Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM THỊ TRÚC NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Chuyên ngành: Tâm lí học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CẢM ƠN Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: - Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy trong s

pdf92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3066 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốt năm tháng học cao học. - TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá trình hoàn thành luận văn. - Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng. Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng. Xin trân trọng cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Người nghiên cứu xin cam đoan rằng luận văn này do chính bản thân người nghiên cứu thực hiện, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu nghiên cứu thực trạng tại bốn trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Nếu vi phạm người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. MỤC LỤC 0TLỜI CẢM ƠN0T ................................................................................................................................. 2 0TLỜI CAM ĐOAN0T ........................................................................................................................... 3 0TMỤC LỤC0T ...................................................................................................................................... 4 0TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT0T ............................................................................................. 6 0TMỞ ĐẦU0T ......................................................................................................................................... 1 0T1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:0T ........................................................................................................................ 1 0T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:0T ............................................................................................................... 3 0T3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:0T....................................................... 3 0T4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:0T ........................................................................................................... 3 0T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:0T ............................................................................................................... 3 0T6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:0T ................................................................................................ 3 0T7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:0T........................................................................................................ 4 0T8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:0T .......................................................................................... 4 0TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN0T ..................................................................................................... 5 0T1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:0T ................................................................................................. 5 0T1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí:0T ..................................................................................................... 11 0T1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí:0T .................................................................................. 11 0T1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan:0T ...................................................................................... 14 0T1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn:0T ......................................................................................................... 14 0T1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn:0T ............................................................................................... 16 0T1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn:0T ......................................................................................................... 17 0T1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội:0T ........................................................................................... 18 0T1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:0T ...................................... 19 0T1.3.1.Nhu cầu:0T ................................................................................................................................... 19 0T1.3.1.1. Khái niệm:0T ........................................................................................................................ 19 0T1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu:0T ............................................................................................................ 20 0T1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu:0T .................................................................................................. 22 0T1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu:0T ..................................................................................................... 23 0T1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:0T........................................................................... 24 0T1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT:0T .......................................................................... 24 0T1.3.2.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:0T ................................................................... 28 0TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU0T ............................................................... 31 0T2.1. Mục đích nghiên cứu:0T ...................................................................................................................... 31 0T2.2. Cách thức nghiên cứu:0T ..................................................................................................................... 31 0T2.2.1. Mẫu nghiên cứu:0T ...................................................................................................................... 31 0T2.2.2. Dụng cụ nghiên cứu và cách tiến hành:0T .................................................................................... 32 0T2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng:0T ........................................................................................................ 32 0T2.3.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT:0T ................................ 33 0T2.3.1.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT xét theo trường:0T............................. 36 0T2.3.1.2.Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp:0T .................................... 38 0T2.3.1.3. Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính0T ................................... 39 0T2.3.2. Lí do học sinh THPT cần được tham vấn trong các lĩnh vực:0T .................................................... 42 0T2.3.2.1. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo trường:0T .................... 45 0T2.3.2.2. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp:0T .......................... 47 0T2.3.2.3. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới:0T ........................ 49 0T2.3.3. Cách thức học sinh giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực:0T .................................. 51 0T2.3.3.1.Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo trường:0T ..................................................................................................................................................... 53 0T2.3.3.2. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo lớp và giới tính:0T ....................................................................................................................................... 54 0T2.3.4 Mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí ở trường phổ thông:0T ........................ 56 0T2.4. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR Vũng Tàu:0T ....... 59 0T2.4.1.Cơ sở để xây dựng biện pháp:0T ................................................................................................... 59 0T2.4.2. Một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu:0T ................................................................................................................................................... 59 0TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ0T ...................................................................................................... 62 0T1. KẾT LUẬN:0T ...................................................................................................................................... 62 0T2. KIẾN NGHỊ:0T ...................................................................................................................................... 63 0T ÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................................................. 1 0TPHỤ LỤC0T........................................................................................................................................ 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT: Trung học phổ thông THCS: Trung học cơ sở THCN: Trung học chuyên nghiệp TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh TB: Trung bình ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn X: Chi bình phương P: Mức ý nghĩa quan sát N: Số người RCT: Rất cần thiết CT: Cần thiết KCT: Không cần thiết MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong xã hội, đặc biệt là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân không thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại. Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển của học sinh THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu, căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế, trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân bằng với các hiện tượng bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó chỉ là tạm thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ, thầy cô giáo lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Bề ngoài trông như yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí trong việc lựa chọn những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc làm; trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình phát triển tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải quyết những khó khăn tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh được thử nghiệm, trong đó tham vấn tâm lí là một trong những hình thức đang được phát triển và kỳ vọng. Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều thay đổi trong tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí, nếu học sinh được tham vấn, giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại, các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những hành vi lệch chuẩn. Việc ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất cần thiết. Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn huyện vùng sâu nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du nhập đã tạo ra một số xáo trộn trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào cũng có thể giúp đỡ để các em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng phát triển nhân cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của học sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản nào gây ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở mức độ nào? lĩnh vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác định phương hướng tổ chức các hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng như toàn tỉnh. Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài nghiên cứu khoa học nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em học sinh THPT, từ đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt động tham vấn tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói riêng cũng như trên phạm vi toàn tỉnh Vũng Tàu. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: - Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT. 3.2. . Khách thể nghiên cứu : 458 học sinh và 35 giáo viên chủ nhiệm THPT huyện Xuyên Mộc thuộc bốn trường: Hòa Bình, Xuyên Mộc, Phước Bửu, Hòa Hội. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc biểu hiện ở mức cao, tuy nhiên có sự khác biệt về nội dung cần được tham vấn ở các trường xét theo khối lớp và giới tính do nhiều nguyên nhân. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: - Nghiên cứu một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài. - Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. - Đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện. 6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: - Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu năm học 2009 -2010 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: - Tổng hợp tài liệu có liên quan để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Điều tra bằng phiếu hỏi. Đây là phương pháp chính của đề tài. Chúng tôi thiết kế 2 loại bảng hỏi dành cho học sinh và giáo viên nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là khảo sát mức độ cần thiết của học sinh về tham vấn tâm lí, nhu cầu tham vấn tâm lí ở nội dung và hình thức tham vấn… - Phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trên 10 học sinh và 10 giáo viên nhằm tìm hiểu rõ hơn về thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT, đặc biệt là nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp cần thực hiện. Đồng thời phỏng vấn để kiểm tra, khẳng định lại kết quả điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu được những kết quả đáng tin cậy. 7.3. Phương pháp xử lí số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí, tổng kết số liệu điều tra đưa ra các kết luận định lượng làm cơ sở cho các kết luận định tính. 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài đã mô tả được thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT, lí do học sinh THPT cần được tham vấn, mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí trong trường học… Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề: Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sử tồn tại và phát triển của cơ thể. Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “ Bản thân nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu mới này là sự việc lịch sử đầu tiên {19; 76}. Từ đầu thế kỷ XIX , Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của cá nhân bắt nguồn từ những nhu cầu của nó ( về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Vào giữa thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike, N.E.Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu và đưa ra thuật ngữ “ luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi. Cuối thế kỷ XIX, S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của con người. Theo Freud, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn những nhu cầu của cơ thể. Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở con người. Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những nhân tố thực của hoạt động tâm lí của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội {32}. Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng… Những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy, theo ông “tính người” của nhu cầu được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ thấp đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng và nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó, nếu một nhu cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn {32}. Còn nhà tâm lí học người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu gồm 20 loại nhu cầu {11, 172}. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của S.Freud nhưng theo ông nếu chỉ giải thích như Freud thì quá đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lí xác định được ở con người là những mức độ khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở người này có những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu cầu khác. Tuy nhiên ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các nhu cầu, động cơ của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ gây ra hành động. Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con người được bổ sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định đây chính là tác nhân tích cực cho sự phát triển cá nhân. Trong tâm lí học Xô Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trò nền tảng trong việc nghiên cứu chủ thể, không có nó thì không có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn các nhu cầu cần phải có hoàn cảnh thích hợp, phải có những phương tiện cho phép thỏa mãn những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu và phương tiện thỏa mãn nhu cầu thì chủ thể sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn nhu cầu. Đó chính là tâm thế thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các chức năng tâm lí. Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu và ý nghĩa của nó đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn sách Tâm lí học đại cương xuất bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn tại - đói, khát, tình dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những hành vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao và ở mỗi cá nhân khác nhau mức độ mỗi loại nhu cầu này là khác nhau. Sự chiếm ưu thế của nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là do điều kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghĩa {32}. Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con người có nhu cầu sinh vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố của động cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Vì vậy thực tế nhu cầu là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí, tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện của nhu cầu, đồng thời phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (trạng thái tâm lí của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa mang tính chủ động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể nhưng được thỏa mãn hay không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính tích cực của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của nhu cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ nhất định. Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng thái tâm lí bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức mạnh của các chức năng tâm lí và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả năng kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở cấp độ tâm lí) phải gắn liền với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “vật hoá”, “đối tượng hoá” vào trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể về phía đó. Sự phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó{25; 589}. Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định: “Nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Nhu cầu không chỉ là những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt động của con người mà nó nảy sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở lại chi phối hoạt động của con người theo sơ đồ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động Ông cho rằng, nhu cầu của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngay trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu chốt để hiểu được bản chất các nhu cầu của con người. Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của đối tượng học sinh THPT đã được một số tác giả thực hiện: Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông” nhóm tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra các khía cạnh thể hiện khó khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong việc xác định lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự phát triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong quan hệ với cha mẹ, thầy cô. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong nhà trường và những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại trường, qua thư, qua điện thoại {13}. Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu nhu cầu về nội dung và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nhà tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn trong nhà trường là việc rất cần thiết với yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có trình độ chuyên môn về tâm lí giáo dục và phải có một số phẩm chất cần thiết như: dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và giữ bí mật…{26},{29}. Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh nhóm tác giả Ngô Đình Qua, Nguyễn Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả học sinh THCS và học sinh THPT đều có nhu cầu được tư vấn về tâm lí - giới tính, nhưng số học sinh THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn. Nhu cầu này chưa được người lớn đáp ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phòng tư vấn tâm lí giáo dục đặt tại các trường trung học {28}. Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng (2006) trong nghiên cứu về tham vấn học đường nhìn từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn của học sinh nam và nữ. Theo nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm được những mối quan tâm khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ, phân tích được các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa nhà tham vấn học đường là nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề xuất việc nâng cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thông qua các khóa học lấy giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn {8}. Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinhTHPT tác giả Nguyễn Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh THPT đều có nhu cầu hiểu biết và được giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản được chính thức đưa vào trường học {30}. Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có gần 50 trường phổ thông có phòng tham vấn tâm lí nhưng chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt động này của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0.3% học sinh thường xuyên đến phòng tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng và thường xuyên chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng có ba nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh, những người làm công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã hội {20}. Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết trên tạp chí Tâm lí học, các bài tham luận đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, đề cập đến nhu cầu của tham vấn cũng như sự cần thiết của chuyên viên tâm lí trong trường học và cách thức tổ chức các hoạt động tham vấn trong trường {14}, {12}, {7}, {16}, {24}… đã phản ánh phần nào về nhu cầu tham vấn tâm lí của thanh thiếu niên, đặc biệt các vấn đề tâm lí hay gặp phải của họ cũng như các hình thức tham vấn phù hợp. Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu đòi hỏi về tham vấn trong xã hội hiện nay là rất lớn, nhất là ở lứa tuổi học sinh phổ thông mà hoạt động tham vấn một cách chuyên nghiệp ở nước ta còn rất mới mẻ cả về nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là trên địa bàn huyện vùng sâu vùng xa thì hoạt động tham vấn gần như bị bỏ ngỏ, các công trình nghiên cứu còn rất ít ỏi. Điều đó đang đặt ra cho chúng ta sự nỗ lực rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển tham vấn trên mọi phương diện. Xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn này chúng tôi triển khai đề tài “Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” nhằm đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em nơi đây và để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong các trường phổ thông hiện nay. 1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí: 1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí: Tham vấn (Counseling) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15 năm trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước Phương tây và Bắc Mỹ thuật ngữ tham vấn cũng được hiể._.u ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó dùng để chỉ những hoạt động của người giúp đỡ thông thường hoặc của tình nguyện viên, họ được xem như như là người làm công tác trợ giúp. Hay những người làm công tác tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ xã hội hoặc các trường học với nền tảng kiến thức về tâm lí học, công tác xã hội hoặc các ngành khác. Dưới đây có thể dẫn ra một số cách hiểu của các tác giả trong và ngoài nước về khái niệm này: Theo hiệp hội tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997): Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khoẻ tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lí. Định nghĩa này cũng xác định rằng quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng, trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình. P.K.Onner cho rằng, tham vấn là một quá trình vì vậy đòi hỏi nhà tham vấn phải dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều kiện cho phép. Richard Nelsson(1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp, giải quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những cấp độ khác nhau, có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lí học, cán sự xã hội hay đơn thuần là một phần công việc của giáo viên, y tá, tình nguyện viên {9}. Trong Từ điển Tâm lí học, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hiểu tham vấn là quá trình các chuyên gia chẩn đoán, tìm hiểu căn nguyên và thiết lập cách xử lí đối với những trẻ em có vấn đề về tâm lí {36}. Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai: Tham vấn tâm lí là một hoạt động mà nhà chuyên môn bằng kiến thức, hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu những cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm), giúp họ khai thác nguồn lực, tiềm năng cho quá trình giải quyết {22}. TS Trần Thị Giồng thì định nghĩa: “Tham vấn là sự tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ, trong quá trình này nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ có thể tự giải quyết vấn đề đang gặp phải”. PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, Tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp. TS. Trần Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm khá toàn diện, phản ánh nhiều góc độ. Theo tác giả, tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với thân chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình {9}. Như vậy, quá trình tham vấn nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình, nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ, quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, giám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình. Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tham vấn như sau:  Tham vấn là một tiến trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc và phải mang tính liên tục. Một quá trình tham vấn bao gồm các giai đoạn cụ thể khác nhau có thể kéo dài trong một vài ngày, một tuần, một tháng, thậm chí một vài năm. Thông thường một ca tham vấn có thể diễn ra với 5 giai đoạn sau: • Giai đoạn 1: Thiết lập quan hệ. • Giai đoạn 2: Thu thập, xử lí thông tin, đánh giá vấn đề. • Giai đoạn 3: Tìm kiếm cách giải quyết và giúp thân chủ lựa chọn giải pháp thích hợp nhất. • Giai đoạn 4: Giám sát và trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp. • Giai đoạn 5: Kết thúc tham vấn. Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây dựng mối quan hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.  Tham vấn là sự trợ giúp: Trợ giúp trong quá trình tham vấn là giúp thân chủ những công cụ, phương tiện tâm lí để họ tự giúp chính bản thân mình, củng cố lại cái tôi của họ từ đó có đủ tự tin trong việc ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống. bản chất của tham vấn là phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ không phải là đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường hiểu. Nhiệm vụ của nhà tham vấn phải làm là một chỗ dựa tinh thần để thân chủ có cơ hội và có đủ tự tin nhìn lại mình một cách khách quan.  Tham vấn là trợ giúp, khai thác tiềm năng của thân chủ để thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình. Khả năng thích ứng ở mỗi con người là rất lớn và bản thân thân chủ đến với nhà tham vấn cũng có khả năng này nhưng chưa ý thức được hoặc cố tình không ý thức được. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp thân chủ nhìn thấy tiềm năng của chính mình, đánh thức và sử dụng chúng để xử lí tình huống mà họ đang gặp phải. Những khó khăn của thân chủ là những vấn đề mang tính chất riêng tư và chính họ là người trong cuộc, là người trực tiếp cảm nhận, trải nghiệm, đánh giá hậu quả của tình huống và trực tiếp lượng giá những tác động tích cực hoặc tiêu cực do việc giải quyết tình huống mang lại. Vì vậy chỉ có thân chủ mới là người hợp lí và có đủ điều kiện để thực thi các chiến lược cải thiện cuộc sống cho chính bản thân họ. Tất nhiên họ không thể làm việc một cách độc lập mà cần có sự giúp đỡ của nhà tham vấn nhưng quyền quyết định và đứng ra thực hiện cuối cùng phải là thân chủ. Họ phải tích cực, chủ động giải quyết vấn đề và cải thiện tình trạng cho chính bản thân mình. Với ý nghĩa này tham vấn có tác dụng là giúp thân chủ nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống. Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối quan hệ giao tiếp đặc biệt, đòi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn và đối tượng. Người làm tham vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo đức nghề nghiệp, những tri thức hiểu biết về tâm lí con người và các kỹ năng tham vấn để thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng vượt lên chính mình. Còn đối tượng được tham vấn do nhiều nguyên nhân khác nhau trở nên mất cân bằng về tâm lí, khó khăn trong thích nghi, hoà nhập xã hội. Trong đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT. Từ những phân tích ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Tham vấn tâm lí là một tiến trình trợ giúp đối tượng(người đang có khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ) nâng cao nhận thức, duy trì sự thăng bằng tâm lí, tăng cường khả năng ứng phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của bản thân, ra quyết định phù hợp với hoàn cảnh của mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả. 1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan: 1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn: Tư vấn – trong tiếng Anh là consultation - được xem như quá trình tham khảo về lời khuyên hay sự trao đổi quan điểm về vấn đề nào đó để đi đến một quyết định. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Tư vấn là sự phát biểu ý kiến về những vấn đề được hỏi đến nhưng không có quyền quyết định. Hoạt động này phần nhiều diễn ra dưới dạng hỏi - đáp. Cho đến hiện nay ở Việt nam vẫn còn nhiều tranh luận về cách gọi tên tham vấn hay tư vấn. PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp, còn tư vấn chỉ là sự cung cấp kiến thức, thông tin, hoặc cách giải quyết đã có sẵn cho thân chủ mà thôi, không đòi hỏi phải tìm hiểu thân chủ, không đòi hỏi phải cùng thân chủ tìm cách giải quyết phù hợp {4}. Thực tế cho thấy hoạt động của các trung tâm tư vấn hiện nay phần lớn hoạt động theo phương thức hỏi - đáp, trao đổi ý tưởng, cung cấp thông tin và có thể là đưa ra lời khuyên để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng chức năng của tham vấn không phải là đưa ra lời khuyên, do vậy có sự khác biệt giữa tham vấn và tư vấn ở những điểm sau: - Về mục tiêu: Tư vấn chủ yếu hướng đến giải quyết vấn đề hiện tại còn hoạt động tham vấn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, đó là giúp cá nhân nâng cao khả năng tự giải quyết vấn đề sau khi được tham vấn. - Về tiến trình: Tư vấn thường là cung cấp thông tin hay đưa ra lời khuyên do vậy nó diễn ra trong một thời gian ngắn, giải quyết vấn đề tức thời. Còn tham vấn diễn ra trong thời gian có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng, thậm chí hàng năm. - Về mối quan hệ: Trong tư vấn, có thể là mối quan hệ trên dưới giữa một người được xem là “uyên bác” với những thông tin chuyên môn, còn bên kia là người “thiếu hiểu biết” về vấn đề nào đó, bên cạnh mối quan hệ ở đây không đòi hỏi sự tương tác rất tích cực từ phía đối tượng. Trong khi đó ở tình huống tham vấn, mối quan hệ mang tính ngang bằng, bình đẳng và đòi hỏi có sự tương tác rất chặt chẽ và hợp tác tích cực giữa hai bên, có thể nói mối quan hệ này đóng vai trò như một công cụ quan trọng cho sự thành công của ca tham vấn. - Về cách thức tương tác: Cách thức can thiệp của tư vấn chính là cung cấp thông tin và lời khuyên bổ ích từ người tư vấn với đầy đủ kiến thức chuyên sâu về vấn đề cần tư vấn. Trong tham vấn, sự thành công phụ thuộc vào kỹ năng tương tác của nhà tham vấn để thân chủ tự nhận thức, hiểu chính mình và hoàn cảnh của mình để chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp và thực hiện nó. Xét về phương diện khái niệm, nhiều người đồng tình theo hướng nên dùng thuật ngữ tham vấn để tránh ngộ nhận về việc chỉ nghe rồi khuyên theo khuynh hướng cả tham vấn viên và thân chủ cùng tìm cách giải quyết vấn đề {12}. 1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn: Trị liệu – tiếng Anh là therapy được lấy từ gốc Hy Lạp là therapia có nghĩa là chữa trị, làm lành. Trị liệu tâm lí là (psychotherapy) có nghĩa là sự xóa bỏ rắc rối, những bệnh lí mang tính tâm lí. Cho đến nay cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa hai thuật ngữ này vẫn chưa kết thúc. Hiện có hai nhóm quan điểm khác nhau trong việc phân biệt tham vấn và trị liệu tâm lí: - Nhóm quan điểm cho rằng không có sự khác biệt rõ ràng giữa tham vấn và trị liệu tâm lí. Điển hình như Carl Rogers(1952), C.Btruax và R. Carkhuff (1967), C.H Patteenson(1974,1986), G.Corey(1991) đều xem tham vấn và trị liệu tâm lí như nhau bởi theo họ cả hai hoạt động này đều là quá trình tâm lí nhấn mạnh nhu cầu của đối tượng, cùng sử dụng những kỹ năng giống nhau như lắng nghe tích cực, thấu hiểu những điều đối tượng nói và thúc đẩy khả năng tự giúp, tính trách nhiệm của cá nhân.{23} - Nhóm quan điểm cho rằng có sự khác biệt giữa tham vấn và trị liệu tâm lí. Điển hình như: F.Robinson(1950), C.Thorne(1950), P.Blos(1946), L.Tyler(1958). Các tác giả này cho rằng, trị liệu tâm lí chú trọng tới thay đổi nhân cách còn tham vấn hướng việc giúp đối tượng sử dụng nguồn lực sẵn có để đối phó với vấn đề trong cuộc sống tốt hơn. Trong tham vấn yếu tố được xem như trọng tâm là bản thân đối tượng và mối quan hệ đầy tính nhân văn giữa nhà tham vấn và đối tượng, còn trong trị liệu tâm lí, yếu tố nổi trội là nhà trị liệu và những kỹ thuật trị liệu cụ thể. Bên cạnh đó địa điểm thực hiện giữa tham vấn và trị liệu cũng khác nhau, tham vấn thường được diễn ra trong những cơ sở trường học, cộng đồng nhiều hơn trong khi đó trị liệu tâm lí thường thấy cả ở các cơ sở y tế mang tính chữa trị.{23} Từ nghiên cứu tài liệu và thực tiễn, tác giả Bùi Thị Xuân Mai đã đưa ra một sự so sánh giữa tham vấn và trị liệu tâm lí rất thuyết phục như sau: - Đối tượng trợ giúp trong tham vấn thường là những người có vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày còn trong trị liệu, đối tượng gồm cả những người có vấn đề rối nhiễu tâm lí, hành vi ở mức độ tương đối rõ rệt và mang tính bệnh lí nhiều hơn. - Công cụ can thiệp của tham vấn chủ yếu là mối quan hệ tương tác nghề nghiệp với sự tích cực, chủ động của chính đối tượng dưới sự xúc tác gợi mở của nhà tham vấn, còn công cụ ưu thế của trị liệu là hệ thống các liệu pháp và các trắc nghiệm tâm lí - Hình thức tham vấn được sử sụng ở phạm vi rộng hơn bởi các chuyên gia tâm lí học, các cán bộ xã hội chuyên nghiệp, thậm chí các nhà sư phạm, cán bộ ngành y, và một số nhà trợ giúp không chuyên trên cơ sở nắm vững các kỹ năng căn bản, nguyên tắc đạo đức của tham vấn. Trong khi đó trị liệu tâm lí thường được sử dụng bởi các nhà tâm lí học, các nhà tham vấn chuyên nghiệp được phép hành nghề. 1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn: Cố vấn, theo từ điển bách khoa Việt Nam đó là nhà chuyên gia được hỏi ý kiến. Như vậy có nghĩa cố vấn là hoạt động của một bên là người xin ý kiến (lời khuyên) và một bên là chuyên gia cho ý kiến (lời khuyên). Theo Hiệp hội các nhà tham vấn Mỹ, cố vấn là một hoạt động tương tác mang tính tự nguyện giữa một nhà chuyên môn và một cá nhân hay một nhóm, một tổ chức xã hội mà ở đó nhà chuyên môn giúp các đối tượng xác định vấn đề và giải quyết vấn đề liên quan tới công việc hay những vấn đề tiềm ẩn {12}. Như vậy, về thực chất hoạt động cố vấn là quá trình giúp đỡ cá nhân, tổ chức giải quyết vấn đề. Bên cạnh có những nét chung với tham vấn như: Việc áp dụng hệ thống lí thuyết (lấy con người làm trung tâm của C.R.Roger, lí thuyết học tập của B.F.Skinner…), đều là một quá trình đòi hỏi phải qua các bước cơ bản, từ xây dựng mối quan hệ đến lượng giá hay kết thúc quá trình tương tác … Cố vấn có những khác biệt so với tham vấn: - Mối quan hệ trong tham vấn là quan hệ tương tác hai chiều còn trong cố vấn mối quan hệ tương tác đôi khi mang tính chất 3 bên, bởi vì đối tượng quan tâm chính của nhà cố vấn và người cần cố vấn nhiều khi là bên thứ ba có thể là cá nhân hay một tổ chức. - Nhà cố vấn có thể bằng cách gián tiếp hay trực tiếp đưa ra cho người cần cố vấn những thông tin, hiểu biết mới, những lời khuyên song không nhất thiết mang tính trực tiếp mặt đối mặt một cách thường xuyên như trong tham vấn {22}. 1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội: Tham vấn và công tác xã hội đều là những nghề nghiệp nhằm trợ giúp con người. Tham vấn chủ yếu tập trung vào các vấn đề tâm lí của cá nhân, nhóm và gia đình. Còn phạm vi công tác xã hội thì rộng hơn, sự can thiệp của công tác xã hội không chỉ nhằm giúp đỡ cá nhân, gia đình mà cả cộng đồng ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Pháp luật, kinh tế, điều kiện sinh sống… Trong công tác xã hội, người ta có thể sử dụng tham vấn như là một công cụ để tăng cường lòng tự trọng và cải thiện tâm lí cho trạng thái cá nhân còn trong tham vấn người ta có thể kết nối với các hoạt động xã hội để tăng cường nguồn lực giúp đỡ thân chủ {34}. 1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: 1.3.1.Nhu cầu: 1.3.1.1. Khái niệm: Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu. Tác giả A.V.Daparogiet cho rằng “Nhu cầu là sự phản ánh vào óc người sự cần thiết mà người đó cảm thấy đối với một vật thể nào đó. Nhu cầu kích thích con người hành động, buộc con người phải vươn tới một đối tượng nhất định. A.N. Leonchiev thì cho rằng, nhu cầu là một trạng thái của con người, cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung sống và hoạt động. Trong từ điển Tâm lí học Giáo sư Vũ Dũng đã định nghĩa, nhu cầu là “trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình, và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân” {5}. PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển” {35}. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách, biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân với hoàn cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần phải được thỏa mãn trong điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát triển.{11}. Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu nhưng có thể nhận định khái quát về nhu cầu như sau: Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con người, với tư cách là một hiện tượng tâm lí, nhu cầu chi phối mãnh liệt đến đời sống tâm lí nói chung, đến hoạt động của con người nói riêng. Nhu cầu là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử, trình độ nhận thức, môi trường sống, đặc điểm tâm sinh lí, mỗi người có những nhu cầu khác nhau như người hiện đại có nhu cầu khác với người nguyên thuỷ, trẻ em có nhu cầu khác với người lớn, nhu cầu ở nam giới khác nữ giới, nhu cầu của người trí thức khác với nông dân lao động và ở những vùng miền do điều kiện phát triển khác nhau thì mức độ nhu cầu cũng khác nhau. Nhu cầu định hướng và quyết định cho mọi hoạt động của con người, nó sẽ tạo ra cảm giác thoải mái khi được thoả mãn và có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng khi không được thoả mãn. Nhu cầu là một cái gì đó mà nếu thiếu nó sẽ gây ra các hạn chế cho sự phát triển nhân cách của cá nhân. Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực của cá nhân. Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nào đó. Nhu cầu của con người là biểu hiện của xu hướng và ước muốn, nguyện vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn để sống và hoạt động. Ngoài chức năng định hướng, nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu còn là yếu tố kích thích bên trong, là nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo, là động cơ thúc đẩy con người hoạt động. Như vậy có thể hiểu rằng, nhu cầu là thuộc tính tâm lí của cá nhân, là sự đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thoả mãn trong những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Đồng thời là nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo trong hoạt động của con người. 1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu: - Tính đối tượng: Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó, nghĩa là phải nhằm tới một đối tượng cụ thể. Khi chưa có đối tượng, nhu cầu chưa tồn tại theo đúng nghĩa của nó mà lúc ấy ở cá nhân chỉ là trạng thái thiếu thốn, mong muốn một cách mơ hồ. Chỉ khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thoả mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. Động vật cũng có nhu cầu nhờ vào những đối tượng có sẵn trong tự nhiên nhưng con người thì khác hẳn, trong hoạt động con người có khả năng tạo ra những đối tượng có thể làm thỏa mãn nhu cầu của mình và chính ngay ở việc tạo ra đối tượng để thỏa mãn nhu cầu tự nhiên của con người cũng khác nhu cầu của con vật ở chỗ con người có khả năng nhận thức đầy đủ được nhu cầu của mình nên không thỏa mãn nhu cầu một cách tùy tiện. Ở mỗi cá nhân khác nhau đối tượng của nhu cầu cũng khác nhau và chính nhờ sự tồn tại của nhu cầu trong tâm lí cá nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường. - Phương thức thỏa mãn: Nhu cầu chỉ được thỏa mãn thông qua hoạt động của chủ thể bằng những phương thức khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển nhận thức, khả năng hoạt động, trạng thái tâm lí riêng của chủ thể… cũng như phong tục tập quán, truyền thống của mỗi xã hội mà chủ thể đó đang sống. Như vậy, nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định và được hình thành khi chủ thể ý thức được đối tượng của nhu cầu. - Tính chu kỳ: Khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn, không có nghĩa là nhu cầu đó đã chấm dứt mà nhu cầu có thể xuất hiện lặp lại (thông thường ở mức cao hơn) khi sự đòi hỏi gây ra nhu cầu tái hiện. Nhu cầu và hoạt động thực hiện nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động nhằm tìm phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Chính vì vậy mà sự phát triển con người và xã hội là sự mở rộng, nâng cao chất lượng của các nhu cầu và thực hiện nhu cầu đó một cách đúng đắn và khoa học. - Tính ổn định: Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách. Vì vậy cũng giống như thuộc tính khác của nhân cách nhu cầu cũng tương đối ổn định. Tính ổn định của nhu cầu được thể hiện ở tần số xuất hiện một cách thường xuyên, liên tục. Khi nhu cầu phát triển ở mức độ cao thì nó trở nên ổn định và bền vững. Nghĩa là dù trong quá trình hoạt động vươn tới thỏa mãn nhu cầu có gặp khó khăn, trở ngại thì nhu cầu cũng không mất đi mà trái lại, trong chừng mực nào đó nó lại thôi thúc con người hoạt động tích cực hơn. Tính ổn định của nhu cầu chỉ có được khi con người ý thức rõ về đối tượng, nội dung cũng như phương thức thỏa mãn nó. - Bản chất xã hội - lịch sử: Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật. C.Mác đã viết: “Đói là đói, song cái đói được thỏa mãn bằng thịt chín với cách dùng dao và dĩa thì khác hẳn với cái đói buộc phải nuốt bằng thịt sống với dùng tay, móng và răng”. Ở con người cũng tồn tại những nhu cầu mang tính bản năng nhưng tất cả đều được xã hội hoá và được chế ước bởi xã hội. Nhờ vào khả năng lao động sáng tạo mà ở con người có sự khác biệt về điều kiện và phương thức thỏa mãn nhu cầu. Con người không thỏa mãn nhu cầu của mình một cách tuỳ tiện mà trước khi thỏa mãn bao giờ con người cũng đối chiếu với những tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Có thể nói rằng nhu cầu của con người chính là sản phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội loài người. 1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu: Mức độ của nhu cầu là độ gay gắt của sự đòi hỏi về một đối tượng nào đó, thể hiện ở việc chủ thể ý thức được trạng thái thiếu thốn của chủ thể, đối tượng và phương thức thỏa mãn nó. X.L.Rubinstêin đã chia nhu cầu thành ba mức độ sau: * Ý hướng: Là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa được phản ánh đầy đủ, rõ ràng vào trong ý thức của con người, chủ thể mới ý thức được trạng thái thiếu hụt của bản thân về một cái gì đó nhưng chưa ý thức được đối tượng và khả năng thỏa mãn nhu cầu. Ở mức độ này, nhu cầu mới chỉ tồn tại dưới dạng một cảm giác thiếu hụt mơ hồ nào đó, lúc này chủ thể đang trải nghiệm và ý thức được trạng thái thiếu hụt về một cái gì đó nhưng chưa ý thức được thiếu hụt cái gì và bằng cách nào để khỏa lấp trạng thái thiếu hụt đó. Nếu đối tượng để thỏa mãn nhu cầu được chủ thể ý thức, nghĩa là tự trả lời được câu hỏi “thiếu hụt về cái gì” thì lúc đó nhu cầu chuyển sang mức độ cao hơn, ý muốn. * Ý muốn: Là mức độ cao hơn của nhu cầu so với ý hướng. Giai đoạn này, chủ thể đã ý thức được đối tượng để thoả mãn cũng như ý nghĩa của hoạt động thỏa mãn nhu cầu, nhưng chủ thể lại chưa tìm được phương pháp, phương tiện để thoả mãn nhu cầu và đang có khuynh hướng tìm kiếm phương thức, điều kiện để thoả mãn nhu cầu. Ý muốn sẽ kết thúc và chuyển sang mức độ cao hơn khi chủ thể ý thức được đầy đủ về cách thức và các phương tiện nhằm thoả mãn nhu cầu. * Ý định: Là mức độ cao nhất của nhu cầu, khi chủ thể ý thức được đầy đủ về mục đích, phương thức, phương tiện, điều kiện hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu và sẵn sàng hành động đạt tới mục đích. Ở mức độ này, nhu cầu trở thành sức mạnh nội tại thúc đẩy mạnh mẽ chủ thể hoạt động nhằm thỏa mãn nó, đồng thời chủ thể có khả năng hình dung về kết quả của hoạt động. Ý hướng, ý muốn và ý định biểu hiện mức độ nhu cầu từ thấp đến cao trên cơ sở kế thừa và phát triển. Ý hướng là cơ sở của ý muốn, ý muốn kế thừa và phát triển ở mức độ cao hơn so với ý hướng. Ý định là sự chuyển tiếp của ý hướng lên ý muốn và từ ý muốn lên ý định. 1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu: Theo quan niệm của Tâm lí học Macxit, nhu cầu được hình thành và phát triển trong chính hoạt động và trong quá trình con người tích cực hoạt động nhằm vươn tới sự thỏa mãn nhu cầu thì nhu cầu mới cũng được hình thành và phát triển. A.N.Lêonchiev đã đưa ra sơ đồ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động (hoạt động - nhu cầu - hoạt động) như sau: Thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng ngay khi chủ thể bắt đầu hành động thì ngay lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu và cũng không còn giống như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát triển của hoạt động này đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động (tức là nhu cầu) cũng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả hành động. A.N.Lêonchiev cho rằng, bởi vì bản thân thế giới đối tượng hàm chứa tiềm tàng những nhu cầu, nên trong quá trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận thức được những yêu cầu, đòi hỏi phải được đáp ứng để tồn tại và phát triển, tức là xuất hiện nhu cầu mới. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, một mặt thỏa mãn nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu mới, vì thế con người không ngừng tích cực hoạt động lao động sản xuất qua đó thúc đẩy tiến bộ xã hội. Như vậy, bản chất của nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể về một đối tượng nào đó cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ. Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội, ngược lại nhu cầu là cơ sở của động cơ. Lí thuyết hoạt động khẳng định, con người với tư cách là chủ thể hoạt động luôn thực hiện các hành vi nhằm đạt những mục đích hoặc những động cơ nhất định. Động cơ trong tâm lí học, theo nghĩa chung nhất là các thúc đẩy và quy định chiều hướng hoạt động nhằm đạt mục đích nào đó. Nói về mối quan hệ giữa nhu cầu và động cơ cả A.N.Leonchiev và B.Ph.Lomov đều khẳng định rằng không thể tách biệt mà chúng luôn gắn liền với nhau tạo thành lĩnh vực động cơ - nhu cầu: “Lĩnh vực động cơ của nhân cách có liên quan chặt chẽ với những nhu cầu, chế định hành vi con người một cách khách quan và có quy luật. Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội. Ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. Trên thực tế động cơ và nhu cầu gắn bó mật thiết với nhau đến mức thường không thể phân tích chúng ra được. Vì vậy, Leonchiev đã đưa ra kết luận có tính nguyên tắc: “Sự phân tích các nhu cầu về mặt tâm lí học không thể nào tránh khỏi sự phân tích các động cơ. Và về phía đối tượng, trước hết ta có động cơ được thể hiện thành nhu cầu”.