Nhữmg giải pháp để phát triển và hoàn thiện Thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập Quốc tế

Lời nói đầu H ội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển. Xu hướng này ngày càng hình thành rõ rệt, mà nét nổi bật là nền kinh tế thị trường đang trở thành một sân chơi chung cho tất cả các nước; thị trường tài chính mở rộng phạm vi hoạt động, gần như không biên giới, vừa tạo điều kiện tăng cường hợp tác, vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh. Việt Nam cũng đang nằm trong xu hướng đó, đang tích cực tham gi

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nhữmg giải pháp để phát triển và hoàn thiện Thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a vào các tổ chức khu vực và các tổ chức quốc tế. Trong quá trình hội nhập nền kinh tế, đặc biệt là thị trường tài chính đã tỏ ra yếu kém hơn so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Một điều chắc chắn rằng nếu thị trường tài chính yếu kém thì sẽ không thể thu hút được các nguồn vốn từ bên ngoài để phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Việt Nam đã nhận thức rất rõ điều này, tuy nhiên xuất phát từ đặc thù là một nhà nước XHCN, nền kinh tế hiện nay còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tế kế hoạch bao cấp, nơi mà mọi hoạt động tài chính trước đây đều theo mô hình của một nhà nước phi thương mại, phi cạnh tranh và rất độc quyền trong lĩnh vực tài chính. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu thị trường tài chính Việt Nam để từ đó có cơ sở phân tích, so sánh thực trạng hoạt động của thị trường tài chính và đề xuất những giải pháp cụ thể để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính là vấn đề hết sức cấp bách. Đây cũng chính là lý do để tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Những giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Đề tài được chia thành 3 chương (ngoài phần mở đầu và kết luận): Chương I: Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Chương II: Thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập Chương III: Các giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Khóa luận sẽ tập trung phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam, trong đó đi sâu vào 3 thị trường : thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối để có một cái nhìn cụ thể về hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam trong thời gian qua và nêu bật được những điểm còn tồn tại của cả 3 thị trường kể trên. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể để phát triển và hoàn thiện thị trưòng tài chính Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập thành công. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến thị trường tài chính. Nhưng do hạn chế về mặt thời lượng nên khoá luận chỉ đi sâu vào đánh giá thực trạng hoạt động và mức độ hội nhập của 3 thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Khoá luận được viết dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp khác như: nghiên cứu tài liệu, tự nghiên cứu, khảo sát thực tế để tổng hợp, phân tích. Trên cơ sở đó rút ra những vấn đề cần đề xuất giải quyết. Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp, tôi đã hiểu biết hơn về thị trường tài chính nói chung và thị trường tài chính Việt Nam nói riêng. Do bị giới hạn trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp hướng dẫn tận tình của cô giáo - Thạc sỹ - Đặng Thị Nhàn, người đã giúp tôi hoàn thành bài khoá luận này. chương i Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế I. Tổng quan về thị trường tài chính. 1. Khái niệm. Thị trường tài chính ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về vốn đầu tư tăng lên. Đầu tư có thể do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện, trong đó họ sử dụng nguồn vốn tiết kiệm của các chủ thể khác để kinh doanh và phân phối lợi nhuận. Nhu cầu vốn đầu tư càng lớn đòi hỏi các hình thức huy động vốn cho đầu tư càng mở rộng. Trong thực tế, nguồn vốn tiết kiệm thường phân tán, quy mô nhỏ trong khi đó vốn đầu tư đòi hỏi phải tập trung, quy mô lớn. Do vậy, quá trình huy động vốn cho đầu tư được đặt ra là hết sức cần thiết. Quá trình này làm xuất hiện hành vi chuyển giao vốn giữa người tiết kiệm và người đầu tư. Đó chính là bản chất của thị trường tài chính. Nói cách khác, thị trường tài chính ra đời nhằm để chu chuyển vốn tiết kiệm phân tán, quy mô nhỏ thành vốn đầu tư tập trung quy mô lớn. Thị trường tài chính là nơi diễn ra việc trao đổi các công cụ tài chính, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu vốn trong xã hội. Thông thường có hai phương thức lưu chuyển vốn trên thị trường đó là phương thức chuyển giao vốn trực tiếp và phương thức chuyển giao vốn gián tiếp. Phương thức chuyển giao vốn trực tiếp được thực hiện thông qua việc mua bán vốn trực tiếp giữa người tiết kiệm với người đầu tư cuối cùng. Còn phương thức chuyển giao vốn gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính đứng ra phân phối lại vốn dưới hình thức tín dụng làm cho vốn tiết kiệm được chuyển đến tay người đầu tư. Thị trường tài chính xuất hiện đầu tiên dưới dạng các khoản vay ngắn hạn. Các khoản vay có thể do các chủ thể thừa vốn cung cấp, cũng có thể do các trung gian tài chính cung cấp. Về sau, do nhu cầu vốn đầu tư tăng mạnh,các chủ thể cần vốn đã mở ra nhiều lĩnh vực huy động vốn, trong đó có việc phát hành ra các chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Việc mua bán chứng khoán lúc đầu được thực hiện phân tán nhưng về sau, việc mua bán chứng khoán chủ yếu tập trung ở các địa điểm nhất định. 2. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính Thị trường tài chính thực hiện việc chuyển giao vốn từ tay người tiết kiệm đến tay người đầu tư, người chi tiêu cuối cùng dưới hình thức mua bán các loại chứng khoán có giá. Những người tiết kiệm là những đối tượng có vốn dư thừa, bao gồm hộ gia đình, các tổ chức kinh doanh và đôi khi là Chính phủ đem bán quyền sử dụng vốn trong những thời hạn nhất định cho các đối tượng thiếu vốn dưới hình thức mua các chứng khoán có giá trên thị trường tài chính. Như vậy, những người cần vốn phát hành chứng khoán để huy động vốn, còn những người thừa vốn là những người mua chứng khoán để hưởng thu nhập trong tương lai. Hành vi này mang lại nguồn lợi cho tất cả các bên tham gia: Thứ nhất, những người thừa vốn có được các cơ hôi lựa chọn đầu tư sinh lời. Nếu không có thị trường tài chính, cơ hội đầu tư của họ sẽ ít đi vì trong thị trường tài chính, họ có thể có được thu nhập cao nhờ sự biến động giá của các loại chứng khoán có giá. Thứ hai, những người thiếu vốn có ngay nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng bằng cách đi vay hoặc phát hành các chứng khoán có giá trên thị trường tài chính. Nếu là các nhà kinh doanh lớn có uy tín, họ rất dễ dàng thực hiện các khoản vay trên thị trường mua bán chứng khoán có giá. Còn các nhà kinh doanh nhỏ, lẻ hoặc những người tiêu dùng, họ sẽ tìm đến các cơ hội vay tiền tại các trung gian tài chính. Cả hai thị trường này đều là những nơi cung cấp vốn một cách hiệu quả cho những người đầu tư hoặc những người chi tiêu cuối cùng. Thông qua việc phân phối vốn trên thị trường tài chính, thị trường tài chính thể hiện những vai trò cơ bản sau đây: Một là, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội để tài trợ cho các nhu cầu đầu tư, chi tiêu của nền kinh tế. Như vậy, các nguồn lực phân tán của nền kinh tế được tập trung vào các quá trình sản xuất kinh doanh làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Đó chính là tiền đề để tăng năng suất lao động, cải thiện cuộc sống của mỗi người. Hai là, thị trường tài chính đã kích thích và phân bổ các nguồn vốn tiết kiệm vào tiêu dùng hay vào lĩnh vực đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. Do xuất hiện nhiều cơ hội đầu tư trên thị trường mà người tiết kiệm sẽ quyết định lựa chọn những cơ hội đầu tư tốt nhất, ít rủi ro nhất để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn tiết kiệm của họ. Mặt khác, những thu nhập từ thị trường tài chính mang lại sẽ là động lực kích thích họ tiết kiệm nhiều hơn. Ba là, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia. Thị trường tài chính vừa là nơi phản ánh thực trạng của nền kinh tế, vừa là nơi để Ngân hàng Trung ương can thiệp vào cung cầu tiền tệ, quyết định các mức lãi suất. Mặt khác, thị trường tài chính là địa điểm tin cậy mở rộng tín dụng Nhà nước góp phần cân đối tài chính quốc gia. Từ những đặc thù này cho phép các Chính phủ sử dụng các công cụ, các biện pháp tác động vào thị trường nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra. Bốn là, thị trường tài chính góp phần to lớn vào việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào thị trường tài chính dưới hình thức mua bán các loại chứng khoán có gía tạo nên sự lưu chuyển vốn mang tính quốc tế và đó cũng là cơ hội để Nhà nước 3. Phân loại và cấu trúc của thị trường tài chính: Dựa vào các căn cứ phân chia khác nhau mà người ta chia thị trường tài chính thành các loại thị trường khác nhau. Cụ thể, nếu căn cứ vào thời hạn lưu thông của các chứng khoán thì thị trường tài chính được phân thành hai loại: thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Còn căn cứ vào tính chất của các chứng khoán, thị trường tài chính được phân thành hai loại: thị trường chứng khoán nợ và thị trường chứng khoán vốn. Và nếu như căn cứ vào đối tượng giao dịch của thị trường thì người ta chia thị trường tài chính thành hai loại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp... Trong thực tế có rất nhiều quan điểm về phân loại thị trường tài chính, nhưng dưới đây xin đề cập đến 3 quan điểm: *Quan điểm thứ nhất: Theo mô hình của các nhà kinh tế Nhật, Pháp thì TTTC nằm trong thị trường vốn, thị trường vốn bao gồm thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Theo mô hình này, thị trường tài chính chủ yếu thuộc địa hạt hoạt động của các Công ty chứng khoán, công ty môi giới, Công ty tài chính, sở Giao dịch chứng khoán... còn Thị trường tiền tệ chủ yếu thuộc địa hạt hoạt động của các gân hàng thương mại, Tổ chức tín dụng. *Quan điểm thứ hai: Theo mô hình của các nhà kinh tế Mỹ, Đức, Anh thì thị trường tài chính bao hàm thị trường vốn. Trong đó địa bàn hoạt động của mọi công cụ nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống gọi là thị trường vốn ngắn hạn (tương đương thị trường tiền tệ). Còn địa bàn hoạt động của các công cụ có giá với thời hạn từ 1 năm trở lên được gọi là thị trường vốn dài hạn-Thị trường này về cơ bản bao hàm thị trường chứng khoán vì ngoài chứng khoán còn có bao gồm sự luân chuyển của một bộ phận vốn tín dụng dài hạn. *Quan điểm thứ ba: ở Việt Nam từ đầu những năm 1990 trở lại đây, các nhà kinh tế đưa ra nhiều quan điểm về thị trường tài chính, song theo quan điểm của UBCKNN thì thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối và thị trường vốn (chủ yếu là thị trường chứng khoán). (Quan điểm trên được trích trong Báo cáo của UBCKNN) Việc phân chia thị trường Tài chính như vậy sẽ thuận tiện cho việc phân tích. Lý do là: Thứ nhất, nếu xét về mặt nội dung thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua và bán các sản phẩm tài chính, còn thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau, mà nó là thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Vì vậy, trong thực tế, người ta hay nói đến thị trường chứng