Những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết và xử lý nợ quá hạn trong hệ thống NHTM

Lời giới thiệu : Rủi ro luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, điều đó lại càng có thể dễ xảy ra trong lĩnh vực kinh doanh. Chấp nhận rủi ro trong kinh doanh là quy luật tất yếu của các thương gia từ ngàn xưa, đây là một quy luật song hành “lợi nhuận càng tăng thì rủi ro càng cao”. Trong kinh tế thị trường thì rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, dưới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu sự tác động và chịu tác động của môi truờng chính yếu và môi trường thứ yếu. Mối quan h

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết và xử lý nợ quá hạn trong hệ thống NHTM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ giữa hai môi trường này xoay quanh trung tâm hạt nhân “Vận hội và thách thức đối với các tổ chức kinh tế ” hay còn gọi là rủi ro môi trường. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu, xu hướng hợp nhất khu vực ngày càng phát triển, các vận hội sẽ xuất hiện, là thời cơ cho các ngân hàng lớn mạnh. Song bên cạnh đó cũng tồn tại song hành các nguy cơ rất lớn từ môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, cạnh tranh ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có phản ứng dây truyền, lây lan và ngày càng có những biểu hiện phức tạp. Rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là một phạm trù tiềm ẩn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và làm sai lệch, đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mà như chúng ta đã biết ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng, sự sụp đổ của ngân hàng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị và xã hội của của nước đó. Do vậy quản trị kinh doanh mà đặc biệt là quản trị rủi ro kinh doanh ngân hàng đóng vai trò quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị ngân hàng không chỉ diễn ra trên phương diện lý thuyết mà còn được áp dụng trong hoạt động thực tiễn của các ngân hàng thương mại. Trên thế giới lĩnh vực quản trị rủi ro ngân hàng đã đạt được đến trình độ tiên tiến và hiện đại, còn ở VN nó mới trong giai đoạn phôi thai mặc dầu trong những năm gần đây cùng với sự đổi mới của đất nước, hệ thống NHVN đã thu được những thành công đáng khích lệ. Nhìn chung thì những rủi ro đặc thù trong kinh doanh NH bao gồm: Rủi ro về lãi suất. Rủi ro ngoại hối. Rủi ro công nghệ và hoạt động. Rủi ro tín dụng. Rủi ro thanh khoản. Rủi ro hoạt động ngoại bảng. Rủi ro quốc gia. Tuy nhiên gần đây trong hệ thống ngân hàng thương mại VN đang tồn tại một vấn đề rất khó khăn. Đó chính là rủi ro tín dụng mà cụ thể hơn là tình trạng nợ quá hạn. Chính vì vậy ở đây em chỉ nghiên cứu, phân tích thực trạng nợ quá hạn của hệ thống NHTM VN hiện nay để hiểu một cách sâu sắc thực trạng này. Từ đó có thể đề ra một số biện pháp khắc phục nhằm làm cho hệ thống NHTM VN hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả hơn, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay. Đề án này của em được viết trong điều kiện nhận thức của bản thân chưa đầy đủ và sâu sắc, tài liệu tham khảo chưa phong phú nên không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong có sự góp ý và sửa chữa của Thầy, Cô giáo, cùng bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã trang bị kiến thức cho em, đặc biệt là Thầy giáo Đặng Ngọc Đức - Giáo viên trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề án này. Chương I: Lý luận chung về nợ quá hạn. I- Lý luận chung về nợ quá hạn: Hiệu quả hoạt động tín dụng là một chỉ tiêu tiến quyết đối với sự tồn tại và phát triển trong hoạt động NH. Khi hoạt động ấy ở mức cao thì bản thân những nội dung kinh tế và xã hội của nó sẽ tạo đà cho mọi hoạt động kinh doanh của NH tiến triển ngày một tốt đẹp. Ngược lại, hiệu quả của đồng vốn đạt thấp sẽ dễ dàng đưa ngân hàng đến thế bất ổn định và chậm phát triển. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nói như vậy để thấy rằng việc tăng cường quản lý chất lượng tín dụng tại các NHTM luôn là một yêu cầu bức thiết, là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng thương mại, cho ngành ngân hàng và rộng hơn là cho toàn bộ nền kinh tế. Phải nhìn nhận rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế nhiều rủi ro so với nhiều lĩnh vực kinh tế khác. Quan điểm này hết sức đúng đắn về cả mặt lý luận và thực tiễn. + Xét về mặt lý luận: Với đặc điểm kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, sản phẩm mà ngân hàng kinh doanh là một sản phẩm độc quyền “tiền tệ” và chỉ kinh doanh loại sản phẩm này. Kinh doanh tín dụng ngân hàng chỉ bán “ giá trị sử dụng tiền tệ” và giá bán “lãi suất” quyền sử dụng tiền tệ đó, thường rất nhỏ so với giá trị khoản vay, nên những khoản thu được là tương đối nhỏ so với cái đã mất. Bởi vậy kinh doanh ngân hàng cho đến nay chủ yếu vẫn là kinh doanh tín dụng và thường gặp rất nhiều rủi ro. + Xét về mặt thực tiễn: Quá khứ của những năm tháng qua đã chứng minh một cách “hùng hồn” hàng loạt các vụ phá sản của NH trên thế giới. Một số quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Pháp, Anh... cũng có nhiều vấn đề mà điển hình là sự sụp đổ của ngân hàng Baring, việc thất thoát của ngân hàng Daiwa... Hẳn chúng ta vẫn chưa quên cơn bão biển tín dụng trong những năm 1989-1990 làm cho hàng loạt các hợp tác xã tín dụng bị sụp đổ, nền tài chính trong trạng thái bị khủng hoảng, có nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế xã hội trong nước. Phải chăng tương lai chưa có gì đảm bảo chắc chắn cho một quá trình vận hành kinh tế thông suốt mà không gặp phải những cam go, điều này khẳng định thêm kinh doanh ngân hàng là một loại kinh doanh có nhiều rủi ro. Hoạt động tín dụng bao gồm cả huy động vốn và cho vay vốn. Trong cho vay bao gồm cả khâu cho vay, thu lãi thu vốn. Mong ước lớn nhất của các tổ chức tín dụng là thu về được vốn và lãi cho vay. Nhưng trên thực tế thì đó cũng chỉ là mong ước vì luôn luôn phát sinh rủi ro. Đối với từng món vay thì rủi ro là từ 0% đến 100%. Đối với một tổ chức tín dụng thì rủi ro cũng luôn luôn lớn hơn 0%. Nếu nợ đáo hạn mà không thu được thì coi là nợ quá hạn. Vậy thực chất của nợ quá hạn là gì ? II- Khái niệm nợ quá hạn: Nợ quá hạn trong kinh doanh của ngân hàng là hiện tượng mà khách hàng không trả được nợ gốc vay cho ngân hàng vào ngày đến hạn trả tuy đã cam kết trong khế ước vay trước đây. Nợ quá hạn có liên quan chặt chẽ đến rủi ro kinh doanh chính vì vậy ta cần tìm hiểu bản chất của rủi ro kinh doanh: + Rủi ro và kinh doanh là một cặp phạm trù, khi xuất hiện một công việc kinh doanh thì cũng bắt đầu cũng xuất hiện rủi ro. + Rủi ro và kinh doanh là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh. Chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn với nhau, chỉ khi nào kinh doanh khống chế được rủi ro thì kinh doanh mới tồn tại và phát triển được. + Trong quá trình kinh doanh rủi ro luôn phát sinh và tồn tại duới nhiều hình thức làm ảnh hưởng xấu đến quá trình kinh doanh. + Rủi ro trong kinh doanh có thể nhận thức được, dự đoán trước được và có thể khống chế được. Như vậy nợ quá hạn là một hiện tượng khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên với các ngân hàng khác nhau thì nó phụ thuộc vào nhận thức, vào dự đoán và hành động khống chế rủi ro của mỗi ngân hàng. III -Phân loại nợ quá hạn: Có nhiều cách phân loại nợ quá hạn: - Nếu chia theo khả năng thu hồi thì gồm: Nợ quá hạn thông thường: Đảm bảo đòi đủ 100%. Nợ quá hạn khó đòi: Khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài. Nợ quá hạn mất trắng. - Nếu chia theo nguyên nhân: Nợ quá hạn do mất khả kháng như do thiên tai, do thay đổi cơ chế chính sách, do khủng hoảng. Nguyên nhân không thuộc lỗi của bên cho vay và người đi vay. Nợ quá hạn do lỗi của người đi vay: Yếu kém về trình độ quản lý như yếu kém về trình độ quản lý, khả năng cạnh tranh hoặc cố tình không trả nợ... Nợ quá hạn do lỗi của người cho vay: Thường bao giờ cũng gắn với lỗi của người vay do có sự thông đồng, đồng tình. - Nếu chia theo thời gian: Nợ quá hạn dưới 180 ngày. Nợ quá hạn từ 181 ngày trở lên đến 360 ngày. Nợ quá hạn trên 360 ngày. - Nếu chia theo biện pháp bảo đảm tiền vay Nợ quá hạn có bảo lãnh của người hay bên thứ ba. Nợ quá hạn còn vật tư, hàng hoá tồn kho chờ bán và có tài sản hình thành từ vốn vay. Nợ quá hạn có tín chấp. Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quản. Nợ quá hạn có người thừa kế hợp pháp theo luật phải trả thay. - Nếu chia theo khả năng thu hồi vốn: Nợ quá hạn bình thường: Là nợ quá hạn do định kỳ cho vay sai thực tế, là nợ quá hạn có thời gian quá hạn dưới 6 tháng kể từ sau ngày đến hạn trả nợ. Nợ khê đọng: Là nợ quá hạn có thời gian quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng kể từ ngày sau ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa thu hồi được vốn vì đã tiềm ẩn những rủi ro. Nợ khó đòi: Là nợ quá hạn có thời gian quá hạn trên 12 tháng kể từ sau ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa thu hồi được vốn vì đã nảy sinh những rủi ro chưa khắc phục được. Nợ mất khả năng thu hồi vốn: Là nợ quá hạn không còn khả năng thu hồi vốn sau khi đã phân tích các khả năng thu hồi vốn. Như vậy nợ quá hạn nói chung mới chỉ thể hiện được một phần về chất lượng tín dụng mà chưa nói rõ đến khả năng mất vốn của ngân hàng, chỉ có loại nợ mất khả năng thu hồi vốn mới chỉ rõ phạm vi mất vốn của ngân hàng. Loại nợ quá hạn bình thường tức là loại nợ quá hạn dưới 6 tháng là có thể chấp nhận được trong điêù kiện tình hình kinh doanh ở nước ta hiện nay. Bởi vì khi chuyển đổi từ quan liêu bao cấp sang kinh doanh thì cũng phát sinh những yếu tố mới ảnh hưởng xấu đến quá trình kinh doanh mà ta chưa phát hiện và nắm bắt đươc kip thời. Đó là những yếu tố khách quan do thị trường gây ra. Khi nền kinh tế thị trường dần dần được hình thành rõ nét và ổn định thì mới có thể khống chế và giảm được các nợ quá hạn này. Các loại nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng và trên 12 tháng là những là những loại nợ đã tiềm ẩn những rủi ro đối với ngân hàng. Loại nợ quá hạn sau cùng mới là loại nợ mà mất khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Đối với loại nợ quá hạn này thì các ngân hàng được phép trích từ quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp. Hiện nay quỹ được hình thành từ lợi nhuận sau thuế 10% cho đến khi bằng vốn điều lệ của ngân hàng. Chương II: Thực trạng và nguyên nhân nợ quá hạn hiện nay Trong hệ thống NHTM VN. I –Thực trạng nợ quá hạn trong các NHTM hiện nay Nợ quá hạn là vấn đề của tất cả các ngân hàng trên Thế giới và cũng làm đau đầu những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này. Bản thân nợ quá hạn là hiện tượng tự nhiên, hợp với quy luật phát triển kinh tế gắn liền với rủi ro trong hoạt động ngân hàng- Một hoạt động kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Song vấn đề trở nên nghiêm trọng khi mức độ nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay vượt quá ngưỡng cho phép (Nhiều nhà kinh tế thống nhất ngưỡng an toàn này đối với một nền kinh tế là 3% - 5%). Vấn đề nợ quá hạn hiện nay còn liên quan đến mối quan hệ giữa nhà nước và hệ thống tài chính, tức là sự can thiệp và khả năng kiểm soát đối với hệ thống ngân hàng làm cho nợ quá hạn không còn mang tính chất thuần tuý kinh tế như trước đây. Trên Thế giới, theo Washington Post ngày 30/3/98 tình trạng nợ khó đòi của các nước Đông và Đông Nam á rất căng thẳng, đe doạ làm tan rã nền kinh tế toàn cầu. Nợ khó đòi của Thái Lan chiếm tới 30% tổng dư nợ và cần tới 15 tỷ USD để tái tạo vốn cho các ngân hàng, con số tương tự ở Hàn Quốc là 25% và 34 tỷ USD, ở Indonêxia là 70% và 20 tỷ USD. Số nợ không có hiệu quả ở các ngân hàng Nhật bản lên tới con số khổng lồ 500 tỷ USD. Vào tháng 1/1997 nợ quá hạn của Nga lên tới 522.000 tỷ Rbl, còn ở Trung Quốc nợ khó đòi chiếm khoảng 30% tổng tín dụng. Còn đối với VN thì đến cuối năm 1997 tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 