{10}. Trong hệ thống thứ bậc động cơ của con người, nhu cầu và hứng thú là hai thứ bậc có quan hệ trực tiếp với nhau. Hứng thú là sự phát triển cao, mang màu sắc xúc cảm của nhu cầu. Bản thân hứng thú luôn chứa đựng nhu cầu và nhu cầu là cơ sở để hình thành hứng thú. Chính vì vậy, để hình thành nhu cầu về một đối tượng nào đó chúng ta phải làm cho chủ thể có cơ hội làm quen với đối tượng, thực hiện hoạt động với đối tượng. Chính trong quá trình trải nghiệm đó, chủ thể sẽ có cơ hội và điều kiện để thấy được vai trò ý nghĩa của đối tượng đối với cuộc sống của bản thân, từ đó mà hình thành mong muốn về đối tượng và nhu cầu sẽ dần xuất hiện. 1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT: 1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT: Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Vị trí trung học phổ thông – giai đoạn của cả một thời kỳ bồi dưỡng kiến thức văn hóa chung đã khiến thanh niên phải nghĩ đến tiền đồ của mình, nghĩ đến việc chuẩn bị bước vào đời và lo lựa chọn nghề nghiệp mai sau. Ở lứa tuổi này các em đã có sự trưởng thành về tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội, tích cực tham gia vào cuộc sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là thời kỳ nhân cách đang trưởng thành tiến tới ổn định.  Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể trưởng thành, các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần được hoàn thiện. Thể lực của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các công việc nặng nhọc, các công việc có kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em tiếp thu những kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh.  Về tâm lí: - Hoạt động nhận thức của học sinh THPT được đặc trưng bởi sự lĩnh hội và tiếp thu những kiến thức phổ thông để chuẩn bị cho lao động hướng nghiệp sau này. Sự phong phú về tri thức và kinh nghiệm mà các em lĩnh hội được qua từng môn học ở trường giúp cho quá trình cảm giác, tri giác, sự tập trung chú ý phát triển rõ rệt. Trí nhớ của các em đã đạt đến độ ổn định, các em có khả năng hình thành những phương pháp nhớ có hiệu quả. Tư duy và ngôn ngữ phát triển mạnh. Tuy nhiên cũng cần đề phòng những thiếu sót về trí nhớ của học sinh THPT mắc phải như thiên hướng ghi nhớ đại khái, xem thường ghi nhớ máy móc, chỉ ghi nhớ ý nghĩa chung chung. Ngôn ngữ cũng phát triển mạnh nhờ giao tiếp, đặc biệt là ngôn ngữ nhằm phát triển giúp cho quá trình trí nhớ và tư duy chính xác. Tư duy phát triển mạnh, bền vững và hiệu quả hơn thể hiện khả năng tư duy lôgic, tư duy lí luận và tư duy trừu tượng. - Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao, có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức theo quan điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lí riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của mình. Các em thường đặt mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau này, tình yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai. Lứa tuổi này có hai loại ý thức nổi bật đó là: Tự ý thức về hình ảnh bản thân sẽ làm cho các em tự hào hay khổ tâm về diện mạo. Còn tự ý thức về thế giới nội tâm làm cho đời sống của thanh niên trở nên sâu sắc, tăng cường khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình. Học sin._.n cụ thể về nội dung và phương thức hoạt động đối với các Sở Giáo dục. Đồng thời ban hành những quy định cụ thể về vai trò và chức năng của phòng tham vấn trong trường học cũng như những chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tham vấn. 2.2.Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo: - Cần phải có nhận thức rõ và có những tuyên truyền đối với các trường THPT về tầm quan trọng của công tác tham vấn tâm lí trong nhà trường hiện nay. Thấy được nhu cầu tham vấn, trợ giúp về mặt tâm lí của học sinh THPT là nhu cầu chính đáng cần được đáp ứng. - Cần xây dựng những quy định cụ thể và thống nhất về việc thành lập, quản lí, giám sát hoạt động của các phòng tâm lí tại các trường phổ thông. Chuẩn bị lựa chọn và đưa ra một danh sách test chuẩn, có sự đánh giá phê chuẩn của các nhà chuyên môn, được cho phép bởi cơ quan chức năng để các trường phổ thông áp dụng. - Thường xuyên mở các lớp tập huấn sâu cho giáo viên về kiến thức và kỹ năng với tuổi vị thành niên, kỹ năng tham vấn cho các chuyên viên tâm lí… 2.3. Đối với các trường THPT: Nhanh chóng thành lập phòng tham vấn tâm lí trong nhà trường. Để phòng tham vấn ra đời hoạt động có hiệu quả nhà trường cần có những chuẩn bị sau: - Biên chế ít nhất một cán bộ tham vấn tốt nghiệp đại học ngành Tâm lí học, Giáo dục học. Nếu chưa có đủ điều kiện thì có thể bố trí giáo viên hoặc cán bộ đoàn thay thế nhưng phải được đào tạo qua những khoá huấn luyện về kỹ năng cũng như các lí thuyết về tham vấn để đạt hiệu quả trong công tác tham vấn. - Cần xây dựng những quy định chặt chẽ về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của phòng tham vấn cũng như của cán bộ tham vấn trong nhà trường. - Cần có những đầu tư về nguồn lực và tài chính cho phòng tham vấn như đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết đảm bảo cho hoạt động của phòng tham vấn. Đặc biệt nhà trường cần phải quan tâm tới vị trí đặt phòng, cách thức bố trí, trang trí trong phòng để tạo cảm giác yên tâm, thoải mái khi học sinh đến tham vấn. - Cần có các hình thức tuyên truyền phổ biến về công việc, nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà tham vấn học đường để học sinh, phụ huynh, giáo viên hiểu và có cái nhìn đúng đắn hơn với những học sinh tìm đến nhà tham vấn. - Nhà trường phải tạo điều kiện cho các em hình thành thói quen chia sẻ khi gặp một khó khăn nào đó trong học tập và cuộc sống, hiểu đúng chức năng và nhiệm vụ của phòng tham vấn tâm lí cũng như chuyên viên tham vấn. Có như vậy, hoạt động tham vấn tâm lí trong các trường THPT mới thực sự trở thành hoạt động thiết thực, góp phần tích cực để giáo dục các em học sinh trở thành những người có ích cho đất nước. Hoạt động tham vấn không phải là hoạt động chuyên biệt trong nhà trường, để hoạt động này đạt hiệu quả cần phải biết kết hợp chặt chẽ với các hoạt động của nhà trường, với chi hội phụ huynh học sinh, các tổ chức xã hội… Tất cả vì tương lai của thế hệ trẻ, vì tương lai của đất nước cần phải quan tâm tới những nhu cầu chính đáng của trẻ, trợ giúp các em kịp thời khi các em gặp khó khăn để các em có niềm tin vững vàng bước vào cuộc sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Nhân Ái (2007), Tham vấn nhìn từ góc độ giáo dục gia đình, Tạp chí Tâm lí học số 11, tr.46-49. 2. Nguyễn Ngọc Bích (1988), Tâm lí học nhân cách, NXB Giáo dục Hà Nội. 3. Chỉ thị số 9971/BGD&ĐT – HSSV của Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Triển khai công tác tư vấn cho học sinh, sinh viên” ngày 28.10.2005. 4. Đinh Phương Duy (2006), Lý luận và quan điểm về tư vấn tâm lí tư vấn giáo dục , Hội thảo KHQG “Tư vấn tâm lí – giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM. 5. Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lí học. NXB Từ điển bách khoa. 6. Lê Thị Ngọc Dung (2006), Hoạt động tư vấn tâm lí giáo dục - thực trạng và giải pháp, Hội thảo KHQG “Tư vấn tâm lí – giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM. 7. Ngô Thị Thu Dung, Nguyễn Thị Hồng Nga (2009), Xây dựng mô hình tham vấn học đường - Một tổ chức hỗ trợ học sinh, sinh viên lập nghiệp. Tạp chí Tâm lý học số 11, tr.15-22. 8. Trần Thị Minh Đức (2006), Tham vấn học đường – nhìn từ góc độ giới, Tạp chí Tâm lý học số 11, tr.45 – 51. 9. Trần Thị Minh Đức (2009), Giáo trình tham vấn tâm lí, NXB ĐHQG Hà Nội. 10. Phạm Minh Hạc (2003), Một số công trình tâm lí học của A.N. Leonchiev, NXB Giáo dục Hà Nội. 11. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (2004), Một số vấn đề nghiên cứu về nhân cách, NXB Chính trị Quốc gia. 12. Nguyễn Thị Minh Hằng (2009), Mô hình hoạt động của nhà tham vấn học đường, Tạp chí Tâm lí học số 3/2009. 13. Dương Diệu Hoa, Vũ Thị Khánh Linh (2007), Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh phổ thông, Tạp chí Tâm lí học số 2, tr.36-42. 14. Nguyễn Phương Hoa (2002), Cần có các chuyên viên tâm lí trong trường học, Tạp chí Tâm lí học số 9, tr.44 – 45. 15. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1997), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 16. Trần Thị Hương (2006), “Một số ý kiến về hoạt động tham vấn học đường”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển, TP.HCM. 17 Kathryn Geldard & David Geldard - Nguyễn Xuân Nghĩa & Lê Lộc dịch và biên tập (2000), Công tác tham vấn trẻ em - giới thiệu thực hành, Đại học mở bán công TP.HCM. 18 Nguyễn Công Khanh (2000), Tâm lí trị liệu, NXB Quốc gia Hà Nội. 19 Kỷ yếu hội thảo khoa học (1996), “ J.Piaget – nhà tâm lí học vĩ đại thế kỷ 20. Hội TLHGDH Việt Nam. 20 Lê Thị Minh Loan (2010), Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường THPT, Tạp chí Tâm lí học số 5, tr.11- 16. 21 Lomov.Ph (2000), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận Tâm lí học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 22 Bùi Thị Xuân Mai (2003), “ Bàn về thuật ngữ: Tư vấn, tham vấn và cố vấn”, Tạp chí tâm lí học số 4, tr.39-42. 23 Bùi Thị Xuân Mai (2007), Có nên đồng nhất tham vấn với tư vấn và trị liệu tâm lí, Tạp chí tâm lí học 4/2007. 24 Trần Thị Thu Mai (2010), Hoạt động của phòng tư vấn tâm lí – giáo dục - hướng nghiệp ở trường phổ thông, Tạp chí giáo dục số 19, tr. 124-129. 25 Phan Trọng Ngọ (2003), Các lí thuyết phát triển tâm lí người, NXB ĐHSPHN. 26 Trương Bích Nguyệt (2003), Bước đầu tìm hiểu sự cần thiết của công tác tư vấn học đường hiện nay ở một số trường cấp 2- 3 tại TP HCM, Khoá luận tốt nghiệp ĐHSP TPHCM. 27 Bùi Ngọc Oánh (2006), “Kết hợp việc tham vấn trong hoạt động tư vấn”, Hội thảo khoa học Quốc gia “Tư vấn tâm lí giáo dục – Lí luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM. 28 Ngô Đình Qua (2006), Nhu cầu tham vấn tâm lí - giới tính của học sinh một số trường trung học tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội thảo KHQG “Tư vấn tâm lí – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, Thành phố Hồ Chí Minh. 29 Võ Thị Tích (2004), Tìm hiểu thực trạng và các giải pháp định hướng về nhu cầu tham vấn học đường ở học sinh các trường PTCS trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Khoá luận tốt nghiệp, ĐHSP HCM. 30 Nguyễn Hà Thành (2009), Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh THPT, Tạp chí Tâm lí học số 7, tr.39-44. 