khoán- hình thức giao dịch vốn mà ít nói đến thị trường vốn: quan hệ mua, bán, chuyển nhượng các giấy tờ có giá. Thứ hai, tách thị trường ngoại hối ra khỏi thị trường tiền tệ để phân tích là hoàn toàn có cơ sở vì thị trường ngoại hối là một lĩnh vực rộng và có nhiều điểm khác biệt về bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ. Chính vì những lý do trên mà tác giả chọn phân tích thị trường tài chính dựa trên quan điểm của UBCKNN, nghĩa là tập trung phân tích 3 thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán. Việc phân định ra các bộ phận của thị trường tài chính ở trên chỉ là biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu từng loại thị trường như một khái niệm kinh tế tồn tại độc lập và thoát ly ra khỏi các mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nó. Đây là phương pháp rất khoa học thường áp dụng khi nghiên cứu các vấn đề kinh tế-xã hội. Trên thực tế, không phải dễ dàng chỉ ra đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường tiền tệ và đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường vốn. 3.1. Thị trường tiền tệ 3.1.1. Khái niệm: Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, là nơi gặp nhau của cung và cầu về vốn ngắn hạn trong nền kinh tế. Đặc điểm quan trọng của thị trường tiền tệ là việc mua bán các loại chứng khoán ngắn hạn với qui mô lớn, tính lỏng cao và độ rủi ro ít. Những người đầu tư coi việc đầu tư vào thị trường này như là nơi dự trữ thanh khoản. Tức là việc đầu tư chỉ mang tính nhất thời để hưởng lãi suất cố định, được xác định trước. Còn những người cần vốn, vào thị trường để mua vốn ngắn hạn chủ yếu là nhằm đảm bảo các chi trả thường xuyên, thiếu hụt tạm thời. Chính những đặc điểm này dẫn đến các công cụ lưu thông trên thị trường có thời hạn ngắn. 3.1.2. Vai trò, chức năng và đặc điểm của thị trường tiền tệ a/ Chức năng của thị trường tiền tệ: - Tạo ra một thị trường công khai mà các tổ chức kinh tế tạm thời dư thừa vốn có thể tìm thấy nơi hứa hẹn sinh lời cho nguồn vốn dư thừa ấy, cũng như các tổ chức đang thiếu vốn tìm được nơi đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đó là quan hệ cung - cầu tín dụng ngắn hạn với lãi suất thoả thuận. Như vậy, thị trường tiền tệ ra đời là nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn ngắn hạn bằng cách ghép nối những người có vốn tạm thời nhàn rỗi với những người thiếu vốn tạm thời, làm lợi cho cả 2 bên tham gia. Do nhu cầu bổ sung thanh khoản, cho nên việc vay thường có thời hạn ngắn, có khi rất ngắn (1 ngày). Và như vậy nó có tác dụng cân bằng khả năng thanh toán giữa các cơ sở tín dụng với nhau. - Cung cấp các phương tiện, thông qua đó Ngân hàng Trung ương thực thi được chính sách tiền tệ, điều phối được mức cung ứng tiền, mức độ mở rộng tín dụng, kiểm soát được tỷ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại. - Qua hoạt động của thị trường tiền tệ, các nguồn vốn nhàn rỗi, đơn lẻ được tập hợp chuyển đến nơi thiếu hụt và có nhu cầu đầu tư, hay nó tập hợp và cung cấp một nguồn vốn ngắn hạn cho các tổ chức kinh tế và tư nhân cần nó. b/ Vai trò của thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ giúp làm tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro đối với những người có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng hoặc đang chờ đợi các cơ hội đầu tư trong tương lai. - Thị trường tiền tệ là nơi cung cấp vốn cho những người thiếu vốn để bổ sung thanh khoản. Điều này đặc biệt có ý nghĩa, nhất là đối với các ngân hàng. Các ngân hàng thường có tham vọng thu lợi cao, muốn vậy họ phải cho vay nhiều và dự trữ thừa còn lại thấp. Khi có các luồng tiền gửi rút ra với số lượng lớn, họ phải đối phó và một trong những biện pháp hiệu quả là tìm đến thị trường tiền tệ để vay. - Trên bình diện toàn xã hội, thị trường Tiền tệ đã góp phần chuyển các nguồn vốn tiết kiệm thành nguồn vốn đầu tư sinh lời, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và tăng hiệu quả kinh tế toàn xã hội. - Thị trường tiền tệ là công cụ để chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế cụ thể: + Thông qua chính sách tiền tệ, NHTW điều tiết cung cầu tiền và lãi suất bằng cách trực tiếp tham gia mua bán vốn trên thị trường, từ đó tác động đến đầu tư , chi tiêu, sản lượng, giá cả... của nền kinh tế. + Thông qua chính sách tài chính, kho bạc Nhà nước tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường tiền tệ để bổ sung thiếu hụt ngân sách tạm thời và cân bằng thu chi của ngân sách Nhà nước. - Lãi suất được hình thành trên thị trường tiền tệ là cơ sở để ngân hàng Nhà nước xác định lãi suất cơ bản và xây dựng chính sách lãi suất trong từng thời kỳ, đồng thời nó cũng là cơ sở để các tổ chức tín dụng tham khảo, hình thành lãi suất kinh doanh của mình. c/ Đặc điểm của thị trường tiền tệ: - Thị trường tiền tệ là tập hợp các thị trường của một số công cụ, tài chính riêng biệt, đó là những công cụ ngắn hạn, có tính lỏng cao và độ rủi ro thấp như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi... - Thị trường tiền tệ là thị trường mang tính chất bán buôn, có khối lượng giao dịch lớn. - Thị trường tiền tệ có số người tham gia đông đảo, được chuyên môn hoá ở trình độ cao của người môi giới và người kinh doanh. - Thị trường tiền tệ hoạt động dựa trên cơ sở tôn trọng và tín nhiệm lẫn nhau, và thông qua các phương tiện thông tin hiện đại chứ không diễn ra ở một địa điểm cụ thể nào. - Hình thức giao dịch của thị trường tiền tệ rất đa dạng như: mua bán trả tiền ngay, mua bán chịu, cầm cố, thế chấp khoản vay, cho vay khống, thoả thuận mua lại... - Đặc điểm đặc trưng của thị trường tiền tệ là giá cả mua bán vốn trên thị trường tiền tệ là lãi suất. Hoạt động mua bán vốn trên thị trường tiền tệ chủ yếu là mua bán quyền sử dụng vốn. 3.1.3. Phân loại thị trường tiền tệ: Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân chia khác nhau mà người ta chia thị trường tiền tệ thành các thị trường khác nhau. a/Nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức, thị trường tiền tệ được chia làm 2 cấp: *Thị trường tiền tệ sơ cấp: Là thị trường thực hiện việc mua bán lần đầu các chứng khoán mới (trái phiếu mới) của ngân hàng, Công ty tài chính, kho bạc, doanh nghiệp như tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng TW, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi... Các loại trái phiếu mới này được mua bán với khối lượng lớn (theo từng lô) và thể thức mua bán chủ yếu qua đấu giá. Đối tượng bán các trái phiếu này là những người cần vốn phục vụ cho mục đích chi tiêu như kho bạc Nhà nước, các ngân hàng và các Công ty kinh doanh... Còn đối tượng mua (cho vay) chủ yếu là các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các nhà kinh doanh tiền tệ và đông đảo công chúng, họ mua với mục đích để đầu cơ hoặc bán lại với mục đích kiếm lời. *Thị trường tiền tệ thứ cấp: Là thị trường chuyên tổ chức mua bán các trái phiếu đã phát hành ở thị trường sơ cấp. Sau khi đã mua hàng ở thị trường sơ cấp, những người chủ sở hữu các trái phiếu đó không chờ đến hạn để thu hồi vốn và lãi, mà họ đem bán một phần hay toàn bộ số hàng hoá đó trên thị trường thứ cấp. Sau mỗi lần giao dịch, quyền sở hữu và quyền đòi nợ các trái phiếu đó được chuyển từ người này sang người khác, nhưng người mắc nợ (tức người phát hành) có nghĩa vụ trả nợ thì không thay đổi. Thị trường tiền tệ thứ cấp mang tính chất chuyển hoá hình thái vốn. Thị trường tiền tệ thứ cấp ra đời và mở rộng sẽ kích thích thị trường sơ cấp phát triển nhanh chóng, nó là nơi tiêu thụ hàng hoá của thị trường tiền tệ sơ cấp, nơi đánh giá hiệu quả hoạt động của người vay vốn, và phần nào có tính chất quyết định đến giá cả của các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường sơ cấp. Ngược lại, thị trường tiền tệ sơ cấp lại là nguồn cung ứng hàng hoá cho thị trường tiền tệ thứ cấp. b/Căn cứ vào phạm vi của các đối tượng giao dịch: Theo tiêu thức này, thị trường tiền tệ được chia thành 2 bộ phận: thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng. *Thị trường tiền tệ liên ngân hàng: Là thị trường vốn ngắn hạn do ngân hàng Trung ương tổ chức để giải quyết nhu cầu của các ngân hàng thương mại muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng này với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua các tài khoản của họ ở ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dư trữ bắt buộc, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng... Do đó, việc tham gia thị trường này chỉ hạn chế dành cho các ngân hàng các tổ chức tài chính tín dụng hoạt động theo quy chế của thị trường. Hoạt động của thị trường tiền tệ Liên ngân hàng được thể hiện qua hình thức vay mượn có thế chấp hoặc không có thế chấp hoặc chiết khấu các chứng phiếu ngắn hạn chưa đáo hạn. *Thị trường tiền tệ mở rộng Là thị trường mà các chủ thể tham gia được mở rộng hơn so với thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bao gồm các ngân hàng, các công ty kinh doanh, môi giới và công chúng... Đặc trưng của thị trường là mua bán qua trung gian môi giới tiền tệ. Giá cả có thể là giá đấu thầu hoặc giá thoả thuận. c/ Căn cứ vào đặc trưng các loại hàng hoá (loại công cụ) giao dịch trên thị trường tiền tệ: Theo cách phân loại này người ta chia thị trường tiền tệ thành các thị trường mà ở đó chuyên giao dịch một loại công cụ tài chính có tính chất ngắn hạn nhất định, bao gồm ba bộ phận thị trường: * Thị trường giao dịch mua bán các loại chứng khoán ngắn hạn: Là thị trường chuyên giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn có thể chuyển nhượng được như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, các phiếu thuận trả của ngân hàng, tín phiếu ổn định tiền tệ... Chúng được mua bán trên thị trường theo phương thức chiết khấu. Đây là thị trường năng động, sôi nổi, chúng là bộ phận quan trọng nhất của thị trường tiền tệ và phát triển rất nhanh chóng. Các chứng khoán ngắn hạn này đồng thời cũng là những công cụ chủ yếu của thị trường tiền tệ và thường có thời hạn dưới 1 năm, có độ rủi ro thấp, tính lỏng cao. Cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các chứng khoán ngắn hạn này cũng không ngừng được phát hiện mới và bổ sung. Các chứng khoán này cũng là đối tượng để ngân hàng Trung ương sử dụng nhằm điều hành chính sách tiền tệ của mình qua nghiệp vụ thị trường mở. Các chủ thể tham gia thị trường này cũng rất đa dạng, phong phú bao gồm tất cả các chủ thể của thị trường tiền tệ. * Thị trường giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn: Đây là thị trường chuyên giao dịch các khoản vốn vay ngắn hạn, các khoản vốn vay này được định giá trên cơ sở lãi suất và không chuyển nhượng được. Đây là thị trường rất nhạy cảm với những thay đổi trong chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương cũng như các tác động khác từ bên ngoài và phụ thuộc vào điều kiện, tập quán, tâm lý của từng vùng. Nó có thể đáp ứng được những nhu cầu rất lớn về vốn ngắn hạn. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà chúng được định giá theo nhiều cách khác nhau, từ đó hình thành các loại lãi suất khác nhau như lãi suất đơn, lãi suất ghép, lãi suất hoàn vốn. 3.1.4. Các thành viên tham gia thị trường tiền tệ a/ Ngân hàng Trung ương (NHTW): Ngân hàng Trung ương là chủ thể quan trọng và đặc biệt trên thị trường tiền tệ. Trên thế giới, mỗi thị trường có từng loại công cụ đặc trưng và mức độ tham gia của NHTW cũng có khác nhau, song thị trường tiền tệ đều được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của NHTW. NHTW thường là người đưa ra các chính sách tiền tệ, các thiết chế nhằm ổn định tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm một thị trường tiền tệ hoạt động năng động, có hiệu quả, có tổ chức ngân hàng thương mại can thiệp vào hoạt động của thị trường bằng cách can thiệp vào quá trình tạo lập ra tiền của các tổ chức tín dụng và làm thay đổi lãi suất thị trường qua việc tác động đến cung cầu tiền tệ chủ yếu là thông qua các công cụ quản lý gián tiếp. Ngoài ra, NHTW còn đóng vai trò là người môi giới trung gian ở thị trường tiền tệ, giúp các ngân hàng trung gian trong việc thanh toán bù trừ những món nợ với nhau mà không phải di chuyển tiền bạc bằng cách thiết lập phòng giao hoán tại trụ sở của NHTW. NHTW còn thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng Trung gian dưới các hình thức như cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá ngắn hạn... NHTW can thiệp vào thị trường chủ yếu thông qua các chính sách tiền tệ. Bao gồm: chính sách cung ứng tiền, chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối, chính sách đối với ngân sách Nhà nước. b/Các ngân hàng thương mại (NHTM): Có thể nói các ngân hàng thương mại là những trung gian hoạt động chính trên thị trường tiền tệ. NHTM tham gia thị trường này nhằm duy trì khả năng thanh toán hay khả năng chi trả của ngân hàng, tận dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để kiếm lời ở mức tối đa cũng như vay vốn cần thiết với mức phí thấp nhất phục vụ mục tiêu trên. Sự có mặt của các NHTM với các tính năng hoạt động riêng của nó sẽ là động lực chính để thúc đẩy sự hoạt động của thị trường tiền tệ. c/Kho bạc Nhà nước và việc phát hành tín phiếu kho bạc: Kho bạc Nhà nước tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu để vay nợ, để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc. Đối tượng thường xuyên mua tín phiếu kho bạc là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư... Qua việc vay nợ và trả nợ dân, kho bạc có tác động tích cực điến quá trình hình thành và phát triển thị trường tiền tệ, vì thị trường tín phiếu kho bạc là thị trường lớn trong các bộ phận thị trường tiền tệ, hơn nữa, tín phiếu kho bạc là một trong những công cụ quan trọng để ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. d/Người đầu tư: Đó là các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp phi ngân hàng như: Hiệp hội tiết kiệm và cho vay, Công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm tương trợ, quỹ tín dụng quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ, các tổ chức xã hội, các liên hiệp tín dụng, các tổ chức tài chính quốc tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu... Ngoài ra còn có những người đầu tư tư nhân tham gia thị trường tiền tệ. Mục đích tham gia là: Thanh toán những khoản vay mượn và mua sắm, đề phòng những tình huống chưa dự kiến trước được, đầu cơ, hy vọng có thay đổi về lãi suất để kiếm lời. 3.1.5. Các công cụ trên thị trường tiền tệ. a/Tín phiếu kho bạc (Treasury bills): Các tín phiếu kho bạc viết tắt là T.B hay bills là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách Nhà nước và là một công cụ quan trọng để ngân hàng TW điều hành chính sách tiền tệ qua nghiệp vụ thị trường mở. Chúng không mang lãi suất, được phát hành với thời hạn thông thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và phát hành bằng cách đấu giá. Việc mua bán thường được thanh toán bằng tiền mặt. Kho bạc Nhà nước thường phát hành tín phiếu với hình thức vô danh. b/Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (Bank certificates of deposit): Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (viết tắt là CD) là công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền với lãi suất được quy định cho từng kỳ hạn nhất định, phần lớn là từ 30 ngày đến 12 tháng, được thanh toán lãi hàng năm trên cơ sở 360 ngày/năm. Các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng thường là vô danh. Khi đến thời hạn thanh toán, nó sẽ được hoàn trả hết giá mua ban đầu. Các chứng chỉ tiền gửi cũng tương tự như các loại tiền gửi có kỳ hạn khác, điểm khác biệt cơ bản là ở chỗ chứng chỉ tiền gửi có thể được bán (hoặc chuyển nhượng) cho một bên thứ 3 mà không bị phạt bởi các ngân hàng phát hành. c/Thương phiếu (commercial paper) Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền nhất định trong một thời gian xác định, hay nói cách khác là giấy nhận nợ đặc biệt mà người giữ nó có quyền đòi trả tiền khi đến hạn, do các công ty nổi tiếng phát hành. Thương phiếu có thể được chiết khấu ở ngân hàng thương mại để thu hút vốn về cho người sở hữu thương phiếu trước kỳ hạn thanh toán. Thương phiếu bao gồm các loại sau: *Hối phiếu (bill of exchange): là một phiếu ghi nợ do người bán hàng trả chậm, người cung ứng dịch vụ, xuất khẩu (chủ nợ) ký phát trao cho người mua hàng trả chậm, người nhận cung ứng dịch vụ, người nhập khẩu (ngưòi thiếu nợ), trong đó yêu cầu người này phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn tại một địa điểm nhất định cho người hưởng lợi trong hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác. * Lệnh phiếu (Promissory Note): Ngược lại với hối phiếu, lệnh phiếu là phiếu nhận nợ do (thường là người mua hàng trả chậm) ký phát trao cho người chủ nợ (người bán hàng trả chậm) ký phát trao cho người chủ nợ (người bán hàng trả chậm), trong đó người thiếu nợ cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho người chủ nợ hoặc một người nào đó do người chủ nợ chỉ định. d/ Hối phiếu chấp nhận (Banker’s acceptance) Là một hối phiếu do công ty kinh doanh (thường trong lĩnh vực xuất nhập khẩu) ký phát, trong đó ghi rõ thanh toán vào một ngày nhất định trong tương lai, thường phát hành trong 90 ngày và được một ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên hối phiếu đó. Muốn được ngân hàng chấp nhận, bên ký phát hối phiếu phải gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng hoặc ngân hàng đồng ý cho họ vay khi thanh toán và ngân hàng sẽ được hưởng lệ phí bảo đảm. e/Hợp đồng mua lại (RP) Hợp đồng mua lại (Repurchase Agrement, viết tắt là Repo hay RP) thực tế là những món vay ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán ngắn hơn 2 tuần lễ), trong đó một vài trái phiếu-thường là tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho khoản vay đó. Tuy nhiên người đi vay cam kết sẽ mua lại trái phiếu này theo giá cũ, cộng thêm một khoản lãi qui định. Kỳ hạn của hợp đồng mua lại có thể được ấn định hoặc thoả thuận tự do, trong cả hai trường hợp cả người đi vay và cho vay đều có thể kết thúc thoả thuận này bất kỳ lúc nào. Hợp đồng này mang lại lợi ích lớn cho 2 bên và sự linh hoạt của nó làm cho nó phát triển rất mạnh trong thị trường tiền tệ thời gian gần đây. f/Các khoản vay liên ngân hàng Đó là các khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng hay còn gọi là tín dụng ngắn hạn liên ngân hàng. Nó gồm các khoản vay không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 1 ngày cho đến 1 năm giữa các ngân hàng với nhau, không có thế chấp hoặc thế chấp bằng các loại chứng phiếu ngắn hạn. h/Các khoản tiền gửi trong thị trường tiền tệ. Là những khoản tiền gửi với lãi suất và kỳ hạn không quá 1 năm của các ngân hàng hay các hãng chiết khấu bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn (còn được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài khoản tiền gửi có thể phát hành Séc), tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn và không có kỳ hạn). Các khoản tiền gửi này là loại không có kỳ hạn, hoặc có kỳ hạn từ 1 ngày đêm, 1 tuần hoặc 1 tháng đến 12 tháng. Lãi suất của những khoản tiền gửi này được ấn định tuỳ thuộc vào lãi suất cơ bản và kỳ hạn của chúng. 3.2. Thị trường chứng khoán(TTCK) 3.2.1. Khái niệm: Thị trường chứng khoán (TTCK) là lĩnh vực trao đổi các loại giấy tờ có giá dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ phát sinh từ cổ phiếu, trái phiếu. TTCK là hình thái phát triển cao của kinh tế thị trường, khi các quan hệ hàng hóa tiền tệ không chỉ trở thành phổ biến trong các giao dịch sản phẩm và dịch vụ, mà còn phát triển mạnh mẽ trong các g._.iao dịch về vốn, đầu tư. Dưới hình thái biểu hiện của giao dịch chứng khoán, quyền sở hữu vốn trở thành hàng hoá và sự lưu động của quyền sở hữu đó cũng như giá cả thị trường của quyền sở hữu đó được hình thành theo nguyên tắc cung - cầu. Trên thị trường chứng khoán người có tiền có thể mua cổ phiếu, trái phiếu của các tổ chức kinh tế phát hành chứng khoán và trở thành người đầu tư, cũng như dễ dàng chuyển vốn đầu tư sang các ngành, các tổ chức phát hành khác, thậm chí rút vốn khỏi thị trường mà không đòi hỏi phải có những điều kiện cần thiết như đầu tư trực tiếp. Do đó, TTCK là môi trường khá thuận lợi để người đầu tư xử lý vốn của mình, để giới quản lý doanh nghiệp huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, để giới kinh doanh chứng khoán tìm kiếm lợi nhuận... Đặc biệt TTCK còn là một kênh lưu động vốn trong nước và ngoài nước khá thuận tiện. Với ưu thế đó, hầu như ở các nước có kinh tế thị trường khá phát triển, TTCK đều được hỗ trợ để sớm ra đời. 3.2.2. Vai trò, chức năng của thị trường chứng khoán a/Vai trò của TTCK. - TTCK có vai trò quan trọng trong huy đông vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và các nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Trong quá trình tái sản xuất xã hội mở rộng tất yếu hình thành hai nguồn tiền tệ ,một là nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, hai là nguồn vốn chờ cơ hội đầu tư. Các nhà đầu tư không thể ném nguồn vốn chờ cơ hội đầu tư vào ngân hàng để lấy lãi cho vay, mà họ phải đầu tư trực tiếp vào sản xuất để kiếm lời tận gốc. Bởi vậy TTCK ra đời để thu hút nguồn vốn này và chuyển tải trực tiếp vào các doanh nghiệp công, nông, thương nghiệp. - TTCK huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, một lĩnh vực mà hệ thống ngân hàng thương mại chưa thể đáp ứng được cho các doanh nghiệp. - TTCK góp phần điều hoà vốn giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân, do đó tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. - Thông qua TTCK, các chủ thể kinh tế đều có thể trở thành nhà đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế quốc dân và trở thành những người chủ sở hữu một phần giá trị tài sản của các doanh nghiệp. - Nhờ vào trào lưu quốc tế hoá TTCK quốc gia cho nên nó có vai trò như là người dẫn vốn đầu tư của người nước ngoài vào trong nước, đồng thời dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước ngoài, những nước có cơ hội và môi trường đầu tư có lợi hơn. - Cuối cùng, vai trò của TTCK như chiếc phòng vũ biểu của nền kinh tế quốc dân. Thực vậy, kinh tế phát triển thì lợi nhuận đêm chia cho các chủ đầu tư tăng lên. Lợi nhuận tăng là một yếu tố làm cho giá cả chứng khoán tăng lên, dung lượng mua bán chứng khoán do đó cũng tăng theo. Ngược lại, kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến sự hoạt động sút kém của thị trường. b/Chức năng của thị trường chứng khoán. TTCK từ khi ra đời (TK 15 - 16) cho đến nay đã chứng tỏ được sự cần thiết trong đời sống kinh tế - xã hội của các nước với các chức năng chính sau: - TTCK được xem như là chiếc cầu nối vô hình nối liền giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán các loại chứng khoán, hay