Những biến đổi kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 - 1945)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ HUỆ NHỮNG BIẾN ĐỔI KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC THỜI PHÁP THUỘC (1862 – 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại Mã số: 62 22 54 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Phan Quang 2. PGS.TS Ngơ Minh Oanh Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009 LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Kết quả nghiên

pdf211 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Những biến đổi kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu chưa được cơng bố tại cơng trình nào khác. Nguồn tài liệu trích dẫn và các số liệu được sử dụng trong luận án hồn tồn dựa trên nguồn tư liệu xác thực. Tác giả luận án Bùi Thị Huệ DẪN LUẬN 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lí do chọn đề tài Tỉnh Bình Phước thuộc miền Đơng Nam Bộ, tổng diện tích tự nhiên là 6.831.71 km2, dân số 823.600 người, mật độ trung bình 88 người/ km2, trong đĩ người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 17,9% dân số tồn tỉnh [10, tr 8]. Địa giới phía đơng của Bình Phước giáp với Đăk Nơng, Lâm Đồng và Đồng Nai, phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Cơng Pơng Chàm của Campuchia, phía bắc giáp tỉnh Krachê và Mun Dun Ki Ri (Campuchia) và phía Nam giáp với Bình Dương. Bình Phước là vùng đất được khai phá trong quá trình mở rộng bờ cõi về phía Nam của triều Nguyễn. Cư dân tại chỗ - cho đến khi thực dân Pháp xâm lược - mới bước vào xã hội tiền phân chia giai cấp và nhà nước. Họ chủ yếu làm rẫy cạn, bên cạnh đĩ cũng học thêm kiểu canh tác lúa nước của người kinh để sinh sống. Trình độ sản xuất lạc hậu, cơng cụ thơ sơ và thĩi quen sống du canh du cư đã đặt cư dân tại chỗ vào vịng xoay của cuộc sống đĩi nghèo, bệnh tật. Trình độ quản lý xã hội tương ứng với giai đoạn tộc người cịn thấp. Đơn vị hành chính duy nhất là các phum, sĩc hoặc bon (gọi chung là làng), được duy trì bằng luật tục và dựa trên quan hệ huyết thống. Thời Pháp thuộc (1862 – 1945), Bình Phước là vùng phía bắc của tỉnh Thủ Dầu Một, được nối liền với vùng phía nam bởi sơng Sài Gịn và Sơng Bé. Thực dân Pháp thường dùng cụm từ “vùng cao nguyên trung tâm” để chỉ vùng Tây Nguyên Nam Bộ, gồm cả Bình Phước là đoạn cuối của vùng cao nguyên đĩ. Vùng đất Bình Phước cho đến khi thực dân Pháp xâm lược cịn hoang vu, cĩ nhiều ác thú và nổi tiếng là chốn rừng thiêng nước độc. Thiên nhiên khắc nghiệt, trình độ sản xuất và trình độ quản lý xã hội thấp khơng cho phép kinh tế, xã hội phát triển ngang bằng với các vùng, miền khác trong cả nước. Sự thay đổi liên tục về địa lí hành chính của tỉnh là một vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương trong lịch sử và hiện tại. Quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong lịch sử cho thấy rõ sự chênh lệch, thua sút về trình độ giữa Bình Phước so với các tỉnh bạn trong vùng Đơng Nam Bộ. Việc nghiên cứu để tìm ra đâu là nguyên nhân làm cho kinh tế, xã hội Bình Phước chậm phát triển là một việc làm thiết thực của khoa học xã hội nĩi chung, của cơng tác nghiên cứu lịch sử địa phương nĩi riêng nhằm rút tỉa những bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù địa phương, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển, đưa Bình Phước hội nhập cùng với cả nước trên bước đường cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa. Về xã hội, thời Pháp thuộc, cư dân tại chỗ của Bình Phước chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Trình độ sản xuất, chinh phục tự nhiên và quản lí xã hội cịn thấp. Quản lí xã hội theo tập quán pháp, quan hệ giữa các thành viên trong xã hội tộc người dựa vào huyết thống. Các chính sách kinh tế, xã hội do thực dân Pháp áp đặt vào vùng đất này đã làm biến đổi mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Sự biến đổi đĩ diễn ra như thế nào, hậu quả của nĩ đối với nền kinh tế - xã hội Bình Phước ra sao…là những vấn đề cần được nghiên cứu sâu nhằm phục dựng lại quá trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương một cách tồn diện, hệ thống để rút ra những nhận định về nguyên nhân, tính chất, đặc điểm và hậu quả của nĩ đối với lịch sử kinh tế - xã hội địa phương. Địa bàn Bình Phước từ thế kỉ XVII đã là nơi quy tụ, nhập cư của nhiều tộc người cĩ nguồn gốc quê quán khác nhau, chiếm số đơng trong số đĩ là người kinh. Vai trị của người kinh và các tộc người nhập cư khác trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội địa phương cần được tìm hiểu sâu để cĩ những nhận định xứng đáng với cơng sức của họ đã dành cho vùng đất này, nhằm củng cố hơn nữa mối quan hệ gắn bĩ đồn kết kinh - thượng, tạo thành sức mạnh tinh thần cùng vượt qua những khĩ khăn trước mắt để phát triển vững bền. Mặt khác, trong xây dựng và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, việc nắm vững hiểu sâu những đặc điểm lịch sử kinh tế - xã hội của từng địa phương sẽ gĩp phần tạo nên những tiền đề cơ sở cho việc triển khai thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội đạt hiệu quả [53]. Vì vậy, nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế - xã hội thời Pháp thuộc (1862 – 1945) mang ý nghĩa thực tiễn, giúp cĩ cách nhìn tồn diện, hệ thống về sự phát triển kinh tế - xã hội, cĩ như vậy mới tìm ra được sợi chỉ xuyên suốt giữa quá khứ với hiện tại, gĩp phần làm cơ sở cho việc tham khảo, hoạch định và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong tương lai. Kinh tế, xã hội là phạm trù rộng và cĩ mối liên hệ tương tác với nhau. Kinh tế biến đổi làm xã hội cũng biến chuyển theo và đến lượt xã hội tác động ngược trở lại nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm kinh tế phát triển. Nghiên cứu sự biến đổi của cơ cấu xã hội là cơ sở để tìm hiểu mọi biến đổi trong các lĩnh vực khác [51, tr 221]. Đồng thời, nghiên cứu kinh tế - xã hội Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 – 1945) cịn làm rõ vai trị của nĩ trong sự biến đổi kinh tế - xã hội Nam Kỳ cùng thời. Do hồn cảnh lịch sử nước nhà chiến tranh kéo dài liên tục, vì vậy, giới nghiên cứu lịch sử dân tộc nĩi chung, lịch sử địa phương nĩi riêng cĩ thiên về nghiên cứu lịch sử chiến tranh, lịch sử đấu tranh cách mạng hơn mà chưa dành một số lượng cơng trình thích hợp cho nghiên cứu lịch sử kinh tế - xã hội. Một số vấn đề chưa được nghiên cứu sâu trong cơng tác biên soạn lịch sử địa phương; việc học tập, giảng dạy và bồi dưỡng truyền thống lịch sử địa phương cho thế hệ trẻ… đối với chúng tơi là những việc làm thiết thực gĩp phần cơng sức dù rất nhỏ của mình vào cuộc kiến thiết địa phương. Với những lí do khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tơi mạnh dạn chọn đề tài “Những biến đổi kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 – 1945)” để nghiên cứu với hi vọng bằng những sự kiện lịch sử xác thực sẽ rút tỉa được những bài học hữu ích cho tỉnh nhà cĩ cơ sở tham khảo trong việc hoạch định các chiến lược phát triển. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung ở một số vấn đề như sau: - Phân tích chính sách khai thác, chính sách xã hội do thực dân Pháp áp dụng vào Bình Phước, từ đĩ vạch rõ những tác động của nĩ đối với kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945. - Phục dựng cĩ hệ thống sự biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945. - Làm rõ những đặc điểm kinh tế - xã hội của Bình Phước trong giai đoạn 1862 – 1945. - Tìm hiểu về vai trị của kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với sự biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945; Vai trị của các tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ, người nhập cư, của các phong trào đấu tranh xã hội đối với sự biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945. - Hậu quả của sự biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn 1862 - 1945 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tài liệu tham khảo 2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sự thay đổi phức tạp của đơn vị hành chính qua các thời kỳ lịch sử là những khĩ khăn khơng ít đối với chúng tơi trong quá trình thực hiện luận án. Trong phạm vi nghiên cứu hẹp, thành quả nghiên cứu chung liên quan đến nội dung luận án bao gồm những vấn đề thuộc về kinh tế - xã hội, được phản ánh rõ qua tình hình cơng tác nghiên cứu lịch sử địa phương. Dưới đây là tổng hợp các vấn đề lớn về lịch sử địa phương đã được nghiên cứu. 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 Trong giai đoạn này, nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, địa lý hành chính, địa lý dân cư và truyền thống văn hĩa, gồm các cơng trình nghiên cứu của các nhà truyền giáo, sỹ quan quân đội Pháp về người dân tộc thiểu số tại chỗ, phục vụ cho việc tìm hiểu để nơ dịch và cai trị, cĩ một số cơng trình nghiên cứu sau: - Les Stiêng de Brolam, của Azermar (Le Père H.), Excursions et Reconnaissances, Saigon, Imp. Coloniale, T.XII, xuất bản năm 1886 là tác phẩm cĩ tính chất chuyên khảo viết về đời sống xã hội tộc người Stiêng ở vùng Brolam. Qua tác phẩm, phong tục, tập quán pháp của người Stiêng được phản ánh sâu sắc. Tác phẩm là cơ sở để nghiên cứu về dân tộc học, văn hố học và là nguồn tham khảo tốt cho cả khoa học lịch sử. - Dictionnaire Stiêng, trong Excursions et Reconnaisrances, Saigon, Imp. Colonaile, T.XII, Mai - Juin 1886, là bộ từ điển biên soạn về ngơn ngữ tộc người Stiêng, nĩi lên sự phong phú đa dạng về văn hố tộc người, là cơ sở để tra cứu ngơn ngữ, nghiên cứu các lĩnh vực liên quan đến đời sống xã hội. - Coutumier Stiêng, do Th. Gerber biên soạn, được Học viện Viễn Đơng Bác cổ Pháp (BEFEO) xuất bản vào năm 1951, là tác phẩm viết về xã hội của người Stiêng. Qua tác phẩm tồn cảnh đời sống, quan hệ xã hội, kết cấu xã hội truyền thống được tái hiện, phản ánh nguyên vẹn một xã hội tộc người chịu sự chi phối bởi quan hệ huyết thống, được duy trì và quản lý bằng luật tục. Tuy nhiên, tác giả chưa thốt khỏi cách nhìn nhận về con người và xã hội của người dân tộc tại chỗ như một thế giới man rợ. - Au pays Moi, của Barthélémy (Marquis Pierre de), Paris Plon – Nourrit., 2e éd, 1904; Hinterland Moi, của Patté (Paul), Paris, Plon – Nourrit, 1906; Les jungles Moi, của Maitre (Henri), Paris, Larose, 1912… là những tác phẩm chuyên khảo, cĩ nội dung nghiên cứu sâu về điều kiện tự nhiên, mơi sinh, đời sống, phong tục, xã hội của các tộc người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng cao nguyên nam phần nước ta dưới thời Pháp thuộc, gồm cả người dân tộc thiểu số cư trú tại Bình Phước. Phần lớn tác giả của những cơng trình chuyên khảo này là người trực tiếp du thám, xâm nhập vùng đất cư trú của người dân tộc thiểu số nên sự mơ tả về con người, hoạt động của xã hội tộc người và thế giới quanh họ rất tỉ mỉ. - Les boisements de la vallée du Song-Be của Gourgand, trong Bulletin Economique de L’Indochine, ne 14, 1903; Monographie d’une rivière Cochinchinoise: le