31 Đỗ Thiết Thạch (2006), “Kinh nghiệm của Châu âu về tư vấn giáo dục và một vài suy nghĩ vận dụng vào Viết Nam”, Hội thảo khoa học Quốc gia “Tư vấn tâm lí giáo dục – Lí luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM. 32 Trần Thị Thu Thuỷ (2006), Tìm hiểu nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP TPHCM. 33 Trung tâm nghiên cứu Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), “Stress học đường và ảnh hưởng của nó đến tâm lí học sinh cuối cấp THPT”, Đề tài khoa học do trung tâm nghiên cứu phụ nữ Đại học Quốc gia thực hiện. 34 UB bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam – UNICEF VN (2002), Tài liệu tập huấn đào tạo giảng viên về công tác tham vấn. 35 Nguyễn Quang Uẩn (2000), Tâm lí học đại cương, NXB ĐQG Hà Nội. 36 Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển TLH, NXB Ngoại văn. 37 Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho giáo viên) Quý thầy cô hãy trả lời những câu sau đây bằng cách hãy đánh dấu (√) vào ô tương ứng với câu mà Quý thầy cô cho là phù hợp với mình. 1. Theo Quý thầy cô, hiện nay lứa tuổi học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí về những vấn đề khó khăn, vướng mắc: Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Trong học tập Trong quan hệ với bạn bè Trong quan hệ với cha mẹ Trong quan hệ với thầy cô Về bản thân mình Lĩnh vực khác: 2. Theo Quý thầy cô, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Nội dung các môn học quá nhiều Phương pháp dạy của giáo viên khó hiểu Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít Không hiểu bài Không tập trung khi học hoặc khi nghe giảng Không biết cách sắp xếp thời gian học Thời gian học thêm quá nhiều Bài tập về nhà quá nhiều Không biết cách tự học Khó diễn đạt điều mình muốn nói Lí do khác: 3 Theo Quý thầy cô, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết cách bày tỏ cảm xúc với bạn Không biết cách từ chối yêu cầu của bạn Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó Thấy mình bị bạn bè xa lánh, không có bạn thân Mặc cảm với bạn bè về nhiều mặt Thất vọng vì thấy bạn là người ích kỷ và lợi dụng Thường ganh tị với bạn Không thích tính tình của bạn Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt Lí do khác: 4. Theo Quý thầy cô, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với thầy cô là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô Cảm thấy thầy cô luôn không công bằng Thầy cô đưa ra nhiều yêu cầu cao so với khả năng của học sinh Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với học sinh Chưa nhận thấy thầy cô là tấm gương để học tập Thầy cô quá nghiêm khác Thầy cô giảng dạy chưa nhiệt tình Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô Thường làm cho thầy cô không hài lòng Lí do khác: 5. Theo Quý thầy cô, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ Cảm thấy không được cha mẹ quan tâm Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái Cha mẹ thường xuyên bất hòa Cha mẹ li hôn Nhận thấy cha mẹ chưa là tấm gương cho con cái Cha mẹ quá nghiêm khắc Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, chuyện trò Không hài lòng về cách cư xử của cha mẹ Lí do khác: 6. Theo Quý thầy cô, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí về vấn đề của bản thân là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Cảm thấy khó hiểu về cảm xúc của mình Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập Lo lắng về sức khỏe và sự phát triển của bản thân Thiếu tự tin về khả năng của bản thân Lo lắng về tình bạn khác giới Không tìm xây dựng được lí tưởng sống Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt Cảm thấy bi quan về xu hướng sống của mọi người xung quanh Buồn vì kết quả học tập không cao Lí do khác: 7. Theo Quý thầy cô, khi gặp những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống, học tập, giao tiếp…học sinh THPT đã tìm đến sự “trợ giúp”nào? □ Tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè □ Tìm đến sự giúp đỡ của thầy cô □ Tìm đến sự giúp đỡ của cha mẹ □ Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí □ Tự khắc phục □ Không làm gì cả Cách khác: 8. Theo quý thầy cô, tham vấn tâm lí cần cho học sinh THPT là vì: Đúng Sai Cung cấp nhiều thông tin bổ ích Giúp học sinh tự tin hơn về khả năng của bản thân trong quá trình giải quyết các vấn đề Giúp học sinh hiểu biết chính xác hơn về những vấn đề nảy sinh của bản thân Giải tỏa được những khó khăn, vướng mắc mà học sinh đang gặp phải Làm cho học sinh cảm thấy hài lòng khi tìm đến sự trợ giúp đó Giúp học sinh có được khả năng trong quá trình giải quyết vấn đề 9.Theo Quý thầy cô, hoạt động của phòng tham vấn nên tổ chức: a. □Theo hình thức hoạt động ngoại khoá. b. □Hoạt động độc lập tại phòng tham vấn c. □Nói chuyện chuyên đề định kỳ. d. □Lồng ghép vào hoạt động đoàn. e. □Đưa vào nội dung môn học “kỹ năng sống”. 10. Theo Quý thầy cô, học sinh thích được tham vấn theo hình thức nào? a. □Tham vấn trực tiếp với cá nhân. b. □Tham vấn trực tiếp với nhóm. c. □Tham vấn trực tiếp tại phòng tham vấn của trường. d. □Tham vấn trực tiếp tại phòng tham vấn ngoài trường học. e. □Tham vấn qua điện thoại. f. □Tham vấn qua thư từ, email g. Các hình thức tham vấn khác…………………………………………… 11. Theo quý thầy cô, học sinh muốn chuyên viên tham vấn là: a. □Nam b. □Nữ c. □Trẻ tuổi d. □Lớn tuổi e. □Nam cũng được, nữ cũng được. f. □Trẻ tuổi,lớn tuổi cũng được 12. Theo quý thầy cô, nếu có phòng tham vấn tại trường học sinh sẽ: a. □Thường xuyên đến xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề của mình. b. □Khi có vấn đề thật cần thiết mới đến gặp chuyên gia. c. □Không đến. *Vì sao?.................................................................................................................................... ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… Xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô! Chúc Quý thầy cô mọi điều may mắn. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho học sinh) Các em học sinh thân mến!Để giúp các em giải tỏa những vướng mắc trong cuộc sống cũng như trong học tập, chúng tôi muốn các em cùng trao đổi một số nội dung dưới đây. Các em hãy đọc kỹ từng câu, suy nghĩ và đánh dấu (√) vào ô tương ứng với câu mà em cho là phù hợp với mình. Em hãy cho biết đôi điều về bản thân: Trường:…………………………. Lớp:…………………………… □Nam. □ Nữ. 1. Theo em, hiện nay lứa tuổi học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí về những vấn đề khó khăn, vướng mắc: Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Trong học tập Trong quan hệ với bạn bè Trong quan hệ với cha mẹ Trong quan hệ với thầy cô Về bản thân mình Lĩnh vực khác: 2. Theo em, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Nội dung các môn học quá nhiều Phương pháp dạy của giáo viên khó hiểu Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít Không hiểu bài Không tập trung khi học hoặc khi nghe giảng Không biết cách sắp xếp thời gian học Thời gian học thêm quá nhiều Bài tập về nhà quá nhiều Không biết cách tự học Khó diễn đạt điều mình muốn nói Lí do khác: 3. Theo em, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Không biết cách bày tỏ cảm xúc với bạn Không biết cách từ chối yêu cầu của bạn Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó Thấy mình bị bạn bè xa lánh, không có bạn thân Mặc cảm với bạn bè về nhiều mặt Thất vọng vì thấy bạn là người ích kỷ và lợi dụng Thường ganh tị với bạn Không thích tính tình của bạn Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt Lí do khác: 4. Theo em, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với thầy cô là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô Cảm thấy thầy cô luôn không công bằng Thầy cô đưa ra nhiều yêu cầu cao so với khả năng của học sinh Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với học sinh Chưa nhận thấy thầy cô là tấm gương để học tập Thầy cô quá nghiêm khác Thầy cô giảng dạy chưa nhiệt tình Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô Thường làm cho thầy cô không hài lòng Lí do khác: 5 Theo em, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ Cảm thấy không được cha mẹ quan tâm Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái Cha mẹ thường xuyên bất hòa Cha mẹ li hôn Nhận thấy cha mẹ chưa là tấm gương cho con cái Cha mẹ quá nghiêm khắc Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, chuyện trò Không hài lòng về cách cư xử của cha mẹ Lí do khác: 6 Theo em, học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí về vấn đề của bản thân là do: Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Cảm thấy khó hiểu về cảm xúc của mình Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập Lo lắng về sức khỏe và sự phát triển của bản thân Thiếu tự tin về khả năng của bản thân Lo lắng về tình bạn khác giới Không xác định được động cơ học tập Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt Cảm thấy bi quan về một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội Buồn vì kết quả học tập không cao Lí do khác: 7 Theo em, khi gặp những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống, học tập, giao tiếp…học sinh THPT đã tìm đến sự “trợ giúp”nào? □ Tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè □ Tìm đến sự giúp đỡ của thầy cô □ Tìm đến sự giúp đỡ của cha mẹ □ Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí □ Tự khắc phục □ Không làm gì cả Cách khác: 8. Theo em, tham vấn tâm lí cần cho học sinh THPT là vì: Đúng Sai Cung cấp nhiều thông tin bổ ích Giúp học sinh tự tin hơn về khả năng của bản thân trong quá trình giải quyết các vấn đề Giúp học sinh hiểu biết chính xác hơn về những vấn đề nảy sinh của bản thân Giải tỏa được những khó khăn, vướng mắc mà học sinh đang gặp phải Làm cho học sinh cảm thấy hài lòng khi tìm đến sự trợ giúp đó Giúp học sinh có được khả năng trong quá trình giải quyết vấn đề 9.Theo em, hoạt động của phòng tham vấn nên tổ chức: □Theo hình thức hoạt động ngoại khoá. □Hoạt động độc lập tại phòng tham vấn □Nói chuyện chuyên đề định kỳ. □Lồng ghép vào hoạt động đoàn. □Đưa vào nội dung môn học “kỹ năng sống”. 