nói cách khác TTCK sinh ra là để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, bỏ vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội. - TTCK đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn, vì vậy nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô của từng TTCK. - TTCK đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời về tình hình cung-cầu, thị giác của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên các TTCK hữu quan. - TTCK đảm bảo cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi mua bán thuận tiện theo quy luật cung cầu như mọi hàng hoá khác. Tuy nhiên, có điều khác là hàng hoá ở thị trường này là các cổ phiếu, trái phiếu. Giá của các loại chứng khoán này không phải do hai bên trực tiếp mua bán trên thị trường này định ra như trước đây, mà ngày nay do sự bùng nổ thông tin là hệ thống điện báo hiện đại, cho nên giá cổ phiếu, trái phiếu do nhiều thị trường hữu quan liên kết với nhau định ra. Tóm lại, TTCK đã góp phần lấp đi cái hố ngăn cách giữa cung và cầu về vốn, giữa người mua và người bán chứng khoán, giữa đầu cơ nâng giá và đầu cơ hạ giá chứng khoán. Đặc biệt TTCK lấp đi sự ngăn cách giữa nhu cầu vay vốn dài hạn trong nền kinh tế và các hoạt động cho vay ngắn hạn mà nhiều nhà đầu tư thường ưa thích, vì nó là nơi để cho mỗi khi các nhà đầu tư đem vốn nhàn rỗi ra mua chứng khoán, khi không muốn đầu tư , cầu tiền chi dùng, thì mang chứng khoán ra bán. Rõ ràng các hoạt động của TTCK linh hoạt mềm dẻo thuận lợi hơn nhiều so với các cách huy động vốn thông qua các quỹ tiết kiệm. 3.2.3. Phân loại thị trường chứng khoán. a/Căn cứ vào đối tượng mua bán là cổ phiếu hay trái phiếu, có thể chia ra 2 loại TTCK cơ bản: *Thị trường cổ phiếu (the stock market) là thị trường phát hành cổ phiếu mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chứa đựng cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. *Thị trường trái phiếu (bond market) là thị trường phát hành trái phiếu và mua đi bán lại trái phiếu cũ. Trái phiếu thường bao gồm 2 loại cơ bản: trái phiếu doanh nghiệp (corporate bond) và trái phiếu chính phủ (government bond). Tương ứng với hai loại thị trường trái phiếu khác nhau: thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường trái phiếu chính phủ. c/Căn cứ vào nguồn gốc ra đời của chứng khoán, có thể chia thành TTCK sơ cấp (Primary market) và TTCK thứ cấp (secondary market). *TTCK sơ cấp (primary market) là thị trường phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn hoặc tăng vốn cho doanh nghiệp và phát hành trái phiếu chính phủ để vay tiền từ tất cả các thành phần của nền kinh tế quốc dân. Chính vì lẽ đó, người ta còn gọi thị trường này là thị trường phát hành. *TTCK thứ cấp (secondary market) không phải là thị trường phát hành chứng khoán mới, mà là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán cũ. Các chứng khoán mua bán trên thị trường này rất đa dạng bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu của các doanh nghiệp hoặc của chính phủ, các công cụ phát sinh như chứng quyền, bảo chứng phiếu, hợp đồng quyền lựa chọn và hợp đồng tương lai. Trung tâm của TTCK thứ cấp là sở giao dịch chứng khoán. c/ Căn cứ vào kỳ hạn giao dịch, TTCK được chia thành thị trường giao ngay, thị trường giao dịch kỳ hạn và thị trường tương lai. *Thị trường giao ngay (spot market) là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán theo giá thoả thuận khi ký hợp đồng, nhưng thanh toán và giao nhận chứng khoán xảy ra sau ngày ký hợp đồng một hai ngày quy định. Đặc diểm chủ yếu của TTCK sơ cấp là huy động và tăng vốn, do vậy người ta có thể gọi TT sơ cấp là thị trường giao ngay. *Thị trường giao dịch kỳ hạn (forward market) là thị trường giao dịch mua bán chứng khoán theo giá thoả thuận khi ký hợp đồng, nhưng thanh toán và giao nhận chứng khoán xảy ra sau ngày ký hợp đồng một số ngày nhất định: 30 ngày, 60 ngày, 180 ngày... *Thị trường giao dịch tương lai (Futures market) được hiểu giống như thị trường giao dịch chứng khoán kỳ hạn. 3.2.4. Các thành viên tham gia thị trường chứng khoán . a/ Người môi giới (broker) Là người kinh doanh môi giới chứng khoán để hưởng hoa hồng. Người môi giới có các chức năng làm trung gian mua bán cổ phiếu, trái phiếu chứng quyền, bảo chứng phiếu, hợp đồng quyền lựa chọn (option), hợp đồng tương lai (future). Ngoài ra, người môi giới còn có chức năng tư vấn đầu tư cho khách hàng. Tuy nhiên, người môi giới cũng có thể tự kinh doanh chứng khoán cho bản thân. b/ Chuyên viên mua bán chứng khoán (specialist) Chuyên viên mua bán chứng khoán (specialist) là thành viên của Sở giao dịch. Chuyên viên có chức năng thực hiện các lệnh mua bán có giới hạn (limit orders) với danh nghĩa của broker khác để hưởng hoa hồng, đồng thời thực hiện các giao dịch mua bán (đặc biệt là bán khống-Short sale) khác để lập lại sự cân bằng giữa cung và cầu nhằm điều tiết giá cả thị trường c/Các công ty chứng khoán (securities company) Là thành viên của sở giao dịch. Nó là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, chuyên kinh doanh mua bán chứng khoán trong sở giao dịch. Công ty chứng khoán có các chức năng của người môi giới, người chuyên viên, và người bảo lãnh chứng khoán. Ngoài ra, ta còn thấy những thành viên khác như: Quỹ tương hỗ đầu tư, công ty dịch vụ tư vấn đầu tư và các doanh nghiệp, chính phủ và các cơ quan chính phủ với cương vị là người huy động vốn. 3.2.5. Các công cụ trên thị trường chứng khoán Chứng khoán là đối tượng mua bán, chuyển nhượng và trao đổi trên TTCK. Chúng thường bao gồm chứng khoán vốn (equity securities), chứng khoán nợ (debt securities) và chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán hay còn gọi là công cụ phái sinh (Derivative documents). Điển hình của chứng khoán vốn là cổ phiếu (stock), của chứng khoán nợ là trái phiếu (bond), của chứng từ phái sinh là chứng quyền (right certificate), bảo chứng phiếu (warant) và hợp đồng quyền lựa chọn (option contract), hợp đồng tương lai (future contract). Dưới đây sẽ lần lượt tìm hiểu các chứng khoán điển hình. a/ Cổ phiếu Cổ phiếu là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể đối với một doanh nghiệp cổ phần. Mức lợi tức cổ phần được hưởng phụ thuộc vào lợi nhuận và chính sách phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp cổ phần đó. Trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản, giá trị tài sản thanh lý (nếu có) sẽ được dùng để trang trải cho các khoản nợ trước khi thanh toán cho các cổ đông. Có hai loại cổ phiếu: Cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thông thường. Người sở hữu cổ phiếu ưu đãi được nhận một mức thu nhập cố định không phụ thuộc vào sự biến động của lợi nhuận công ty, nhưng họ không có quyền bầu cử cũng như tham gia vào các quyết định khác của công ty. Còn những người sở hữu cổ phiếu thông thường được hưởng lợi ích mang lại từ quyền sở hữu công ty, bao gồm: quyền bỏ phiếu đối với các quyết định của công ty, quyền hưởng lợi tức cổ phần căn cứ vào lợi nhuận của công ty. b/ Trái phiếu Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Có 2 loại trái phiếu chính: Trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ. c/ Các chứng khoán phái sinh: Là công cụ được thể hiện dưới dạng các hợp đồng mua - bán được chuẩn mực hoá về giá trị hợp đồng, về thời hạn và thị trường giao dịch. Các hàng hoá được mua bán theo hợp đồng này bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, dầu lửa, cà phê, bông, ngoại tệ... Có hai loại hợp đồng: hợp đồng tương lai và hợp đồng lựa chọn. Hợp đồng tương lai cho phép những người tham gia hợp đồng mua hay bán hàng hoá được lựa chọn vào một ngày xác định trong tương lai theo giá đã được xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Còn hợp đồng quyền chọn lại cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán hàng hoá được lựa chọn vào một ngày xác định trong tương lai theo giá đã được xác định trước vào thời điểm ký hợp đồng. 3.3. Thị trưòng ngoại hối (TTNH ) 3.3.1. Khái niệm: Chúng ta thấy rằng, một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa thương mại quốc tế và thương mại nội địa là: Thương mại nội địa chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia và thường chỉ liên quan đến nội tệ, trong khi đó, thương mại quốc tế vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và thường liên quan đến việc sử dụng các đồng tiền khác nhau để thanh toán chi trả cho nhau. Khi nhà xuất khẩu thu về ngoại tệ, thì họ phải bán số ngoại tệ này để lấy nội tệ, vì nhà xuất khẩu phải trang trải các chi phí đầu vào trong nước bằng nội tệ. Khi nhà nhập khẩu được yêu cầu thanh toán bằng ngoại tệ, thì họ phải dùng nội tệ để mua số ngoại tệ này thanh toán cho nhà xuất khẩu nước ngoài. Hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau được diễn ra trên thị trường, và thị trường này được gọi là thị trường ngoại hối (The Foreign exchange Market- FOREX ). Một cách tổng quát, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua bán các đồng tiền khác nhau. Trên thế giới, do hầu hết các giao dịch ngoại hối thường được xem là thị trường có tổ chức. Như vậy, nếu trên toàn thế giới chỉ sử dụng một đồng tiền chung duy nhất, thì hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau sẽ bị triệt tiêu và ắt hẳn thị trường ngoại hối sẽ không tồn tại và việc nghiên cứu nó sẽ trở nên vô nghĩa. 3.3.2. Đặc điểm và chức năng của thị trường ngoại hối. a/ Đặc điểm của thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định, mà thông qua mạng lưới hoạt động toàn cầu của các ngân hàng trên thế giới. Đây là thị trường toàn cầu, bởi lẽ: Thời lượng giao dịch 24/24 giờ ( trừ những ngày nghỉ); và hầu khắp mọi nơi trên thị trường đều diễn ra việc mua bán chuyển đổi các đồng tiền khác nhau. Trung tâm của TTNH là thị trường liên ngân hàng quốc tế ( Interbank ) với các thành viên chủ yếu là các ngân hàng thương mại, các nhà môi giới ngoại hối và các NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85% tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu. Các nhà kinh doanh duy trì quan hệ liên tục với nhau bằng điện thoại, telex, fax, hệ thống Swift, mạng vi tính... Ngày nay, do thông tin được truyền đi rất nhanh và hiệu quả, cho nên tuy các nhà kinh doanh ở rất xa nhau về mặt địa lý nhưng họ vẫn có cảm giác là đang ngồi đối diện và cùng hoạt động dưới một mái nhà chung . Giá cả mua bán trên thị trường ngoại hối là tỷ giá hối đoái. Do thị trường có tính toàn cầu và hoạt động hiểu quả, nên tỷ giá trên các thị trường khác nhau hầu như là thống nhất với nhau. Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là USD, ước tính chiếm tới 41,5% trong tổng số các đồng tiền tham gia (điều này cũng có nghĩa là có tới 83% các giao dịch trên FOREX là có mặt của USD). Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý... nhất là với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển. Những thị trường ngoại hối quan trọng nhất ngày nay bao gồm: London, New york, Tokyo, Singapore và Frankfurt. b/ Các chức năng của thị trường ngoại hối : Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại, đó là: nhằm cung cấp các dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. Ví dụ: một khách hàng là công ty muốn nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài sẽ có nhu cầu ngoại hối nếu hoá đơn hàng hóa và dịch vụ được ghi bằng ngoại tệ. Các giao dịch ngoại hối nhằm giúp khách hàng, và đồng thời cũng là dịch vụ mà các khách hàng luôn mong đợi từ phía ngân hàng. Ngoài dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế, TTNH còn có một số chức năng khác như sau: Giúp luân chuyển các khoản đầu tư quốc tế, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác giữa các quốc gia. Thông qua hoạt động của TTNH, mà giá trị đối ngoại của tiền tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường. TTNH cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư và đi vay quốc tế bằng các hợp đồng như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai. TTNH là nơi để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế. 3.3.3 Những thành viên tham gia thị trường ngoại hối a/ Nhóm khách hàng mua bán lẻ: Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình. Ví dụ nhà nhập khẩu có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán hoá đơn nhập khẩu ghi bằng ngoại tệ; nhà xuất khẩu có nhu cầu bán ngoại tệ lấy nội tệ để chi tiêu... Như vậy, nhóm khách hàng mua bán lẻ có nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình chứ không nhằm mục đích kinh doanh ngoại hối (kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi). Thông thường, nhóm khách hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau (ví dụ: công ty này mua bán với công ty kia) mà mua bán thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại. b/ Các Ngân hàng thương mại (NHTM) : NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm hai mục đích: Cung cấp dịch vụ cho khách hàng, mà chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng mua bán lẻ; Giao dịch kinh doanh cho chính mình, tức mua bán ngoại hối (tạo trạng thái ngoại hối) nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Trong trường hợp mua bán hộ cho khách hàng, NHTM chỉ là người mua hộ và bán hộ cho nên không chịu rủi ro tỷ giá và những hoạt động mua bán hộ không làm thay đổi cơ cấu bảng cân đối tài sản nội bảng của ngân hàng. Thông qua cung cấp dịch vụ, NHTM thu một khoản phí... Trong trường hợp NHTM giao dịch ngoại hối cho chính mình nhằm kiếm lãi, thì NHTM phải chịu rủi ro khi tỷ giá thay đổi. Các giao dịch cho chính mình làm thay đổi cơ cấu tài sản phân theo từng loại tiền trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Các ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối theo hai cách: Giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng với nhau và với khách hàng; Tiến hành giao dịch thông qua môi giới. c/ Những nhà môi giới ngoại hối: Ngày nay, ngoài hình thức mua bán ngoại hối trực tiếp giữa các ngân hàng với nhau, thì hình thức giao dịch thông qua nhà môi giới có ưu điểm ở chỗ: nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và chào bán cho khách hàng một cách nhanh nhất với ưu việt nhất (gọi là giá tay trong-inside rate).Tuy nhiên, giao dịch qua môi giới cũng có nhược điểm là: các ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí. Những ai muốn hành nghề môi giới ngoại hối phải có giấy phép. Tại mỗi trung tâm tài chính quốc tế, những nhà môi giới chuyên nghiệp hoạt động giúp các ngân hàng thực hiện các lệnh mua và bán ngoại hối. d/ Các ngân hàng Trung Ương: Nhìn chung, các NHTW không thờ ơ trước sự biến động của tỷ giá đối với đồng tiền do mình phát hành. Do đó, mặc dù hầu hết các đồng tiền của các nước công nghiệp phát triển được thả nổi từ năm 1973, nhưng trên thực tế, các NHTW vẫn thường xuyên can thiệp bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lơi. Trong chế độ tỷ gía cố định, can thiệp của NHTW lên thị trường ngoại hối là bắt buộc nhằm duy trì tỷ giá giao động trong một biên độ nhất định. NHTW tiến hành mua nội tệ vào khi cung nội tệ lớn hơn cầu; và tiến hành bán nội tệ ra khi cầu lớn hơn cung trên thị trường ngoại hối, nhờ đó tỷ giá được duy trì cố định. 3.3.4. Các nghiệp vụ cơ bản. a/ Nghiệp vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Spot) Giao dịch hối đoái trao ngay là giao dịch sau khi kết thúc ngoại tệ được giao sau 2 ngày làm việc. Trên thực tế các giao dịch có ngày giá trị trong vòng một tuần đều được gọi là giao dịch ngay. Các giao dịch trao ngay bằng ngoại tệ có thể được thực hiện bằng ngoại tệ tiền mặt (tiền mặt hay séc du lịch) hoặc bằng đồng tiền ghi sổ qua các tài khoản có tại ngân hàng. b/ Nghiệp vụ mua bán ngoại hối có kỳ hạn. Là một loại giao dịch trong đó mọi điều khoản của hợp đồng mua bán được định ra trong hiện tại, song việc thực hiện các điều khoản đó sẽ xảy ra trong tương lai, hay nói cách khác, đó là nghiệp vụ mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ tiến hành sau một gian nhất định, theo một tỷ giá thoả thuận lúc ký kết hợp đồng. c/ Nghiệp vụ arbitrage. Nghiệp vụ arbitrage là một dạng biến tướng của nghiệp kinh doanh ngoại hối giao ngày. Nghiệp vụ ácbít theo ý nhĩa nguyên thuỷ của nó là việc lợi dùng sự chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường hối đoái khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua và bán. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm việc mua một lượng ngoại hối nhất định tại thị trường hối đoái rẻ nhất hoặc bán một lượng ngoại hối đắt nhất vào một thời điểm nhất định. d/ Nghiệp vụ SWAP (hoán đổi) Lợi dụng cơ chế tín dụng SWAP, ngân hàng phối hợp mua và bán ngoại tệ giao ngay với mua, bán ngoại tệ có kỳ hạn theo hướng ngược lại nhằm kiếm lãi hoặc bảo tồn vốn. e/ Giao dịch hợp đồng ngoại hối Futures. Trong các giao dịch kỳ hạn thường được tiến hành qua điện thoại thì các giao dịch này thường diễn ra tại một địa điểm cụ thể, chẳng hạn như các sở giao dịch. Tại đây các hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. Một đặc điểm nổi bật của các hợp đồng Futures là tính chuẩn hoá cao. Tỷ giá trong giao dịch Futures thường cao hơn tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn do chi phí giao dịch futures cao hơn. f/ Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ (option transation) Giao dịch quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ là một giao dịch được thực hiện trên cơ sở ký hợp đồng quyền chọn mua (call option) hoặc quyền chọn bán (put option) một số lượng ngoại tệ nhất định, theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ xảy ra trong tương lai. II/ Những vấn đề cơ bản về hội nhập thị trường tài chính quốc tế Hội nhập thị trường tài chính là một xu thế tất yếu và khách quan hiện nay đối với tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, chúng ta đang tích cực chủ động tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính lại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bởi vậy việc hội nhập nền kinh tế sẽ kéo theo sự hội nhập của thị trường tài chính. Để có thể hội nhập thị trường tài chính thành công chúng ta cần thiết phải nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 1. Hội nhập thị trường tài chính quốc tế là gì? Hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia là quá trình mở cửa thị trường tài chính quốc gia cho sự tham gia của nước ngoài, đồng thời ngược lại đó cũng là quá trình mở cửa tạo khả năng tham gia các thị trường tài chính nước ngoài của các tổ chức ,cá nhân trong nước. Như vậy, quá trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia bao gồm hai mặt : -Tham gia thị trường tài chính trong nước của nước ngoài. Tức là khả năng các tổ chức,cá nhân nước ngoài có thể tham gia kinh doanh trên thị trường tài chính nội địa của một quốc gia. Ví dụ, một công ty chứng khoán nước ngoài có thể tham gia kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam; hoặc một nhà đầu tư chứng khoán ở Mỹ có thể tham gia đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam… -Tham gia các thị trường tài chính nước ngoài của các tổ chức,cá nhân trong nước. Ngược lại với quá trình trên, hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia cũng phải mang lại cơ hội cho các tổ chức, cá nhân trong nước trong việc mở rộng thị trường ra nước ngoài. Có nghĩa là, các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt động kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ trên thị trường tài chính nước ngoài; hoặc các cá nhân trong nước cũng có thể thụ hưởng các dịch vụ trên thị trường tài chính nước ngoài. Nói tóm lại, hội nhập thị trường tài chính quốc gia vào thị trường tài chính quốc tế là quá trình tự điều chỉnh một cách chủ động nhằm tạo dựng khả năng đón nhận sự tham gia của nước ngoài vào thị trường tài chính trong nước và thúc đẩy sự tham gia vào thị trường tài chính quốc tế của các tổ chức và cá nhân trong nước. 2. Hình thức hội nhập Quốc tế. 2.1 Mở cửa thị trường nội địa cho sự tham gia của nước ngoài Một trong những nội dung quan trọng đối với quá trình hội nhập thị trường tài chính quốc gia vào thị trường tài chính quốc tế là mở cửa thị trường nội địa cho sự tham gia của nước ngoài (bao gồm các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài). Đây là vấn đề quan trọng, căng thẳng nhất đối với các nước đang phát triển, các nước nghèo trong quá trình hội nhập quốc tế. Sự tham gia của nước ngoài vào thị trường tài chính một quốc gia được thể hiện trên hai khía cạnh : -Thứ nhất, có sự hiện diện trên thị trường tài chính quốc gia, tức là có trụ sở đặt tại quốc gia đó để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính. -Thứ hai, không có sự hiện diện trên thị trường tài chính quốc gia hay kinh doanh các dịch vụ tài chính qua biên giới, có nghĩa là các tác nhân nước ngoài chỉ thực hiện các giao dịch tài chính qua biên giới. Đối với hình thức tham gia thứ nhất - có sự hiện diện trên thị trường tài chính quốc gia. Các cá nhân và tổ chức nước ngoài có thể tham gia vào thị trường tài chính của một quốc gia dưới các hình thức: mở văn phòng đại diện, chi nhánh, thành lập công ty con, thành lập công ty liên doanh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Đối với mỗi loại hình tham gia của các cá nhân và tổ chức nước ngoài nêu trên, mức độ tham gia có sự khác nhau. Tuy nhiên, đặc điểm chung nhất, nổi bật nhất là các cá nhân và tổ chức nước ngoài phải đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước của nước sở tại theo hệ thống pháp luật của nước sở tại và hoạt động trong khuôn khổ hệ thống pháp luật của nước sở tại và hoạt động trong khuôn khổ hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Đối với hình thức thứ hai: Không có sự hiện diện trên thị trường tài chính quốc gia. Các cá nhân và tổ chức nước ngoài có thể tham gia vào thị trường tài chính một quốc gia thông qua hình thức : (i) Cung cấp các dịch vụ qua biên giới (ii) Các hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài vào thị trường chứng khoán của một quốc gia. Ví dụ, một nhà đầu tư ở Thái Lan, Singapo hoặc Hồng Kông có thể thông qua một công ty chứng khoán(chẳng hạn đó là Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt) để đầu tư mua chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh. Nhà đầu tư này không nhất thiết phải sống ở Việt Nam, không nhất thiết phải đến Việt Nam mà có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật như điện thoại, internet…để thực hiện đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.2 Tham gia vào thị trường nước ngoài của các tổ chức và cá nhân trong nước Một nội dung khác đối với vấn đề hội nhập quốc tế của thị trường tài chính một quốc gia là việc cho phép các tổ chức và cá nhân trong nước tham gia vào thị trường tài chính nước ngoài. Các tổ chức và cá nhân trong nước cũng có khả năng tham gia vào thị trường tài chính nước ngoài theo 2 con đường: (i) Không có sự hiện diện trên thị trường tài chính nước ngoài. Các tổ chức và cá nhân trong nước thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính qua biên giới vào thị trường tài chính của một quốc gia mà không mở trụ sở ở quốc gia đó. Ví dụ, Một công ty cổ phần của Việt Nam có thể phát hành và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Nhật Bản... (ii) Có sự hiện diện trên thị trường tài chính nước ngoài. Các tổ chức và cá nhân trong nước mở văn phòng đại diện, chi nhánh, thành lập công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài ở một quốc gia khác để thực hiện các hoạt động kinh doanh tài chính ở quốc gia đó. Trong trường hợp này, cơ sở kinh doanh của tổ chức và cá nhân trong nước phải chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp của quốc gia sở tại. 2.3 Thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Trong hình thức hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế thì ranh giới quốc gia bị xóa bỏ. Các tổ chức và cá nhân hoạt động trên thị trường tài chính khu vực hoặc quốc tế được tự do hoạt động trong khuôn khổ phạm vi thị trường mà không chịu sự phân biệt đối xử của hệ thống pháp luật từng quốc gia riêng biệt, thay vào đó là hệ thống luật pháp mang tính khu vực hoặc quốc tế. Đây là hình thức hội nhập cao và rất phức tạp, chính vì vậy mà nó mới chủ yếu ở trong ý tưởng, hoặc mới được thực hiện trong từng lĩnh vực riêng lẻ của thị trường tài chính. 