10% trong khi đó số liệu công bố cuối năm 1996 là 5,7%. Một số đặc điểm về tình hình nợ quá hạn ở VN hiện nay: + Trong số nợ quá hạn hiện nay chủ yếu là phát sinh từ thời bao cấp. Trước đây cơ chế quản lý tín dụng mang hình thức cấp phát chứ không phải kinh doanh như hiện nay, nên đến nay phát sinh nợ quá hạn cũng là điều dễ hiểu. Còn những món nợ mới phát sinh trong thời kỳ thời gian gần đây phần lớn tập trung vào một số ít doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, quản lý kém do không theo kịp với sự chuyển đổi, đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường. Tất nhiên cũng phải kể đến những món nợ quá hạn do khách hàng lừa đảo hoặc cán bộ ngân hàng kém phẩm chất gây ra. Tuy nhiên số đó là rất ít so với tổng số nợ quá hạn của ngân hàng và càng ít hơn nữa trong toàn bộ khối lượng tín dụng của ngân hàng đã phát ra. + Hiện nay, nợ quá hạn là quá cao, hơn cả mức giới hạn cho phép là 5% đang làm cho hoạt động tín dụng trong các NHTM thiếu lành mạnh, rủi ro cao, gây ách tắc, ứ đọng vốn, đe doạ nền tài chính của cả hệ thống NHTM. Hơn nũa hiện tượng nợ quá hạn trong các NHTM lại đang có xu hướng tăng lên. Vấn đề quan trọng, đáng lo ngại đối với các NHTM hiện nay là chất lượng hoạt động tín dụng, tình hình nợ quá hạn trở nên khá phổ biến, tỷ trọng nợ quá hạn cao lại có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo của các ngân hàng nhà nước thì hầu hết các NHTM đều có nợ quá hạn. Trong toàn hệ thống NHTM, chỉ tính riêng nợ quá hạn khó đòi đã đạt tới con số hàng ngàn tỷ đồng. So với năm 1995, dư nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại quốc doanh tăng lên 1,18%, nhưng do dư nợ tín dụng tăng nên xét về số tuyệt đối thì dư nợ quá hạn của năm 1996 cao hơn mức dư nợ quá hạn của năm 1995 không phải là 1,18% mà lên tới 1,4%. Điều này càng cho thấy mức độ thiệt hại có thể xảy ra càng lớn, bởi lẽ dư nợ tín dụng tăng chủ yếu nhờ vào nguồn huy động tăng, còn vốn tự có của các ngân hàng thường tăng lên với một tiến độ chậm chạp nên tỷ lệ rủi ro so với vốn tự có cũng theo xu hướng tăng lên, làm lung lay nền tảng của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó dư nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng cổ phần thương mại cũng rất đáng quan tâm, tỷ lệ nợ quá hạn thường ở mức trên 5% trên tổng dư nợ, ở nhiều ngân hàng tỷ lệ nợ quá hạn chiếm trên 20% dư nợ, một con số không có biện pháp ngăn ngừa kịp thời sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng không thể lường trước được. + Trong số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi chiếm tỷ trọng lớn. Khi phân tích chất lượng tín dụng, điều làm cho người ta lo lắng không phải đơn giản chỉ là sự chậm trễ, sai hẹn trong việc trả nợ của khách hàng dù sự chậm trễ ấy có làm ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, mà cái chính của sự lo lắng là khả năng thu hồi của nợ đó. Chính vì thế mà trong nợ quá hạn, người ta còn chia ra nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi... và theo trật tự này thì sự lo lắng cũng tăng theo gấp bội còn niềm hy vọng thì giảm dần. Như vậy mới thấy rằng hoạt động tín dụng quả là không đơn giản chút nào. Thực tế những năm gần đây cho thấy số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng số nợ quá hạn, thường là trên 50%, ở một số NHTM cổ phần tình hình còn đáng sợ hơn nhiều 80%, 90%, thậm trí còn 100%. Một con số làm kinh hoàng cho những ai hiểu về hoạt động ngân hàng. Song không chỉ có vậy, nợ khó đòi không phải chỉ đơn giản là khó đòi, mà trong số đó một tỷ lệ không nhỏ là nợ không có khả năng thu hồi, tức là dư nợ rủi ro 100%. + Rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề cũng rất cao: Nếu tách hết số dư quá hạn ra khỏi tổng dư nợ, ta còn lại số dư nợ bình thường, hay dư nợ không có vấn đề gì lo ngại. Song ở một số ngân hàng, số dư nợ này vẫn buộc các nhà phân tích phải quan tâm, bởi trong số dư nợ tưởng chừng bình thường đó lại ẩn chứa rất nhiều vấn đề không bình thường, không đúng quy