10. Em thích được tham vấn theo hình thức nào? □Tham vấn trực tiếp với cá nhân. □Tham vấn trực tiếp với nhóm. □Tham vấn trực tiếp tại phòng tham vấn của trường. □Tham vấn trực tiếp tại phòng tham vấn ngoài trường học. □Tham vấn qua điện thoại. □Tham vấn qua thư từ, email Các hình thức tham vấn khác…………………………………………… 11. Em muốn chuyên viên tham vấn là: □Nam □Nữ □Trẻ tuổi □Lớn tuổi □Nam cũng được, nữ cũng được. □Trẻ tuổi,lớn tuổi cũng được 12. Nếu có phòng tham vấn tại trường em sẽ: a. □Thường xuyên đến xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề của mình. b. □Khi có vấn đề thật cần thiết mới đến gặp chuyên gia. c. □Không đến *Nếu lựa chọn “không đến” em hãy chọn những lí do sau: a. □Sợ lộ bí mật cá nhân b. □E ngại vì chưa quen với dịch vụ này. c. □Vấn đề chưa đến mức cần phải tham vấn. d. □Sợ phải tốn tiền cước phí. e. □Nghĩ rằng có xin tham vấn thì hiệu quả cũng không cao. f. □Lí do khác……………………………………………… 13. Theo em, phòng tham vấn của trường nên: a. □Đặt ở khu vực riêng không gần phòng học. b. □Đặt ở khu vực riêng không gần với phòng giáo viên. c. □Trước phòng nên có thêm hòm thư ngỏ d. □Liền kề với phòng học để học sinh tiện khi đến. 14. Nếu được chọn tên cho phòng tham vấn tâm lí của trường em sẽ chọn là: a. □Phòng tham vấn tâm lí b. □Phòng tâm tình c. □Gõ cửa trái tim d. □Giãi bày tâm sự e. □Chia sẻ f. □Tên khác: 1 PHỤ LỤC 2: BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU Mẫu 1: Dành cho giáo viên. 1. Theo Thầy (cô), học sinh THPT hiện nay thường gặp khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực nào? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………… 2. Thầy (cô) đánh giá mức độ khó khăn, vướng mắc mà học sinh gặp phải như thế nào? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… 3. Theo Thầy (cô), học sinh THPT thường giải quyết khó khăn của mình bằng cách thức nào? Thầy (cô) đánh giá hiệu quả của cách giải quyết đó như thế nào? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… …………….. 4. Theo Thầy (cô), cách thức nào giúp học sinh giải quyết khó khăn một cách tốt nhất?Nhà trường đã có biện pháp gì trợ giúp khi các em gặp khó khăn? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………… 5. Thầy (cô) đánh giá vai trò của chuyên viên tâm lí trong nhà trường THPT như thế nào? Trong trường có cần thiết phải mở phòng tham vấn tâm lí không? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………… 6. Theo Thầy (cô), mức độ học sinh sẽ tham gia tham vấn nếu ở trường có phòng tham vấn như thế nào? Để phòng tham vấn hoạt động hiệu quả cần những yếu tố nào? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… PHỤ LỤC 2: BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU Mẫu 2: Dành cho học sinh. 1. Hiện nay, điều gì khiến em quan tâm và lo lắng nhiều nhất? Vì sao? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………… 2. Để giải tỏa tâm trạng lo lắng em thường nhờ ai trợ gúp? Em có cần sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí không? Vì sao? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ………… 3. Theo em, trong trường có nên thành lập phòng tham vấn tâm lí không? Nếu có em có thường xuyên đến để xin trợ giúp không? Vì sao? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……… 4. Em có nguyên vọng gì đối với nhà trường và cha mẹ để giúp đỡ em trong học tập và cuộc sống? ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ THỐNG KÊ Bảng 1: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập xét theo trường: Về học tập Trường THPH Tổng cộng XP2 P df P Xuyên Mộc Hòa Hội Phước Bửu Hòa Bình KCT 3 0 0 0 3 14,41 0,108 Ít Cần thiết 3 2 2 2 9 Cần thiết 26 31 18 24 99 9 RCT 81 81 95 88 345 Tổng cộng 113 114 115 114 456 Bảng 2: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè xét theo trường: Trong quan hệ với bạn bè Trường THPH Tổng cộng XP2 P df P Xuyên Mộc Hòa Hội Phước Bửu Hòa Bình KCT 2 4 5 0 11 17,72 0,039 Ít CT 19 16 25 16 76 CT 60 58 66 57 241 9 RCT 32 36 19 42 129 Tổng cộng 113 114 115 115 457 Bảng 3: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ xét theo trường Trong quan hệ với cha mẹ Trường THPH Tổng cộng XP2 P df P Xuyên Mộc Hòa Hội Phước Bửu Hòa Bình KCT 7 7 5 5 24 16,50 0,054 Ít CT 23 12 18 13 66 Cần thiết 56 51 40 47 194 9 RCT 27 44 52 48 171 Tổng cộng 113 114 115 113 455 Bảng 4: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với thầy cô xét theo trường Trong quan hệ với thầy cô Trường THPH Tổng cộng XP2 P df P Xuyên Mộc Hòa Hội Phước Bửu Hòa Bình KCT 4 5 2 3 14 24,45 0,004 Ít CT 32 16 19 11 78 Cần thiết 56 64 65 54 239 9 RCT 21 29 29 44 123 Tổng cộng 113 114 115 112 454 Bảng 5: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí về bản thân xét theo trường Về bản thân Trường THPH Tổng cộng XP2 P df P Xuyên Mộc Hòa Hội Phước Bửu Hòa Bình KCT 10 9 8 2 29 51,44 0,000 Ít CT 17 10 28 11 66 Cần thiết 39 24 51 34 148 9 RCT 46 68 28 66 208 Tổng cộng 112 111 115 113 451 Bảng 6: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập xét theo lớp Về học tập Lớp Tổng cộng XP 2 P df P 10 11 12 KCT 0 1 2 3 11,19 0,082 Ít CT 6 1 2 9 Cần thiết 43 30 26 99 6 RCT 110 127 108 345 Tổng cộng 159 159 138 456 Bảng 7: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè xét theo lớp Trong quan hệ với bạn bè Lớp Tổng cộng XP2 P df P 10 11 12 KCT 2 7 2 11 29,84 0,000 Ít CT 39 15 22 76 Cần thiết 89 74 78 241 6 RCT 29 63 37 129 Tổng cộng 159 159 139 457 Bảng 8: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ xét theo lớp Trong quan hệ với cha mẹ Lớp Tổng cộng XP 2 P df P 10 11 12 KCT 8 13 3 24 13,88 0,033 Ít CT 23 26 17 66 Cần thiết 69 53 72 194 6 RCT 58 67 46 171 Tổng cộng 158 159 138 455 Bảng 9: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập xét theo giới Trong học tập Giới tính Tổng cộng XP 2 P df P Nam Nữ KCT 0 3 3 2,28 0,516 Ít CT 4 5 9 Cần thiết 42 57 99 3 Rất cần thiết 149 196 345 Tổng cộng 195 261 456 Bảng 10: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè xét theo giới: Trong quan hệ với bạn bè Giới tính Tổng cộng XP2 P df P Nam Nữ Không cần thiết 7 4 11 2,13 0,545 Ít Cần thiết 31 45 76 Cần thiết 104 137 241 3 Rất cần thiết 54 75 129 Tổng cộng 196 261 457 Bảng 11: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ xét theo giới: Trong quan hệ với cha mẹ Giới tính Tổng cộng XP2 P df P Nam Nữ Không cần thiết 14 10 24 3,99 0,262 Ít Cần thiết 30 36 66 Cần thiết 75 119 194 3 Rất cần thiết 75 96 171 Tổng cộng 194 261 455 Bảng 12: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với thầy cô xét theo giới: Trong quan hệ với thầy cô Giới tính Tổng cộng XP 2 P df P Nam Nữ Không cần thiết 9 5 14 4,35 0,225 Ít Cần thiết 36 42 78 Cần thiết 94 145 239 3 Rất cần thiết 55 68 123 Tổng cộng 194 260 454 Bảng 13:: Mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí về bản thân mình xét theo giới: Về bản thân mình Giới tính Tổng cộng XP 2 P df P Nam Nữ Không cần thiết 15 14 29 2,50 0,475 Ít Cần thiết 28 38 66 Cần thiết 69 79 148 3 Rất cần thiết 83 125 208 Tổng cộng 195 256 451 Bảng 14:. Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập (thang 3 bậc): Lý do TB ĐLTC Thứ bậc Nội dung các môn học quá nhiều 2,32 0,64 2 Phương pháp dạy của giáo viên khó hiểu 1,84 0,66 8 Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít 2,29 0,61 3 Không hiểu bài 1,93 0,69 7 Không tập trung khi học hoặc khi nghe giảng 1,79 0,70 10 Không biết cách sắp xếp thời gian học 2,07 0,69 4 Thời gian học thêm quá nhiều 2,04 0,76 6 Bài tập về nhà quá nhiều 1,81 0,76 9 Không biết cách tự học 2,05 0,70 5 Khó diễn đạt điều mình muốn nói 2,33 0,63 1 Bảng 15: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè: Lý do TB ĐLTC Thứ bậc Không biết cách bày tỏ cảm xúc với bạn 1,96 0,66 5 Không biết cách từ chối yêu cầu của bạn 1,83 0,58 8 Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó 2,19 0,70 3 Thấy mình bị bạn bè xa lánh, không có bạn thân 1,88 0,80 7 Mặc cảm với bạn bè về nhiều mặt 1,92 0,74 6 Thất vọng vì thấy bạn là người ích kỷ và lợi dụng 1,99 0,72 4 Thường ganh tị với bạn 1,47 0,66 10 Không thích tính tình của bạn 1,73 0,63 9 Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt 2,34 0,69 1 Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt 2,21 0,69 2 Bảng 16: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với thầy cô: Lý do TB ĐLTC Thứ bậc Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô 2,46 0,58 1 Cảm thấy thầy cô luôn không công bằng 1,70 0,70 8 Thầy cô đưa ra nhiều yêu cầu cao so với khả năng của học sinh 1,96 0,68 4 Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh 2,11 0,68 3 Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với học sinh 2,16 0,66 2 Chưa nhận thấy thầy cô là tấm gương để học tập 1,43 0,66 10 Thầy cô quá nghiêm khắc 1,79 0,67 5 Thầy cô giảng dạy chưa nhiệt tình 1,63 0,67 9 Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô 1,75 0,67 7 Thường làm cho thầy cô không hài lòng 1,79 0,67 6 Bảng 17: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực quan hệ với cha mẹ: Lý do TB ĐLTC Thứ bậc Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ 2,07 0,78 3 Cảm thấy không được cha mẹ quan tâm 1,54 0,71 8 Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái 2,23 0,66 1 Cha mẹ thường xuyên bất hòa 1,62 0,73 7 Cha mẹ li hôn 1,52 0,77 9 Nhận thấy cha mẹ chưa là tấm gương cho con cái 1,43 0,65 10 Cha mẹ quá nghiêm khắc 1,69 0,67 5 Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ 2,10 0,74 2 Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, chuyện trò 1,92 0,70 4 Không hài lòng về cách cư xử của cha mẹ 1,64 0,69 6 Bảng 18: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí về vấn đề của bản thân: Lý do TB ĐLTC Thứ bậc Cảm thấy khó hiểu về cảm xúc của mình 2,25 0,67 4 Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai 2,57 0,55 1 Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập 2,37 0,60 3 Lo lắng về sức khỏe và sự phát triển của bản thân 2,07 0,66 7 Thiếu tự tin về khả năng của bản thân 2,24 0,66 5 Lo lắng về tình bạn khác giới 1,89 0,73 8 Không xác định được động cơ học tập 1,82 0,72 10 Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt 2,55 0,54 2 Cảm thấy bi quan về một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội 1,85 0,66 9 Buồn vì kết quả học tập không cao 2,25 0,64 5 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5470.pdf