3. Phương thức hội nhập quốc tế. Việc mở cửa thị trường tài chính quốc gia cho sự tham gia của nước ngoài và các tổ chức, cá nhân trong nước tham gia vào thị trường tài chính quốc tế được thể hiện theo các phương thức sau: 3.1 Hội nhập theo Hiệp định song phương: Là hình thức hai quốc gia ký kết một hiệp định cam kết mở cửa thị trường tài chính cho các cá nhân và tổ chức của nước đối tác tham gia theo các điều khoản của hiệp định. Ví dụ, giữa Việt Nam và Mỹ đã ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, trong Hiệp định này có quy định về vấn đề mở cửa thị trường tài chính của mỗi nước cho các nhà đầu tư của quốc gia đối tác tham gia. Khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, các nhà đầu tư của Việt Nam và Mỹ có quyền tham gia vào thị trường tài chính của Việt Nam và Mỹ theo khuôn khổ của Hiệp định. 3.2 Hội nhập theo Hiệp định đa phương hoặc Hiệp định của các khu vực, các khối liên kết về kinh tế - chính trị: Là hình thức một số quốc gia tham gia ký kết một hiệp định đa phương hoặc các quốc gia trong một khối liên kết về kinh tế - chính trị ký kết một hiệp định chung cam kết mở cửa thị trường tài chính của nhau cho các cá nhân và tổ chức của các quốc gia tham gia ký kết hiệp định. Ví dụ, các nước gia nhập WTO phải mở cửa thị trường tài chính cho các nhà đầu tư của các nước nằm trong WTO theo cam kết chung của WTO. 3.3 Phương thức hội nhập thông thường: Là hình thức các tổ chức và cá nhân của một quốc gia tham gia vào thị trường tài chính nước ngoài theo hệ thống pháp luật của quốc gia đó và hệ thống luật pháp của quốc gia mà họ tham gia; ngược lại, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính của một quốc gia theo các điều kiện mở cửa thị trường tài chính chung của quốc gia đó. Ví dụ, Chính phủ Việt Nam muốn phát hành trái phiếu vào thị trường Mỹ, đợt phát hành đó phải chịu sự điều chỉnh của luật pháp Việt Nam và hệ thống luật của Mỹ. 4. Sự cần thiết phải hội nhập thị trường tài chính quốc tế: Hội nhập thị trường tài chính quốc gia vào thị trường tài chính quốc tế có nhiều mặt lợi nhưng cũng không kém những mặt bất lợi. 4.1 Tác động tích cực: 4.1.1 Vấn đề vốn: Việc mở cửa thị trường tài chính quốc gia cho sự tham gia của nước ngoài chắc chắn sẽ thu hút một lượng vốn không nhỏ chảy vào nền kinh tế quốc gia dưới các con đường khác nhau: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp trên thị trường tài chính, vay nợ và viện trợ. Nguồn vốn nước ngoài này sẽ bổ sung cho nguồn vốn hạn hẹp của nền kinh tế quốc gia, tăng khả năng đầu tư của nền kinh tế. Đối với nước ta, vốn đóng một vai trò rất quan trọng, bởi chúng ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, nên việc thu hút từ bên ngoài là hết sức cần thiết. 4.1.2 Thu hút công nghệ._.ết hay không. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế bằng việc tham gia vào AFTA, APEC và đang tích cực chuẩn bị cho việc tham gia vào WTO, và các doanh nghiệp nào đã và đang tham gia vào thương mại quốc tế cũng đều hiểu rằng một doanh nghiệp không thể bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường nếu không tuân thủ các thông lệ quốc tế chung, trong đó, việc kiểm toán và công khai hóa thông tin đang trở thành những thông lệ quan trọng nhất. Đối với các loại trái phiếu đã phát hành còn đơn điệu về chủng loại, gò bó về cách thức thanh toán. Phần lớn trái phiếu phát hành qua hệ thống kho bạc chưa được chuẩn hoá về mệnh giá, về thời gian đáo hạn... nên không đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường chứng khoán tập trung. Do vậy, việc huy động vốn cũng chưa đạt được mục tiêu đề ra. Vậy trong thời gian tới, để thực hiện mục tiêu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, để Trái phiếu Chính phủ thực hiện được chức năng người “anh cả” trong các công cụ đầu tư và thực sự là một hàng hoá mẫu mực trên thị trường chứng khoán, thiết nghĩ Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp cải thiện sau đây: Một là , lập chương trình kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ đối với các loại kỳ hạn chủ yếu 1,2,3,5,7 và 10 năm. Với kế hoạch được công bố này, các nhà đầu tư luôn có hàng hoá trên thị trường để đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng của mình và thị trường cũng luôn tồn tại mức lãi suất chuẩn để các công cụ đầu tư khác sử dụng tham chiếu. Hai là, tiếp tục đổi mới, cải tiến và đa dạng hoá các phương thức phát hành, giao dịch, thanh toán... trái phiếu Chính phủ. Đối với phương thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành: cần có sự nghiên cứu, chỉnh sửa lại cơ chế đấu thầu và bảo lãnh, trong đó nên giới hạn tỷ lệ nắm giữ trái phiếu theo danh mục đầu tư của tổ chức đấu thầu và bảo lãnh. Trên thị trường ngoại hối, cần phải hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. *Để thúc đẩy nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, trước mắt nên cho phép các ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kỳ hạn linh hoạt mà không bị khống chế như quy định trong Quyết định số 1198/2001/QĐ-NHNN, ngày 18 tháng 9 năm 2001 của Thống đốc NHNN. Bên cạnh đó, từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo hàng hoá cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. *Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ: Để phù hợp với trình độ thị trường và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN có thể cho phép và hướng dẫn các NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. *Về giao dịch kỳ hạn- kỳ hạn (Forward- Forward Swap): Vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp, hơn nữa nhu cầu của thị trường về nghiệp vụ này hầu như chưa phát sinh, do đó, cũng như giao dịch tương lai chúng ta nên giới thiệu nghiệp vụ này vào trong nền kinh tế. Trên cơ sở đa dạng hoá loại sản phẩm tài chính, khuyến khích các định chế tài chính trung gian phát triển các loại dịch vụ tài chính mới như mua bán nợ, chiết khấu thương phiếu, thuê mua tài chính, bảo lãnh phát hành, tư vấn, lưu ký, thanh toán bù trừ, định giá và xếp hạng tín nhiệm... 3. Hoàn thiện các loại hình thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. Để thị trường tài chính được hoàn thiện thì không gì khác là phải hoàn thiện từng loại hình thị trường: thị trường tín dụng ngắn hạn, thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng... 3.1 Đối với thị trường tín dụng ngắn hạn: Phải hoàn thiện và phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền mặt phù hợp với cơ chế thị trường. Mặc dù, năm 1991 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định 101QĐ-NH về thanh toán không dùng tiền mặt và Quyết định 181/ QĐ-NH về thanh toán bù trừ, và ngày 25/11/1993 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 1996 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 30/CP quy định về thanh toán séc trong nền kinh tế, nhưng cho đến nay, công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn rất kém, tỷ lệ thanh toán dùng tiền mặt vẫn chiếm một tỷ trọng cao, đặc biệt là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và trong các tầng lớp dân cư. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải đưa ra nhiều phương thức thanh toán đa dạng với nhiều tiện ích để người sử dụng dịch vụ thanh toán có thể lựa chọn phương thức thanh toán có lợi cho mình nhất, mở rộng việc sử dụng tài khoản cá nhân và séc cá nhân trong cả nước; phải hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán, nhất là thủ tục thanh toán sao cho nhanh gọn để đáp ứng nhu cầu thanh toán chu chuyển vốn của thị trường; Đối với hoạt động cho vay: Khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đa dạng hoá các loại hình cho vay, kể cả hoạt động thuê mua, bảo lãnh, tín chấp, đồng tài trợ, cho vay hợp vốn...; phải tăng cường vốn tự có của các NH, các tổ chức tín dụng bởi vì dù các NH có nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các hình thức cho vay nhưng theo quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với 1 khách hàng trên vốn tự có của tổ chức tín dụng là 15%, trong khi vốn tự có của các NH nước ta lại quá nhỏ, do đó lượng cho vay không đáp ứng được nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh. 3.2 Hoàn thiện thị trường nội tệ liên ngân hàng Mặc dù thị trường nội tệ liên ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993 nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ, kém linh hoạt, còn trông cậy vào sự bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường này cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau: *Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh tiềm lực tài chính và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo sự lành mạnh của cả hệ thống và tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường. Hiện đại hoá mạng lưới công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng, dần bắt kịp với những công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. *áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán, chuyển vốn được thực hiện nhanh gọn, chính xác, ngay trong ngày, có như vậy các giao dịch vay mượn rất ngắn từ một ngày đến một tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trong thị trường liên ngân hàng. *Tổ chức đấu thầu thường xuyên tín phiếu kho bạc đồng thời phát triển các công cụ của thị trường tiền tệ khác như chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu... để có các phương tiện làm thế chấp trong các quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, tránh những rủi ro trong các giao dịch cũng như sự lệ thuộc quá nhiều vào sự bảo lãnh của ngân hàng nhà nước. *Thành lập các công ty môi giới làm trung gian cho các giao dịch trên thị trường nhằm giúp cho cung cầu tên thị trường gặp nhau một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. *Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng. *Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với Luật ngân hàng và tình hình mới; Mở rộng cho phép các thành viên kháca của thị trường tiền tệ được tham gia thanh toán bù trừ, nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức tín dụng hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương pháp thanh toán chuyển tiền điện tử trong toàn bộ hệ thống thay cho phương pháp thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng. Đồng thời cũng áp dụng các biện pháp bảo mật để tránh rủi ro trong thanh toán điện tử. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu thanh toán vốn nhanh chóng, chính xác, an toàn. (Hiện nay, trong thanh toán bù trừ, các cán bộ chuyên trách của ngân hàng phải mang tài liệu, chứng từ gửi kèm theo các bảng kê giao nhận đến ngân hàng chủ trì để đối chiếu và bù trừ cho nhau, vừa mất thời gian, vừa phát sinh rủi ro nhầm lẫn, mất mát chứng từ trong quá trình chuyên trở, giao nhận). 3.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. ở nước ta, do trình độ thị trường còn sơ khai, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ vào khoảng 15-20%; chính vì vậy, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, chúng ta cần phải làm những việc sau: Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. NHNN cần phải can thiệp kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thị trường mới hoạt động thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. Cần mở rộng số lượng thành viên, và tạo ra môi trường để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn. Bởi vì, đã có 60 thành viên được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế, điều này khiến cho thị trường hoạt động trầm lắng. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mất đi tính đặc thù của nó. Ngoài những vấn đề căn bản nêu trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hoá khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ... cũng cần được xem xét thực hiện. 3.3 Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn: a/ Thị trường tín phiếu kho bạc: Cần phải tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn, thường xuyên hơn nhằm giúp các NHTM, các tổ chức tín dụng phi NH, các doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư chủ động; đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trướng số lượng tín phiếu đủ lớn, làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Phát hành nhiều loại tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm (nhưng chủ yếu là loại 3 tháng và 6 tháng) với nhiều mức lãi suất xấp xỉ gần bằng lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này. Đẩy mạnh phát triển các giao dịch thoả thuận mua lại, vì đây là phương thức giao dịch phổ biến nhất đối với tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, cần sớm ban hành các quy chế giao dịch cũng như các mẫu cụ thể của các hợp đồng mua lại Nhanh chóng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở để tạo thị trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc hoạt động. Tổ chức đấu thầu, thực hiện đặt thầu và công bố kết quả trên mạng máy tính đến mọi thành viên thị trường đều được biết kết quả cùng một lúc, đảm bảo tính chính xác và công bằng cho các đối tượng tham gia. b/ Thị trường chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng: Đối với thị trường này, cần phải quy định tiêu chuẩn hóa các loại chứng chỉ tiền gửi về hình thức, nội dung, kỳ hạn, lãi suất cũng như những tiêu chuẩn thống nhất cho việc phát hành các công cụ này nhằm tạo điều kiện cho việc phát hành, giao dịch và thanh toán trên thị trường, đồng thời cũng cần phải có những hướng dẫn cần thiết khi cấp giấy phép cho việc phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi. Nên đưa vào sử dụng rộng rãi các loại chứng chỉ tiền gửi như chứng chỉ tiền gửi lãi suất cố định, chứng chỉ tiền gửi lãi suất thả nổi, chứng chỉ tiền gửi lãi suất chiết khấu, chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ để tạo ra sự phong phú, đa dạng các công cụ cho thị trường tiền tệ và tăng khả năng thu hút vốn cho ngân hàng. Cần tạo ra một sân chơi bình đẳng và phải trao một quyền hạn hoàn toàn cho các NH trong việc phát hành chứng chỉ tiền gửi. Vì hiện nay, mặc dù trong luật NH cho phép tất cả các NH đều được phát hành chứng chỉ tiền gửi, nhưng trong thực tế việc phát hành chứng chỉ tiền gửi đối với từng NH lại phụ thuộc vào sự phê chuẩn của NHNN. Và trong số các ngân hàng được phát hành thì NHNN lại xem xét cho từng trường hợp một. Việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi cũng chỉ giới hạn cho các ngân hàng nội, còn với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại không quy định cụ thể về việc phát hành công cụ này. Điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống NH và cản trở việc tăng nguồn vốn khả dụng cho các thị trường tiền tệ. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia thị trường tài chính. 4.1 Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam: Mở cửa kinh tế phải đi đôi với cải cách, đặc biệt là cải cách hệ thống tài chính thì mới đảm bảo được sự tăng trưởng bền vững, mới thu hút và sử dụng có hiệu quả các dòng vốn từ bên ngoài. Với mục tiêu thu hẹp dần khoảng cách, tiến tới đuổi kịp các nước khác về mặt kinh tế, hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách và nan giải cần phải được quan tâm giải quyết; trong đó có vấn đề làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động của các NHTM. Trước mắt, cần phải giải quyết những vấn đề sau: *Phải có kế hoạch khả thi, cụ thể để các NHTM đẩy nhanh được chương trình cơ cấu lại, giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng, nợ khó đòi, tăng vốn tự có. *Xây dựng lại mô hình tổ chức của NHTM, tiêu chuẩn hoá cán bộ nhân viên theo hướng đáp ứng nhanh chóng, chính xác nhu cầu thị trường, nhấn mạnh khả năng thu thập, xử lý và khai thác thông tin. Xây dựng quy trình ra quyết định sao cho vừa khoa học vừa nhanh chóng để nắm bắt thời cơ kịp thời. Muốn vậy cần chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, về kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với trình độ chuẩn mực quốc tế. Tham gia cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại phải có chính sách và phương pháp kinh doanh riêng của mình phù hợp trong từng thời gian sao cho hiệu qủa. Cần tiến hành xây dựng hệ tiêu chuẩn đánh giá an toàn kinh doanh nhằm mở rộng hoạt động vào khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực này rộng lớn, kinh doanh năng động, có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh mạo hiểm... nhưng cũng đưa lại nhiều lợi ích cho xã hội và nền kinh tế; đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng khi mở rộng dịch vụ kinh doanh vào đây. Đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, cải tiến và tiếp thị sản phẩm nhằm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mở ra các sản phẩm mới, thị trường mới, thoả mãn và nâng cao nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. *Chuẩn bị tiềm năng về tri thức và công nghệ nhằm chủ động đáp ứng và khai thác tốt những tình huống đột biến có thể xảy ra trong các mối quan hệ kinh tế-thương mại song phương và đa phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Theo lộ trình xác định trong các hiệp ước quốc tế mà nước ta đã cam kết thì chỉ một thời gian ngắn nữa các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt trong cuộc cạnh tranh toàn diện với các NHTM khu vực nói riêng và quốc tế nói chung. Điều này đã buộc các NHTM nước ta phải tự vươn lên ngay từ bây giờ để nắm thời cơ và điều hành tốt các khâu kinh doanh trong điều kiện mới. Đã đến lúc có NHTM Việt Nam cần tính đến việc mở rộng thị trường đầu tư của mình không những trong nước mà cả với thị trường ở nước ngoài. * Hơn nữa, trong quá trình đàm phán tới đây về thương mại và dịch vụ trong đó có dịch vụ tài chính - ngân hàng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các nước thành viên sẽ yêu cầu Việt Nam phải tiếp tục mở cửa thị trường, dành đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, tuân thủ các quy định luật lệ của WTO và tiếp tục giải quyết các vấn đề như: người nước ngoài mua lại ngân hàng trong nước, cụ thể hoá các điều kiện và thủ tục cấp phép cho các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc đàm phán để gia nhập WTO sau vòng đàm phán uruguay đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận nhiều điều kiện khắc nghiệt hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển đã gia nhập trước đây. Do vậy, để có thể vượt qua những thách thức nhiều mặt, Việt Nam phải xây dựng một chiến lược đàm phán và cải cách hệ thống rất khẩn trương nhằm giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực sẽ xuất hiện. Trong đó, một số biện pháp cải cách chủ yếu nên được thực hiện trong thời gian tới: *Tăng cường khung khổ pháp lý và kiểm sát, tập trung vào việc cải thiện khả năng giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để xác định một cách rõ ràng về sự an toàn và lành mạnh của các nghiệp vụ ngân hàng; cải tiến các tiêu chuẩn kế toán và thực hiện kiểm toán hàng năm do các công ty kiểm toán độc lập nước ngoài tiến hành, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế; *Củng cố và sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, khuyến khích các tổ chức này liên kết lại với nhau, tiến tới hợp nhất thành các tổ chức tín dụng quy mô lớn hơn, hoạt động ổn định và phát triển trong thị trường biến động và cạnh tranh; *Nâng mức vốn các ngân hàng thương mại quốc doanh đến mức của các ngân hàng trung bình trong khu vực. Việc nâng mức vốn phải đảm bảo dựa trên một kế hoạch tổng thể với việc cơ cấu lại các khoản vay, cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước. Kế hoạch này phải bao gồm những biện pháp cơ cấu như chuyển những hoạt động cho vay ưu đãi phi thương mại cho các ngân hàng chính sách, xóa một số khoản cho vay chính sách và các khoản nợ khoanh, tiến hành cổ phần hóa và liên doanh với các ngân hàng nước ngoài; *Song song việc cải cách hệ thống ngân hàng, cần tiến hành thực hiện các cam kết quốc tế như các điều khoản cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các điều khoản của Hiệp định khung về hợp tác thương mại và dịch vụ (AFAS) của ASEAN bắt đầu từ năm 2005. Hiệp định thương mại Việt Mỹ; đồng thời bước đầu xâm nhập vào thị trường khu vực. 4.2 Nâng cao hiệu qủa hoạt động của các công ty chứng khoán: Trong thời gian tới, nhằm tạo điều kiện cho các CtyCK nâng cao hiệu quả hoạt động, UBCKNN nên xem xét, hướng dẫn cho phép các CtyCK nhận lệnh qua điện thoại, máy Fax, internet; phối hợp cùng với các cơ quan chức năng nhằm tháo gỡ những bất cập trong các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng dịch vụ, chủ động tìm kiếm khách hàng, đặc biệt trong bối cảnh môi trưòng cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động chứng khoán đã có dấu hiệu tăng lên và hơn thế nữa thời hạn được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định sẽ kết thúc vào cuối năm nay. 4.3 Hình thành các công ty môi giới ngoại hối Cũng như trên các thị trường khác, các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Do thị trường ngoại hối Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển, các phương tiện giao dịch chưa hiện đại, thì vai trò chắp nối cung cầu ngoại tệ của các công ty môi giới ngoại hối càng trở nên quan trọng và thiết thực. Trong