cho doanh nghiệp. c. Tổ chức lao động và sử dụng con người Tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Chất lượng lao động ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công việc. Người sử dụng lao động phải bố trí lao động hợp lý, đúng ngành nghề, khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người làm cho họ thực sự gắn bó, cống hiến hết tài năng sức lực cho doanh nghiệp, người sử dụng lao động phải biết sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích và phát huy cao độ khả năng đóng góp của người lao động. d. Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý, chặt chẽ có thể hạn chế lãng phí lao động, nguyên vât liệu, nhiên liệu, giảm tỷ lệ phế phẩm... Trong cơ chế thị trường vai trò tài chính ngày càng cao, nó có tác động không nhỏ trong việc hạ gía thành sản phẩm. Sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất do ngừng sản xuất. e. Nhân tố thị trường Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quyết định giá cả thị trường. Vì vậy, thị trường giá cả có ảnh hưởng quan trọng đến giá thành sản phẩm. Đối với thị trường đầu ra, nếu làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, có nghĩa là doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm, làm cơ sở cho việc doanh nghiệp tăng năng suất lao động, tăng thời gian sử dụng máy móc... điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Đối với thị trường đầu vào: nơi cung cấp các yếu tố đầu vào như nguyên vât liệu, nhiên liệu... để doanh nghiệp tiến hành sản xuất. Sự biến động và tính chất giá cả thị trường có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp phải luôn chủ động tìm hiểu thị trường, phán đoán khả năng, diễn biến của thị trường về giá cả và khối lượng vật tư hàng hoá trên thị trường, từ đó có những biện pháp ứng phó thích hợp, nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ gía thành. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp cần xem xét kỹ các nhân tố trên, tù đó xác định cho doanh nghiệp phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm, thích ứng với điều kiện và tình hình của doanh nghiệp mình. 3. Cách phân loại giá thành sản phẩm a. Phân loại gía thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành. Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu tính gía thành, giá thành sản phẩm chia làm 3 loại: - Gía thành kế hoạch Gía thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán gía thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch của sản phẩm là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch gía thành và kế hoạch hạ gía thành của doanh nghiệp. - Gía thành định mức Giá thành định mức là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính gía thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gía thành định mức mang đặc trưng của gía thành kế hoạch, nhưng được xác định không phải trên cơ sở mức kế hoạch cho cả kỳ kinh doanh (tháng, quý). Việc xây dựng gía thành này cho phép các nhà quản lý xác định kịp thời những chênh lệch so với định mức, trên cơ sở đó tìm ra biện pháp thích hợp để hạ gía thành sản phẩm. - Giá thành thực tế Giá thành thực tế là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Gía thành sản phẩm thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. b. Phân loại gía thành theo phạm vi tính toán và phát sinh chi phí. Theo phạm vi tính toán gía thành, gía thành sản phẩm được chia làm 3 loại: - Gía thành phân xưởng Gía thành phân xưởng bao gồm tất cả những chi phí trực tiếp, chi phí quản lý phân xưởng và chi phí sử dụng máy móc thiết bị. Nói cách khác, nó bao gồm những chi phí của phân xưởng và tất cả những chi phí của phân xưởng khác nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm tại phân xưởng đó. - Giá thành công xưởng (gía thành sản xuất ) Gía thành công xưởng bao gồm gía thành phân xưởng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Có thể nói gía thành công xưởng (gía thành sản xuất) bao gồm tất cả những chi phí để sản xuất sản phẩm trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Gía thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất. - Giá thành toàn bộ Gía thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm gía thành công xưởng cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó. Gía thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được tính toán xác định khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ được tiêu thụ. Gía thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp. Gía thành phân xưởng, công xưởng hay toàn bộ đều được tính cho từng đơn vị sản phẩm, loại sản phẩm, loạt sản phẩm và toàn bộ sản lượng hàng hoá tiêu thụ. II. Cơ cấu gía thành và phương pháp xác định các yếu tố chi phí trong gía thành. 1. Cơ cấu giá thành Cơ cấu giá thành thể hiện tỷ trọng của từng khoản mục chi phí trong tổng giá thành (số tương đối ). Từ đó giúp cho nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn để có kế hoạch hạ thấp khoản mục chi phí đó dẫn đến hạ thấp tổng giá thành chính là hạ thấp giá thành dơn vị sản phẩm. Từ đó nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ví dụ: Trong công trình trạm biến áp và đường dây hạ thế khu Quyết Thắng - Sơn La có cơ cấu giá thành như sau: Đơn vị: nghìn đồng Khoản mục Tên công trình Vật liệu Nhân công Thuê ngoài và máy thi công Chi phí khác Giá thành sản phẩm TBA và đường dây hạ thế... 351.687 57.106 10.090 59.461 478.314 Qua đó nhà quản lý biết được khoản mục chi phí nào chiếm tỷ trọng lớn (CFVL hay CFNC hay CFTN+MTC hay CFSXC ). Từ đó có kế hoạch hạ thấp giá thành. 2. Phương pháp tính gía thành đơn vị sản phẩm. a. Tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, vì vậy cần thiết phải tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành của các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất. Tính đúng là tính toán chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Muốn vậy phải định đúng đối tượng tính gía thành, vận dụng đúng phương pháp tính gía thành thích hợp. Gía thành phải được tính toán trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác, kịp thời. Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loại bỏ mọi yếu tố bao cấp để tính đủ đầu vào theo chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi phải loại bỏ những chi phí không liên quan (trực tiếp) đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; những chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí, lãng phí, không hợp lý. Việc tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm sẽ làm cho gía thành trở thành tấm gương thật, phản ánh đúng đắn tình hình và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh, xác định đúng đắn kết quả tài chính, khắc phục được hiện tượng "lãi giả, lỗ thật". Chính vì vậy, tính đúng, tính đủ chi phí vào gía thành sản phẩm là việc làm cấp bách và thiết thực đối với các doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế thị trường. b. Đối tượng tính gía thành Đối tượng tính gía thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, yêu cầu phải tính được tổng gía thành và gía thành đơn vị. Xác định đối tượng tính gía thành là công việc cần thiết đầu tiên trong toàn bộ công việc tính gía thành sản phẩm doanh nghiệp. Đối tượng tính gía thành có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp xác định gía thành thích hợp cho đối tượng đó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất ra sản phẩm hàng hoá trong kỳ kinh doanh, căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm cung cấp sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà xác định đối tượng tính gía thành thích hợp. Đối với các loại doanh nghiệp có sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính gía thành là từng sản phẩm, từng công việc (như đóng tàu, xây lắp...) Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính gía thành là từng loạt sản phẩm đã hoàn thành theo khoản mục và trên cơ sở đó xác định gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như sản xuất máy công cụ). - Đối với các doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối lượng lớn thì việc tính gía thành sản phẩm được tính theo khối lượng từng loại và tính gía thành toàn bộ hàng hoá theo khoản mục. Trên cơ sở đó tính gía thành bình quân cho từng đơn vị sản phẩm (như dêt may, cà phê...) - Quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm cũng có ảnh hưởng nhất định đến đối tượng tính gía thành sản phẩm. Nếu quy trình công nghệ sản xuất đơn giản, thì đối tượng tính gía thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính gía thành có thể là nữa thành phẩm ở từng giai đoạn hoặc thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì đối tượng tính gía thành có thể là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh, cũng có thể là từng bộ phận, từng chi tiết sản phẩm. Đơ._.n vị tính gía thành phải là đơn vị được thừa nhận trong nền kinh tế hàng hoá. Đơn vị tính gía thành thực tế cần phải thống nhất với đơn vị tính gía thành kế hoạch. c. Phương pháp tính gía thành sản phẩm Phương pháp chung trong việc tính gía thành là phương pháp tính toán, xác định gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm và công việc đã hoàn thành theo các khoản mục chi phí. Tuy nhiên, trong thực tế, để tính gía thành tuỳ theo phương pháp hạch toán chi phí và đặc điểm quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người ta có thể áp dụng các phương pháp sau: Phương pháp tính gía thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực tiếp. Phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẻ liên tục, đối tượng tính gía thành tương ứng phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính gía thành định kỳ hàng tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo. Như tính gía thành sản phẩm điện, nước, bánh kẹo, than, quặng kim loại... Trường hợp cuối thánh có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định, cần tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp. Trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, gía thành sản phẩm hoàn thành tính cho từng khoản mục chi phí theo công thức sau: Z = C + Dđk - Dck Gía thành đơn vị tính như sau: Z S J = Trong đó: Z : Tổng gía thành từng đối tượng tính gía thành J : Gía thành đơn vị từng đối tượng tính gía thành C : Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ Dđk và Dck : Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ S : Sản lượng thành phẩm Trường hợp cuối tháng không có sản phẩm dở dang, hoặc có nhưng ít và ổn định nên không cần tính toán, thì tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ đồng thời cũng là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành: Z = C Phương pháp tính loại trừ chi phí: để tính gía thành được áp dụng trong các trường hợp: Cùng một quy trình công nghệ sản xuất, đồng thời với việc chế tạo ra sản phẩm chính còn có thu thêm được sản phẩm phụ nữa như: Nhà máy sản xuất đường ngoài sản phẩm chính là đường kính còn thu được sản phẩm phụ là rỉ đường, nông trường chăn nuôi lợn thịt ngoài sản phẩm chính là lượng lợn thịt còn có sản phẩm phụ là phân bón... Kết quả sản xuất ngoài thành phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng quy định còn có sản phẩm hỏng không sữa chữa được mà các khoản thiệt hại này không được tính cho sản phẩm hoàn thành chịu. Các phân xưởng sản xuất phụ còn cung cấp sản phẩm hoặc lao vụ lẫn cho nhau. Cần loại trừ ra khỏi gía thành các sản phẩm, lao vụ phục vụ cho sản xuất chính. Trong trường hợp này đối tượng tính gía thành chỉ là sản phẩm chính, sản phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các bộ phận không phải là sản xuất phụ. Muốn tính được gía thành của các đối tượng tính gía thành phải lấy tổng chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt hại về sản phẩm hỏng không được tính trong giá thành thành phẩm, chi phí phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng sản xuất phụ. Công thức tính gía thành của thành phẩm sẽ là: Z = C + Dđk - Dck - Clt Trong đó: Z : Tổng gía thành của đối tượng tính gía thành C :Tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp Dđk và Dck : Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ Clt : Chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng chi phí đã tập hợp Để đơn giản tính toán chi phí loại trừ (Clt) thường được tính theo giá kế hoạch hoặc có thể lấy giá bán trừ lãi định mức của doanh nghiệp và trừ thuế doanh thu nếu có. Phương pháp tính gía thành theo hệ số: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quy trình công nghệ sản xuất, sử dụng cùng một loại nguyên vật liệu, kết quả sản xuất thu được đồng thời nhiều loại sản phẩm chính khác nhau (liên sản phẩm). Như trong công nghiệp hoá chất, công nghiệp hoá dầu, trong công nghiệp nuôi ong, Xí nghiệp nuôi bò sữa... Trong các trường hợp này đối tượng doanh nghiệp tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính gía thành là từng loại sản phẩm do quá trình sản xuất đó đã sản xuất hoàn thành. Nội dung phương pháp tính gía thành theo hệ số như sau: Trước hết căn cứ vào đặc điểm kinh tế hoặc kỹ thuật của sản phẩm để qui định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số, trong đó chọn loại sản phẩm có đặc trưng tiêu biểu nhất làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1. Căn cứ sản lượng thực tế hoàn thành hoàn thành của từng loại sản phẩm và hệ số gía thành đã qui định để tính đổi sản lượng từng loại ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn. (sản phẩm có hệ số = 1) Tổng sản lượng thực tế qui đổi ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn n i = 1 ồ Si x Hi Trong đó: Si : Sản lượng thực tế của loại sản phẩm i Hi : Hệ số quy định cho sản phẩm loại i Căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và chi phí của sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính tổng gía thành của cả liên sản phẩm theo từng khoản mục (theo phương pháp tính giản đơn) Tính gía thành của từng loại sản phẩm bằng cách lấy tổng gía thành của loại sản phẩm chia cho tổng sản lượng các loại sản phẩm đã tính đổi nhân với sản lượng đã tính đổi của từng loại sản phẩm. Tính gía thành đơn vị của từng loại sản phẩm. Phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: áp dụng thích hợp trong trường hợp cùng một quá trình công nghệ sản xuất, kết quả sản xuất là 1 nhóm sản phẩm cùng loại với những chủng loại, phẩm cấp, qui cách khác nhau. Như sản phẩm nhóm ống nước với nhiều kích thước, đường kính và độ dài khác nhau; sản xuất quần áo dệt kim với nhiều cỡ số khác nhau, sản xuất chè hương với nhiều phẩm cấp khác nhau. Trong trường hợp này đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quá trình công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính gía thành sẽ là từng qui cách sản phẩm trong nhóm sản phẩm đó. Để tính gía thành thực tế cho từng quy cách sản phẩm có thể vận dụng phương pháp tính hệ số cũng có thể vận dụng phương pháp tỷ lệ. Nội dung của phương pháp tính gía thành sản phẩm theo tỷ lệ: - Trước hết doanh nghiệp phải dựa vào một số tiêu chuẩn hợp lý để làm căn cứ tính tỷ lệ phân bổ gía thành thực tế cho các quy cách sản phẩm trong nhóm. Tiêu chuẩn phân bổ thường được lựa chọn là gía thành định mức hoặc gía thành kế hoạch. Tính tổng gía thành của từng quy cách sản phẩm theo sản lượng thực tế từng quy cách nhân với đơn gía thành đơn vị định mức hoặc kế hoạch từng khoản mục. Tính tổng gía thành định mức hoặc kế hoạch của cả nhóm theo sản lượng thực tế dùng làm tiêu chuẩn phân bổ. Căn cứ chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả nhóm sản phẩm và chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính ra tổng gía thành thực tế của cả nhóm sản phẩm. Tỷ lệ tính gía thành (Từng khoản mục) = Gía thành thực tế cả nhóm sản phẩm Tiêu chuẩn phân bổ Tính tỷ lệ gía thành từng khoản mục: - Tính gía thành thực tế từng quy cách sản phẩm theo từng khoản mục Tổng gía thành thực tế từng quy cách (Theo khoản mục) = Tiêu chuẩn phân bổ có trong từng quy cách (Theo khoản mục) x Tỷ lệ tính gía thành Phương pháp xác định giá thành theo khoản mục tính toán Chi phí trực tiếp Là các loại chi phí trực tiếp phục vụ cho quá trình thi công xây lắp công trình, bao gồm toàn bộ chi phí trực tiếp về vật liệu, nhân công, thuê ngoài và máy thi công cần thiết để hoàn thành một đơn vị khối lượng tương đối hoàn chỉnh của các công tác hoặc kết cấu xây lắp tạo thành công trình. - Chi phí vật liệu: được xác định theo công thức: m QiDvi + CLvi VL = S i=n Trong đó: VL: Chi phí vật liệu xây dựng Qi : Khối lượng công việc xây lắp thứ i Dvi: Chi phí vật liệu trong đơn giá dự toán xây dựng của công việc thứ i CLvi: Chênh lệch chi phí vật tư thứ i (nếu có) - Chi phí nhân công: được tính theo công thức sau: m i=n + h1n QiDni(1+ NC = h2n F2 F1 S ) Trong đó: NC: Chi phí nhân công Qi: Khối công việc xây lắp thứ i Dni: Chi phí cho nhân công nằm trong đơn giá xây dựng chi tiết cho công việc thứ i F1: Các khoản phụ cấp lương (nếu có) tính theo tiền lương cấp bậc mà chưa được tính hoặc chưa tính đủ trong đơn giá xây dựng hiện hành (tính theo hệ số) F2: Các khoản phụ cấp lương (nếu có) tính theo tiền lương cấp bậc mà chưa tính hoặc chưa đủ trong đơn giá xây dựng hiện hành (tính theo hệ số) h1n: Hệ số biểu thị quan hệ giữa chi phí cho nhân công trong đơn giá so với tiền lương tối thiểu của các nhóm lương thứ n (hiện nay có 4 nhóm lương) h2n: Hệ số biểu thị quan hệ giữa chi phí cho nhân công trong đơn giá so với tiền lương cấp bậc của các nhóm lương thứ n (hiện nay có 4 nhóm lương) - Chi phí máy thi công: Được xác định theo công thức sau: m S M = QiDmi i=n Trong đó: M: chi phí máy thi công Qi: khối lượng công việc thứ i Dmi: chi phí sử dụng máy nằm trong đơn giá xây dựng chi tiết của loại công việc i Vây, chi phí trực tiếp bao gồm: T = VL+NC+M b. Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vât liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Có thể biểu diễn cơ cấu giá thành xây lắp theo sơ đồ sau: Chi phí máy thi công Chi phí p.vụ thi công Giá thành xây lắp Chi phí chung Chi phí trực tiếp Chi phí vật liệu Chi phí nhân công Chi phí phục vụ CN Chi phí khác Chi phí QLHC III. Phương hướng và biện pháp phấn đấu hạ giá thành 1. Thực chất của vấn đề phấn đấu hạ gía thành sản phẩm Hạ gía thành sản phẩm là việc giảm chi phí trong các yếu tố đầu vào cấu thành nên giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất Kết quả sản xuất Zđvsp = Vậy, hạ thấp giá thành sản phẩm thì một mặt phải tiết kiệm chi phí sản xuất, mặt khác phải sử dụng chi phí một cách hợp lý để tăng cường kết quả sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được điều này doanh nghiệp phải áp dụng một hệ thống các biện pháp: sử dụng tiết kiệm nguyên vât liệu, phấn đấu hạ định mức sử dụng nguyên vât liệu thông qua các công tác nâng cao tay nghề, áp dụng các sáng kiến kỹ thuật, hạ thấp chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm bằng cách nâng cao năng suất, bố trí hợp lý máy móc thiết bị thi công, sắp xếp tốt khâu tiếp thị tiêu thụ nhằm giảm chi phí lưu thông... Như vậy thực chất của hạ giá thành sản phẩm là tiết kiệm lao động sống và lao động vật hoá cho một đơn vị sản phẩm đầu ra. 2. ý nghĩa của việc phấn đấu hạ gía thành sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường hiện nay sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp luôn gắn liền với yếu tố cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh đó muốn giành được chiến thắng thì mỗi doanh nghiệp phải phát huy được những thế mạnh của mình. Nhưng tựu chung lại thì nó không ngoài hai vấn đề đó là: giá cả và chất lượng. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đến vấn đề chất lượng nhưng cạnh trnh về giá cả vẫn là công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất. Chính vì vậy các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh đều phải quan tâm đến việc giảm chi phí, hạ gía thành sản phẩm. Đối với một doanh nghiệp, việc hạ gía thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn thể hiện: Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Khi thị trường có sự cạnh tranh, hàng hoá đa dạng, phong phú các doanh nghiệp buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng các hoạt động dịch vụ và phải tìm biện pháp giảm chi phí, hạ gía thành. Việc hạ gía thành sẽ tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, doanh nghiệp có thể giảm bớt giá bán để đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vố nhanh. Hạ gía thành sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Do giá cả được hình thành bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, nếu gía thành hạ so với giá bán trên thị trường, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Nếu gía thành càng hạ, doanh nghiệp sẽ càng có lợi là có thể hạ được giá bán để tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hơn và thu được lợi nhuận lớn hơn. Hạ gía thành có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp đã tiết kiệm được các chi phí nguyên vât liệu và chi phí quản lý với khối lượng sản phẩm như cũ, nhu cầu vố lưu động sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện đó doanh nghiệp có thể rút bớt vốn lưu động dùng trong sản xuất hoặc mở rộng sản xuất tăng thêm lượng sản phẩm tiêu thụ. Mặt khác giảm giá thành sản phẩm gán liền với việc giảm chi phí sản xuất bao gồm chi phí lao động sống và chi phí lao động vật hoá trên một đơn vị sản phẩm. Nhưng điều đó không có ý nghĩa với việc không bảo đảm tiền lương, BHXH cho công nhân để họ tái sản xuất sức lao động. Điều cốt yếu ở đây là giảm là giảm giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm trên cơ sở tăng năng suất lao động và qua đó dẫn đến tăng tổng mức tiền lương hàng tháng, quý cho người lao động. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi sản phẩm tiêu thụ nhanh nhờ hạ gía thành, bảo đảm việc là liên tục. Vậy hạ gía thành sản phẩm có ảnh hưởng lâu dài và tích cực tới việc không ngừng nâng cao điều kiện sống của người lao động Tóm lại, hạ gía thành sản phẩm vừa đem lại lợi ích cho doanh nghiệp vừa đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Phương hướng và biện pháp phấn đấu hạ gía thành trong doanh nghiệp. Phấn đấu hạ gía thành là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Muốn hạ gía thành phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng và biện pháp. Theo cách phân loại các biện pháp có liên quan đến việc giảm hoặc tăng từng loại chi phí và ảnh hưởng của nó đến gía thành sản phẩm, có thể tập trung nghiên cứu các phương hướng, các biện pháp và tính toán sự ảnh hưởng của nó như sau: a. Giảm chi phí nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng trong giá thành sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm, để tiết kiệm nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng, cần cải tiến kết cấu sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nhiên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản, cấp phát vât liệu... Tiết kiệm nguyên vât liệu, nhiên liệu, năng lượng sẽ làm cho chi phí nguyên vât liệu... trong gía thành giảm nhiều, vì trong kết cấu gía thành, tỷ trọng nguyên vât liệu chiếm bộ phận lớn nhất, có doanh nghiệp chiếm từ 60 - 80%. ảnh hưởng của những biện pháp này đến hạ gía thành sản phẩm được tính theo công thức sau: Chỉ số nguyên vât liệu trong gía thành - sản phẩm Chỉ số giá cả của nguyên vât liệu Chỉ số hạ gía thành do giảm chi phí nguyên vât liệu Chỉ số định mức tiêu dùng nguyên vât liệu - 1 x x = Theo công thức này, thì chỉ số hạ gía thành do 3 yếu tố tác động: chỉ số định mức tiêu dùng nguyên vât liệu kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo; chỉ số giá cả nguyên vât liệu và chỉ số chi phí nguyên vât liệu trong gía thành kỳ báo cáo. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong gía thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí tiền lương trong gía thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suốt lao động, bảo đảm cho năng suốt lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Như vậy cần: cải tiến tổ chức sản xuất; cải tiến tổ chức lao động áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, hoàn thiện định mức lao động; tăng cường kỷ luật lao động, áp dụng các hình thức tiền lương, tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ thuật của công nhân. Tốc độ tăng năng suốt lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân và tiền công cho phép giảm chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm và do đó khoản mục tiền lương trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong gía thành. ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương được tính theo công thức sau: - 1 x Chỉ số tăng giá lao động Chỉ số hạ gía thành do tăng năng suốt lao động Chỉ số chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm = Chỉ số tiền lương bình quân Công thức này cho ta thấy, chỉ số hạ gía thành sản phẩm do ba nhân tố tác động: năng suốt lao động, tiền lương bình quân và tỷ trọng tiền lương trong gía thành sản phẩm kỳ báo cáo. c. Giảm chi phí cố định trong gía thành sản phẩm Muốn giảm chi phí cố định trong gía thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh và tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra. Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong gía thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định chậm hơn tốc độ tăng và quy mô tăng sản lượng. Nói cách khác, tốc độ tăng chi phí cố định không lệ thuộc với tốc độ và quy mô tăng sản lượng. Để tăng sản phẩm hàng hoá cần sản xuất nhiều. Muốn sản xuất nhiều phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động, phải mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra. ảnh hưởng của biện pháp này được tính theo công thức sau: - 1 x Chỉ số giảm gía thành do giảm chi phí cố định Chỉ số chi phí cố định Chỉ số chi phí cố ịnh đ trong gía thành sản phẩm Chỉ số sản lượng = Công thức này cho ta thấy rõ, chỉ số hạ gía thành do sự tác động của ba nhân tố: chỉ số chi phí cố định, chỉ số sản lượng, chỉ số chi phí cố đinh trong gía thành sản phẩm kỳ báo cáo. Trên cơ sở kết quả tính toán ảnh hưởng của các biện pháp đến việc hạ gía thành sản phẩm, ta có thể tổng hợp tỷ lệ về khả năng hạ gía thành và tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Đối chiếu kết quả so sánh được nếu xét thấy mục tiêu tăng lợi nhuận chưa đạt được, chúng ta tiếp tục điều chỉnh tỷ lệ hạ gía thành và tính ngược lại sự cần thiết phải tăng (giảm) các yếu tố khác và quy định các biện pháp cần thực hiện. Chẳng hạn, từ tỷ lệ hạ gía thành chúng ta có thể xác định được: Tỷ lệ giảm tiêu hao nguyên vât liệu nếu giá cả không thay đổi; tốc độ tăng năng suốt lao động nếu tiền lương bình quân ổn định; tốc độ tăng sản lượng nếu chi phí cố định không thay đổi và ngược lại. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh là việc tăng (giảm) các yếu tố có giới hạn bởi nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó, luôn luôn phải tính toán đầy đủ đến quan hệ cung cầu trên thị trường để quyết định tăng (giảm) đầu vào và đầu ra tối ưu nhất để có lợi nhuận cao nhất. Phần II phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới phấn đấu hạ gía thành sản phẩm ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp a. Quá trình thành lập Xí nghiệp Xí nghiệp Xây Lắp Điện trực thuộc công ty Điện Lực I, là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập ngày 23/10/1993 theo quyết định số 532 NL/TCCB - LD của Bộ Năng lượng (nay là Bộ Công nghiệp) trên cơ sở sáp nhập hai Xí nghiệp là Xí nghiệp Xây Lắp Điện Lực và Xí nghiệp Lắp đặt điện hạ thế trực thuộc Sở Điện lực Hà Nội. Trụ sở của doanh nghiệp đặt tại số 1, đường An Dương, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với ngành nghề sản xuất chính là xây dựng, sửa chữa các công trình công nghiệp và dân dụng. Xí nghiệp Xây Lắp Điện là một đơn vị kinh tế cơ sở có tư cách pháp nhân không đầy đủ, thực hiện hạch toán kinh tế phụ thuộc trong Công ty Điện lực I, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng, được đăng ký kinh doanh theo nhiệm vụ của Bộ qui định. Nguồn vốn kinh doanh ban đầu của Xí nghiệp là 2.119 triệu đồng, trong đó : Vốn cố định : 1519 triệu đồng Vốn lưu động: 600 triệu đồng. Theo nguồn vốn : Vốn ngân sách cấp: 2147 triệu đồng. Vốn tự bổ xung: 72 triệu đồng Xí nghiệp Xây Lắp Điện lực là một đơn vị của Công ty Điện lực I, thuộc ngành công nghiệp nặng, được thành lập lại từ năm 1993 đến nay chưa phải là dài, do đó nó đang trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Xí nghiệp Xây Lắp Điện ngày càng mở rộng về quy mô cũng như cơ cấu, hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho Đất nước, góp phần làm giảm tổn thất điện năng, đem ánh sáng đến mọi miền Tổ quốc đặt biệt là đồng bào vùng sâu vùng xa, và cũng đã tham gia xây dựng công trình với nước bạn Lào. Trong tương lai Xí nghiệp chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa. b. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh Là đơn vị phụ trợ thuộc Công ty Điện lực I, Xí nghiệp Xây lắp Điện có đăng ký ngành nghề kinh doanh: - Xây dựng, cải tạo, sửa chữa công trình đường dây và trạm điện. - Xây dựng, sửa chữa công trình công nghiệp và dân dụng. Theo chứng chỉ hành nghề xây dựng số 53 BXD/CSXD ngày 14/4/1999 của Bộ Xây dựng và quyết định số 2163 EVN/ĐLI-3 ngày 3/5/1999 của Công ty Điện lực I, Xí nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau: - Xây lắp các kết cấu công trình, thi công móng công trình. - Gia công, lắp đặt các kết cấu kim loại hòm tủ, bảng điện, cấu kiện bê tông đúc sẵn cho đường dây và trạm điện đến 35KV. - Xây dựng đường dây và trạm điện đến 110KV và một số hạng mục (gói thầu) đường dây có điện áp đến 220KV. - Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình công nghiệp nhóm C. Phạm vi hoạt động trên toàn quốc c. Mô hình tổ chức sản xuất và quản lý Mô hình tổ chức quản lý: Tính chất sản xuất của Xí nghiệp là xây lắp các công trình điện có quy mô nhỏ phổ biến ở mức (100 triệu đến 600 triệu đồng), phân tán hầu hết các tỉnh phía Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra. Để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hoá cũng như đảm bảo thực hiện tốt phương án sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp thực hiện mô hình tổ chức quản lý như sau: Sơ đồ:1. Mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp Xây Lắp Điện Giám Đốc P.Giám Đốc kỷ thuật P.Giám Đốc nội chính . Ban Máy Tính Ban An Toàn Phòng Vật Tư Phòng Tài Chính Phòng Kỷ Thuật Phòng TC-LĐTL Phòng Kế Hoạch Phòng Hành Chính 3 đơn vị phù trợ 12 đội xây lắp điện Bộ máy bao gồm: - 6 phòng chức năng: + Phòng hành chính + Phòng kế hoạch + Phòng kỹ thuật + Phòng tổ chức lao động - tiền lương + Phòng tài chính kế toán + Phòng vật tư - 2 ban: + Ban an toàn + Ban máy tính và thông tin - 12 đội xây lắp điện - 3 đơn vị phụ trợ Giám đốc là người đứng đầu Xí nghiệp, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, các khoản giao nộp Nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn cũng như đời sống của cán bộ công nhân viên toàn Xí nghiệp. Giám đốc quản lý chung toàn Xí nghiệp và trực tiếp quản lý các phòng sau: Phòng tổ chức lao động - tiền lương Phòng kế hoạch Phòng tài chính kế toán Bên cạnh đó giám đốc chịu trách nhiệm quy định quy chế quản lý của hoạt động toàn Xí nghiệp. Phó giám đốc: Phối hợp với kế toán trưởng giúp việc trực tiếp cho giám đốc trong công tác quản lý, đồng thời phụ trách khâu kỹ thuật của các công trình. Xí nghiệp có 2 phó giám đốc: + 1 phó giám đốc kỹ thuật - P.GĐ1. + 1 phó giám đốc nội chính - P.GĐ2. Phó giám đốc 1 quản lý các bộ phận sau: + Phòng hành chính + Đội vận tải + Đội xây dựng Phó giám đốc 2 quản lý các bộ phận còn lại. Mô hình tổ chức sản xuất: Do đặc tính của công tác Xây lắp các công trình điện Xí nghiệp thành lập các đội xây lắp điện. Có 12 đội xây lắp (gọi tắt là đội điện 1, đội điện 2.., đội điện 12). Mỗi đội có từ 15 đến 30 người, bao gồm một đội trưởng phụ trách chung, một kỹ thuật viên và một nhân viên kinh tế. Các đội điện tổ chức thi công công trình theo hợp đồng kinh tế do Xí nghiệp ký kết và theo thiết kế được duyệt. Các công trình có quy mô lớn phải huy động nhiều đội cùng tham gia thi công như: Công trình đường dây 35KV Sầm Nưa - Lào (năm 1997), công trình cải tạo đường dây trung áp và các TBA Thành phố Hà Nội thuộc dự án "cải tạo lưới điện ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng Nam Định" (1999)... Đội trưởng Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức ở các đội xây lắp Nhân viên kinh tế Kỹ thuật viên Công nhân Nhóm trưởng Các đơn vị phụ trợ: Do tính chất và nhu cầu của sản phẩm xây lắp, ngoài các đội điện còn có các đơn vị phụ trợ phục vụ cho việc thi công các công trình điện gồm các đội: đội xe, xưởng cơ khí và đội xây dựng. Đội xe: có nhiệm vụ vận chuyển vật tư thiết bị đến chân công trình, xe cẩu dùng cẩu áp và dựng cột điện. Cơ cấu của đội xe bao gồm: tổ trưởng, nhân viên kinh tế, các lái xe và lái cẩu. Xưởng cơ khí: Chuyên gia công chế biến xà sắt, hộp bảo vệ công tơ, hòm Compozit phục vụ các công trình điện trong Xí nghiệp và các đơn vị trong ngành. Cơ cấu gồm một quản đốc, một nhân viên kinh tế, công nhân cơ khí bậc cao và thợ lành nghề. Đội xây dựng: Chuyên xây vỏ trạm, đúc cột điện loại nhỏ, các móng cột... Cơ cấu gồm một đội trưởng, một kỹ thuật viên, một nhân viên kinh tế, các công nhân bậc cao, thợ mộc, thợ xây. d. Quy trình thực hiện tác nghiệp để hoàn thành một công trình xây lắp điện Căn cứ vào các văn bản quy định về công tác xây dung cơ bản hiện hành, nhằm đưa công tác thi công và hoàn thành một công trình xây lắp điện trong Xí nghiệp được đồng bộ và hiệu quả. Để thực hiện và hoàn thành một công trình xây lắp cần trải qua các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị. Bước 2:Thực hiện. Bước 3: Kết thúc Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới việc phấn đấu hạ gía thành ở Xí nghiệp Xây Lắp Điện Đặc điểm cơ sở vật chất, kỹ thuật của Xí nghiệp Xí nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng, sửa chữa các công tình điện từ Hà Tĩnh trở ra. Sản phẩm của Xí nghiệp là sản phẩm đơn chiếc. Mỗi sản phẩm có một quy trình công nghệ riêng. Công việc chủ yếu là lao động kỹ thuật. Do đặc điểm, tính chất sản xuất đòi hỏi Xí nghiệp phải có những chủng loại tài sản cố định khác nhau để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các tài sản cố định, máy móc thiết bị cỡ lớn như: Máy khoan cần K 125, máy cắt đột liên hợp, máy đột dập,... và một số phương tiện vận tải, truyền dẫn thuộc TSCĐ như: Xe Cateer 2 tấn, cẩu ZIL 130 KCZ 561K, cẩu IFA ADK 70 - 7 tấn... một số vật kiến trúc, nhà cữa thuộc TSCĐ như: Nhà kho tầng 1 mái bằng, nhà làm việc đội 5, nhà 2 tầng khu B, gara ôtô và phòng y tế, ... phần lớn đều do vốn tự có của Xí nghiệp. Nhìn chung, hệ thống máy móc thiết bị của Xí