fameux Sơng Bé, của tác giả Baudrit (A), BSEI, XI, No 3, 1936 cũng là những cơng trình chuyên sâu về điều kiện tự nhiên, địa chất, sơng ngịi, lưu lượng nước của sơng ngịi…Nội dung nghiên cứu của các chuyên khảo phản ánh rõ sự đầu tư của thực dân Pháp cả về trí lực lẫn vật lực để tìm hiểu, khai thác hoặc lợi dụng những thế mạnh kinh tế - xã hội của địa phương. Nhìn chung từ những thập niên cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tình hình kinh tế - xã hội Bình Phước do người Pháp nghiên cứu, viết bằng hình thức các chuyên khảo để phục vụ cho việc xâm nhập chiếm đoạt thực dân. Ở lĩnh vực xã hội, nhiều cơng trình nghiên cứu về các tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ, chủ yếu là người Stiêng cĩ giá trị cao, làm cơ sở để hiểu biết sâu hơn về ngơn ngữ, văn hố truyền thống, tổ chức xã hội và cơ cấu xã hội tộc người. Kể từ sau năm 1936, việc nghiên cứu vùng đất này của thực dân Pháp cũng chấm dứt, vì với chúng, đĩ là mốc đánh dấu sự khuất phục các tộc người dân tộc thiểu số tại địa phương bằng các cuộc bình định vũ trang. Nghiên cứu về kinh tế Bình Phước thời Pháp thuộc, chủ yếu được phản ánh qua những bản báo cáo bằng số liệu từ địa phương lên chính quyền thuộc địa, được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh. Tư liệu loại này cung cấp nhiều thơng tin về kinh tế Nam Kỳ, trong đĩ cĩ tỉnh Biên Hịa và Thủ Dầu Một. Nguồn tư liệu này đáng tin cậy, tuy nhiên, chúng chỉ dừng lại ở mức thống kê bằng số liệu về kết quả kinh tế như diện tích đất khai thác, đất trồng trọt, sản lượng mủ của các đồn điền – khu vực hoạt động bằng đầu tư của tư bản Pháp, cịn khu vực kinh tế do cư dân tại chỗ làm chủ được phản ảnh rất sơ lược. Các vấn đề liên quan đến xã hội chủ yếu là báo cáo tình hình trật tự trị an của dân chúng vùng bị chiếm đĩng lên chính phủ thuộc địa. Để nghiên cứu về xã hội, các tư liệu kinh tế, báo cáo kinh tế, các chuyên khảo về địa lí, lịch sử và hành chính dân cư là những thơng tin quan trọng phản ánh tình hình xã hội. Về phía các tác giả người Việt, vùng đất Bình Phước giai đoạn này chưa gây được sự chú ý của họ nên hầu như chưa cĩ cơng trình nghiên cứu nào. 2.1.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 đến nay Lịch sử dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chủ yếu được các nhà nghiên cứu chú trọng về các phong trào đấu tranh cách mạng. Các vấn đề kinh tế, xã hội tạm thời chưa cấp thiết nên hầu như chưa cĩ cơng trình chuyên sâu. Ở miền Nam, cơng trình nghiên cứu duy nhất về tình hình các đồn điền cao su của Pháp, tại tỉnh Bình Long sau năm 1954, là luận văn tốt nghiệp đại học của Nguyễn Viết Đức, tựa đề: Thực tế khai thác cao su của người Pháp tại Bình Long, thuộc Học viện Quốc gia Hành chính Sài Gịn, bảo vệ năm 1972. Nội dung nghiên cứu trong luận văn đi sâu về thống kê sản lượng mủ, khái quát bằng sơ đồ về những đồn điền trồng cao su, tiềm năng của cây cao su ở tỉnh Bình Long thời chính phủ Việt Nam Cộng hịa. Tác giả ngợi ca nhiều về thành quả kinh tế do tư bản Pháp gầy dựng, mà chưa cĩ cách nhìn khái quát, tương quan của kinh tế đồn điền với các ngành kinh tế khác từ thời thuộc Pháp, tại vùng đất đỏ trung tâm miền Đơng Nam Bộ. Về hoạt động kinh tế truyền thống, cĩ bài viết "Kinh tế nơng nghiệp của người Stiêng trước và sau năm 1975" của Phan Ngọc Chiến, được in trong sách Vấn đề dân tộc ở Sơng Bé, do nhà xuất bản Tổng hợp Sơng Bé phát hành từ năm 1985. Bài viết đã phác họa tồn bộ tình hình sản xuất nơng nghiệp của người Stiêng, chỉ rõ về mối quan hệ, giao thoa văn hĩa giữa người Stiêng với các tộc người khác, đặc biệt là người kinh. Về các dân tộc Trường Sơn – Tây Nguyên, bao gồm các dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh Bình Phước, cĩ loạt bài của tác giả Lưu Hùng được in trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử gồm: + Tìm hiểu về một khía cạnh của xã hội cổ truyền trong các dân tộc người bản địa ở Trường Sơn - Tây Nguyên: Sự nảy sinh quan hệ bĩc lột, Nghiên cứu Lịch sử số 2 (261), tháng 3 - 4, năm 1992, + Tìm hiểu thêm về một khía cạnh của xã hội cổ truyền trong các tộc người bản địa ở Trường Sơn - Tây Nguyên: Chế độ sở hữu, Nghiên cứu Lịch sử số 4 (269), tháng 7 - 8, năm 1993. Các bài viết trên đề cập đến kinh tế - xã hội truyền thống của các tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chủ đạo trong giai đoạn tiền thuộc địa. Các bài viết đã giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về nguồn gốc phân hĩa xã hội của người dân tộc thiểu số cư trú ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Về lịch sử du nhập của cây cao su, sự hình thành và phát triển của nĩ, của ngành trồng và khai thác cao su ở vùng đất đỏ miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng, Nam Kỳ nĩi chung cĩ bài viết nhan đề "Cây cao su đặc sản của vùng Đơng Nam Bộ", của tác giả Lê Huỳnh Hoa, đăng trên tạp chí Xưa & Nay số 45b tháng 11 năm 1997. Tác giả khơng trực tiếp nĩi về kinh tế Bình Phước thời Pháp thuộc, song đã lý giải những nguyên nhân, mục đích, quá trình đầu tư vào việc trồng cây cao su của tư bản Pháp ở vùng đất đỏ thuộc một phần tỉnh Biên Hịa và Thủ Dầu Một, chỉ rõ nguyên nhân trực tiếp của việc tư bản Pháp đầu tư ở dải đất đỏ miền Đơng Nam Kỳ, nằm tập trung ở địa bàn tỉnh Bình Phước hiện nay. Tác phẩm 100 năm cao su Việt Nam, của Đặng Văn Vinh, được nhà xuất bản Nơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2000, mơ tả chi tiết về tình hình khai thác đất, trồng mới, kỹ thuật trồng, chăm sĩc và khai thác cây cao su của tư bản Pháp tại Việt Nam, gĩp phần nghiên cứu về quá trình phát triển ngành cao su, cung cấp nhiều tư liệu quý cho nghiên cứu lịch sử, kinh tế - xã hội của nhiều địa phương, gồm cả tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc. Những bài viết, sách chuyên ngành cĩ nội dung sâu viết về kinh tế truyền thống của người dân tộc thiểu số tại chỗ, là nguồn tài liệu được chúng tơi kế thừa từ kết quả nghiên cứu về phương thức canh tác, hình thức sở hữu ruộng đất, cơ cấu kinh tế nơng nghiệp truyền thống tại địa phương. Bên cạnh đĩ, một số tác phẩm của các tác giả viết về tình hình kinh tế, xã hội chung của Đơng Dương, Việt Nam thời thuộc địa như Lê Khoa, Sơn Nam, Nguyễn Thế Anh, Phan Khoang,…cũng là nguồn tài liệu tham khảo làm nền cho nghiên cứu kinh tế, xã hội Bình Phước trong bối cảnh lịch sử dân tộc. Nghiên cứu về xã hội, chủ yếu là các vấn đề về dân tộc thiểu số trong những năm thập niên 80 thế kỷ XX, cĩ nguồn tài liệu nghiên cứu nghiêm túc và cơng phu do các tác giả quen thuộc của Viện Dân tộc học cơng bố. Hàng loạt bài viết, sách, cơng trình nghiên cứu, trong số đĩ nổi cộm một số cơng trình của nhĩm tác giả Phan An – Nguyễn Thị Hịa, Phan Ngọc Chiến, Nguyễn Văn Diệu, Mạc Đường, Nguyễn Tuấn Triết xuất bản năm 1985, in trong tác phẩm Vấn đề dân tộc ở Sơng Bé, do nhà xuất bản Tổng hợp Sơng Bé phát hành. Loạt bài viết này đi sâu tìm hiểu về người Stiêng qua các thời kỳ lịch sử ở các lĩnh vực: tổ chức xã hội tộc người, hơn nhân và gia đình, lịch sử phát triển xã hội, kinh tế, phong trào đấu tranh chống ngoại xâm của người Stiêng và các tộc người dân tộc thiểu số khác. - Tác phẩm Địa chí tỉnh Sơng Bé do Trần Bạch Đằng chủ biên, nhà xuất bản Tổng hợp Sơng Bé phát hành năm 1991, đề cập sâu về địa lý lịch sử, dân cư, đời sống kinh tế - văn hố - xã hội của các tộc người cư trú ở Bình Phước (miền núi phía bắc tỉnh Sơng Bé (1975 – 1997)). Một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí Dân tộc học, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử như: - Nhà dài Stiêng của Nguyễn Duy Thiệu, đăng trên tạp chí Dân tộc học số 3 năm 1981. - Tình hình dân số và đặc điểm dân cư các dân tộc ở Sơng Bé - Miền Đơng Nam Bộ của Đinh Văn Liên, in trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1 &2, 1987. - Gĩp thêm tài liệu nghiên cứu về người Stiêng của Trần Tất Chủng in trên tạp chí Dân tộc học số 3, 1991. - Gĩp phần tìm hiểu luật tục Stiêng của Ngơ Văn Lý, đăng trên tạp chí Dân tộc học số 1, 1993. - Nghệ thuật cồng chiêng của dân tộc Stiêng tỉnh Sơng Bé của tác giả Vũ Hồng Thinh, do Sở Văn hố Thơng tin tỉnh Sơng Bé in năm 1994... Các tác phẩm của các tác giả trên, nhìn chung mới đề cập đến người Stiêng và thiên về phục vụ nghiên cứu dân tộc học, nhưng cũng là nguồn tài liệu tham khảo tốt cho nghiên cứu Lịch sử Việt Nam. Những bài viết, tác phẩm và cơng trình nghiên cứu trên đã phản ánh, phục dựng tồn cảnh bức tranh sinh hoạt của cộng đồng tộc người mang tính bản địa, nhân văn đặc sắc về vùng cư trú, lịch sử tộc người, ngơn ngữ tộc người, cơ cấu tổ chức xã hội, quan hệ tộc người và đặc trưng của xã hội tộc người. Cơng trình là luận án Phĩ Tiến sĩ Khoa học Lịch sử nghiên cứu về dân tộc Stiêng ở Sơng Bé, gồm: - Hệ thống xã hội tộc người Stiêng ở Việt Nam: từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, của Phan An, được bảo vệ tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1992. - Xã hội tộc người Stiêng qua tập quán pháp của Ngơ Văn Lý bảo vệ tại Viện Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1994 là những cơng trình cung cấp nhiều thơng tin bổ ích về xã hội tộc người, quan hệ giữa các tầng lớp xã hội tộc người truyền thống, giúp hiểu rõ về quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội và quyền sở hữu cơng về ruộng đất của cư dân tại chỗ trước khi Pháp xâm lược. Tĩm lại, nguồn tư liệu đã được khai thác liên quan đến tỉnh Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945, chủ yếu ghi nhận về sự thay đổi địa lý hành chính và các báo cáo kinh tế bằng số liệu, tuy rằng số lượng cũng hạn chế. Tình hình nghiên cứu về kinh tế - xã hội địa phương nhiều lúc gián đoạn, một phần vì Bình Phước là vùng sâu hẻo lánh, tiềm năng kinh tế, tài nguyên cĩ giá trị cĩ thể khai thác được lúc bấy giờ chưa được nhìn rõ, phần khác do trình độ quản lý hạn chế nên nhà nước thực dân cũng chưa cĩ điều kiện ghi chép tỉ mỉ về tất cả các địa phương trong cả nước. Vì vậy, nghiên cứu về Bình Phước thời thuộc Pháp là vấn đề nan giải đối với giới nghiên cứu. Càng về sau, cơng tác nhiên cứu về lịch sử địa phương càng được quan tâm hơn. Tuy vậy, cũng chỉ cĩ những bài viết đơn lẻ, hoặc cơng trình nghiên cứu riêng về đời sống xã hội người Stiêng đề cập đến nội dung kinh tế - xã hội truyền thống. Vấn đề kinh tế - xã hội nĩi chung, biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước ở giai đoạn thuộc Pháp (1862 – 1945) chưa được nghiên cứu chuyên sâu. Từ năm 1997 đến nay, Bình Phước trở thành đơn vị hành chính độc lập. Do vậy, cĩ những thuận lợi và khĩ khăn nhất định đối với cơng tác nghiên cứu lịch sử. Khĩ khăn đáng kể cĩ lẽ do nguồn sử liệu hiếm, đội ngũ cán bộ nghiên cứu cịn mỏng chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu nên chưa cĩ thêm cơng trình nào được xuất bản cơng bố về lịch sử kinh tế, xã hội nĩi chung, biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước thời Pháp thuộc nĩi riêng. 