chế, luật pháp như: Số dư nợ đó đã được gia hạn nhiều lần, thậm trí thời gian gia hạn còn nhiều hơn kỳ hạn cho vay lần đầu. Số dư nợ đó được đảo nợ nhiều lần (Cho vay mới để thu hồi nợ cũ), có nhiều trường hợp kế toán đã không chuyển sang nợ quá hạn, lại chuyển vào hạch toán trong hạn. Khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng này để trả nợ cho ngân hàng khác. Đây cũng là một hình thức đảo nợ nhưng có sự tham gia của nhiều ngân hàng. Nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng với cùng một tài sản thế chấp mà hoàn toàn không hề hay biết. Tình hình trên cho thấy, số dư nợ phát sinh trong các trường hợp đã nêu tuy nằm trong tổng số dư nợ bình thường nhưng xét về bản chất nó khó có khả năng thu hồi ngay từ khi cho vay. Trước những khó khăn trong vấn đề nợ quá hạn trong hệ thống NHTM như đã nêu trên thì mặc dù các ngân hàng đã đề ra thực hiện một số giải pháp để nhằm hạn chế, giảm thiểu và xử lý mức nợ quá hạn, nhưng mức nợ quá hạn vẫn ở mức cao và đang bế tắc trong khâu xử lý. II- Nguyên nhân nợ quá hạn của hệ thống NHTM VN hiện nay: Những nguyên nhân chủ yếu gây ra các khoản nợ quá hạn của VN trong thời gian qua: 1 - Nhóm nguyên nhân khách quan: - Do thiên tai bão lụt, hoả hoạn, chiến tranh... hay những biến động trên thị trường quốc tế, thị trường giá cả, lãi suất, cung cầu... Làm cho những người đi vay mất khả năng trả nợ. Do thiên nhiên gây ra: Hầu như năm nào ở nước ta cũng xảy ra bão lụt, ngoài ra còn có hạn hán, hoả hoạn làm cho một số địa phượng phải chịu hậu quả khá nặng nề, do đó làm cho một số doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng bị thiệt hại và không có khả năng hoàn trả lại vốn cho ngân hàng. Như trong năm 2000 do cơn bão số 5 đã làm cho các ngành nông ngư hải sản bị tổn thất khá nặng nề, do hiệu ứng dây truyền cũng làm cho một số ngành, đơn vị, cánhân liên quan như thương mại, cung ứng dịch vụ, công nghiệp chế biến... cũng lâm vào tình trạng khó khăn, sản xuất kinh doanh bị đình trệ và không trả nợ được ngân hàng kéo dài đến nay vẫn chưa khắc phục được hết. Do sự biến động của thị trường, thị trường có lúc biến động mạnh về giá cả như trong thời gian vừa qua giá cả cà phê giảm mạnh, làm cho một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu không kịp đối phó nên đã bị thua lỗ nặng. Do lãi suất biến động: Trong nền kinh tế thị trường thì lãi suất luôn biến động và sự biến động của lãi suất sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tín dụng. Trong những năm gần đây nước ta đã khống chế được tình trạng lạm phát, nhưng lãi suất lại giảm liên tục. Trong trường hợp lãi suất cho vay giảm nhưng lãi suất tiền gửi vẫn giữ nguyên làm cho chênh lệch giữa đầu ra và đầu vào giảm dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng. Như vậy hoạt động tín dụng rõ ràng là không thể có hiệu quả được. - Vai trò quản lý của nhà nước: Quản lý của nhà nước còn nhiều sơ hở, tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp hoặc cá nhân có những hành vi lừa đảo, nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhhiều chức năng, trình độ, năng lực quản lý, quy mô hoạt động là quá lớn so với nguồn vốn tự có của NH. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng vay vốn của NH nhiều. Đối với vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước, hiệu quả giám sát thanh tra và xử lý sau thanh tra còn bị hạn chế, thiếu kiên quyết, không dứt điểm, do đó không phát huy tác dụng trong việc củng cố sự phát triển của ngân hàng thương mại. Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực rất nhạy cảm đối với những biến động của tình hình kinh tế xã hội, đòi hỏi sự nhạy bén, thế nhưng một số quy chế quản lý của ngân hàng nhà nước lại chậm được ban hành hoặc chậm được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế như các quy chế về an toàn vốn, về quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, về thế chấp tài sản, về hướng dẫn sử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Qua đó thấy được vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước nhất là các chi nhánh bị lu mờ hay nói đúng hơn là chưa đầy đủ, chưa thường xuyên trong việc giám sát, kiểm tra, nhắc nhở đối với các ngân hàng thương mại. - Do ngân hàng nhà nước quy định thời hạn cho vay trung và dài hạn tối đa chỉ có 3 năm: Thời hạn cho vay này chỉ phù hợp với tính chất nguồn vốn của các ngân hàng thương mại (chủ yếu là vốn ngắn hạn, có khi phải dùng một bộ phận vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn). Song đối với người vay thì không có một doanh nghiệp nào có khả năng trả nợ đầy đủ cho ngân hàng trong thời gian 3 năm đối với các dự án vay trung và dài hạn. Ngay từ khi đặt vấn đề vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn ý thức được vấn đề này, nhưng vì có sự khống chế tối đa về thời hạn của ngân hàng nhà nước nên cả người vay và người cho vay phải nhắm mắt ký hợp đồng, để rồi không có khả năng trả nợ và thu nợ đúng hạn. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại “ đềnh lên” nhanh chóng. - Do môi trường kinh tế kinh doanh chưa ổn định: Sự rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đã là rủi ro lớn nhất trong mọi hoạt động kinh doanh, nhưng ở VN thì rủi ro ngân hàng còn được nhân lên vì hoạt động của các ngân hàng được thực hiện trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa không ổn định lại còn không đồng bộ, đôi khi lại không rõ ràng, hoặc có luật rồi mà không thực hiện được như vấn đề về xiết nợ, gán nợ, phát mại, cầm cố thế chấp, đất đai, quyền sở hữu và quyền sử dụng. Do môi trường pháp lý kinh doanh ngân hàng chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, thể hiện ở việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy định, thông tư, hướng dẫn chưa thống nhất giữa các ngành có liên quan, hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa cao, chưa nhất quán trong việc thực thi những vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng do vậy dẫn đến tình trạng khi thực hiện tại ngân hàng cơ sở có nhiều lúc bị vi phạm, lệch lạc. Như vậy do chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng chưa chặt chẽ, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng. Chẳng hạn do sự không thống nhất của một số văn bản quy định chế độ tín dụng nên có món vay vượt 10% vốn tự có, và chính những món vay như vậy không hoàn trả được đã gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng. Về cho vay doanh nghiệp nhà nước không quy định rõ ràng như thế nào thì được phép cho vay tín chấp, như thế nào thì phải có tài sản cầm cố, thế chấp mới được vay, chính vì vậy khi xảy ra nợ quá hạn ở những doanh nghiệp này rất khó xử lý. Việc quy định theo dõi kiểm tra sau khi vay cũng không cụ thể, rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó theo dõi việc sử dụng tiền vay của khách hàng, nên có một số trường hợp đã bị một số kẻ lừa đảo lợi dụng sơ hở về thể chế để chiếm dụng số tiền lớn. Việc cho phép vay chồng chéo hoặc cho vay các doanh nghiệp ở xã trụ sở hoạt động của ngân hàng trước đây đã làm cho việc theo dõi quản lý tiền vay khó khăn và rất dễ dẫn đến tình trạng nợ quá hạn ở những doanh nghiệp đó và gây nên tổn thất... Bên cạnh đó thì một số chủ trương, chính sách của ngành ngân hàng lại luôn bị thay đổi thậm chí trong một thời gian rất ngắn. Nhiều vấn đề thực tế đã nảy sinh nhưng lại chưa được quy định bổ sung kịp thời, những quy định của nhà nước, của chính phủ thì ngân hàng nhà nước chậm hướng dẫn để cho các NHTM thực hiện. Mặt khác các chính sách về ngân hàng chưa đủ sức bảo vệ cho các ngân hàng chống đỡ được với những sóng gió của thương trường như các chính sách về lãi suất, dự phòng rủi ro..., tỷ lệ dự phòng của những năm trước quá thấp lại trích từ lợi nhuận chứ không phải từ chi phí. Đối với những doanh nghiệp và những nhà kinh doanh: Do sự thay đổi về môi truờng pháp lý và chính sách của nhà nước mà những người kinh doanh này không lường trước được và không được hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể cũng góp phần làm cho khối lượng nợ quá hạn phình to ra. Các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điều chỉnh, nhiều doanh nghiệp trong kế hoạch kinh doanh đã không theo kịp nên có sự bị động, dự báo nhu cầu không sát dẫn đến phát triển tràn lan và không đúng nhu cầu của thị trường, do vậy sản xuất kinh doanh không có hiệu quả. Hơn nữa việc ban hành một số chủ trương, chính sách của chính phủ do không dự đoán trước được những khó khăn vướng mắc khi triển khai thực hiện nên đã tạo ra những rủi ro không dự đoán trước được ví dụ như những chỉ thị về đóng của rừng, chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng, những quy định về quản lý sử dụng đất đai... do đó đã có không ít những doanh nghiệp bị thua lỗ do không theo kịp với sự thay đổi của những chính sách quản lý kinh tế mà hậu quả là NH cho vay phải gánh chịu. Đồng thời do sự thay đổi về môi truờng pháp lý và chính sách của nhà nước làm cho môi truờng kinh tế chưa ổn định do vậy làm cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hàng hoá sản xuất ra không cạnh tranh nổi với thị trường hàng ngoại nhập tràn lan làm cho một số doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ, phá sản, làm đảo lộn chính sách tín dụng của các ngân hàng, đây là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các ngân hàng thương mại còn đang phải khắc phục hậu quả. - Do khách hàng: Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn bị hạn chế Một số doanh nghiệp khi vay họ lập phương án kinh doanh rất hiệu quả nhưng do không tính hết được những biến động của thị trường nên đã bị thua lỗ. Trong một số món vay trung và dài hạn để nhập máy móc thiết bị, do phân tích dự án không chính xác dẫn đến máy móc nhập về không phát huy được tác dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả được tiền vay cho ngân hàng. Một điều thấy rõ nữa là trình độ người quản lý là giám đốc hay kế toán trưởng còn bị hạn chế nhiều mặt như học vấn, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên không có năng lực kinh doanh dẫn đến doanh nghiệp luôn bị thua lỗ. Trong khi đó năng lực tài chính kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém và hoạt động lại chưa có hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa các thành phần kinh tế của VN phát triển mạnh nhưng chưa có những tập đoàn kinh tế mạnh đủ vốn, đủ sức mạnh để chiếm lĩnh thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh. Các mô hình tổng công ty 90,91 thì từng đơn vị thành viên cũng tự đi lo vốn sản xuất kinh doanh cho mình. Kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp nhà nước chỉ có từ 5%-10% vốn để hoạt động, còn lại là vay ngân hàng tới 90%-95% để sản xuất kinh doanh, đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì cũng vay NH tới 70%-80% vốn kinh doanh. Trong khi đó thì cơ chế quản lý doanh nghiệp còn nhiều sơ hở và bất cập, năng lực quản lý yếu kém, kinh nghiệm quản lý có những nơi có chỗ vừa thiếu lại yếu, công nghệ thì lạc hậu, máy móc cũ, hàng hoá không đủ sức cạnh tranh, dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và đây cũng là gánh nặng trong môi truờng đầu tư của NH. - Do môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng NH chưa đầy đủ: Hiện nay điều kiện cho vay lãi phải có tài sản thế chấp, trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu, nên không có cơ quan nào chịu cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình dịch chuyển tài sản. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước. Chỉ thị 178 ngày 29/2/1999 của chính phủ thông tư 06 ngày 04/4/2000 của NH nhà nước là vẫn phải thế chấp, nhưng đến nay văn bản hiệu lực đã gần 5 tháng nhưng cục quản lý vốn vẫn chưa chịu xác nhận tài sản và cơ quan công chứng thì chưa có chủ trương, do vậy vẫn còn ách tắc không có cơ quan nhận đăng ký tài sản thế chấp. Các quy định của pháp luật kế toán thống kê, kiểm toán chưa đủ khả năng và hiệu lực buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, thống kê kiểm toán chính xác và kịp thời, hiện nay mới thực hiện bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế có đến 50% khách hàng không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán thống kê. Đối với ngân hàng thì số liệu và những thông tin để làm căn cứ cho vay lại không đúng và đầy đủ, do vậy dẫn đến rủi ro. Tín dụng thương mại (Mua bán chịu) đang trở thành phổ biến trong giao dịch thương mại nhưng chưa có các chế định về lưu thông kỳ phiếu thương mại nên xảy ra tình trạng thiếu dụng vốn, công nợ dây dưa, lừa đảo, chốn thuế, sử dụng vốn vay ngân hàng sai mục đích, gây khó khăn đối với các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát. - Do khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích: Nhiều doanh nghiệp sử dụng tiền vay ngân hàng quay vòng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích khi xin vay nên đã không trả được nợ đúng hạn, thậm trí do khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên không trả được nợ đúng hạn. - Do các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau kể cả từ vốn vay của ngân hàng, thậm trí còn lừa đảo. Có một số doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh nhưng thiếu vốn hoặc không có vốn hoạt động, dẫn đến hiện tượng phổ biến là các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm trí còn lừa đảo rồi bỏ chốn làm cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không trả được nợ...Tình trạng chiếm dụng vốn trong xây dựng cơ bản vẫn còn khá phổ biến, đã khiến cho một số đơn vị thi công xây lắp hoặc một số doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đầu tư vaò các công trình đổi dất lấy cơ sở hạ tầng, do thị trường bất động sản đóng băng nên không có khả năng trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ quá hạn. - Do hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực, bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê chính xác kịp thời. Do các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện được chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh đựơc chính xác tình hình tài chính doanh nghiệp khi xét duyệt cho vay, thậm trí họ còn cố tình đưa số liệu hoàn toàn ngược với sự thật như lỗ lại nói lãi. Những món cho vay đựơc xét trên cơ sở thông tin sai lệch như vậy sẽ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho ngân hàng. - Do nhiều doanh nghiệp nhà nước không theo kịp với sự đổi mới, thường có thói quen chông chờ, dựa dẫm vào nhà nước, vốn tự có thì rất ít nhưng lại giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh lớn, hơn nữa các nhận viên vẫn quen với phong cách lao động trong thời kinh tế bao cấp nên họ không tính đến yếu tố hiệu quả kinh tế. Khi đất nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế từ chế độ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị truờng nhưng doanh nghiệp vẫn chưa quen với phương thức sản xuất kinh doanh mới, dẫn đến hàng hoá được sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh do đó không tiêu thụ được. Trước đây họ thường được nhà nước cấp vốn trích từ quỹ ngân sách nhà nước, do vậy cho dù họ hoạt động có hiệu quả hay không thì cũng không quan trọng, nếu bị thua lỗ sẽ được nhà nước cấp phát để bù lỗ, nhưng khi chuyển sang tự hạch toán kinh doanh, họ phải vay ngân hàng thay cho việc cấp vốn của nhà nước từ ngân sách, nhưng đến khi hoạt động kinh doanh thua lỗ thì họ vẫn có tâm lý trông mong vào sự trợ giúp của nhà nước như khoanh nợ, xoá nợ, nói chung họ chưa ý thức lo lắng, quan tâm thực sự đến kết quả hoạt động kinh doanh của mình, và cuối cùng sự thiệt hại đó vẫn là do nhà nước chịu. Sự thua lỗ đó cũng đã kéo theo việc gây hại cho ngân hàng. 2- Nhóm nguyên nhân chủ quan: - Do bản thân ngân hàng: Kinh nghiệm và trình độ cán bộ tín dụng còn bị hạn chế và bất cập, do đó không có khả năng phân tích thẩm định dự án, nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc do không phân tích được các báo cáo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34039.doc