nghiệp đã khá cũ, phần lớn là loại thuộc trước 1990, tất cả số này đều đã khấu hao hết, công suất thực tế thấp so với thiết kế. Cụ thể: máy khoan cần K 125, máy cắt đột liên hợp, máy đột dập, máy khoan bê tông cầm tay, bộ dụng cụ thi công Pháp, máy trộn bê tông đều đã khấu hao hết. Bên cạnh đó Xí nghiệp cũng bổ sung một số máy móc thiết bị mới như: đầu ép cốt thuỷ lực 14 325 mm HQ, bơm thuỷ lực hoạt động bằng tay...một số phương tiện vận tải mới như: Xe ôtô Toyota Camry (năm 2001), xe ôtô tải tự cẩu FORD Trader... b. Đặc điểm nguyên vật liệu Nguyên vật liệu trong sản xuất, kinh doanh xây lắp các công trình điện có vai trò vô cùng quan trọng vì chi phí cho nguyên vât liệu trong xây dựng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn từ 60 - 70% tổng chi phí cho công tác xây lắp. Khối lượng vận chuyển trong xây lắp cũng lớn hơn nhiều ngành khác. Nên nguyên vât liệu là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến gía thành xây lắp, công tác quản lý nguyên vât liệu là một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác hạ gía thành xây lắp. Vật liệu trong xây dựng, lắp đặt, sữa chữa các công trình điện là rất lớn, lại thường cồng kềnh, đa dạng về chủng loại. Vật tư phục vụ thi công công trình thường lấy từ các nguồn sau: + Bên A cấp + Xí nghiệp mua. +Đơn vị thi công tự mua Số lượng, chất lượng và chủng loại vật tư thiết bị tuỳ thuộc vào hợp đồng ký kết mà có mức mua và dự trữ khác nhau. Chính vì vậy, các loại nguyên vât liệu xây dựng đòi hỏi phải được cung cấp đồng bộ, hàng loạt lớn, bởi lẽ sản phẩm công trình làm ra là tổng hợp của tất cả các nguyên vât liệu một cách đồng bộ và đầy đủ, vì thông thường nơi xây dựng, lắp đặt công trình và nơi cung cấp nguyên vât liệu ở cách xa nhau. Mặt khác khi sử dụng tiết kiệm, hợp lý nguyên vât liệu, sử dụng theo đúng yêu cầu kỹ thuật của sản xuất thì chất lượng công trình sẽ nâng cao và hạ gía thành xây lắp. Đặc biệt khi tiến hành xây dựng, nên khai thác nguyên vât liệu ở gần công trình, điều đó góp phần đáng kể để giảm chi phí vận chuyển nguyên vât liệu dẫn tới hạ gía thành xây lắp. c. Đặc điểm về lao động. Lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp, là một trong những yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất và là nguồn sáng tạo ra sản phẩm. Các phương tiện sản xuất ngày càng hiện đại thì trình độ lao động đòi hỏi ngày càng cao hơn và như vậy yếu tố lao động càng có vị trí quan trọng. Lực lượng lao động được thể hiện trong bảng sau Bảng 2: Lao động của Xí nghiệp Đơn vị: người Chỉ tiêu 1999 2000 ‘00/’99(%) 2001 ‘01/’00(%) 1. Tổng số CBCNV 363 384 105,785 407 105,990 - Lao động trực tiếp 294 316 107,483 343 108,544 - Lao động gián tiếp 69 68 98,551 64 94,118 2. Số công nhân sản xuất 254 300 118,110 325 108,333 3. Số lao động Hợp đồng ngắn hạn 123 135 109,756 142 105,185 4. Phụ nữ 44 54 122,727 77 142,593 5. Tuổi đời dưới 30 139 142 102,158 159 111,972 31-45 171 184 107,602 171 92,935 46-55 43 50 116,279 70 140 Trên 56 10 8 80 7 87,5 6. Trình độ chuyên môn - Đại học 60 70 116,667 87 124,286 - Trung cấp 43 52 120,930 65 125 Nói chung nhìn vào bảng kê về lao động của doanh nghiệp, ta thấy rằng Xí nghiệp đang có lực lượng lao động ngày càng hùng hậu, lớn mạnh, về cả số lượng và chất lượng, tỉ trọng công nhân sản xuất trực tiếp tăng dần từ 76% năm 1999 lên 80% năm 2000 và 82,5 % năm 2001. Bên cạnh việc trẻ hoá, thì trình độ chuyên môn của người lao động cũng được nâng lên bằng cách tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, còn kế đó là trung cấp, tuyển dụng mới và cho đi học. Xí nghiệp có những chế độ chính sách ưu đãi đối với những người đi học, do vậy, làm cho họ yên tâm trong học tập và còn hoàn thành công tác được giao. Tuy nhiên, việc tăng lao động và tăng cường lực lượng lao động có trình độ cũng không hề làm giảm thu nhập quá lớn, mà Xí nghiệp vẫn cố gắng để đảm bảo đời sống cho người lao động một cách tốt nhất có thể: Bảng 3: Bảng về thu nhập của người lao động Đơn vị: ng.đ Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1. Tổng thu nhập 2.657.932 3.508.456 4.638.142 a. Quỹ tiền lương 2.256.715 2.916.122 3.825.015 b.BHXH trả thay lương 6.758 11.617 20.985 c. Thu nhập khác 394.460 580.716 792.125 2.Lao ._. nhân công vẫn là vấn đề cấp bách của Xí nghiệp trong công tác phấn đấu hạ giá thành. Bởi lẽ, phần đa các công trình mà Xí nghiệp đã thực hiện có nhiều công trình chi phí nhân công thực tế đã vượt dự toán. Để giảm được chi phí nhân công Xí nghiệp cần chú ý các nội dung sau: Lập biểu đồ nhân lực hợp lý trước khi tiến hành thi công. Từ đó xác định khối lượng lao động cần thiết, biết được tình hình thừa, thiếu để chủ động điều tiết. Bố trí lao động đúng tay nghề và máy móc tránh sự trùng chéo. Với những công việc yêu cầu kỹ thuật cao thì phải là công nhân kỹ thuật bậc cao đảm nhận. Ngược lại, đối với những công việc đơn giản khác thì lao động bậc thấp hoặc lao động phổ thông cũng có thể đảm nhận được. Chính vì vậy sử dụng lao động phổ thông tại địa phương để giải quyết những công việc đơn giản thì tiết kiệm hơn nhiều. Ta biết, quỹ tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất chịu ảnh hưởng của một số nhân tố: khối lượng và cơ cấu khối lượng công tác thực hiện; lượng lao động hao phí (xác định theo ngày công hoặc giờ công) để thực hiện một khối lượng công tác; mức đơn giá tiền lương theo thời gian lao động hao phí (giờ công hoặc ngày công). Khối lượng và cơ cấu khối lượng công tác là do yêu cầu kỹ thuật của công trình, do định mức quy định. Nếu biết kết hợp hài hoa yêu cầu công việc, trình độ tay nghề và trang bị máy móc sẽ tạo được năng suet lao động cao làm giảm chi phí nhân công trong giá thành xây lắp. Mức đơn giá tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào tay nghề bậc thợ công nhân sản xuất. Vì vậy, việc lựa chọn công nhân cho phù hợp với yêu cầu công việc sẽ góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Việc thuê lao động ngoài còn có tác dụng nâng cao trình độ chuyên môn hoá của đội ngũ công nhân trong Xí nghiệp. Mỗi công nhân chuyên về một nghề để hiểu rõ hơn công việc mình làm, tăng năng suất lao động đồng thời phát hiện ra những biện pháp hạ giá thành sản phẩm cho Xí nghiệp. Để thấy được hiệu quả to lớn của biện pháp này đem lại trong công tác hạ giá thành xây lắp, ta nghiên cứu tình hình tuyển dụng và sử dụng lao động ở công trình xây dựng trạm 110KW cấp điện cho khu công nghiệp Tiên Sơn Bảng 13: Dự kiến lực lượng lao động thực hiện công trình xây dựng trạm 110KW cấp điện cho khu công nghiệp Tiên Sơn TT Loại thợ Tổng số Bậc Ê 3 Bậc 4 Bậc 5 Bậc ³ 6 1 Thợ điện 25 5 8 7 5 2 Thợ hàn + cơ khí 10 0 3 5 2 3 Thợ nề 7 3 2 2 0 4 Thợ thép 5 2 2 1 0 5 Thợ bê tông 6 2 3 1 0 6 Thợ vận hành 3 0 0 2 1 7 Thợ khác 8 4 3 1 0 Cơ cấu loại nghề, bậc thợ hợp lý sẽ nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí nhân công trong giá thành. Mặt khác mức lương bình quân của lao động trong danh sách của Xí nghiệp năm 2001 là: 1.075.000 đồng/tháng. Xí nghiệp đã sử dụng lao động lành nghề và lao động gián tiếp trong số lao động trong danh sách, ngoài ra Xí nghiệp còn thuê ngoài 12 lao động với mức lương bình quân 30.000 đồng/ngày. Công trình này được thi công trong 5 tháng Ta có bảng tính chi phí nhân công như sau: Bảng 14: Chi phí nhân công thực hiện công trình xây dựng trạm điện 110KW cấp điện cho khu công nghiệp Tiên Sơn Loại lao động Số người Mức trả Số phải trả trong 5 tháng 1. Lao động danh sách 52 1.075.000/tháng 279.500.000đồng 2. Lao động thuê ngoài 12 30.000đồng/ngày 46.800.000đồng Tổng cộng 64 326.300.000đồng Tiền phải trả cho lao động thuê ngoài là: 30.000 x 5 x 26 x 12 = 46.800.000 (đồng) Nếu Xí nghiệp sử dụng hết lao động trong danh sách thì số tiền phải trả là: 64 x 1.075.000 x 5 = 344.000.000 (đồng) Vậy với việc thuê ngoài Xí nghiệp đã tiết kiệm được: 344.000.000 - 326.300.000 = 17.700.000 (đồng) Do đó, Xí nghiệp phải phát huy tốt việc bố trí và tận dụng lao động địa phương. Tận dụng tối đa nguồn lao động tại địa phương để giảm bớt chi phí xây lắp. Làm tốt những công tác này Xí nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhân công mà vẫn đảm bảo được yêu cầu về kỹ thuật và tiến độ thi công. 2. Tăng cường công tác quản lý vật liệu để giảm chi phí vật liệu trong giá thành. Trong giá thành sản phẩm xây dựng khoản mục chi phí vật liệu chiếm tỷ trọng rất 70-80%, nên việc tiết kiệm hay lãng phí vật liệu có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiệm vụ hạ giá thành xây lắp, hạ giá thành công trình hoàn thành. Để giảm được chi phí vật liệu cần nổ lực phấn đấu trên tất cả các mặt, các khâu: a. Trong công tác xác định nguồn cung ứngvật liệu xây lắp. Trong quá trình lập dự toán phải xác định được nguồn cung ứng vật liệu, xây dựng định mức sử dụng vật liệu trên cơ sở mà Nhà nước ban hành và phù hợp với thực tiễn của Xí nghiệp. Phải xây dựng được một hệ thống định mức tiên tiến, tỷ lệ tiết kiệm và hạ giá thành vật liệu trong thi công. Do giá vật liệu bao gồm cả phí vận chuyển, bốc dở nên Xí nghiệp phải xác định nơi mua sao cho tổng chi phí là nhỏ nhất. Sử dụng vật liệu tại chỗ để tiết kiệm chi phí vận chuyển. Việc cung ứng vật liệu cho công trình có thể do Xí nghiệp làm việc với bên cung ứng hoặc các tổ đội thi công tự cung cấp vật liệu cho thi sau đó thanh quyết toán với Xí nghiệp hoặc cũng có những công trình bên A yêu cầu tự cung cấp vật liệu. Vấn đề quan trọng nhất của việc cung ứng vật liệu là chọn nguồn cung cấp, tạo mối quan hệ lâu dài để giảm được khoản chi phí trong thu mua. Nếu mua vật liệu ở xa địa bàn thi công thì phải tính đến phương án vận chuyển. Bởi vì lúc đó chi phí vận chuyển sẽ ảnh hưởng rất lớn trong tổng giá thành vật liệu. Bên cạnh đó việc lựa chọn xuất sứ của các vật liệu cũng quan trọng. Đối với việc xây dựng, sữa chữa, lắp đặt các công trình điện vật liệu thường là sứ, sắt thép, dây truyền tải...những vật liệu này trong nước sản xuất rất tốt. Do đó không nhất thiết phải nhập ngoại các vật liệu làm tăng chi phí vật liệu và dẫn đến tăng giá thành sản phẩm. Hiện tại, Xí nghiệp không tích trữ các loại vật tư chủ yếu. Tuy nhiên, để giảm giá thành vật liệu Xí nghiệp nên đặt mua khối lượng lớn nguyên vật liệu thường dùng ở mức bình quân hàng năm. Việc làm này sẽ giúp Xí nghiệp tiết kiệm được chi phí thông qua hưởng chiết khấu, chủ động về nguyên vật liệu nhưng không cần đến các chi phí giữ trữ. Hàng năm, Xí nghiệp sử dụng nhiều loại vật liệu khác nhau như dây nhôm lõi thép, cáp điều khiển 10K, sứ chuỗi thuỷ tinh PCB... với số lượng lớn. Ví dụ như cáp ngầm APC với số lượng bình quân cho công tác lắp đặt trực tiếp của Xí nghiệp hàng năm không kể bên A cung cấp là 450 tấn (đã quy đổi từ đơn vị tính kg). Do các công trình năm trên các địa bàn khác nhau nên việc cung ứng khá phức tạp. Tuy nhiên, Xí nghiệp vẫn thường sử dụng cáp ngầm APC của nhà máy cơ khí Yên Viên và Xí nghiệp thiết kế thiết bị điện hoặc của nhà máy thép ở Thái Nguyên Nếu mua tại Nhà máy cơ khí Yên Viên thì cáp ngầm APC giá 92.000đ/kg tại kho người bán Nếu mua tại Thái Nguyên thì giá 89.500đ/kg tại kho người bán Nhưng nếu mua tại Thái Nguyên chi phí vận chuyển một ôtô khoản 4 tấn giá 2.500.000đ. Như vậy, rõ ràng Xí nghiệp phải lựa chọn đúng nguồn cung ứng vật tư thì mới đem lại hiệu quả to lớn trong công tác hạ giá thành. Để chọn cáp ngầm của cơ khí Yên Viên hay của Thái Nguyên vận chuyển về ta làm phân tích sau: Gọi X là số lượng cáp ngầm APC cần dùng, ta có: 89.500X + 2.500.000 = 92.000X đồng 92.000X X = 1.000(kg) 89.500 + 2.500.000X 0 92.000.000 2.500.000 1000 kg 92.000X Như vậy, nếu mua với khối lượng trên 1 tấn thì Xí nghiệp nên mua tại Thái Nguyên và vận chuyển về. Còn nếu mua với khối lượng nhỏ hơn 1 tấn thì Xí nghiệp nên mua của Nhà máy cơ khí Yên Viên vì khi đó chi phí sẽ rẻ hơn. Bên cạnh đó Xí nghiệp nên tăng cường giảm chi phí vật liệu bằng cách giảm chi phí vận chuyển. Đây cũng là phương án tối ưu nhất trong việc giảm chi phí vật liệu. Bằng cách, nếu nguồn cung ứng xa địa bàn thi công thì vận chuyển vật liệu phải đủ chuyến mới vận chuyển. Điều này chịu ảnh hưởng rất lớn của quá trình thi công. Trong quá trình thi công xây lắp Vật liệu của Xí nghiệp có khối lượng lưu kho không lớn. Lý do, nguồn cung ứng dồi dào và dễ tìm. Do đó, ở đây ta không bàn đến vấn đề bảo quản vật liệu mà ta đi vào quá trình sử dụng vật liệu như thế nào để giảm chi phí do hư hỏng, mất mát. Việc cấp phát nguyên vật liệu phải cấp vừa đủ, tránh tình trạng cấp phát thừa thải, cấp không đúng chủng loại. Đồng thời phải có biện pháp đối với những cá nhân, đội thi công lãng phí vật liệu, quy trách nhiệm bồi thường cho cá nhân, đội thi công đó. Và có chế độ khen thưởng những cá nhân có thành tích trong công tác tiết kiệm vật liệu. Do các công trình của Xí nghiệp nằm rải rác ở khắp nơi, nhu cầu sử dụng của Xí nghiệp là thường xuyên nên Xí nghiệp không tổ chức kho vật liệu chung mà giao cho các đội thi công trực tiếp quản lý. Do vậy việc theo dõi vật tư xuất dùng ở từng công trường rất phức tạp. Để tạo thuận lợi cho việc cấp phát vật tư nhanh chóng và kịp thời góp phần tăng tiến độ hoàn thành thi công công trình, hạng mục công trình, đồng thời góp phần kiểm tra được tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất thì Xí nghiệp nên sử dụng “ phiếu xuất vật tư theo định mức” theo dõi được lượng vật tư xuất kho để điều chỉnh cho phù hợp. 3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị Đứng trước thực trạng máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu, số lượng ít không đủ đáp ứng yêu cầu xây lắp. Hầu hết máy móc thiết bị của Xí nghiệp Xây Lắp Điện đã khấu hao hết vì vậy Xí nghiệp nên đầu tư mới một số máy móc thiết bị để đáp ứng nhu cầu thi công. Tuy vậy, thực trạng hiện nay Xí nghiệp đang áp dụng hình thức ngoài sử dụng máy móc thiết bị của mình thì đi thuê ngoài để đáp ứng công việc thi công. Nhưng Xí nghiệp cần phải cân đối giữa cơ hội di chuyển máy móc và chi phí thuê máy tại địa phương nơi thi công công trình, so sánh để lựa chọn phương án tối ưu, tạo sự chủ động trong công tác thi công và giảm những chi phí không cần thiết. Trường hợp lựa chọn hình thức thuê máy: Các đội thi công cần phải căn cứ vào tình hình cụ thể của công việc, dựa vào kế hoạch thi công đã được duyệt từ đó xác định nên thuê máy theo thời gian hay thuê theo ca. Cụ thể, đối với khối lượng công việc làm bằng máy ít, thời gian thi công ngắn thì biện pháp tốt nhất là thuê máy thuê máy theo ca. Giá thuê được căn cứ trên mặt bằng giá chung và có sự điều chỉnh một cách linh hoạt sao cho cả người thuê và người cho thuê đều chấp nhận được. Khi khối lượng công việc cần sử dụng máy theo thời gian dài và liên tục trong thi công thì nên thuê máy theo hợp đồng dài, làm như thế Xí nghiệp sẽ chủ động trong thi công vì máy móc thiết bị lúc nào cũng có sẵn và tiết kiệm được chi phí do hạn chế được thời gian ngừng máy gây ra. Hơn nữa, để lựa chọn hình thức thuê máy hợp lý thì Xí nghiệp nên sử dụng cách phân tích sản lượng cân bằng dựa trên chi phí cho hai hình thức thuê trên. Ví dụ: ở công trình xây dựng trạm 110KV cấp điện cho khu công nghiệp Tiên Sơn trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 6. Yêu cầu tiến độ thời gian là rất gấp, đòi hỏi Xí nghiệp phải huy động cùng một lúc nhiều đơn vị thi công cũng như máy móc thiết bị. Trong công trình này Xí nghiệp đã thuê thêm 1 cẩu ZIL 130 KCZ 561K. Nếu thuê máy theo ca thì Xí nghiệp phải trả 1.150.000 đ/ca. Nếu thuê luôn máy trong suốt thời gian thi công thì Xí nghiệp phải trả 25.000.000 đ cộng với chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu cho mỗi ca máy là 200.000 đ/ca. Gọi X là số ca máy cần vận hành trong thời gian 2 tháng để đáp ứng nhu cầu của công trình. Ta tính được chi phí cho 2 hình thức thuê máy và dựa trên lý thuyết về sản lượng cân bằng ta sẽ lựa chọn được hình thức thuê máy. Ta có: - Nếu thuê máy theo ca thì chi phí máy cho 2 tháng là: 1.150.000X Nếu thuê thời gian dài (2 tháng) là: 25.000.000 + 200.000X Ta xét: 1.150.000X = 25.000.000 + 200.000X 1.150.000X 25.000.000 + 200.000X X = 26,315 25.000.000 30.262.250 đồng 26,315 Ca máy 0 Vậy, nếu số ca máy trong thời gian Xí nghiệp cần sử dụng lớn hơn 26,315 ca thì nên thuê máy luôn trong suốt thời gian thi công thì sẽ tiết kiệm được chi phí. Ngược lại thì nên thuê theo ca, vì chi phí sẽ nhỏ hơn. ở công trình này Xí nghiệp cần sử dụng 28 ca máy nên Xí nghiệp sẽ thuê cả thời gian thi công. Qua phân tích tình hình thực hiện chi phí máy thi công của Xí nghiệp ở phần II chúng ta thấy được trong khoản mục này Xí nghiệp đã giảm được một khoản chi phí đáng kể bằng cách lựa chọn giữa thuê ngoài hay sử dụng máy của đơn vị mình. Xí nghiệp đã làm rất tốt ở khâu này, có chẳng còn tồn tại ở chi phí vận hành máy. Xí nghiệp cần khoán cụ thể và kiểm tra thường xuyên, tránh tình trạng nâng số ca máy sử dụng lên để lấy thêm chi phí nhiên liệu trong máy thi công. Ngoài ra, Xí nghiệp nên có phương án cụ thể cho những công trình lớn cần nhiều máy móc thiết bị thì ngoài sử dụng thiết bị của mình thì thuê ngoài để đạt tiến độ. Nhưng những công trình nhỏ, chi phí vận hành lớn thì Xí nghiệp nên thuê ngoài đồng thời có thể dùng máy móc của mình cho đơn vị ngoài thuê. Có như vậy mới sử dụng hết công suất máy một cách hữu hiệu đồng thời có thể mang lại thu nhập từ việc cho thuê máy. Mặt khác, Xí nghiệp cũng nên thành lập một tổ quản lý máy móc thiết bị để theo dõi tình hình sử dụng máy, có nhiệm vụ bảo trì, bảo dưỡng máy móc trong quá trình thi công. Các đội thi công lập kế hoạch thi công để sử dụng máy một cách tối đa. Đến hàng tháng, hàng quý, tổ quản lý máy móc thiết bị có báo cáo cụ thể tình hình biến động và sử dụng máy của mỗi đội. Từ đó lập kế hoạch đầu tư có hiệu quả nhất cho hệ thống máy móc thiết bị. Tuy giảm chi phí khoản mục máy thi công trong giá thành sản phẩm nhưng hầu hết máy móc thiết bị của Xí nghiệp từ trước 1990, được sữa chữa nhiều công suet tối đa chỉ đạt 60 - 70% công suất thiết kế và chi phí sữa chữa, bảo quản lớn. Vì vậy, trong thời gian tới Xí nghiệp nên đầu tư mua sắm một số máy móc thiết bị công nghệ mới thay thế dần nhưng máy móc thiết bị cũ. Nâng cao chất lượng và tiến độ thi công các công trình. 4. Giảm các khoản lãng phí trong chi phí chung Đây là một trong những khoản chi phí mà trong kế hoạch hạ giá thành xây lắp Xí nghiệp đã giảm được rất lớn, có thể nói là cao nhất về tỷ lệ % hạ các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Dù năm nào Xí nghiệp Xây Lắp Điện cũng giảm được một khoản rất lớn nhưng trong kế hoạch giá thành, Xí nghiệp xem giảm chi phí chung là vấn đề mấu chốt trong hạ thấp giá thành. Xí nghiệp rất thành công trong kế hoạch này. Trong các khoản mục chi phí trong giá thành xây lắp tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện: chi phí vật liệu là khoản chi phí khó giảm nhất, tiếp đó là chi phí nhân công và chi phí máy thi công cũng là những khoản chi phí không dễ dàng hạ thấp đối với một ngành đặc thù như ngành điện. Ban lãnh đạo Xí nghiệp xét thấy giảm chi phí chung là hoàn toàn thực hiện được do đó đã áp dụng những biện pháp hữu hiệu để giảm khoản chi phí này. Bên cạnh việc thực hiện chính sách khoán toàn Xí nghiệp. Đối với công tác phí và giao dịch phí là khoản hay gia tăng bất thường nhất. Vì vậy, để giảm chi phí chung Xí nghiệp khoán chi phí văn phòng phẩm cho từng phòng, hàng tháng không được vượt quá khoản chi phí đó. Chi phí giao dịch, điện thoại cũng được khoán một cách chặt chẽ tránh gọi không đúng công việc gây lãng phí. Chẳng hạn trưởng phòng tài vụ được khoán mỗi tháng tiền điện thoại là 500.000 đồng, nếu gọi quá ngoài số đó cá nhân phải tự bỏ tiền túi ra. Chi phí đi lại cũng là một khoản chi phí không nhỏ. Xí nghiệp quy định đối với trưởng phòng trở lên đi công tác được dùng xe của cơ quan, nhưng thực tế thì nếu những chuyến công tác nhiều người đi thì mới dùng xe của Xí nghiệp còn nếu ít người thì cá nhân đó đi xe ngoài sau đó về thanh toán với Xí nghiệp. Ví dụ: Trong chuyến công tác thành phố HCM đầu năm 2001 của trưởng phòng tài vụ thời gian đi là 10 ngày. Nếu đi bằng xe Xí nghiệp thì mỗi ngày phải chi ra 350.000đ tiền xăng xe và lệ phí giao thông cộng thêm 180.000đ tiền phòng ở và tiền ăn. Tổng cộng nếu sử dụng xe của Xí nghiệp chi phí trong 10 ngày ngoài các khoản làm việc khác phải bỏ ra thêm 5.300.000đ. Nếu đi bằng phương tiện ngoài (máy bay) thì vé cả đi và về là 1.900.000đ cộng thêm khoản chi phí cho phương tiện đi lại tại thành phố làm việc của trưởng phòng trong 10 ngày là 2.000.000đ. Như vậy so sánh trường hợp sử dụng xe của Xí nghiệp đi công tác và sử dụng phương tiện bên ngoài trong chuyến đi công tác của trưởng phòng Xí nghiệp đã giảm được khoản chi phí là: 1.400.000đ. Ngoài ra, Xí nghiệp còn có thể sử dụng phương tiện của cơ quan mình trong việc khác mà không sợ trùng chéo không có phương tiện đi lại. Làm như thế này Xí nghiệp giảm được khoản chi phí rất lớn trong chi phí chung. Và thực tế cho thấy Xí nghiệp đã giảm được khoản chi phí chung khá lớn trong những năm qua. Xí nghiệp phải phấn đấu giảm chi phí hội họp, chi phí khảo sát thực địa và những khoản chi phí là việc với bên A. Đây là những khoản chi phí nhiều lúc trở nên không rõ ràng, dễ dẫn đến thất thoát. Xí nghiệp cần có kế hoách khoán cụ thể cho từng đội, ngoài các khoản chi phí trên thì chi phí khác cho mỗi công trình của mỗi đội là bao nhiêu. Con số này phải cụ thể và sau khi tổ đội trình để quyết toán thì cần phải đối chiếu chứng thực rõ ràng, những khoản nào không rõ ràng phải yêu cầu xác định lại. Không để xẩy ra tình trạng làm gia tăng chi phí gián tiếp, đặc biệt là gia tăng không đúng. 5. Lựa chọn phương pháp tổ chức thi công hợp lý Cùng một công trình, nhưng các phương pháp thi công khác nhau sẽ có những khoản chi phí khác nhau. Xí nghiệp nào có phương pháp thi công tối ưu sẽ có giá thành hạ. Việc lựa chọn phương pháp thi công phải đảm bảo khi tiến hành thi công sẽ mang lại chi phí thấp nhất so với các phương án khác nhau như: thời gian hoàn thành công trình nhanh nhất, chi phí bảo quản vật tư thấp nhất... Vì vậy, trong khi thi công phải lường hết được những nguyên nhân làm cho tiến độ thi công bị gián đoạn. Có nhiều nguyên nhân làm cho quá trình thi công bị ngừng trệ, tuy vậy thường tập trung vào một số nguyên nhân sau đây: Do thời tiết: thi công phần lớn được thực hiện ngoài trời, do đó tự nhiên sẽ có tác động trực tiếp tới tiến độ thi công, tới việc vận chuyển vật tư thiết bị. Do thiếu vật tư thi công: quá trình cung cấp bị gián đoạn hoặc chậm lại những cản trở này thường xuất hiện khi bên A yêu cầu cung cấp vật tư. Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho thi công. Do đó, phương án được chọn phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Trong thiết kế tổ chức thi công phải tăng cường cơ giới hoá đồng bộ công tác thi công xây lắp. Điều này sẽ đảm bảo rút ngắn được thời gian thi công và nâng cao chất lượng công trình. Cần phải phân chia theo nhóm công việc giống nhau để tiện cho việc sản xuất chuyên môn hoá. Khi tổ chức thi công phải tạo được điều kiện thi công liên tục trong quá trình thi công. Ngoài ra, trong khi thi công các công việc nên thực hiện theo trình tự sau: Làm phần ngầm trước, phần nổi sau, phần sâu trước phần nông sau, phần chính trước phần phụ sau, công việc có tính chất trình tự phải làm dứt điểm, công việc có tính song song phải bố trí mặt bằng hợp lý, cung ứng vật liệu, máy móc đầy đủ tránh chồng chéo. Việc thi công các hạng mục còn lại không ảnh hưởng đến việc sử dụng sản xuất các hạng mục đã hoàn thành. Trình tự thi công nên điều hoà việc cung ứng điều kiện kỹ thuật với các loại vật tư nhằm sử dụng hợp lý các nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ thi công. Trình tự thi công phải chú ý đến ảnh hưởng thời tiết, dự kiến biện pháp xử lý thi thời tiết xấu. Sau khi xác định được trình tự các bước công việc phải làm của một hạng mục và thời gian hoàn thành của các bước công việc này Xí nghiệp có thể quản lý thời gian thi công bằng cách sử dụng sơ đồ PERT, từ đó xác định được thời gian thi công hoàn thành sớm nhất và muộn nhất, công việc nào cần quản lý chặt chẽ để không ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình. Tránh được tình trạng kéo dài thời gian thi công một cách không cần thiết. Lựa chọn phương pháp tổ chức thi công hợp lý cho từng công trình sẽ có tác động rất tích cực: tránh ứ đọng vốn, giảm chi phí tiền vay, giảm chi phí nhân công, chi phí bảo quản vật tư - máy móc thiết bị. Đối với bên chủ đầu tư đưa công trình vào sử dụng nhanh hơn. 7. Một số kiến nghị đối với Xí nghiệp và Nhà nước. a. Kiến nghị đối với Xí nghiệp Xí nghiệp Xây Lắp Điện là thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty Điện lực 1- Tổng Công ty Điện lực. Trong cơ chế thị trường hiện nay công ty đã cho các Xí nghiệp thành viên chủ động trong việc tìm kiếm các đối tác ngoài đảm nhận các công trình của trên chỉ định, tự chủ trong đấu thầu, sáng tạo trong thi công lắp đặt, quản lý lao động và khai thác thị trường. Mặc dù công ty đã cố gắng tạo điều kiện cho Xí nghiệp hoạt động tốt, nhưng Xí nghiệp cũng có những kiến nghị đối với công ty như sau: Là đơn vị trực thuộc nên khi vay vốn Ngân hàng thì phải có sự bảo lãnh của đại diện công ty. Đối với việc này công ty cần có những biện pháp giảm bớt những thủ tục rườm rà để nhanh chóng có vốn đáp ứng nhu cầu công trình. Chi phí tìm việc công ty quy định đối với tất cả các công trình là 2%. Nhưng thực tế nhiều công trình Xí nghiệp phải chi đến 5-6%, điều này đã ảnh hưởng tới lợi nhuận của Xí nghiệp. Vậy công ty nên tăng chi phí tìm việc cho Xí nghiệp 3% để Xí nghiệp có nhiều cơ hội hơn trong công tác tìm kiếm việc làm và tham dự thầu. Có nhiều công trình công ty đứng tên tham gia đấu thầu, rồi giao cho Xí nghiệp thi công. Sau đó Xí nghiệp phải nộp cho công ty một khoản phụ phí, khoản này được tính vào chi phí chung của công trình. Nhưng nhiều khi chi phí này quá lớn, thường chiếm 30% chi phí chung. Do đó, công ty nên có biện pháp để giảm khoản chi phí này xuống thấp hơn. Công ty nên đầu tư cho Xí nghiệp một số tài sản cố định nữa để đáp ứng phần nào nhu cầu công việc. b. Kiến nghị đối với Nhà nước - Là một doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thành lập nhưng nguồn vốn ngân sách cấp và bổ xung là rất nhỏ bé chưa tương xứng với khả năng hiện hành của Xí nghiệp. Theo chế độ, mỗi doanh nghiệp được đảm bảo tối thiểu 30% vốn lưu động, nhưng do chưa có nguồn để cấp nên không phải doanh nghiệp nào cũng được cấp đầy đủ, trong khi có doanh nghiệp thừa vốn lại rất khó điều đến các doanh nghiệp thiếu vốn. Vì thế nhiều DNNN, mà trong đó, có Xí nghiệp Xây Lắp Điện đang phải đối phó với tình trạng thiếu vốn lưu động nghiêm trọng. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động hoàn toàn không chỉ do ngân sách không đảm bảo được mà cái chính là do các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau dẫn đến vốn lưu động trong thanh toán của các doanh nghiệp quay vòng luẩn quẩn nên đã làm cho tình trạng tài chính của các doanh nghiệp phức tạp, nợ nần dây dưa, thiếu vốn lưu động nghiêm trọng. Hiện nay môi trường kinh tế đang trong giai đoạn chuyển tiếp rất không ổn định, NSNN đang mất cân đối và do đó khi cấp vốn Nhà nước cũng xem xét rất kỹ tình hình doanh nghiệp để ra quyết định nên để tăng cao được nguồn vốn chủ sở hữu từ NSNN, Xí nghiệp phải tìm cách tăng hơn nữa hiệu quả kinh doanh của mình. Nhưng theo nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/91 về chế độ thu sử dụng vốn NSNN với các doanh nghiệp Nhà nước, các DNNN có sử dụng NSNN đều phải nộp một khoản thu sử dụng vốn từ 3.6% --> 4.8 % / năm tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, số tiền thu sử dụng vốn trên được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay, phần lớn các DNNN đang thiếu vốn kinh doanh trầm trọng, khả năng tích luỹ của DNNN chưa cao, lợi nhuận sau thuế còn ít, nhu cầu bổ sung vốn còn lớn, do vậy không nên thu khoản thu này và thực tế hiện nay, tổng số tiền thu sử dụng vốn ngân sách của các DNNN vào NSNN hàng năm không đáng kể, bỏ khoản thu này DNNN sẽ có thêm điều kiện tự tích luỹ và phát triển vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có thể nói từ những lý do này, việc bỏ khoản thu sử dụng vốn NSNN là hoàn toàn hợp lý và là một giải pháp cực kỳ quan trọng để góp phần tháo gỡ tình hình thiếu vốn kinh doanh đang diễn ra ở nhiều DNNN hiện nay. Một vấn đề khó khăn không riêng gì Xí nghiệp Xây Lắp Điện là nhiều công trình tiến độ thi công chậm lại do không giải phóng được mặt bằng thi công. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong công tác này đề nghị cơ quan Nhà nước cần ban hành một số văn bản có hiệu lực và mang tính cụ thể hơn trong việc giải phóng mặt bằng. Đưa ra các chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho Xí nghiệp, cho các đội thi công lắp đặt đảm bảo được tiến độ của mình. Từ đó, giúp công tác hạ giá thành xây lắp đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay Xí nghiệp vẫn chưa xây dựng được định mức vật tư tiên tiến. Điều đó xuất phát từ phía Nhà nước chưa xây dựng định mức sử dụng vật tư tiên tiến làm cơ sở để Xí nghiệp vận dụng. Xí nghiệp hiện nay vận dụng quyết định số 56113 BXDVKT ngày 30/6/1994 về ban hành định mức XDCB. Văn bản này chỉ mới quy định mức sử dụng của những nhóm vật tư, nhiều loại vật tư cụ thể chưa được quy định. Vì vậy, những loại vật tư mà Nhà nước chưa quy định, Xí nghiệp phải tự quy định định mức sử dụng trên cơ sở định mức sử dụng của các loại vật tư cùng loại. Do đó, chưa có sự thống nhất giữa các doanh nghiệp, tính khoa học chưa cao. Hơn nữa, việc sử dụng định mức của những năm trước đây có nhiều điểm chưa phù hợp với điều kiện hiệ nay là chưa tính tới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ làm xuất hiện nhiều loại vật tư tốt hơn nên định mức sử dụng giảm đi, xuất hiện nhiều loại vật tư có khả năng thay thế vật tư cũ, có định mức sử dụng ít đi mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, điều kiện cụ thể về từng địa điểm xây lắp công trình. Vì vậy, Nhà nước cần phải sớm hoàn thiện định mức sử dụng vật liệu tiên tiến giúp các doanh nghiệp dùng làm căn cứ chuẩn xác trong việc sử dụng nguyên, vật liệu. Đảm bảo tránh sử dụng lãng phí, không phù hợp với tính chất công việc, nâng cao chất lượng công trình và góp phần tiết kiệm vật liệu làm hạ giá thành công trình xây lắp. Kết luận Hạ giá thành sản phẩm- một biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nó liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất, đặc biệt là trong các ngành xây lắp, việc xác định phương pháp quản lý, đề ra biện pháp hạ giá thành sản phẩm phù hợp với thực tế sản phẩm của doanh nghiệp luôn là mục tiêu của các nhà quản trị. Xuất phát từ ý nghĩa đó, ngay từ khi đi thực tập tại Xí nghiệp Xây Lắp Điện em đã mong muốn đi sâu tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng tới giá thành xây lắp các công trình điện. Qua đó đi sâu đến phương pháp tính giá thành kế hoạch và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành thời gian qua. Tìm ra được những thành công và hạn chế của Xí nghiệp từ đó đưa ra các biện pháp góp phần hạ giá thành xây lắp công trình điện của Xí nghiệp. Em hy vọng những ý kiến nêu ra góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới. Song do thời gian, tài liệu tham khảo và năng lực có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cá nhân quan tâm đến đề tài. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn GVC. Đỗ Văn Lư và các cô chú trong Xí nghiệp Xây Lắp Điện đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Hà nội tháng 5/2002 Mục lục Mục lục Lời nói đầu ....1 Phần I : phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường ....3 I. Khái niệm và các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành . ....3 1. Khái niệm giá thành và các cách phân loại chi phí trong giá thành.. ....3 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới giá thành ..11 3. Cách phân loại giá thành ..13 II. Cơ cấu giá thành và phương pháp xác định các yếu tố chi phí trong giá thành ..15 1. Cơ cấu giá thành ..15 2. Phương pháp tính giá thành đơn vị sản phẩm ..15 3. Phương pháp tính giá thành theo khoản mục tính toán ..21 III. Phương hướng và biện pháp phân đấu hạ giá thành trong doanh nghiệp.. ..23 1. Thực chất của vấn đề phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ..23 2. ý nghĩa của việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ..23 3. Phương hướng và biện pháp phấn đấu hạ giá thành trong doanh nghiệp ..25 phần II: phân tích thực trạng giá thành sản phẩm ở Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..28 I. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..28 1. Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp ..28 2. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới việc phấn đấu hạ giá thành ở Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..33 II. Phân tích thực trạng về vấn đề phấn đấu hạ giá thành sản phẩm của Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..39 1. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh trong những năm qua ở Xí nghiệp ..41 2. Phân tích cơ cấu giá thành sản phẩm của Xí nghiệp ..48 3. Phân tích phương pháp xây dựng kế hoạch giá thành sản phẩm của Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..50 4. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành ..62 5. Đánh giá về tình hình phấn đấu hạ giá thành ..67 phần III: những biện pháp cơ bản nhằm phấn đấu hạ giá thành sản phẩm ở Xí Nghiệp Xây Lắp Điện ..67 1. Bố trí lao động hợp lý, tăng cường sử dụng lao động tại địa phương ..70 2. Tăng cường công tác quản lý vật liệu để giảm chi phí vật liệu trong giá thành ..72 3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ..75 4. Giảm các khoản lãng phí trong chi phí chung ..77 5. Lựa chọn phương pháp tổ chức thi công hợp lý ..79 6. Một số kiến nghị đối với Xí nghiệp và Nhà nước ..82 kết luận ..83 Tài liệu tham khảo ..84 Tài liệu tham khảo Quản trị doanh nghiệp - Đại học Kinh tế quốc dân PGS.PTS Lê Văn Tâm – NXB Giáo dục, 1998 Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - Đại học Kinh tế quốc dân PGS.PTS Phạm Hữu Huy- NXB Giáo dục, 1998 Kinh tế và kinh doanh xây dựng - Đại học Kinh tế quốc dân TS. Lê Công Hoa - H: Hà nội, 1999 Kế toán quản trị doanh nghiệp- NXB Tài chính, 1999 Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ - Đại học Kinh tế quốc dân PTS. Vũ Duy Hào- NXB Thống Kê, Hà Nội, 1998 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm NGƯT. Vũ Huy Cẩm- NXB Thống Kê, Hà Nội, 1996 Kinh tế và quản trị kinh doanh xây dựng -Đại học Xây dựng GS.TS Nguyễn Văn Chọn- NXB KH&KT, 1996 Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp- Đại học Kinh tế quốc dân NXB Giáo dục,1998 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29080.doc