2.2. Nguồn tài liệu tham khảo Tình hình nghiên cứu của lịch sử kinh tế, xã hội tại địa phương như trên làm cho chúng tơi gặp khĩ khăn trong quá trình thực hiện luận án. Do vậy, để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận án đã tham khảo và sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau: - Tài liệu viết về địa lý lịch sử, tài nguyên mơi trường, lịch sử hình thành phát triển, lịch sử kinh tế của tỉnh Biên Hịa, trong đĩ chủ yếu là tỉnh Thủ Dầu Một thời Pháp thuộc. - Sách và tạp chí chuyên ngành. - Luận văn, luận án chuyên ngành lưu trữ tại các thư viện. - Tư liệu lưu trữ hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một và Niên giám Đơng Dương : + Monographie de Thudaumot 1910 + Annuaire Genéral de l’Indochine, Partie administrative, 1910 + Annuaire Genéral de l’Indochine, Partie administrative, 1915 + Annuaire Genéral de l’Indochine, Partie administrative, 1917 + Annuaire Genéral de l’Indochine, Partie administrative, 1925 - Tư liệu về Hiệp hội Cao su Đơng Dương Nguồn tư liệu kể trên đều phục vụ mục đích đầu tư, theo dõi kết quả của việc đầu tư khai thác thuộc địa nên rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chính những tư liệu này đã bộc lộ nhiều sai lệch về tính tốn… Do vậy, cần cĩ sự đối chiếu so sánh giữa các nguồn tài liệu, đồng thời kiểm chứng lại mức độ chân xác từ những số liệu báo cáo kinh tế địa phương. 3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là những biến đổi về kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 1862 – 1945. Về biến đổi kinh tế, luận án tập trung nghiên cứu tác động của chính sách khai thác kinh tế của thực dân Pháp, thơng qua hoạt động đầu tư của tư bản Pháp về cơ sở hạ tầng kinh tế, để làm rõ sự thâm nhập của nhân tố tư bản chủ nghĩa vào lĩnh vực nơng nghiệp, chủ yếu là ngành trồng và khai thác cao su, đồng thời làm rõ tác động khách quan của nĩ đối với các ngành kinh tế khác trong kinh tế Bình Phước nĩi chung, hoạt động sản xuất nơng nghiệp nĩi riêng, dẫn đến sự biến đổi về cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ cấu kinh tế. Chính sách kinh tế cũng tác động làm biến đổi xã hội. Phạm vi biến đổi xã hội rất rộng, song luận án chỉ tập trung nghiên cứu biến đổi xã hội ở hai vấn đề cơ bản là biến đổi cơ cấu xã hội - tộc người và phân hĩa xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để làm rõ những biến đổi kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 – 1945), luận án được thực hiện với nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể: - Phân tích tác động của chính sách khai thác thuộc địa do thực dân Pháp áp dụng vào vùng đất cụ thể - Bình Phước, để làm nổi bật những tác động của nĩ đối với kinh tế - xã hội địa phương như thế nào. - Bằng những tư liệu lịch sử xác thực cĩ hệ thống, luận án rõ những biến đổi về kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh ở giai đoạn nghiên cứu đề cập như biến đổi bắt đầu từ lĩnh vực nào; nguyên nhân của sự biến đổi đĩ là gì; so sánh về mức độ biến đổi kinh tế - xã hội giữa các giai đoạn lịch sử để vạch ra bản chất của sự biến đổi và mối quan hệ giữa biến đổi kinh tế với biến đổi xã hội ? - Tìm hiểu sâu hơn về vai trị của kinh tế tư bản chủ nghĩa, vai trị của các tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ, người nhập cư, của các phong trào đấu tranh xã hội đối với sự biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945. - Tìm hiểu những đặc điểm kinh tế - xã hội của Bình Phước trong giai đoạn trước, trong và sau khi bị thực dân Pháp xâm chiếm, khai thác và thống trị. - Rút ra bài học từ sự biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn 1862 - 1945 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương cho giai đoạn tiếp theo và cả sau này. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Khơng gian nghiên cứu giới hạn trong năm đơn vị hành chính cơ bản được phân định từ năm 1997, gồm các huyện Đồng Phú, Bù Đăng, Lộc Ninh, Phước Long và Bình Long, tương ứng với các tổng Thanh An (huyện Đồng Phú và một phần huyện Bù Đăng), Minh Ngãi (huyện Phước Long và một phần huyện Bù Đăng), Lơi Minh (huyện Lộc Ninh), Hớn Quản (huyện Bình Long) và Bù Đốp (huyện Phước Long) dưới thời Pháp thuộc. Mốc thời gian nghiên cứu được xác định từ năm 1862 đến năm 1945, đánh dấu quá trình thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ và kết thúc thời kỳ Pháp cai trị Đơng Dương. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận để rút ra những nhận định, đánh giá về những biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước từ năm 1862 đến 1945. Phương pháp chuyên ngành được sử dụng trong quá trình thực hiện luận án là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, chủ yếu là phương pháp lịch sử. Những biến đổi kinh tế - xã hội của Bình Phước được xem xét qua ba giai đoạn lịch sử: 1862 - 1897, 1897 – 1918 và 1919 – 1945. Tuy nhiên, chúng tơi nhận thức rõ, việc phân chia mốc thời gian nghiên cứu như trên chưa đủ giúp cho việc nghiên cứu những biến đổi kinh tế - xã hội một cách khách quan, mà cần phải cĩ cách nhìn biện chứng về sự biến đổi và tơn trọng tính kế thừa trong mối liên hệ và phát triển của kinh tế - xã hội đúng như nĩ tồn tại. Vì vậy, các chương mục và vấn đề nghiên cứu được phân chia theo thời gian, được đặt trong bối cảnh của nền kinh tế thuộc địa Nam Kỳ nĩi chung, miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng. Để giải quyết những nội dung khoa học, luận án cịn sử dụng phương pháp hệ thống cấu trúc. Vì biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước diễn ra như một hệ thống liên hịan và tương tác lẫn nhau. Đầu tư của tư bản Pháp về cơ sở hạ tầng kinh tế và hoạt động nơng nghiệp, nhấn mạnh sự thâm nhập của nhân tố tư bản chủ nghĩa vào hoạt động sản xuất nơng nghiệp Bình Phước là điều kiện gây nên mọi biến đổi kinh tế - xã hội của địa phương. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu bổ trợ như phương pháp sử học so sánh, phương pháp định lượng trong nghiên cứu sử học, thống kê, phân tích, tổng hợp, nhằm đối chiếu, chắt lọc những số liệu phản ánh sát với tình hình kinh tế - xã hội địa phương trong giai đoạn nghiên cứu. Ngồi ra, chúng tơi cịn kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành, chủ yếu là sử dụng những phạm trù, khái niệm và phương pháp của xã hội học và kinh tế chính trị học để làm rõ các khái niệm, thuật ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế và xã hội. 5. Đĩng gĩp của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án, gĩp phần: - Phục dựng lại những biến đổi kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc (1862 – 1945) ở các phạm vi biến đổi về cơ sở hạ tầng kinh tế, cơ cấu kinh tế, biến đổi trong cơ cấu xã hội – tộc người, sự phân hĩa xã hội và đấu tranh xã hội, làm nổi bật những đặc điểm của sự biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước cùng thời, đồng thời bước đầu rút ra một số nhận xét về vai trị của kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với kinh tế Bình Phước nĩi chung, hoạt động nơng nghiệp nĩi riêng. - Làm rõ vai trị của các cộng đồng tộc người đối với quá trình biến đổi kinh tế - xã hội Bình Phước giai đoạn 1862 – 1945 và rút ra hệ quả từ sự biến đổi đĩ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. - Bổ sung thêm nguồn tài liệu tham khảo cho cơng tác nghiên cứu về lịch sử địa phương. - Đĩng gĩp tư liệu và nhận định phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử Việt Nam cận - hiện đại. 6. Bố cục nội dung luận án Luận án được kết cấu ngồi các phần dẫn luận, tài liệu tham khảo và kết luận, nội dung chính gồm ba chương: Chương 1: Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước (1862 – 1897) Nội dung chương này đề cập đến điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, xã hội được phản ánh thơng qua sự phát triển của trình độ sản xuất, quản lý xã hội của cư dân tại chỗ trước khi thực dân Pháp xâm lược. Từ khi Pháp xâm lược, các chính sách chính trị - xã hội và kinh tế của Pháp được áp dụng, nhằm xác lập quyền thống trị và bước đầu khai thác kinh tế, đây là bước mở đầu và là cơ sở để mở rộng khai thác ở các giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn này kinh tế - xã hội biến đổi với mức độ chưa cao. Chương 2: Biến đổi kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước giai đoạn 1897 – 1918 Tồn bộ nội dung biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn 1897 - 1918, được đặt trong bối cảnh thực dân Pháp đã hồn thành cơng cuộc xâm lược nước ta bằng quân sự và đề ra chương trình khai thác thuộc địa ở Đơng Dương. Những tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên lĩnh vực kinh tế - xã hội được làm rõ. Hoạt động đầu tư của tư bản Pháp về cơ sở hạ tầng kinh tế, sự thâm nhập của nhân tố sản xuất tư bản chủ nghĩa vào hoạt động nơng nghiệp làm biến đổi mục đích canh tác nơng nghiệp, cơ cấu cây trồng, làm thay đổi hình thức sở hữu ruộng đất, canh tác, quy mơ sản xuất, hình thức sử dụng nhân cơng và biện pháp quản lý theo kiểu tư bản. Biến đổi kinh tế - xã hội xuất phát từ biến đổi kinh tế, đặc biệt trong kinh tế nơng nghiệp, tập trung ở ngành trồng cây cơng nghiệp, chủ yếu là cao su. Mức độ biến đổi xã hội rõ hơn trước song cịn chậm. Chương 3: Biến đổi kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước giai đoạn 1919 – 1945 Chương 3 phục dựng lại những biến đổi kinh tế - xã hội của giai đoạn 1919 – 1945. Biến đổi kinh tế - xã hội được đặt trong bối cảnh Chiến ._.tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc, đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra trong hồn cảnh đặc biệt là kinh tế thế giới khủng hoảng nghiêm trọng (1929 -1933), tiếp theo là sự bùng nổ của Thế chiến lần thứ hai và sự can thiệp của Nhật ở Đơng Dương. Những biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn 1919 – 1945 diễn ra theo chiều hướng hạn chế hoặc triệt tiêu dần các nghề truyền thống, tăng tỷ trọng các ngành kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa, chủ yếu phục vụ cho việc khai thác mủ cao su, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm cạnh tranh. Giai đoạn này, thực dân Pháp đã can thiệp vào xã hội các tộc người dân tộc thiểu số, làm thay đổi một số phong tục và thiết chế xã hội truyền thống. Phân hĩa xã hội diễn ra rõ hơn với giai đoạn 1862 - 1897 và từ năm 1897 đến 1918. CHƯƠNG 1 TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH PHƯỚC (1862 – 1897) Năm 1897 là mốc đánh dấu sự ra đời của chương trình khai thác thuộc địa ở Đơng Dương. Đối với Bình Phước, nĩ cĩ ý nghĩa quan trọng, vì từ đây việc nghiên cứu trồng cây cao su của tư bản Pháp bắt đầu thực nghiệm trên vùng đất đỏ. Kết quả nghiên cứu về cây cao su bước đầu làm thay đổi hoạt động của kinh tế nơng nghiệp Bình Phước. 1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc là phía bắc của tỉnh Thủ Dầu Một. Thực dân Pháp nhắc đến vùng này với tên gọi chỉ vùng “cao nguyên trung tâm” Tây Nguyên Nam Bộ, là đoạn cuối của vùng cao nguyên đất đỏ với nhiều loại rừng nhiệt đới sinh trưởng như rừng gỗ cứng, tre và rừng thứ sinh. Tỉnh Thủ Dầu Một thời Pháp thuộc, qua Địa chí Thủ Dầu Một năm 1910 là tỉnh đẹp nhất của miền Đơng Nam Kỳ[98, tr 17]. Về địa lí, theo người Pháp ghi chép lại thì tỉnh Thủ Dầu Một được chia thành hai vùng rõ rệt: phía nam là vùng thấp thuận lợi cho trồng lúa và mía, phía bắc là cao nguyên giới hạn bởi sơng Sài Gịn và sơng Bé. Ở phía Nam của Phước Giang thuộc tổng Phước Vĩnh, nơi bắt đầu của dịng Tiểu Giang (cịn gọi là sơng Bé) là sườn núi của hai sách Võ Tam và Võ Tiên chạy xuống phía đơng đến thủ Tham Linh, rồi bị bẻ quặt về phía bắc 242 dặm hợp vào sơng Phước [20, tr 26]. Sơng Bé cĩ chiều dài gần 200 km, ở phía bắc nơi nĩ chảy qua vùng người Stiêng, Mnơng cư trú được gọi là sơng Đaklung, xuơi về phía nam được người kinh gọi là sơng Bé. Nhiều nhánh sơng được bắt nguồn từ vùng cao nguyên này, là khởi nguồn của nhiều sơng lớn đổ về sơng Đồng Nai ở phía nam và các nhánh chảy về phía tây hội nhập vào các nhánh của sơng Mêkơng. Vùng cao nguyên nơi người Stiêng cư trú bị chia cắt khá nhiều, cĩ nhiều ghềnh thác nhỏ và sâu. Do vậy, vận tải bằng đường thuỷ khĩ khăn. Tuy nhiên, đối với những nhà thám hiểm người Âu, sự hiểm trở của địa hình và dịng chảy của sơng Bé được nhìn nhận như mĩn quà của thiên nhiên nhiều màu sắc kỳ thú! [92, tr 10]. Theo trực quan của họ, vùng đất cao nguyên trung tâm giống như cái nĩc nhà Đơng Dương ở miền Trung Nam Kỳ, là điểm khởi nguồn của những nhánh sơng chảy trên đất Nam Kỳ, Trung Kỳ và Cam Bốt. Đáy của sơng Bé cất giấu nhiều dải đá ngầm làm cản trở việc lưu thơng bằng đường thủy trên địa bàn và cả với những vùng lân cận, song tiềm ẩn nhiều hứa hẹn cho việc phát triển ngành du lịch sinh thái. Dải đất hướng về phía Nam thuộc hạ lưu sơng Đồng Nai và hạ lưu sơng Bé, nối liền với vùng đất đỏ của Kompong Chàm (Campuchia) đa số là rừng già, san sát đồi gị, độ cao trung bình từ 100 đến 130 mét, bề mặt phủ kín các loại cây dây leo dày đặc xen với cây tre, tạo nên cảm giác con người như lạc vào “Biển Tre”. Đầu thế kỷ XX, “Biển Tre” bị tàn phá nhường chỗ cho những đồn điền cao su bạt ngàn. Cấu tạo địa chất của tỉnh Bình Phước chủ yếu là là đất đỏ Bazan, chiếm hơn ½ diện tích tồn tỉnh. Ngồi ra cịn cĩ loại đất đỏ trên đá phiến, đất xám và đất vàng nâu cĩ hàm lượng chất hữu cơ cao, là nguồn dinh dưỡng tự nhiên tốt cho cây trồng. Thời kỳ nghiên cứu thử nghiệm trồng cao su tại Nam Kỳ của thực dân Pháp đem lại kết quả bất ngờ về diện tích đất đỏ khoảng 200.000 ha với chiều dài 200 cây số, rộng trung bình từ hai đến hai mươi km, tạo thành một dải liên hồn theo hướng Đơng Bắc - Nam Đơng Nam nước ta, chủ yếu tập trung ở miền Đơng Nam Kỳ. Đối chiếu vùng cĩ diện tích đất đỏ phát triển trồng cao su lúc bấy giờ với hiện nay, đĩ chính là vùng đất đỏ bazan chủ yếu ở các huyện Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng và một diện tích nhỏ ở huyện Bình Long và Đồng Phú. Chất liệu đất như trên đã gắn kết nền kinh tế của tỉnh với nhiều loại cây cơng nghiệp cĩ giá trị kinh tế cao như: cao su, cà phê, tiêu, điều... và các loại rau màu, lương thực ngắn ngày. Bình Phước cũng như các tỉnh miền Đơng Nam Bộ khác, cĩ khí hậu nhiệt đới, giĩ mùa ổn định, hai mùa mưa và khơ rõ rệt. Mùa mưa thường diễn ra từ tháng 5 đến hết tháng 10 dương lịch, những trận mưa luơn ập đến ào ạt dữ dội nhưng rồi cũng qua mau. Lượng mưa đạt trung bình 2.400 mm/năm, nhiệt độ trung bình 290C, khá thuận lợi cho phát triển kinh tế nơng nghiệp. Vào những tháng nắng thường cĩ giĩ từ Tây Trường Sơn thổi về nên độ ẩm của khơng khí kém, nhiệt độ tăng cao cĩ khi lên đến 35 – 370C [10]. Tuy nhiên, những đợt nĩng gay gắt nhất cũng chỉ kéo dài khoảng hơn một tháng để rồi dịu dần và chuẩn bị đĩn những cơn mưa đầu mùa của năm sau. Bình Phước, hơn một trăm năm về trước phủ kín rừng với nhiều chủng loại cây quí hiếm như cây dầu, cây chơk (cà chắc) gỗ rắn như sắt khơng hề bị mối mọt bao giờ. Sau nhiều năm, do chiến tranh tàn phá, con người khai phá bừa bãi nên diện tích rừng bị thu hẹp, nhiều loại cây gỗ quý bị tiệt chủng. Tuy vậy, cho đến hiện nay, Bình Phước vẫn cĩ diện tích rừng chiếm 2/3 tổng diện tích chung tồn tỉnh. Trong số đĩ cĩ nhiều khu rừng già, rừng nguyên sinh với nhiều loại gỗ quí như gõ đỏ, gõ nu, sao, bằng lăng,.. . Ngồi ra, cịn cĩ nhiều loại cây thuốc nam chữa bệnh, các loại cây phục vụ cho ngành tiểu thủ cơng nghiệp như mây, tre, nứa, song, lồ ơ. . . cũng như các loại lương thực tự nhiên như củ nần, củ mài, củ chụp, củ nho, hạt gấm, hạt buơng và các loại rau diếp, lá nhau, đọt mây, đọt măng, mơn dốc, tàu bay… Rừng Bình Phước cĩ hệ động thực vật khá phong phú, Azemar đã ghi lại gồm thỏ, dê nhỏ, hươu, nai, dê lớn và nhiều loại thú rừng khác, với “những bầy heo rừng nhung nhúc”. “Ở đây cĩ cọp, báo, gấu (loại gấu đen yếm trắng), một lồi cọp nhỏ, những đàn bị hàng trăm con, cĩ loại bị màu đỏ sực nức mùi xạ hương (boeut musqué) nhiều hơn là bị màu xám tro, những đàn trâu rừng hung hãn, tê giác và voi sẵn sàng tấn cơng người”, “trong số những lồi thú rừng ở Bình Phước, Azemar đặc biệt chú ý đến hai con vật mà dường như chỉ cĩ ở vùng này. Một lồi bị mà người Stiêng gọi là Pebêi, dài chừng sáu bảy cánh tay, nghĩa là khoảng ba mét, lơng đen như trâu, cĩ những đường sọc trắng nhạt bên sườn, bốn chân màu trắng từ đùi trở xuống, mĩng chẻ, đầu cĩ hai sừng to và chắc chắn. Đây là con vật nguy hiểm nhất, nĩ sẽ nhảy bổ vào người thợ săn khi vừa bắt gặp. Lồi thứ hai là con mạch (?) mà trong nguyên bản Pháp ngữ người ta gọi nĩ là “Tapir”. Theo đĩ con vật này khá độc đáo “to như một con chĩ, lơng dài, mọc sát và cục mịch, màu xám tro đậm, cĩ hai đường trắng hai bên đầu chạy dài từ mũi đến tai. Tai ngắn, đầu giống đầu chồn, mũi nhọn, đuơi thỏ, chân chĩ, mĩng dài để cào đất, tiếng kêu như heo và dưới da cĩ một lớp mỡ dày. Ban ngày nĩ ở trong hang dưới đất,...”[4, tr 18]. Địa chí Thủ Dầu Một năm 1910 ghi lại tên các lồi động vật sinh trưởng tại rừng địa phương gồm cĩ thỏ, chuột, hoẵng, lợn lịi, hươu, các loại gia cầm như chim cơng, gà lơi, gà gơ, bồ câu rừng xám, gà rừng và chim ngĩi nhiều vơ kể…. Động vật lớn như bị mộng, voi và tê giác thì hiếm thấy hơn vì con người ngày càng lấn rộng hơn vào vùng cư trú của chúng [98, tr 22 – 23]. Một số lồi vật quý hiếm qua thời gian đến nay hầu như khơng cịn, song chứng tỏ rừng Bình Phước xưa khá đặc thù và giàu tài nguyên thiên nhiên. Rừng đã nuơi sống, che chở con người suốt nhiều thế kỷ qua, là nét đặc trưng của Bình Phước xưa và nay. Cấu tạo địa hình của Bình Phước khơng cân đối, chênh lệch nhiều về độ dốc của địa hình, dễ mất cân bằng về nguồn nước dự trữ. Tuy vậy, điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng lại rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây cao su nên ngay từ đầu cuộc khai thác lần thứ nhất, tư bản Pháp đã chọn vùng đất này để đầu tư và mở rộng khai thác đồn điền chủ yếu là trồng cao su. 1.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÁC LẬP QUYỀN THỐNG TRỊ Ở BÌNH PHƯỚC 1.2.1. Kinh tế Dưới triều Nguyễn, Bình Phước thuộc địa phận của tỉnh Biên Hịa. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế Bình Phước đương thời đã khơng sánh kịp với Biên Hịa và Thủ Dầu Một. Chính sách khai hoang của triều Nguyễn đối với vùng đất Nam Kỳ được khuyến khích triệt để. Mặc dù vậy, nĩ chỉ phát huy giá trị tích cực đối với vùng đất trũng dọc những con sơng lớn thuận lợi cho cày cấy, buơn bán thương mại. Vùng Đồng Nai từ thế kỷ XVII, là địa đầu tập trung của các lưu dân người kinh và Hoa. Người kinh nghèo khĩ từ các tỉnh phía bắc vào Đồng Nai định cư được sự hỗ trợ tối đa của Nhà nước nên cĩ điều kiện phát triển kinh nghiệm sản xuất của vùng đất quê cũ, lại gặp điều kiện thuận lợi về thiên nhiên, đất đai màu mỡ…, họ nhanh chĩng làm giàu, ổn định nơi sinh sống để lập nghiệp. Người kinh giàu cĩ di cư với mong muốn giàu cĩ hơn, đến vùng đất này nhanh chĩng trở thành những bá hộ, thiên hộ cĩ thế lực kinh tế và chiếm vị thế cao trong xã hội. Với lực lượng lao động hùng hậu, kết hợp sự hỗ trợ của chính quyền từ thời các chúa Nguyễn mà vùng đất Đồng Nai được khai phá quy mơ, nhiều thơn, làng mọc lên được quản lý quy củ, hình thành những cụm dân cư tập trung. Đời sống ổn định, kinh tế cĩ điều kiện phát triển vượt lên, ngay trong lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp, cơ cấu cây trồng rất đa dạng gồm lúa, đậu, dâu tằm, mía đường…, Biên Hịa từ xưa đã nổi tiếng với các sản phẩm nơng nghiệp như đường kính Biên Hịa. Ngồi lưu dân người kinh, vùng đất Biên Hịa, Thủ Dầu Một từ thế kỷ XVII cịn đĩn nhận hàng loạt lưu dân là người Hoa đến khai khẩn, đứng đầu là nhĩm do Trần Thượng Xuyên người Quảng Đơng dẫn đầu. Nhĩm người này đã khuyếch trương khả năng thiên phú của họ về thương mại tại vùng đất mới, làm cho nĩ mở mang, biến Cù lao Phố (Biên Hịa) trở thành một thương cảng sầm uất…Nĩi tĩm lại, vùng trung tâm Biên Hịa và Thủ Dầu Một cĩ điểm xuất phát kinh tế, xã hội tồn diện hơn so với Bình Phước cùng thời. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, các loại hình kinh tế tại địa phương cịn đơn điệu. Cư dân phần lớn là người dân tộc thiểu số, đời sống chưa ổn định. Kinh tế chính là nơng nghiệp tiểu nơng và một số nghề phụ khác. Hoạt động sản xuất truyền thống của cư dân Bình Phước cũng như một số các dân tộc người thiểu số ở Trường Sơn – Tây Nguyên Nam Bộ kéo dài đến hết thời Pháp thuộc, chủ yếu là làm lúa rẫy trên sườn đồi hoặc trong rừng già. Sản xuất nơng nghiệp tự cấp tự túc là chính và thực hiện theo phương thức quảng canh hoặc luân canh. Phương tiện canh tác thơ sơ, tổ chức lao động tập thể giản đơn phổ biến theo tập quán pháp và thể hiện tính chất dịng họ, giúp đỡ lẫn nhau bằng các kiểu vần cơng hoặc phụ giúp tự nguyện khơng cần trả cơng [15, tr 65 - 68]. Trình độ sản xuất và chinh phục tự nhiên của người dân tộc thiểu số tại chỗ cịn yếu, lệ thuộc thiên nhiên, nên họ khơng thể cĩ sản phẩm thừa để trao đổi ra bên ngồi, do vậy mà kinh tế hàng hố khơng cĩ cơ sở để ra đời. Cơ cấu cây trồng cũng như kiểu canh tác hầu như khơng thay đổi trong hàng trăm năm, đĩ là làm lúa rẫy và trồng thêm một số cây lương thực phụ như ngơ, khoai, rau, bầu, bí…Lương thực thu hoạch hàng vụ thường chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt trong khoảng sáu tháng. Tình trạng thiếu đĩi phổ biến và kéo dài. Ngồi kiểu làm rẫy (làm lúa cạn trên sườn đồi, núi), cịn cĩ kiểu làm lúa nước trên ruộng của người kinh nhập cư, chủ yếu tập trung ở các huyện phía nam của tỉnh vì cĩ địa hình trũng. Người kinh và các tộc người dân tộc thiểu số đã cĩ trao đổi học hỏi kỹ thuật làm ruộng. Trâu bị được nuơi để tận dụng sức kéo nhiều hơn. Bên cạnh canh tác nơng nghiệp, một số nghề khác cũng tồn tại như nghề rèn, nghề đan lát, nghề đi buơn bằng voi của người Khmer hay buơn đường xa bằng thuyền độc mộc…, song chỉ được xem là những cơng việc phụ sau những vụ mùa. Tài liệu điền dã do Paul Patté ghi nhận [99, tr 220] về trình độ sản xuất, chinh phục tự nhiên đã giúp cho người nghiên cứu hình dung tồn cảnh bức tranh sinh hoạt kinh tế, xã hội truyền thống của cư dân Bình Phước qua hàng trăm năm chìm trong tình trạng lạc hậu về kỹ thuật canh tác, nghèo nàn về loại hình ngành nghề, chủng loại và năng suất cây trồng. 