thời gian qua, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam hoạt động đôi khi bị gián đoạn, lúc trầm, lúc bổng, ngoài các nguyên nhân cố hữu thuộc về cơ chế tỷ giá, vai trò can thiệp của NHNN, tình trạng găm giữ ngoại tệ và phương tiện giao dịch còn lạc hậu... thì việc thiếu vắng các công ty môi giới ngoại hối cũng được xem là nguyên nhân của tình trạng trên. Với tư cách là trung gian cho các ngân hàng, các công ty môi giới tạo điều kiện để NHTM có nhu cầu bán gặp gỡ giao dịch với ngân hàng có nhu cầu mua và ngược lại. Về mặt nguyên tắc, các công ty môi giới không được phép kinh doanh cho chính mình, mà chỉ môi giới cho các ngân hàng (không phải các công ty), chính vì vậy, các công ty môi giới sẽ duy trì thông tin liên lạc thường xuyên với các phòng kinh doanh ngoại tệ. Sau mỗi cuộc chắp nối thành công, công ty thu một khoản phí dịch vụ môi giới từ cả hai bên đối tác tham gia vào giao dịch mua bán ngoại tệ. Giao dịch qua công ty môi giới có ưu điểm hơn so với giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng, bởi vậy cần có giải pháp khuyến khích, cấp phép cho một vài công ty môi giới ngoại hối hoạt động trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian tới. 5. Tạo lập một thị trường tài chính bình đẳng, lành mạnh và chủ động hội nhập Từng bước điều chỉnh nghiêm ngặt cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ, vừa tạo điều kiện tháo gỡ mọi trở ngại, khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nước phát triển nói chung và các hoạt động kinh doanh tài chính-tiền tệ nói riêng theo hướng bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn và giảm dần, vừa hỗ trợ và hướng dẫn các tổ chức tài chính-tiền tệ và các tổ chức dịch vụ đổi mới trình độ quản lý, đồng thời mở cửa và nới lỏng các hạn chế đối với hoạt động của nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tài chính, tiền tệ, kế toán, kiểm toán và chứng khoán nhằm tăng cường môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Thực hiện mở cửa có chọn lọc với mức độ hợp lý thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam cho các bên nước ngoài tham gia; từng bước thực hiện tự do hoá các loại lãi suất trên các thị trường tài chính và tự do hoá các giao dịch thanh toán trên tài khoản vãng lai vào cuối thập kỷ; xây dựng nền tảng và điều kiện thực thi tự do hóa tài khoản vốn sau 2010; xoá bỏ dần các giới hạn về số lượng tổ chức, tổng giá trị giao dịch nghiệp vụ ngân hàng, môi giới bảo hiểm, phạm vi thực hiện dịch vụ; về tỷ lệ giới hạn tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức sở hữu tối đa số cổ phần của các tổ chức trong nước; xúc tiến cổ phần hoá một hoặc hai NHTMQD, công ty tái bảo hiểm quốc gia, công ty kiểm toán với sự tham gia của các tổ chức nước ngoài có quy mô lớn và có uy tín nhằm tạo môi trường cạnh tranh của thị trường trong nước; giảm ảnh hưởng của hiện tượng đô la hoá nền kinh tế và phấn đấu thực hiện thanh toán chủ yếu là Việt Nam đồng; tăng cường đầu tư của các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ Việt Nam ra nước ngoài. Xây dựng kế hoạch chuyển đổi tự do đồng tiền Việt Nam, tạo lập môi trường kinh doanh tiền tệ và cung ứng dịch vụ tài chính theo cơ chế thị trường cho các định chế tài chính trong nước thông qua việc xây dựng các thể chế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường; Tạo lập môi trường bình đẳng về quyền kinh doanh cho các định chế tài chính - tiền tệ, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phải chịu mức giá cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Chúng ta cần nhanh chóng giảm dần khoảng cách về giá phí dịch vụ và tiến đến áp dụng chính sách một giá đối với tất cả các doanh nghiệp trên thị trường. Sự phân biệt về giá phí dịch vụ (nếu có) chỉ nên áp dụng theo tiêu thức ngành hoặc vùng lãnh thổ với mục đích tạo điều kiện thúc đẩy ngành hoặc vùng lãnh thổ nhằm phát triển toàn diện nền kinh tế-xã hội. Thiết lập hệ thống kiểm soát có hiệu lực, đảm bảo an toàn tài chính nhưng không ngăn cản tiến trình hội nhập; Xây dựng hệ thống giám sát nội bộ và giám sát, phân tích, dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô; Đảm bảo an toàn tài chính trong nước, hội nhập tài chính phải gắn liền với việc xây dựng hệ thống giám sát, kịp thời đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định thị trường tài chính. 6. Đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế Cần thiết phải đẩy mạnh công tác đào tạo con người vì con người mới là trung tâm của quá trình hội nhập: thực hiện đàm phán và ký các cam kết, soạn thảo hệ thống văn bản pháp luật... Xác định cán bộ là khâu then chốt và nghiên cứu ban hành các quy định về tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế; Coi trọng công tác đào tạo tất cả các đối tượng cán bộ, từ trung ương đến địa phương, từ cán bộ quản lý nhà nước đến cán bộ trong doanh nghiệp nhằm trang bị kiến thức cơ bản về kinh tế đối ngoại, thương mại quốc tế cũng như kỹ năng quản lý tài chính và quản trị kinh doanh, kỹ thuật đàm phán, trình độ ngoại ngữ và khả năng giao tiếp, đảm bảo cho quá trình hội nhập có hiệu quả. Trên phương diện quản lý Nhà nước đối với vấn đề hội nhập quốc tế, vấn đề đào tạo con người tập trung vào hai đối tượng chủ yếu sau: Thứ nhất, đội ngũ cán bộ tham gia đàm phán và ký kết các hiệp định quốc tế. Đối với đối tượng này, các nội dung cần tập trung đào tạo bao gồm: ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh), luật pháp (trong nước và quốc tế), kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tham gia đàm phán, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập thị trường quốc gia vào thị trường quốc tế. Thứ hai, đội ngũ cán bộ thực thi tiến trình hội nhập quốc tế. Đối với các đối tượng này, các nội dung cần tập trung đào tạo bao gồm: Ngoại ngữ, hệ thống pháp luật, nội dung các Hiệp định... Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế, cần đẩy mạnh đào tạo con người (nguồn nhân lực) có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia bao gồm: - Đưa nội dung hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia trực tiếp vào nội dung chương trình giảng dạy đại học của các trường Đại học thuộc khối kinh tế - tài chính. - Khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo lại đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp về nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính thông qua hai hình thức: Thứ nhất, doanh nghiệp tự bỏ kinh phí đào tạo lại; Thứ hai, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo thông qua việc mở các lớp miễn phí cho cán bộ của các doanh nghiệp về nội dung hội nhập quốc tế. 7. Đổi mới thị trường tài chính theo hướng công nghệ hoá, hiện đại hoá Trước tiên, cần nghiên cứu xây dựng một hệ thống thông tin kinh tế tài chính theo thông lệ quốc tế, hợp với cơ chế thị trường, có thể trao đổi được với bên ngoài; xây dựng cơ chế cung cấp thông tin, thống nhất áp dụng trong tất cả các ngành, các cấp; xây dựng cơ chế giám sát nội bộ và cơ chế giám sát tài chính, tiền tệ quốc gia phù hợp với tiến độ mở cửa, tự do hoá tài chính. Trên góc độ vi mô, phải cải tiến công nghệ ngân hàng: bao gồm cả việc cải tiến quy trình công nghệ, các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán quốc tế và cả việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông tin vào hoạt động ngân hàng, áp dụng hệ thống thông tin quản lý đa phương (MIS) để quản trị điều hành ngân hàng đáp ứng yêu cầu hoạt động của ngân hàng hiện đại. Đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành một điều kiện quyết định cho việc tăng trưởng và nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh trên con đường hội nhập. Trên đây là một số giải pháp chính nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Kết luận Qua nghiên cứu đề tài “Những giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập” có thể rút ra một số kết luận sau: Thị trường tài chính Việt Nam nhìn chung đến nay đã có nhiều bước tiến: thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được 2 năm, thị trường tiền tệ thứ cấp đã bước đầu được hình thành, đã có nhiều ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và nhiều ngân hàng của Việt Nam đã tham gia vào hệ thống thanh toán toàn cầu... Tuy nhiên cho đến nay, thực tế cho thấy thị trường tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế: hạn chế về môi trường pháp lý, về hàng hoá giao dịch trên thị trường, về cơ cấu tổ chức... Như các quá trình quốc tế hoá có tính chất thị trường khác, hội nhập trong lĩnh vực thị trường tài chính cũng có cả mặt lợi và bất lợi. Mặt lợi là chúng ta nhanh chóng sử dụng được các nguồn vốn dồi dào của thế giới vào phát triển kinh tế nhằm tiến hành nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mặt bất lợi là nếu không kiểm soát được sự ra vào của nguồn vốn cũng như không đủ lực giám sát và đầu cơ quốc tế thì quá trình tái sản xuất xã hội trong nước sẽ dễ bị ảnh hưởng tai hại của các biến động trên thị trường tài chính thế giới cũng như sẽ chịu sự lũng đoạn của các tổ chức tài chính lớn. Do vậy hội nhập là cần thiết nhưng phải thận trọng chuẩn bị từng bước vững chắc để có thể hội nhập có lợi nhiều hơn có hại. Để có thể hội nhập được thành công và rút ngắn khoảng cách chênh lệch so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam phải chủ động hội nhập quốc tế và nhanh chóng đưa ra các giải pháp hữu hiệu để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam. tài liệu tham khảo 1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc ĐCS Việt Nam lần thứ IX 2 Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ 3 Hiệp định Khung về khu vực mậu dịch tự do ASEAN 4 Luật NHNN&Luật các TCTD và các văn bản có liên quan tới chính sách quản lý ngoại hối. 5 “Kết quả vòng đàm phán URUGUAY về hệ thống thương mại đa biên”, Nhà xuất bản Thống Kê-2000 6 Nguyễn Văn Tiến, “Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, nhà xuất bản Thống Kê, 2001 7 Nguyễn Văn Tiến, “Cẩm nang thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối”, nhà xuất bản Thống Kê 8 Đinh Xuân Trình, “Thị trường chứng khoán”, nhà xuất bản Giáo dục 9 Đinh Xuân Trình, “Giáo trình Thanh Toán quốc tế”, nhà xuất bản Giáo dục 10 Tạp chí Thị trường chứng khoán Việt Nam số 7 tháng 7 năm 2002 11 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 6 năm 2002 12 Tạp chí ngân hàng số 5 năm 2002 13 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 10,11 năm 2002 14 Tạp chí Cộng Sản, số 17, tháng 6-2002 15 Tạp chí Tài chính quốc tế, số 9, tháng 5-2002 16 Tạp chí Ngân hàng, số 11 năm 2000 17 Tạp chí Ngân hàng, số 1 năm 2001 18 “Một số vấn đề cơ bản về Thị trường Ngoại hối”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 19 “Sự phát triển Thị trường Chứng khoán VN trong điều kiện hội nhập: thách thức và triển vọng”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 20 “Công nghệ hoá và hiện đại hoá trong lĩnh vực ngân hàng-thực trạng và triển vọng”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 21 Maurice D.Levi: International Finance-The Markets&Financial Management of Multinational Business; Mc Graw-Hill, Inc, 1996 22 Sam Y.Cross: The Foreign exchange Market in the United States, Federal Reserve Bank of New york, 1998 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan.doc
  • docbia sin.doc
  • docctvt.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan