Lời mở đầu
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ xung cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể đến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). FDI có vai trò hết sức quan trọng, nó là nguồn bổ xung vốn cho đầ
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp cơ bản gia tăng việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư, là một cách để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhận thức đúng vị trí và vai trò to lớn của FDI, chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo mọi diều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chúng ta thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá hợp tác đầu tư với nước ngoài hai bên cùng có lợi. Việt Nam coi vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả FDI trong tổng thể chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu nhất. Nó góp phần thực hiện có hiệu quả kế hoạch 5 năm (2001-2005), là bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 –chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thấy vai trò quan trọng của việc đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Những biện pháp cơ bản gia tăng việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005”.
Trong bài viết này em xin được trình bày những vấn đề sau:
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng của thu hút FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 1996-2000
Chương III: Một số phương hướng và biện pháp để thu hút FDI cho phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005
Được sự hướng dẫn tận tình của TS. Lê Anh Vân em đã hoàn thành đề tài này .Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do khả năng, thông tin về số liệu và thời gian có hạn nên đề án không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy em rất mong được sự góp ý của cô để đề án được hoàn thiện đầy đủ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Mọi quá trình sản xuất đều cần phải có hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động. Thiếu hai yếu tố đó thì sẽ không tồn tại quá trình sản xuất hàng hoá. Để có được hai yếu tố cơ bản đó vấn đề đặt ra là cần có vốn đầu tư và thực hiện hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để sản xuất hàng hoá, mua nhà xưởng, mua thiết bị .v.v…Vốn có khác nhau về quy mô hay cơ cấu song là điều cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, mọi quốc gia nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với những quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hoá trong đó có Việt Nam.
Vốn đầu tư trong nền sản xuất hàng hoá là vốn tiền tệ được tích luỹ bằng nguồn vốn của các doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân và nguồn vốn huy động từ các nguồn khác, được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong hoạt động kinh tế xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế nhất định. Vốn đầu tư có thể được huy động từ trong nước cũng như có thể được huy động từ nước ngoài.Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy mạnh như thời đại ngày nay thì vốn nước ngoài ngày càng phổ biến và có vai trò không nhỏ. Mặc dù đứng về lâu dàI thì vốn trong nước luôn đóng vai trò quyết định. Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho một mục đích nhất định căn cứ vào những tiêu thức nhất định người ta có thể phân chia đầu tư thành nhiều loại trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Đầu tư trực tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều hành qui trình thực hiện và có thể quyết định toàn bộ hoạt động nếu là xí nghiệp 100% vốn của mình hoặc tham gia quyết định nếu là xí nghiệp liên doanh.Trong đầu tư trực tiếp người có vốn có thể bỏ vốn vào để làm tăng thêm năng lực sản xuất mới song cũng có thể mua lại một số cổ phần để hy vọng
được lợi tức cổ phần .
Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có thể là người nước ngoài. Trong trường hợp vốn và người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ nước ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào đó của một nước nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều lệ về đầu tư nước ngoài kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giống như khái niệm được ghi nhận sau này trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, nhân nước ngoàI trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bằng bất kỳ tài sản được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
1.1. Đặc điểm của FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, trình độ quản lý …
- Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý. Ví dụ luật đầu tư của Việt Nam quy định: “Số vốn góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30%vốn pháp định của dự án .
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp, nếu đóng góp 100% thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Lời và lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ luất đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ: thuế, giá thuê đất, chính sách để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành nào đó.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ thể, bởi nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
1.2. Ưu điểm của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài .
* Về giá đầu tư trực tiếp nước ngoài .
- Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định (phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn) tham đầu tư trực tiếp nước ngoàiự vào điều hành quá trình kinh doanh của xí nghiệp nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra. Nếu môi trường đầu tư ổn định các chủ đầu tư nước ngoài thích bỏ 100% vốn đầu tư.
- Giúp cho nhà đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua đâù tư trực tiếp mà họ tạo được các xí nghiệp nằm bên “ trong lòng” các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch.
* Về phía nước tiếp nhận đầu tư.
- Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp càng nhiều càng được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà .
- Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài.
- Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về taì nguyên, vị trí, mặt nước…
1.3. Một số hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Bên cạnh những ưu điểm thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định:
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ đầu tư dễ bị mất vốn.
- Nếu nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nuức kém phát triển.
- Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào nơi có lợi nhất. Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này sẽ gây nên sự bất ổn định về chính trị.
- Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành nơI tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài.
2. Vị trí và tác động kinh tế của FDI.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động kinh tế quốc tế, cùng với quá trình phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng mở rộng và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế- quốc tế. Đến nay FDI đã trở thành xu hướng của thời đại và nhân tố quy định bản chất các quan hệ kinh tế quốc tế.
Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến bước phát triển của FDI trên thế giới. Khối lượng vốn tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70 lượng vốn đầu tư trực tiếp toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp đôi trong thời kỳ 1980-1985. Năm 1986 lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, 1990 là 185 tỷ USD. Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990 đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng khoảng 24% tốc độ này tăng hơn 4 lần so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cũng trong thời kỳ này là 6.1%.Tình hình trên đây cho phép khẳng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu năm 1989 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới lên tới 200 tỷ USD, chiếm hơn 13% tổng vốn đầu tư trên toàn thế giới là 1500 tỷ USD. Bước sang thập kỷ 90 này đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh trở thành một nhân tố gây ảnh hưởng to lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Hiện nay khối lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng 80% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thê giới. Đây là sự thay đổi trong chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Trước xu thế xu thế hoá nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây các công ty xuyên quốc gia đă đặc biệt tập trung vào chiến lược cắm rễ ở nước ngoài nhằm phát triển các mạng lưới khu vực trên qui mô lớn.
Tình hình trên đây có những lí do chủ yếu sau:
- Sự phát triển các phương tiện giao thông liên lạc, kỹ thuật bán dẫn đã đạt tới trình độ cho phép các chủ đầu tư có thể nắm bắt kịp thời chuẩn xác các thông tin cần thiết để có thể ra các quyết định hợp lý, hạn chế được các tổn thất cho phép và rủi ro trong kinh doanh. Điều này cho phép các chủ thể đầu tư có thể điều hành hoạt động kinh doanh của họ ở khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và chính xác. Sự phát triển cho phép các chủ đầu tư cung cấp hàng hoá, dịch vụ đúng hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
- Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trong những thập kỷ qua đã có những thay đổi phù hợp với nền kinh tế thị trường mở cửa, với các thông lệ quốc tế bảo đảm được các lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài.
- Tình hình an ninh quốc tế ngày càng có xu hướng ổn định hơn nhất là sau chiến tranh lạnh. Thế giới đã chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại hoà bình hợp tác, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển
* Tác động kinh tế của FDI:
- Tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng
- Chuyển giao công nghệ
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
II. Lý luận về vốn FDI cho phát triển kinh tế ở Việt Nam
1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ vốn đều rất hạn chế dẫn tới việc thu hút đầu tư trong nước không đáng kể. Trong khi đó nhu cầu của nền kinh tế lại cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển đất nước thì cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng nhằm tăng dần khả năng đáp ứng vốn cho quá trình phát triển kinh tế. Do đó việc huy động vốn đầu tư trực tiếp tạo ra những lợi ích quan trọng trong giai đoạn hiện nay:
Một là: Nó góp phần quan trọng trong việc khắc phục thiếu hụt về vốn ở nước ta.
Đặc diểm của nền kinh tế nước ta ở vào thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với nhiều nhược điểm.Trong đó tỉ lệ đầu tư và tiết kiệm rất thấp thậm chí còn âm.Từ sau đổi mới, tỉ lệ này đã được tăng lên đáng kể, tuy nhiên nó vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, chúng ta còn phảI trả khá nhiều nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức cao. Vì vậy FDI trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà. Trong suốt thời kỳ 1990-1995 FDI đã đóng góp 30% vốn đầu tư trong nước.
Hai là: Thông qua việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật, FDI đã đóng góp phần tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh nghiệm quản lý trong một số ngành.
Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, mặt khác trình độ công nghệ thấp còn dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngòai, việc đổi mới công nghệ ở nước ta đã thực hiện so với qui mô và tốc độ nhanh hơn nhiều so với trưóc đó. Nước ta đã tiếp nhận một số kỹ thuật và công nghệ tiến bộ của nhiều ngành kinh tế như: Thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất… Phần lớn thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết bị hiện có của ta. Một số công nghệ chuyển giao trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông thuộc loại hiện đại của thế giới. Đây là sự đóng góp khá quan trọng của FDI tại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải thiện môi trường lao động.
Ba là:Bước đầu tạo ra một số công ăn việc làm, góp phần giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến năm 1997,các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho hơn 13 vạn lao động và hơn 10 vạn lao động gián tiếp phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời đã thu hút hơn 4000 cán bộ Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp này. Nhiều cán bộ đã phát huy được năng lực, vươn lên đảm nhiệm được những công việc quan trong, có uy tín đối với các đối tác bên ngoài. Sự đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại đáng quý trong điều kiện đang thiếu nhiều việc làm ở nước ta.
Bốn là: Tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào thu ngân sách nhà nước. Trong suốt thời kỳ 1988-1996 đã tạo ra hơn 2 tỷ USD giá tri sản lượng hàng hoá và dịch vụ đóng góp hơn 2tỷ đồng cho ngân sách. Tuy nhiên con số trên còn nhỏ bởi vì trong giai đoạn này khoảng 30% các dự án đầu tư đang trong thời gian được miễn thuế.
2.Vai trò và ý nghĩa của FDI tại Việt Nam.
Thực hiện hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư đặc biệt là ở những nước đang phát triển.
Ngày nay do vai trò quan trọng của FDI nên các nước đang phát triển và cả những nước phát triển đều ra sưc cạnh tranh để thu hút FDI.
Trước hết FDI đóng vai trò là nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư- một căn bệnh kinh niên và phổ biến của bất kỳ một quốc gia chậm phát triển nào, ở Indonesia sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1.15 tỷ USD/năm.
Những năm gần đây, Philipin đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao và họ cho rằng nếu sử dụng nguồn vốn nước ngoài hợp lý thì có thể khuyến
khích được tính hiệu quả của nền kinh tế. ở Trung Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm (1979-1994).
ở Việt Nam tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã thu hút là 19,353 tỷ USD với mức thực hiện khoảng 30%. Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt Nam từ 1988 -1995 bình quân 50%/năm.
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư công nghệ kỹ thuật tiên tiến góp phần phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy rằng kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaysia từ chỗ là một nước cơ cấu lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán lực lượng sản xuất kém phát triển, đến giữa năm 1980 đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về găng tay, cao su, thứ hai trên thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba trên thế giới về máy điều hoà nhiệt độ. Rõ ràng chỉ có đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả năng thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo ra được thành công nói trên.
Một thực tế cần đề cập là các nước phát triển muốn lợi dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài để chuyển giao những thiết bị, kỹ thuật lạc hậu cho các nước chậm phát triển, biến các nước này thành “bãi rác” của mình như một số báo đã viết, hay như các nhà kinh tế đã phân tích coi đó là “kết cấu hai tầng” của người Nhật hay thuyết về “quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi” của Bắc Mĩ và Tây Âu nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng công nghệ của mình. Tuy nhiên quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài là “quan hệ tự nguyện” hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên việc chấp nhận hay không chấp nhận là quyền của nước tiếp nhận đầu tư. ở Việt Nam để hạn chế tiếp nhận các thiết bị lạc hậu nhà nước đã quy định nhiều biện pháp để kiểm tra giám sát như định giá đấu thầu chỉ định tiêu chuẩn kỹ thuật. ở Trung Quốc có luật quy định về giới hạn khoảng chênh lệch giữa thời gian sản xuất máy móc với thời gian nhập máy móc đó vào Trung Quốc.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là trong nhiều trường hợp các nước phát triển cần mang vaò nước chậm phát triển những công nghệ tiên tiến hơn cả nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng yên
tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty Nhật Bản mang nhiều công nghệ tiên tiến ra nước ngoài để sản xuất hàng hoá rồi nhập khẩu trở lại Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có vai trò là một hình thức đào tạo giúp các nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập cho người lao động.
ở Việt Nam, số lao động người Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 65000 năm 1994 lên 90000 vào cuối năm 1995. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn lao động làm các công ty dịch vụ có liên quan. Về cơ bản, tiền lương được giải quyết phù hợp với quy định, cao hơn mức lương của các doanh nghiệp cùng loại thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kịnh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Người Malayxia nhận xét rằng: Trong một chừng mực nhất định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ chỗ là “nhân tố bên ngoài”chuyển thành “ nhân tố bên trong”quyết định phần lớn thị trường kinh tế, cơ cấu kinh tế. Theo tạp chí kinh tế Viễn Đông thì sau khi có chính sách mở cửa và luật đầu tư nước ngoài, nền kinh tế của Inđonesia được coi như “người khổng lồ” của Đông nam á đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
ở Việt Nam hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam vốn FDI đống vai trò như lực khởi động, như
một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH. Một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn góp phần hình thành nhiều
ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. FDI là một trong những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
Tóm lại hoạt động FDI đã góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, đẩy mạnh xuất khẩu đưa nước ta vào phân công lao động quốc tế, tạo hình ảnh và vị thế mới uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là trong xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu, yếu tố quyết định để Việt Nam rút ngắn con đường hội nhập khu vực và thế giới đó là mở rộng và thu hút FDI.
Chương II
Thực trạng thu hút FDI cho phát triển
kinh tế Việt Nam giai đoạn 1996-2000
I. Đánh giá chung về vốn FDI ở Việt Nam thời kỳ 1996-2000.
1. Thực trạng thu hút vốn FDI trong giai đoạn 1996-2000.
1.1. Qui mô vốn FDI thực hiện
Trong giai đoạn này, do khủng hoảng kinh tế khu vực nên việc thu hút các nguồn vốn nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng đều giảm sút. Điều này thể hiện qua bảng sau:
Tình hình thu hút vốn FDI giai đoạn 1996-2000.
1996 1997 1998 1999(ước) 1996-2000 (ước)
Số DA cấp giấy phép 368 331 260 230 1189
Vốn đăng ký(tr.USD) 8640 4514 4059 3190 20403
Vốn thực hiện(tr.USD) 2646 3250 1956 1500 9352
Tỉ lệ vốn TH/vốn ĐK 30,6 71,9 48,1 47,0 45,8
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Nhìn vào bảng trên có thể thấy, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tháng 7/1997 đã tác động đến FDI vào Việt Nam. Sau thời kỳ luồng vốn FDI đạt bình quân 2 tỷ USD hàng năm, trong giai đoạn 3 năm trước 1997,vốn FDI thực hiện năm 1998dã giảm 40% so với năm 1997 và năm 1999 đã giảm khoảng 23% so với năm 1998. Sự giảm sút này nhiều nhất từ các nhà đầu tư Nhật Bản và Đông á, những nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Chính vì vậy vốn FDI thực hiện chỉ chiếm 45,8% so với vốn đăng ký theo dự án. Suy thoái kinh tế cũng như tâm lý do dự của các nhà đầu tư đã tạo ra sự giảm sút liên tục trong giải ngân các khoản FDI. Với đà giảm sút mạnh của vốn FDI cam kết như hiện nay thì mức giải ngân trong tương lai còn có chiều hướng xấu hơn nữa.
So với thời kỳ 1995-1996, thời kỳ này đã thu hút được vốn FDI nhiều hơn là 3011 triệu USD chiếm 47,9%. Tuy nhiên, so với mục tiêu kế hoạch đề ra thì đến nay vẫn chưa đạt được. So với kế hoạch (12450 tr.USD) thì thực tế mới thu hút được 9352 tr.USD, còn thiếu 3098 tr.USD nữa. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 1998-1999 đã chậm lại chỉ đạt 5-5,5%/năm.
1.2. Cơ cấu FDI theo ngành và vùng kinh tế.
+ Cơ cấu FDI theo ngành kinh tế: Trong giai đoạn này, đầu tư cho công nghiệp và xây dựng vẫn tiếp tục chiếm ưu thế, tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp đã bước đầu được cải thiện, tỷ trọng đầu tư cho dịch vụ có sự giảm nhẹ thể hiện qua bảng sau:
Cơ cấu FDI theo ngành, giai đoạn 1996-2000.
Ngành Tỷ trọng Vốn FDI
Công nghiệp xây dung 62,1
Trong đó :Công nghiệp nặng 19,0
Dầu khí 12,2
Công nghiệp nhẹ 13,8
Công nghiệp thực phẩm 4,8
Xây dựng 11,9
Nông- lâm- ngư nghiệp 6,9
Trong đó: Nông lâm nghiệp 6,3
Thuỷ sản 0,6
Dịchvụ 31,6
Trongđó: Khách sạn du lịch 10,7
Dịch vụ 0,2
Xây dựng văn phòng, căn hộ 9,4
Xây dựng hạ tầng khu công nghiệp 3,3
GTVT và bưu điện 2,9
Văn hoá- y tế- giáo dục 1,0
TàI chính, ngân hàng 3,4
Tổng 100
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Qua bảng này có thể nhận thấy:Tỷ lệ FDI đầu tư vào các ngành công nghệ thực phẩm đã giảm từ 7,8% năm 1991-1995 xuống còn 4,8% năm 1996-1999. Ngược lại tỷ lệ FDI đầu tư vào lĩnh vực khách sạn,du lịch lại có xu hướng tăng lên từ 2,9% (giai đoạn 1991-1995) lên 10,7% (giai đoạn 1996-2000).
+ Cơ cấu FDI đầu tư theo vùng kinh tế: Nhìn chung,cơ cấu FDI theo vùng kinh tế vẫn chưa được cải thiện, FDI lại chủ yếu đước thu hút vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Trong ba vùng đó, FDI lại chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như : Hà Nội, Đà Nẵng, T.P.H.C.M. Còn các tỉnh khác đặc biệt là các tỉnh miền núi và Tây Ngyên vẫn còn quá ít các dự án đầu tư bằng FDI. Điều này sẽ tiếp tục gây ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo.
1.3. Về đối tác đầu tư nước ngoài.
+ Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở Việt Nam:
- Số lượng dự án và vốn đầu tư.
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của hiệp hội ASEAN năm 1995, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam đã tăng vọt, lên tới 244 dự án với 3265 tr.USD vào đầu năm 1996, chiếm 14% tổng số dự án và 17,9% tổng FDI của cả nước. Đến cuối năm 1996,các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam 292 dự án với số vốn 4666tr USD.Đến tháng 12/1997, FDI của các nước ASEAN đã lên tới 362 dự án với 8634 tr USD.
Tuy nhiên bước sang năm 1998 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam không những giảm, mà còn bị giãn tiến độ nhiều dự án đang thực hiện hoặc đã được cấp phép. Theo
số liệu thống kê của bộ kế hoạch đầu tư cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 1998, chỉ có 15 dự án của các nước ASEAN được cấp phép với 803 tr USD vốn đầu tư, trong đó khoảng 700 tr của Xingapo mặc dù đã được phê duyệt nhưng vẫn chưa muốn nhận giấy phép đầu tư.
- Cơ cấu lĩnh vực và hình thức đầu tư.
Nhằm khai thác lợi thế của mình, các nước ASEAN chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp, khai thác dầu khí, khách sạn du lịch, dịch vụ tài chính và xây dung cơ sở hạ tầng. Trong đó, Xingapo có nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn, tập trung nhiều vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi các nước khác lại quan tâm nhiều đến các lĩnh vực công nghiệp, khách sạn và nông lâm nghiệp với quy mô vừa và nhỏ. Thật vậy theo kết quả tính toán từ số liệu thống kê của Vụ quản lý dự án đầu tư (MPI) cho thấy, trong tổng số 377 dự án đầu tư của các nước ASEAN đang triển khai ở Việt Nam, chỉ có 136 dự án với 3725 tr USD đầu tư vào ngành công nghiệp, chiếm 36% tổng dự án và 39,5% tổng vốn đầu tư của ASEAN ở Việt Nam. Trong khi đó, các tỷ lệ tương tự các dự án đầu tư vào ngành nông nghiệp là 61,6%tổng dự án và 46,5% tổng vốn FDI của các nước. Số dự án còn lại chủ yếu đầu tư vào cáclĩnh vực khách sạn, xây dung và dịch vụ.
Các dự án đầu tư của các nước ASEAN chủ yếu tập trung dưới hình thức liên doanh, sau đó đến xí nghiệp 100%sổ hữu nước ngoài và số dự án hợp doanh rất nhỏ . Đặc điểm này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN còn sợ mạo hiểm, vì thế họ muốn chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam .Tuy nhiên, gần đây do các nhà đầu tư ASEAN đã quen với môi trường đầu tư của Việt Nam nên tỷ lệ dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên và hình thức liên doanh giảm dần. Hình thức hợp doanh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số dự án.Dữ liệu bảng 1 cho thấy, số dự án lớn trên 50 trUSD còn chưa nhiều, chỉ có 32 dự án, chiếm 9,9% tổng số dự án của ASEAN tại Việt Nam.Số dự án còn lại được phân làm tỷ lệ ngang nhau giữa quy mô trung bình (146 dự án) và quy mô nhỏ (144 dự án). Mặt khác đối với hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp doanh thì loại dự án quy mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 51,8% và 63,2% theo thứ tự. Trong khi đó, loại dự án quy mô trung bình lại chiếm tỷ lệ cao, 48,2% trong hình thức liên doanh. Đặc điểm này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN muốn chia rủi ro với các đối tác Việt Nam.
Đến tháng 6/1998, tổng số vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở Việt Nam mới được 3007 tr USD, đạt mức bình quân 31,9%. Trong đó các dự án đầu tư của Malaixia có tỷ lệ giải ngân cao nhất, đạt 78,2%. Các nước còn lại đều ở mức thấp dưới 50%, trong đó đặc biệt là Singapo chỉ đạt 20,5%. Như vậy so với tỷ lệ chung giũa vốn thực hiện trên tổng số vốn FDI trong cả nước, tỷ lệ vốn FDI thực hiện của ASEAN còn khá thấp so với 39,5% mức bình quân chung của cả nước. (Xem bảng 2).Các con số của bảng 2 phản ánh khá rõ tốc đọ giải ngân của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN không đều qua các năm.
Bảng 2 : Vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam
(tính đến tháng 6/1998) Đơn vị: 1000USD
Năm
Xingapo
Malaixia
TháI Lan
Inđonexia
Philipin
Tổng
1995
323.196
178.940
78.525
14.641
19.714
615.016
1996
169.674
147.687
72.288
10.921
9.291
409.861
1997
498.390
237.042
197.544
41.608
35.406
1.009.990
6/1998
68.572
56.364
30.762
0
45
155.743
Tổng
1.059.832
620.033
379.119
67.170
64.456
2.190.610
Nguồn :bộ kế hoạch đầu tư
Bảng 1: Cơ cấu hình thức đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở
Việt Nam
(tính đến 13/9/1997)
Hình thức đầu tư
Xingapo
Thailan
Malayxia
Philipin
Indonexiaa
Tổng
1. Xí nghiệp 100% vốn FDI
30
27
14
8
4
83
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0277.doc