1.2.2. Xã hội Từ năm 1862 triều Nguyễn giao vùng đất Nam Kì cho thực dân Pháp quản lí. Bình Phước ở giai đoạn 1862 đến 1897 là vùng thực dân Pháp chưa hồn tịan quản lí được về mặt hành chính. Thiết chế xã hội truyền thống vẫn giữ vai trị chủ đạo trong việc duy trì trật tự xã hội. 1.2.2.1. Trình độ tổ chức và quản lí xã hội Đầu thế kỷ XIX, kinh tế Việt Nam vừa thốt khỏi thời kỳ chiến tranh loạn lạc kéo dài. Khơi phục và phát triển kinh tế nơng nghiệp, cơng thương nghiệp là nhu cầu bức thiết của đất nước. Trong nơng nghiệp, vấn đề trọng yếu là giải quyết tình trạng ruộng đất cho nơng dân, ngăn chặn nạn kiêm tinh ruộng đất của bọn quan lại cường hào, khơng để hoang hố ruộng đất và mở rộng diện tích canh tác mới. Để đáp ứng những nhu cầu đĩ, triều Nguyễn đã thực hiện những biện pháp kinh tế khá hiệu quả, thơng qua chính sách khai hoang, di dân lập ấp…, ngay từ những năm khởi đầu của triều đại. Chính sách khai hoang được liên tục duy trì và ngày càng đẩy mạnh, mang lại kết quả tốt dưới các triều vua Gia Long, Minh Mạng. Tại Nam Kỳ, chính sách này đã thúc đẩy sự hình thành hàng loạt các đồn điền, chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất càng phát triển mạnh hơn các thế kỷ trước. Tuy nhiên, đồn điền chỉ dừng lại ở trình độ canh tác theo phương thức phát canh thu tơ, chủ yếu là đồn điền trồng lúa. Kinh tế đồn điền phát triển, làm gia tăng tình trạng cường hào ác bá, thuế khố nặng nề gây tình trạng bất an cho kinh tế tiểu nơng. Thiên tai, bão lụt, dịch bệnh xảy ra liên tiếp hàng năm, làm cho ruộng đồng, xĩm làng tiêu điều xơ xác, nơng dân bỏ làng phiêu tán khắp nơi. Bộ máy quan liêu cồng kềnh đồ sộ, nhà nước khơng đủ khả năng chi phí nuơi dưỡng, chế độ lương bổng bị cắt xén tối đa nên tệ tham ơ, cướp đoạt của dân lành trở nên phổ biến ở chốn quan trường. Đời sống nhân dân, nhất là dân ở các tỉnh phía Bắc ngột ngạt tăng gấp bội phần. Nạn lưu vong khơng kể xiết chứng tỏ nhà nước mục ruỗng khơng cịn đường cứu vãn. Đối với phía Nam, chính sách khai hoang đã cĩ những thành cơng nhất định. Nhiều trung tâm đơ thị dân cư sầm uất nổi lên ở những vùng đất trũng, thuận lợi cho canh tác nơng nghiệp. Những vùng xa nhà Nguyễn chưa đủ lực quản lý tồn diện cũng cho đặt các trạm dịch để thu thuế, đặt đơn vị hành chính để xác nhận quyền quản lý và vỗ yên dân chúng. Khi thực dân Pháp đến xâm chiếm, chúng chỉ đặt một số chức vụ hành chính ở cấp trên để quản lí các đơn vị hành chính cấp dưới do người Việt cai quản. Thơng qua thiết chế xã hội cũ, chúng mua chuộc và lợi dụng người Việt vào mục đích nơ dịch để thống trị bĩc lột nhân dân. Địa bàn Bình Phước từ xa xưa đã cĩ nhiều tộc người sinh sống, đơng nhất là dân tộc Stiêng, sống du canh du cư theo từng buơn, sĩc do các “chủ làng” hay “già làng”[3, tr 30] đứng đầu, chưa được tổ chức thành hệ thống hành chính cụ thể. Trong số các dân tộc người thiểu số cư trú tại Bình Phước, người Stiêng cĩ cơng trong việc khai phá vùng đất từ núi Bà Đen đến thượng nguồn sơng Sài Gịn. Người Stiêng cĩ tổ chức xã hội cao hơn, song cũng chưa đạt đến mức phân chia giai cấp rõ rệt. Nĩi khác đi, trình độ tổ chức xã hội của cư dân ở Bình Phước trước khi thực dân Pháp xâm lược cịn thấp, mới bước vào giai đoạn xã hội bắt đầu phân chia giai cấp và nhà nước, quản lý xã hội chủ yếu bằng luật tục và dựa vào quan hệ huyết thống, trong xã hội vai trị của người già và phụ nữ được đề cao. Chế độ nơ lệ gia đình vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội tộc người. Quan hệ giữa chủ với nơ lệ là quan hệ của người trên với kẻ dưới trong cùng một gia đình. Nơ lệ cĩ thể bị đem đi mua bán, trao đổi vì là tài sản cĩ giá trị cao của chủ, song khơng bị đối xử tàn nhẫn. Tĩm lại, ở Bình Phước cho đến năm 1897 trình độ quản lí xã hội vẫn cịn thấp so với nhiều vùng khác trong nước. 1.2.2.2. Hoạt động sản xuất và đời sống Hoạt động sản xuất Hoạt động sản xuất của cư dân tại chỗ chủ yếu là sản xuất lương thực theo kiểu sơn điền (làm ruộng trên cạn, ở vùng cao), trỉa lỗ tra hạt. Cơng việc làm rẫy là truyền thống của tộc người qua nhiều thế hệ. Lối canh tác rẫy của người Stiêng được tác giả Phan An mơ tả chi tiết: Theo tập quán pháp của người Stiêng, hàng năm mùa làm rẫy được tiến hành theo một quy trình thống nhất là chọn rẫy, phát quang dọn các loại cây gai bụi, đốt rẫy để đuổi thú dữ và lấy tro, chờ mưa xuống mới tỉa lúa xen lẫn các loại cây rau đậu khác [3, tr 54 – 55]. Đến mùa thu hoạch lúa, cư dân dùng tay hoặc dùng một chiếc cặp giống như chiếc lược bằng gỗ để tuốt lúa. Sau khi thu hoạch, lúa giống được cất ở gần nơi đun nấu để cho khĩi bếp xơng, giúp giống để được lâu ngày khơng bị sâu mọt. Kiểu canh tác này lệ thuộc vào tự nhiên, khơng hề cĩ thêm sự can thiệp, chăm sĩc nào của con người sau khi hạt giống được gieo và mỗi năm chỉ cĩ một vụ trồng cấy vào mùa mưa. Vì vậy, năng suất thu hoạch mỗi vụ mùa khơng đủ dùng cho cả năm, thường phải dùng thêm các lương thực phụ khác như ngơ, sắn hay các loại sản phẩm cĩ sẵn trong tự nhiên, cĩ được do săn bắn và hái lượm. Kỹ thuật và cơng cụ sản xuất hồn tồn thơ sơ, chủ yếu là những chiếc xà gạc (một loại dao phát quang) và những chiếc cọc vĩt nhọn đầu dùng để chọc lỗ tra hạt. Cơng cụ dùng hỗ trợ cho sản xuất cịn thơ sơ, canh tác chủ yếu dựa vào thiên nhiên nên cần huy động một lực lượng lớn lao động. Do vậy mà các tổ chức sản xuất của họ tuy cịn ở trình độ thấp, song cĩ tính tập thể cao và mang tính chất tương trợ giữa người trong cùng dịng họ. Sau một vài vụ mùa, đất do khơng được bổ sung thêm chất dinh dưỡng nên cho năng suất kém hơn vụ trước, cư dân liền bỏ trống, đi tìm chọn những khoảnh đất mới để tiếp tục làm mùa. Thĩi quen canh tác như trên của người dân tộc thiểu số tại chỗ gây hậu quả nghiêm trọng đến sự an tồn của rừng, ảnh hưởng đến sự cân bằng sinh thái. Kiểu làm ruộng thảo điền (ruộng nước) được người kinh du nhập vào địa phương cùng với quá trình nhập cư và được người dân tộc thiểu số học hỏi áp dụng. Nhờ vậy, ở vùng đất trũng trồng lúa nước họ đã biết áp dụng các kỹ thuật tưới tiêu, sử dụng phân bĩn, dùng cuốc và tận dụng sức kéo của gia súc vào sản xuất. Người dân nuơi trâu bị nhiều hơn, mỗi nhà cĩ khi nuơi 3 đến 4 con để cày bừa ruộng và đạp lúa sau khi gặt. Năng suất lúa phần nào được cải thiện, song người dân tộc thiểu số vẫn thiếu lương thực thường xuyên, một phần vì vẫn chưa thốt khỏi sự lệ thuộc vào thiên nhiên, phần khác cũng khơng kém quan trọng là thĩi quen tiêu dùng phung phí khơng chịu tích trữ lương thực sau mỗi vụ mùa, biểu lộ rõ qua việc tổ chức các lễ hội ăn mừng được mùa kéo dài nhiều ngày. Đời sống tộc người Các bộ tộc Stiêng, Mạ… đã sinh sống trên vùng đất Đồng Nai, Gia Định từ lâu đời. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ XIX họ vẫn sống trong tình trạng nguyên sơ, dân số ít, mật độ cư trú mỏng với những kỹ thuật sản xuất thơ sơ lạc hậu. Từ khi cĩ sự xuất hiện của lớp cư dân người kinh (thế kỷ XVII) vào vùng đất phương nam để tránh loạn do cuộc chiến tranh giành quyền lực Trịnh – Nguyễn thì những vùng đất hoang vu trước đĩ được khai phá. Từ cuối thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã củng cố được thế lực và khuyến khích người kinh định cư trên vùng đất mới chủ yếu từ Mơ Xồi, Bà Rịa đến khu vực các cù lao ở tồn vùng Sài Gịn – Bến Nghé là những nơi cĩ đường giao thơng thuận tiện, gần nguồn nước sinh hoạt, cày cấy nơng nghiệp. Tại vùng Hớn Quản lúc bấy giờ đã cĩ các xĩm làng của người kinh sống xen kẽ với các tộc người Stiêng và Khmer. Giữa họ diễn ra sự giao lưu học hỏi kinh nghiệm sống, sinh hoạt, sản xuất và cả sự kết hợp giống nịi. Tuy vậy cuộc sống kinh tế, văn hố vẫn rất nghèo nàn đơn sơ. Tác giả Huỳnh Lứa khi nghiên cứu về lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ cĩ nhận xét: cho đến thập niên 1860, vùng đất được khai phá nhiều nhất là miền Trung Nam Bộ, thuộc vùng đồng bằng trải dài từ Sài Gịn, Cần Giuộc, Gị Cơng, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Gạo, Cai Lậy và vùng đất nằm giữa sơng Tiền, sơng Hậu. Ngược lại, vùng đất cao miền Đơng Nam Bộ đã được khai phá từ đầu thế kỷ XVII ở Bà Rịa, Biên Hịa, nhưng mức độ khai phá cịn chậm [46, tr 133]. Bình Phước cũng nằm trong số những vùng đất mà lưu dân người kinh chưa thể khai phá hết, vì thế đất vẫn bỏ trống, mênh mơng, hoang vu và đầy ác thú. Cư dân tại chỗ là người dân tộc thiểu số khi đĩ chủ yếu tập trung ở các huyện phía nam. Khi người kinh vào định cư tại đây giữa họ với người dân tộc thiểu số sống rất hịa thuận. Suốt hàng thế kỷ trơi qua, quan hệ giữa các thành phần dân cư ấy khơng thấy sử sách ghi lại cĩ sự tranh chấp nào về ruộng đất. Sự phân bố địa bàn cư trú, sản xuất được mặc nhiên xác định, sau này chính quyền triều Nguyễn dựa vào đĩ mà phân định loại ruộng “sơn điền” hay “thảo điền” để thu thuế [29, tr 53 – 54]. Lưu dân khai hoang lúc bấy giờ tuỳ nghi chiếm hữu mở ruộng lập nghiệp. Tuy nhiên do biện pháp quản lý của chính quyền lúc bấy giờ chưa nghiêm nên khơng cĩ những ghi chép cụ thể số diện tích ruộng tư. Ruộng đất do tư nhân chiếm hữu được liệt vào hạng tư điền thổ và được phân chia theo gia đình, cho các họ và các tộc người ở khắp các tỉnh Nam Kỳ [28, tr 160 – 172]. Bên cạnh loại hình ruộng đất tư hữu (đất do tư nhân chiếm hữu) cịn cĩ loại hình ruộng đất tư thuộc quản lý của xã thơn được gọi là “bổn thơn thổ” [28, tr 155] (loại ruộng đất này xin được dùng cụm từ “ruộng đất cơng làng xã” cho dễ phân biệt với loại ruộng tư do một người chiếm hữu), song với tỷ lệ nhỏ khơng đáng kể so với sở hữu tư về ruộng đất. Tuy vậy, đặc thù của hình thái kinh tế – xã hội tồn tại ở Bình Phước kéo dài đến tận cuối thế kỷ XIX, cho phép khẳng định: Bình Phước trước khi Pháp xâm chiếm và cai trị tồn tại phổ biến chế độ bổn thơn điền được quản lý dựa vào tục lệ của làng. Đầu thế kỷ XX, cư dân tại chỗ cư trú phân bố khắp từ Nha Bích (Bình Long) đến vùng cao nguyên trung tâm (núi Bà Rá, Phước Long), họ chia thành nhiều nhĩm, tên gọi khác nhau thuộc các tộc người Stiêng, Mnơng…. Mỗi nhĩm người lại chia thành những bộ lạc nhỏ. Ví dụ, nhĩm Stiêng cĩ người Stiêng Budèh sống từ Nha Bích đến cao nguyên trung tâm, thuộc nhĩm người Mnơng là người Bouneur cư trú ở hợp lưu phía tây sơng Bé, người Bbiet ở miền thượng lưu Chlong (tức phía tây vùng cư trú của các bộ lạc Budèh, Mnơng, Bouneur) [92, tr 19]. Canh tác lúa rẫy theo kiểu du canh du cư, kết hợp với săn bắn hái lượm là nguồn sống chủ yếu của người dân tộc thiểu số. Sau mỗi vụ mùa chính người dân cịn làm thêm các cơng việc khác để cĩ thêm nguồn lương thực bổ sung vào những tháng giáp hạt. Họ chăn nuơi gia súc, vào rừng săn bắn hoặc tìm lấy những sản vật quý để đổi lấy những vật dụng cần thiết khác từ người kinh, người Khmer…Khi ấy trong xã hội tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ chưa cĩ sự lưu thơng của tiền tệ, giá trị của vật phẩm được quy đổi thành các vật quý ngang giá với giá trị của vật phẩm khác. Những vật phẩm quý thường dùng làm vật trao đổi ngang giá là chiêng, chĩe, đơi khi dùng cả trâu bị để trao đổi. Voi là biểu tượng cho giá trị cao nhất, thứ đến là trâu. Trật tự xã hội của người dân tộc thiểu số địa phương được duy trì bởi luật tục và theo chế độ mẫu hệ, tuy nhiên vai trị kinh tế của đàn ơng trong gia đình và xã hội đã được đề cao. Xã hội chưa được quản lý theo đơn vị hành chính cụ thể, làng là đơn vị hành chính duy nhất. Vai trị của già làng, trưởng bản là tối cao. Thĩi quen sinh hoạt của người dân tộc thiểu số tại chỗ gần gũi với thiên nhiên. Sau thời kì thu hoạch mùa màng (khoảng giữa tháng giêng và tháng tư) họ thường tổ chức các lễ hội dài ngày với tiệc rượu linh đình, quy tụ dân chúng của nhiều làng lân cận. Trong các dịp lễ hội, trâu là con vật dùng để tế lễ, phong tục này vẫn được bảo tồn đến ngày nay. Nhà ở của cư dân cịn tạm bợ, được lợp bằng tranh, xung quanh quây chắn bởi các tấm phên đan bằng tre nứa. Các tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ và người nhập cư cư trú đan xen với nhau, nên dẫn đến sự giao thoa về văn hĩa và lai tạp giống nịi. Vì vậy, khơng thể tách biệt về giống nịi theo nhân chủng học, hoặc nghiên cứu về văn hĩa của họ một cách độc lập. Điều này càng cho thấy rõ mối liên hệ khắn khít về văn hĩa, tộc người giữa các nhĩm cư dân trên địa bàn và thể hiện tính thống nhất trong đa dạng về văn hĩa của cộng đồng các tộc người, làm nên nét độc đáo của văn hĩa Bình Phước. Bình Phước là hình ảnh thu nhỏ của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Trình độ sản xuất nơng nghiệp của cư dân cịn thấp so với mặt bằng của cả nước cùng thời. Quan hệ xã hội khép kín trong nội bộ tộc người càng làm tăng phần hạn chế tư duy của họ. Mặt khác, Bình Phước chưa được triều Nguyễn quan tâm về cả hành chính cũng như phát triển kinh tế vì nhiều lý do, kể cả việc triều Nguyễn chưa đủ sức để quản lý các địa phương quá xa. Chính sách khai hoang phát triển đồn điền của triều Nguyễn chưa phát huy được tác dụng tích cực tại đây. Hoạt động kinh tế của cư dân chưa thốt khỏi tình trạng tự cung tự cấp, lệ thuộc vào tự nhiên, các nghề thủ cơng hồn tồn là nghề phụ sau lúc nơng nhàn và chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt. Mọi sản phẩm kinh tế chưa được làm với mục đích để mua bán. Do vậy, kinh tế hàng hĩa chưa xuất hiện mà chỉ dừng lại ở mức là trao đổi hàng hĩa giản đơn bằng hiện vật ngang giá. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tư bản Pháp đầu tư khai phá mở đồn điền trồng cao su. Những cuộc nhập cư cưỡng ép của cư dân người kinh từ các tỉnh phía Bắc vào Bình Phước liên tục diễn ra. Chính sách khai thác kinh tế của thực dân Pháp ở Bình Phước và sự cĩ mặt của người kinh, từ đây gĩp phần quyết định sự thay đổi lịch sử phát triển kinh tế – xã hội của một vùng đất heo hút, âm u đến chết người. 1.3. PHÁP XÂM LƯỢC BÌNH PHƯỚC VÀ CHÍNH SÁCH KHAI THÁC BƯỚC ĐẦU CỦA THỰC DÂN PHÁP 1.3.1. Thực dân Pháp xâm lược Bình Phước Thực dân Pháp sau khi thất bại ở Đà Nẵng (9 - 1858), liền chuyển hướng xâm lược nước ta về phía Nam (2 - 1859), nhằm cắt đứt nguồn viện trợ lương thực từ phía Nam cho triều đình Huế. Tại Gia Định, quân Pháp đã vấp phải cuộc chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân do Nguyễn Tri Phương chỉ huy tại Đại đồn Chí Hịa (2 - 1861). Tuy nhiên, ưu thế về quân sự của quân Pháp cộng với thái độ thiếu quyết đốn về đường lối đánh giặc của triều Nguyễn đã tạo cơ hội cho thực dân Pháp nhanh chĩng lần lượt chiếm ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ (4 - 1861 đến 3 - 1862), buộc triều đình nhà Nguyễn giao nộp miền Đơng Nam Kỳ cho Pháp (Hịa ước ký ngày 5 tháng 6 năm 1862) và tiếp sau đĩ là chiếm nốt miền Tây Nam Kỳ (6 - 1867). Mưu đồ xâm chiếm vùng đất phía Nam nước ta của thực dân Pháp khơng chỉ dừng lại ở việc vơ vét vựa lúa ở miền Tây Nam Kỳ. Vùng Đơng Nam Kỳ lúc bấy giờ dù khí hậu, đất đai kém màu mỡ, thiên nhiên khắc nghiệt hơn, song vẫn bị thực dân Pháp đặt trong kế hoạch xâm chiếm mang tính chiến lược lâu dài. Căn cứ vào tình hình thực tế kinh tế - xã hội của mỗi vùng thổ nhưỡng và đặc điểm dân cư mà chúng cĩ kế hoạch xâm chiếm, cai trị và đầu tư khai thác cụ thể. Đối với vùng cao nguyên Nam - Trung Bộ bao gồm tỉnh Bình Phước hiện nay, lúc bấy giờ cĩ nhiều tộc người dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ tổ chức quản lý xã hội cịn thấp, giữa các tộc người chẳng mấy khi khơng xảy ra xung đột vì tranh giành nguồn nước sinh hoạt hoặc đất đai canh tác. Bộ tộc Stiêng được nhận định là vượt trội hơn các tộc người khác về trình độ phát triển xã hội. Tuy vậy, trình độ sản xuất kinh tế cịn trong tình trạng nguyên thuỷ, chủ yếu sống bằng nghề nơng theo kiểu canh tác du canh du cư, cơng cụ lạc hậu thơ sơ. Ví dụ, từ năm 1861 đến năm 1936, thực dân Pháp nhiều lần tổ chức du thám tìm cách thâm nhập, cai trị vùng đất sinh sống của người dân tộc thiểu số ở Bình Phước. Thành phần tham gia vào những cuộc “bình định” gồm các giáo sỹ đạo Ki - tơ, các sỹ quan quân đội, cả những nhà buơn. Hoặc từ những năm sáu mươi của thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã bỏ nhiều cơng sức nghiên cứu về đời sống, ngơn ngữ, xã hội tộc người dân tộc thiểu số tại chỗ, nhằm phục vụ cho việc xâm chiếm. Henri Maitre đã ghi nhận, vào năm 1912, sự thù địch của người dân tộc thiểu số đối với người Âu rất quyết liệt. Dân làng lùa trâu cho chúng tấn cơng vào các lều ở của quân đội du thám, khiến họ buộc phải bỏ bớt lại hành lý để tháo chạy về lưu vực sơng Jermang và vùng Kratié. Những tên thực dân Pháp tham gia cuộc du thám khi ấy đã phải sử dụng voi, dân vệ là người Mnơng và người Cam- bốt để xâm nhập vào nơi cư trú của người Stiêng [97, tr 96 – 97]. Từ năm 1874 đến năm 1915, kế hoạch mở rộng tỉnh Thủ Dầu Một về phía bắc được thực hiện bằng hoạt động xâm nhập vào nơi cư trú của người Stiêng. Quá trình xâm nhập của thực dân Pháp đã vấp phải sự phản kháng quyết liệt của cộng đồng tộc người. Điển hình là phong trào nổi dậy của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi Bà Rá, Phú Riềng, Hớn Quản, Lộc Ninh kết hợp với nghĩa quân của N’Trang Lơng nổ ra vào năm 1912 [10, tr 29 – 30]. Năm 1914, dân trong làng đốt Bu- sra, B. Mara, Bu pu Khia và Srèktum, giết chết viên sĩ quan tên là Maitre và 40 lính tự vệ [108, tr 7] và khởi nghĩa của Điểu Dố ở Hớn Quản (1908 – 1923). Các vụ bạo động của người Stiêng chống lại thực dân Pháp làm giảm bớt tiến độ xâm lấn vào xứ sở của họ, buộc người Pháp chỉ tập trung vào quản lý những vùng đã thu phục. Mãi đến năm 1928, chính quyền thực dân mới tiếp ._.(Biên Hịa: Sơng Bé – Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 28. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 29. Nguyễn Đình Đầu (1999), Chế độ cơng điền cơng thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 30. Trần Bạch Đằng (1999), “Bình Dương 300 năm tiếp cận một vùng đất năng động”, in trong sách Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu, Sở Văn hố Thơng tin tỉnh Bình Dương, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr 11- 19. 31. Hồ Sơn Đài (1999), “Về phong trào cơng nhân cao su Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống thực dân Pháp”, in trong sách Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu, Sở Văn hố thơng tin tỉnh Bình Dương, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr 77 - 85. 32. Trần Ngọc Định (1970), Chế độ sở hữu ruộng đất lớn ở Nam Bộ trong thời đế quốc Pháp thống trị, NCLS số 132 tháng 5 – 6, tr 81 – 90 và 113. 33. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp cơng nhân Việt Nam từ Đảng Cộng Sản thành lập đến cách mạng thành cơng, tập II (1936 – 1939), Nxb Sử học, Hà Nội. 34. Lưu Hùng (1987), Vài nét về làng Tây Nguyên, NCLS số 1 (232 – 233) tháng 1 – 2, tr 92 – 104. 35. Lưu Hùng (1992), Tìm hiểu thêm về một khía cạnh của xã hội cổ truyền trong các tộc người bản địa Trường Sơn – Tây Nguyên: Sự nảy sinh quan hệ bĩc lột, NCLS số 2 (261), tháng 3 – 4, trang 57 – 65. 36. Lưu Hùng (1993), Tìm hiểu thêm về một khía cạnh của xã hội cổ truyền trong các tộc người bản địa ở Trường Sơn – Tây Nguyên: Chế độ sở hữu, NCLS số 4 (269), tháng 7 – 8, tr 59 – 66. 37. Lê Huỳnh Hoa (1997), Cây cao su đặc sản của vùng Đơng Nam Bộ, Xưa và nay, số 45b tháng 11, tr 21 – 22. 38. Lê Huỳnh Hoa (2003), Cảng Sài Gịn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc (giai đoạn 1860 – 1939), Luận án Tiến sỹ Khoa học Lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh. 39. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Chủ nghĩa Xã hội khoa học (chương trình cao cấp), tập 2, in lần thứ năm, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 40. Hà Minh Hồng (1999), Phú Riềng Đỏ phong trào cơng nhân miền Đơng Nam kỳ, NCLS số 4(305), tr 42 - 47. 41. Bùi Thị Huệ (2003), Những biến đổi kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc, giai đoạn 1897 – 1939, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 42. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2005), Việt Nam qua bưu ảnh cổ, tạp chí Xưa và Nay số 229 – 230, tháng 1 – 2, Xuân Ất Dậu. 43. Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương (2007), Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh, Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương. 44. Lê Khoa (1969), Tình hình kinh tế Đơng Dương(1900 – 1939) và kế hoạch tái thiết, trang bị canh tân Đơng Dương 1948, nguyên tác của Uỷ ban kế hoạch Pháp, Lê Khoa dịch và bình. 45. Jean – Pierre Aumiphin (1994), Sự hiện diện tài chính và kinh tế Pháp ở Đơng Dương (1859 – 1939), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội. 46. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 47. Huỳnh Lứa (1993), Lịch sử phong trào cơng nhân cao su Việt Nam (1906 – 1990), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 48. Đinh Xuân Lâm (1987), Nơng thơn Việt Nam trong thời kỳ cận đại, NCLS số 1 (232- 233), tháng 1 – 2, tr 26 - 32 và 53. 49. Đinh Xuân Lâm (cb) (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, in lần III, Nxb Giáo dục. 50. Ngơ Văn Lý (1994), Xã hội tộc người Stiêng qua tập quán Pháp, Luận án Phĩ Tiến sỹ Khoa học Lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. 51. V.I.Lênin (1980), Tồn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tập 20. 52. Đinh Văn Liên (1985), “Đặc điểm mơi sinh và dân số của người Stiêng”, in trong sách Vấn đề dân tộc ở Sơng Bé, Nxb Tổng hợp Sơng Bé, tr 41 – 64. 53. C.Mác, Ăngghen, Lê-nin, J.Stalin (1972), Vấn đề kinh tế địa phương, Nxb Sự thật. 54. C.Mác (1986), Tư bản phê phán khoa kinh tế chính trị, tập III, quyển III: Tồn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, phần 1 (chương I – XXVIII), Engels biên tập, Nxb Tiến bộ Matxcơva, Sự thật, Hà Nội. 55. C.Mác và Ph. Ăng – ghen (1993), Tồn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, Hà Nội. 56. Sơn Nam (1991), “Truyền thống văn hố”, in trong sách Địa chí tỉnh Sơng Bé, Nxb Tổng hợp Sơng Bé, tr 329 – 394. 57. Thành Nam (1982), Phong trào đấu tranh cách mạng của cơng nhân cao su miền Đơng Nam Bộ, Nxb Lao động. 58. Trần Thị Bích Ngọc (1985), Tình hình sản xuất lúa gạo ở Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc (1862 – 1945), NCLS số 5 (224) tháng 9 -10, tr 55 - 62. 59. Nguyễn Phong (1963), Tư bản thực dân Pháp và vấn đề cao su ở miền nam Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội. 60. Vũ Huy Phúc (1986), Thái độ của thực dân Pháp đối với vấn đề ruộng đất ở Nam Kỳ vào nửa cuối thế kỷ XIX, NCLS số 5 (230), tr 27 – 38 và 77. 61. Vũ Huy Phúc (1994), Đồn điền – một loại hình tổ chức sản xuất nơng nghiệp quan trọng nửa đầu thế kỷ XIX, NCLS số 3 (274), tháng 5 – 66, tr 20 – 25. 62. Quốc Sử quán triều Nguyễn (1959), Đại Nam nhất thống chí (lục tỉnh Nam Việt), Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, in lần I, tập thượng. 63. Nguyễn Phan Quang (1999), “Lịch sử tỉnh Bình Dương (qua niên giám và địa chí Thủ Dầu Một của thực dân Pháp)”, in trong sách Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu, Sở Văn hố thơng tin tỉnh Bình Dương, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 67 – 76. 64. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2000), Lịch sử Việt Nam từ nguồn đến năm 1884, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 65. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (cb, 1997), Tình hình ruộng đất nơng nghiệp và đời sống nơng dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hố. 66. Lê Quốc Sử (1998), Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia. 67. Phạm Quang Trung (1985), Chính sách vơ vét lúa gạo của tư bản Pháp và quá trình phát triển của giai cấp địa chủ ở Nam Kỳ trong thời Pháp thuộc, NCLS số 6d (225), tháng 11- 12, tr 25 - 31. 68. Phạm Quang Trung (1988), Sắc luật 21 – 7 – 1925 của thực dân Pháp với vấn đề sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ ở Nam Kỳ trong thời Pháp thuộc, NCLS số 3 + 4 (240 + 241), tháng 5 – 8, tr 61 – 65. 69. Vũ Quốc Thúc – cb (1951), Phổ thơng, Tịa báo 59 b phố Cửa nam, Hà Nội, tháng 9 - 10 , số 1 -2. 70. Tạ Thị Thuý (1988), Việc thiết lập đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ trong giai đoạn 1884 – 1896, NCLS số 1 – 2 (238 – 239), tháng 1 – 4, tr 98 – 107. 71. Tạ Thị Thuý (1988), Về tầng lớp chủ đồn điền người Pháp ở Bắc Kỳ trong giai đoạn 1884 – 1896, NCLS số 5 – 6 (242 -243), tr 98 – 107. 72. Tạ Thị Thuý (1991), Vài nét về việc khai thác và sử dụng đất đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ giai đoạn 1884 – 1896, NCLS số 2 (255), tháng 1 – 2, tr 50 – 60 và 66. 73. Tạ Thị Thuý (1991), Việc sử dụng nhân cơng đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ giai đoạn 1884 – 1896, NCLS số 4 (257) tháng 7- 8, tr 25 – 34. 74. Lưu Huỳnh Thống (1991), “Lịch sử đấu tranh cách mạng Sơng Bé 1920 – 1945”, in trong sách Địa chí tỉnh Sơng Bé, Nxb Tổng hợp Sơng Bé, tr 395 – 561. 75. Nguyễn Đình Tư (1999), Tây Nguyên xưa và nay, tạp chí Xưa và Nay, số 61b, tháng 3, trang 7 -8 và 14. 76. Nguyễn Đình Tư (1999), Quá trình diên cách tỉnh Bình Phước, tạp chí Xưa và Nay số 69, tháng 11, trang 19 – 20. 77. Nguyễn Thị Mộng Tuyền (2003), Phong trào đấu tranh của cơng nhân cao su Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Lao động. 78. Trần Nam Tiến (2004), “Vài nét về nơng nghiệp Bình Dương từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX”, in trong sách Nam Bộ đất và người, tập 2, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr 130 - 142. 79. Đặng Văn Thắng (2004), “Gốm thời Nguyễn (1802 – 1945)”, in trong sách Nam Bộ đất và người, tập III, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tr 525 -548. 80. PGS. TS Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội (sách chuyên khảo), Nxb Lý luận Chính trị. 81. Trần Kim Thạch, Lê Cơng Kiệt (1991), “Sơng Bé nhìn từ khía cạnh tự nhiên”, in trong sách Địa chí tỉnh Sơng Bé, Nxb Tổng hợp Sơng Bé, tr 9 – 93. 82. Đặng Văn Vinh (2000), 100 năm cao su ở Việt Nam, Nxb Nơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. 83. 84. 85. II. TÀI LIỆU TIẾNG PHÁP 86. Annuaire Général de l’ Indochine, partie administrative, 1915. 87. Annuaire Général de l’ Indochine 1917. 88. Annuaire Général de l’ Indochine 1925. 89. Annuaire du Syndicat des Plantations du Caoutchouc de l’Indochine, Saigon, 1931, 92p, 47 ill. 90. Annuaire du Syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine, Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, Janvier 1927. 91. P. Bernard (1934), Le problème économique Indochinois, Paris. 92. A. Baudrit (1936), Le fameux Song Be, BSEI, Nouv, Série, t.XI, N0 .5, Sài Gịn. 93. Cochinchine 1931, SaiGon, P.Gastaldy. 94. Gerber Th. H (1951), Coutumier Stieng, BEFEO, tome XLV, t.XXI, Fasc. 1, Paris. 95. Gouvernement de L’Indochine (1927), Annuaire Economique de L’Indochine 1926 -1927, Première Partie, Imprimerie D’Extrême – Orient, Editeur. 96. La Cochinchine: Album Général illustré de 456 gravures sur cuivre – Saigon, Edition Photo Nadal, s.d.(c.1926). 97. Henri Maitre (1912), Les Jungles Moi, Paris, Larose. 98. Monographie de la Province de ThuDauMot, Bulletin de la Société des Études Indochinoises de SaiGon, SaiGon Imprimerie F.H. Schneider, 1910. 99. Paul Patter (1906), Hinterland Moi, Pais, Plon-Nourrit. III. TÀI LIỆU LƯU TRỮ (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II tại Thành phố Hồ Chí Minh). 100. Hồ sơ số IN 232, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 101. Hồ sơ số N5/61, tài liệu của ơng Edmond Charle về cao su Brasiliensis trồng ở Đơng Dương năm 1912, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 102. Hồ sơ số IA3/228, Rapports économiques: ler semestre, 1918, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 103. Hồ sơ số IA3/232, Rapports économiques: ler, 2 è semestre, 1924, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 104. Hồ sơ số N5/57, tài liệu về cao su trồng tại các sở cao su tại Nam Kỳ của ơng Morange và Lan năm 1910, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 105. Hồ sơ số N0/51, ngày 30/11/1942, đồn điền cao su tại Cao Miên và Nam Kỳ, nhân viên, sản xuất, chăn nuơi và diện tích trồng cây năm 1942, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 106. Hồ sơ số L4/111, ngày 28/2/1950, báo cáo kinh tế của Tỉnh trưởng tỉnh Thủ Dầu Một, năm 1949 – 1950, phơng Phủ Thủ hiến Nam Việt. 107. Hồ sơ số L4/124, ngày 26/11/1943 (Cơng văn mật của chủ tỉnh Thủ Dầu Một gửi Thống đốc Nam Kỳ) về hoạt động kinh tế của Nhật tại Nam Kỳ năm 1943, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 108. Hồ sơ số E02/73, địa phương chí tỉnh Thủ Dầu Một năm 1937, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 109. Hồ sơ số N5/56, vấn đề cao su ở Nam Kỳ, phúc trình cho Thống đốc Nam Kỳ, năm 1910, phơng phủ Thống đốc Nam Kỳ. 110. Hồ sơ số D073, hồ sơ về việc khai thác xứ Nam Kỳ năm 1930, phơng phủ Thống đốc Nam Kỳ. 111. Hồ sơ số M11/51, quy định về việc sử dụng nhân cơng người Mọi ở Nam Kỳ năm 1944, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 112. Hồ sơ số E02/30, dân số các tổng, mật độ dân số từng tỉnh. Diện tích và số khu hành chính của các tỉnh Nam Kỳ năm 1936, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 113. Hồ sơ số N5/47, các đồn điền cao su tại Nam Kỳ năm 1936, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 114. Hồ sơ số T15/17( 9525(15) (thuế đất trồng cây cao su, thông tư số 3349 ngày 15 - 4 năm 1931), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 115. Hồ sơ số T15/4 (miễn thuế thổ sản cho những sở đất mới trồng cao su lại, 1939), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 116. Hồ sơ số N9/56 (thành lập phân bộ kiểm lâm ở Lộc Ninh (TDM), 1947). 117. Hồ sơ số N93/13 (khai thác rừng cấm số 1 và 170 ở Thủ Dầu Một, năm 1944), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 118. Hồ sơ số N93/83 (cho O. Schohn khai thác dài hạn rừng cấm số 506 ở Bù Đốp, 1948), phơng Phủ Thủ hiến Nam Việt. 119. Hồ sơ số H02/153 (cấm các loại xe bò chở nặng lưu thông trên một đường ở Tây Ninh, Biên Hoà và Thủ Dầu Một, 1938), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 120. Hồ sơ số H02/51 (cấm xe cam nhông và xe bò có bánh niền sắt lưu thông trên vài đoạn đường tỉnh Tây Ninh, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, năm 1939), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 121. Hồ sơ số H02/43 (cấm xe cam nhông và xe bò có bánh niền sắt lưu thông trên vài đoạn đường tỉnh Thủ Dầu Một, năm 1941), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 122. Hồ sơ số H02/36 (cấm xe cam nhông và xe bò có bánh niền sắt lưu thông trên vài đoạn đường tỉnh Thủ Dầu Một, năm 1942), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 123. Hồ sơ số H02/60 (cấm xe cam nhông và xe bò lưu thông trên đường địa hạt Tây Ninh, Biên Hoà và Thủ Dầu Một, năm 1944), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 124. Hồ sơ số H02/92 (cấm ngặt lưu thơng bằng xe hàng và xe bị trên đường Biên Hịa -Tây Ninh và Thủ Dầu Một vào mùa mưa, 1945), phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 125. Hồ sơ số E02/129, thành lập tổng và làng Mọi tại quận Bù Đốp (Thủ Dầu Một), năm 1945, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. 126. D0/77, tổ chức làng Mọi, năm 1943, phơng Phủ Thống đốc Nam Kỳ. PHỤ LỤC Phụ lục 1 Tên gọi các tổng và làng của người dân tộc thiểu số năm 1910 Nguồn: Monographie de la Province de ThuDauMot (Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một), Bulletín de la Société des études Indochinoises de SaiGon, SaiGon Imprimerie F.H. Schneider, 1910, tr 768. Vị trí các tổng của người thiểu số thuộc tỉnh Thủ Dầu Một vào năm 1910 (gồm các tổng Minh Ngãi, Quản Lợi, Cửu An và Thanh An) Nguồn: Monographie de la Province de ThuDauMot (Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một), Bulletín de la Société des Études Indochinoises de SaiGon, SaiGon Imprimerie F.H. Schneider, 1910, tr 768. Vị trí các tổng của người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước vào năm 1910 Nguồn: Monographie de la Province de ThuDauMot (Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một), Bulletín de la Société des Études Indochinoises de SaiGon, SaiGon Imprimerie F.H. Schneider, 1910. , tr 49. Phụ lục 2 Dân số tổng Hớn Quản năm 1915 Nguồn: Annuaire Général de l’ Indochine (Tổng niên giám Đơng Dương năm 1915), Partie administrative, 1915, tr 148. Dân số tổng Hớn Quản năm 1915 Nguồn: Annuaire Général de l’ Indochine (Tổng Niên giám Đơng Dương năm 1915), Partie administrative, 1915, tr 149. Phụ lục 3 Số lượng các làng và dân số của tổng Hớn Quản, Bù Đốp năm 1928 Nguồn: Nguyễn Văn Của (1928), Thời sự cẩm nang tuế thứ Mậu thìn niên (Vade Mecum Annamite Administratif, Commercial, Agricole et Littéraire, 1928), SaiGon, Imprmerie de l’Union Nguyễn Văn Của, 13. rue Lucien Mossard. 13, tr 545. Các đơn vị hành chính của hạt Bù Đốp, tổng Thanh An năm 1928 Phụ lục 4 Vùng trồng lúa và cao su ở Đơng Dương năm 1931 Nguồn: Nguyễn Văn Của (1928), Thời sự cẩm nang tuế thứ Mậu thìn niên (Vade Mecum Annamite Administratif, Commercial, Agricole et Littéraire, 1928), SaiGon, Imprmerie de l’Union Nguyễn Văn Của, 13. rue Lucien Mossard. 13. tr 552. Nguồn: Cochinchine 1931, SaiGon, P.Gastaldy. Phụ lục 5 Bản đồ vị trí các trung tâm và nhà ga thời Pháp thuộc Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ số N5/47, phơng Phủ Thống đốc Nam Kì. Phụ lục 6 Sơ đồ đồn điền Quản Lợi Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ kí hiệu N0/51, phơng Phủ Thống đốc Nam Kì. Phụ lục 7 Nghị định của Chính phủ thuộc địa, ban hành ngày 3 tháng 1 năm 1945, về việc phân chia các làng người dân tộc thiểu số ở hạt Bù Đốp. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ số E02/129, phơng Phủ Thống đốc Nam Kì . Danh mục các làng người dân tộc thiểu số ở hạt Bù Đốp năm 1945 Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ số E02/129, phơng Phủ Thống đốc Nam Kì. Phụ lục 8 Quyết định của Tồn quyền Decoux ban hành về tổ chức các làng người dân tộc thiểu số, kí tại Đà Lạt vào ngày 11 tháng 6 năm 1943 Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ ký hiệu D0/77, phơng Phủ Thống đốc Nam Kì. Phụ lục 9 Một làng của người dân tộc thiểu số những năm 1925 – 1930 Nguồn: Phụ nữ người dân tộc thiểu số (1925 – 1930) Nguồn: Phụ lục 10 Nhà ở của cơng nhân làm việc tại các đồn điền cao su Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 10. Cơng ty nơng trường An Lộc: tồn cảnh về nhà máy và chợ Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 11. Máy cán, thùng đựng làm đơng đặc mủ cao su Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 12. Cao su trồng cĩ khoảng cách 10 m Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 14. Đồn điền Lộc Ninh nằm trên đường thuộc địa số 13: tồn cảnh đồn điền và nhà ở. Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 136. Đồn điền Lộc Ninh vào năm 1913, cây đã khai thác mủ ở năm thứ 7 Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 139. Đồn điền Lộc Ninh, vườn rau Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 141. Đồn điền Quản Lợi, cao su chín tuổi. Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 166. Đồn điền Quản Lợi, phịng đơng mủ Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 170. Đồn điền Quản Lợi, nhà máy Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 168. Đồn điền Quản Lợi, làng của cơng nhân quê miền Bắc Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 166. Đồn điền Xa Cam, khai hoang Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 175. Đồn điền Xa Cam, vườn ươm cây Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 177. Đồn điền Xa Cam, nhà ở của cơng nhân Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 174. Đồn điền Xa Trạch, cao su chín tuổi Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 179. Đồn điền Xa Trạch, làm đơng mủ Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 180. Đồn điền Xa Trạch, nhà máy Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 183. Đồn điền Xa Trạch, nhà sấy mủ Nguồn: Annuaire du syndicat des planteurs de caoutchouc de L’Indochine (Niên giám Hiệp hội những nhà trồng cao su ở Đơng Dương), Siège social: 21, rue Chasseloup – Laubat, Saigon, adresse télégraphique: syndhévéa, France, Janvier 1927, pl. 181. Phụ lục 11 Bản đồ vị trí các tổng người dân tộc thiểu số vào năm 1917 Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr 77. Một số đơn vị hành chính của tỉnh Bình Phước, nằm trong địa giới tỉnh Biên Hịa thời Pháp thuộc Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 88. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 89. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 90. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 91. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 92. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 94. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 96. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 97. Tổng Bình Cách năm 1917 thuộc tỉnh Biên Hịa (thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay). Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 101. Tỉnh Bình Long thuộc tỉnh Biên Hịa (1955 – 1975), gồm 3 quận là An Lộc, Chơn Thành và Lộc Ninh với tổng số 29 xã (thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay). Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 109. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 110. Tỉnh Phước Long thuộc tỉnh Biên Hịa (1955 – 1975), gồm 4 quận là Bố Đức, Đơn Luân, Đức Phong và Phước Bình với tổng số 18 xã (thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay). Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 111. Tỉnh Phước Long thuộc tỉnh Biên Hịa (1955 – 1975), gồm 4 quận là Bố Đức, Đơn Luân, Đức Phong và Phước Bình với tổng số 18 xã (thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay). Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 112. Tỉnh Bình Phước là các huyện miền núi phía bắc tỉnh Sơng Bé (1975 – 1997) Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 115. Nguồn: Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Biên Hịa: Sơng Bé, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 116. Phụ lục 12 Bản đồ hành chính tỉnh Bình Phước Nguồn: Lê Phước Dũng (2007), Tập bản đồ hành chính 64 tỉnh, thành phố Việt Nam, tái bản lần thứ nhất, Nxb Bản đồ, tr 61. Phụ lục 13 Các chức sắc ở Hớn Quản Nguồn: “Việt Nam qua bưu ảnh cổ”, Tạp chí Xưa và Nay số 229 – 230, tháng 1 – 2, Xuân Ất Dậu 2005, trang 29. Phụ lục 14 Thuyền buơn vận chuyển tre, nứa từ rừng ở Bình Phước (phía bắc) về các huyện phía nam của tỉnh Thủ Dầu Một Nguồn: Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương (2007), Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh,, tr 21. Nguồn: Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương (2007), Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh, tr 31. Phụ lục 15 Vườn trồng dây Va-ni ở Hớn Quản Nguồn: Người dân tộc thiểu số cư trú ở Bù Đốp Nguồn: Phụ nữ người dân tộc thiểu số cư trú ở Hớn Quản dệt vải Nguồn: Phụ nữ người dân tộc thiểu số kéo sợi Nguồn: Người dân tộc thiểu số ở Hớn Quản đầu thế kỷ XX Nguồn: Phụ lục 16 THỐNG KÊ TÊN GỌI CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC THỜI PHÁP THUỘC ( 1862 – 1945) Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu được trích trong Phụ lục TÊN GỌI CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH NĂM TỔNG LÀNG Số làng Minh - Ngãi Làng An Lộc, Bình Ninh, Bình Phú, Bình Quới, Bình Tây, Ca – la – hơn, Phú Lỗ, Phú Miêng. Cửu - An Làng Võ Dực, Võ Tùng 2 Quản -Lợi Làng Đơng Phát, Đơng – Tựu, Hớn Quản, Lâm – Trang, Lịch – Lộc, Lơi – Sơn, Lộc – Khê , Lương – Mã, Văn – Hiên, Xa – Trạch. 10 Thành -Yên Làng Nha – Bích, Nha – Nơi, Vật – Tuốt, Việt – Rơn, Xa – ben. 5 Lộc - Ninh Làng Mỹ – Lộc, Lộc – Ninh, Lộc – Hưng, Thái – Bình, Gia Lộc, Mỹ –Thạnh, Xa – Cau, Bảo – Núi. 8 1896 Hạt Thủ Dầu Một Phước - Lễ Làng Bình – Thành, Xa – Prum, Xa –pech, Xa- dập, Xa-sech, Xa –diup, Xa-cay, Xa –cuơt, Xa- breat. 9 Cửu An Võ Đức, Võ Tùng 2 Lộc Ninh Lộc Bình, Lộc Hưng, Mỹ Thạnh, Mỹ Lộc, Phước Lộc và Tân Lập. 6 Minh Ngãi An Lộc, Bình Ninh, Bình Phú, Bình Quới, Bình Tây, Dang Sa, Liên Đã, Lương Võ, Nguyên Phong, Calahơn, Sơn Đước, Song La, Song Lê và Trà Thanh. 14 Phước Lễ Bình Thạnh, Phước Hồ, Talawa, Phước Lộc, và Thanh An. 5 1910 Quản Lợi Đơng Phát, Đơng Tựu, Hớn Quản (lỵ sở), Lâm Trang, Lịch Lộc, Lộc Khê, Lộc Sơn, Lương Mã, Văn Hiến và Xa Trạch. 10 Thanh An Nha Bích, Nha Mơi, Vật Tuất, Việt Ron và Xả Ben. 5 Cửu An Võ Đức, Võ Tùng 2 Lộc Ninh Lộc Bình, Lộc Hưng, Mỹ Thạnh, Mỹ Lộc, Phước Lộc và Tân Lập. 6 Minh Ngãi An Lộc, Bình Ninh, Lương Vơ, Bình Tây, Bình Phú, Bình Quới, Đà Xá, Sơn Dược, Phú – Miêng, Calahơn, Xuân La, Sơn Lê và Trà Hanh. 13 Phước Lễ Bình Thạnh, Phước Hồ, Phước Đơng, Phước Lộc và Thanh An. 5 Quản Lợi Đơng Phát, Đơng Tựu, Hớn Quản, Lâm Trăng, Lịch Lộc, Lộc Khê, Lơi Sơn, Lương Mã, Văn Kiên và Xã Trạch. 10 1917 Thanh An Nha Bích, Nha Nơi, Vật Tuốc 2, Vật Ray và Chà Là. 5 Tổng Cửu An: làng Võ Đức, Võ Tùng 2 Tổng Quản Lợi: làng Đơng Phất, Đơng Hựu, Hớn Quản, Lịch Lộc, Lâm Trang, Lộc Khê Lương Mã, Vân Kiên và Xa Trạch. 10 Tổng Minh Ngãi: Làng An Lộc, Bình Ninh, Bình Quới, Bình Phú, Bình Tây, Đàng Xá, Kalahon, Lương Vị Phú Miêng, Sơn Đước, Sơn Lê và Trà Thanh. 12 Tổng Phước Lễ: Làng Bình Thạnh, Phước Đơng, Phước Hồ, Phước Lộc, Thanh An và Xor nut. 6 Quận Hớn Quản Tổng Lộc Ninh: Làng Lộc Ninh, Lộc Hưng, Mỹ Khánh, Mỹ Lộc, Phước Lộc và Tân Lộc 6 1928 Quận Bù Đốp Tổng Thanh An: làng Bình Thạnh, Phước Đơng và Phước Hồ 3 Nhĩm Minh Thành: Làng Pra xoai, Trao Nghiêm, Khoet và Búk. 4 Nhĩm Phước Đơng: Làng Pênơng, B.Yor và B.Kơnara. 3 Nhĩm Phước Hồ: B.Nui Pol, B. Nui Uăt, B. Raơi, B. Kõhor, B.Brơlam, B.Djeng, B.Nui và B.Mria. 8 Tổng Phước Lễ Nhĩm Thanh An: B. CăngRak, B.Tombor Xrim, B.Tombor Gruy, B.Gênau Xret và B. Brơlin. 5 Nhĩm Phước Lộc: Budop, B.Yay, B. Xabơr, B.Djonong, B.Yol, B.Kangrong và B.Nui 7 Tổng Djerman Nhĩm Djerman: B.Djerman, B.Kandơn và B.Yu. 3 Nhĩm Pon – Yor: Làng B. Kasê, B. Yam Phut, B.Tong Yul và B. Gir. 4 Tổng Dak- Huyt Nhĩm Dag – Song: Làng B. (chữ mờ khơng rõ) B. Na, B. Nsêr, B.Kllin, B.Blao.Pung, B.Lnieng và B.Nung. 8 Nhĩm Bu – Tuk: Làng B.Srang, B.Tuk, B. Srih, B. Culung, B.Rtăk, B.Srơ- Viet, B.Mbor, B.Wiăl, B. Kamau, B. Tuk Bik và B.Dung. 11 Nhĩm Taniăng: B.Prỡdok, B.Yam, B.Kêl, B.Mãrnet, B.Klot, B.LoXun và B.Ter ny. 7 1945 Tổng Srỡlỡn Nhĩm Bu –Yu: Làng B.Yu, B.Pỡng, B.Rsam, B.Rlơ, B.Ndăt và B.Brên 6 Tổng Bu - Yu Làng B.Rõit, B.Mlor, B.Rung, B.Srê, B.Brun, B.Rdoăh, B.Rla, B.Dieng, Rbang, B.Dieng Du và B.Dieng Rhat. 10 Tổng Bu -Krak Làng B.Prang, B. Chop, B.Ong, B.Krak, B.Huyt, B.Năr, B.Nrang, B.Ya và B.Rkul. 9 Tổng Dag - Yol Làng B.Chop, B.Yoktung, B.Mblum, B.Rmot, B.Mỡ, B.Nơr và B.Dăng. 7 Làng người Khmer Chang hai, Koprey, Dêkrohom, Tanlăp và Srok ner. 5 Thống kê phản ánh ghi chép về số Tổng của tỉnh Thủ Dầu Một vào năm 1910 cĩ 13 tổng, trong đĩ cĩ 6 tổng Việt gồm 77 làng và 7 tổng người dân tộc thiểu số với 47 làng. Thống kê thực tế tài liệu Niên giám 1910 cĩ ghi: Thủ Dầu Một năm 1910 chỉ cĩ 6 tổng Việt gồm 76 làng và 6 tổng người dân tộc thiểu số. Tổng Bình – Thổ của người kinh tài liệu thống kê cĩ 14 làng, song chỉ liệt kê tên của 13 làng. Tổng Quản – Lợi thống kê 10 làng, liệt kê chỉ cĩ 9 làng, tổng Phước Lễ thống kê 9 làng và liệt kê chỉ cĩ 8 làng. Tổng Than – An và tổng Thanh – Gin cĩ cùng số đơn vị và tên gọi các làng. Do vậy chúng tơi đi đến kết luận: Tỉnh Thủ Dầu Một năm 1910 cĩ 6 tổng Việt gồm 76 làng và 6 tổng người dân tộc thiểu số gồm 40 làng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5166.pdf
Tài liệu liên quan