Tài liệu Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam: ... Ebook Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỜỞĐẦ
LỜI MỞ ĐẦU
------
1. Sự cần thiết của đề tài
Việt Nam trở thành một trong những nước thành công nhất trong công tác giảm nghèo. Từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90, tỷ lệ phần trăm những người nghèo đã giảm từ 70% xuống khoảng 1/3. Theo nghiên cứu đáng tin cậy về tình trạng nghèo đói thì “hầu như không một nước nào khác trên thế giới giảm nghèo nhanh bằng trong một thời gian ngắn như vậy” (Ngoại trừ Trung Quốc và Indonesia trong những năm 80) (Báo cáo phát triển Việt Nam 2000, "Attacking poverty" 1999)
Một trong những yếu tố thường được nói đến cho sự thành công xuất khẩu của Việt Nam của những năm đầu của thập kỷ 90 là nỗ lực mạnh mẽ của chính phủ trong chuyển dịch chính sách kinh tế từ việc thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu, tự do hóa kinh tế và đi theo nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những thay đổi quan trọng trong chính sách kinh tế là việc chính phủ Việt Nam đã áp dụng cách tiếp cận có hệ thống và năng động đối với phát triển xuất khẩu với một phác thảo lâu dài, thể hiện trong việc liên tục thay đổi chính sách cho phù hợp trên cơ sở những kinh nghiệm và nghiên cứu có được.
Hàng thủ công mỹ nghệ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước (năm 2000, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đứng thứ tám về kim ngạch xuất khẩu, đạt 235 triệu USD) đã trải qua nhiều thăng trầm, hiện đang chuẩn bị bước vào giai đoạn mới với chỉ tiêu đạt 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2005. Là những sản phẩm của ngành nghề thủ công truyền thống, mang đậm nét của một nền văn hoá dân tộc, có những dấu ấn
lịch sử, nên hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những văn hoá phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thưởng thức những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ vừa có nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, vừa có nhu cầu cao trên thị trường quốc tế theo sự phát triển giao lưu văn hoá giữa các nước, các dân tộc trên thế giới. Quan tâm phát triển các ngành nghề này, mở rộng tiêu thụ các sản phẩm được làm ra trên thị trường trong và ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, làm sống động những ngành nghề truyền thống là thiết thực bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc Việt Nam.
Phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tác dụng lớn trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập chính đáng cho lao động trong nước; góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề nhàn cư, nhất là trong tầng lớp trẻ; có tác dụng tích cực đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội góp phần bảo đảm trật tự an ninh xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay tỉ lệ thất nghiệp còn cao thì ý nghĩa chính trị xã hội của vấn đề nêu trên càng lớn. Bên cạnh đó, phát triển và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn tạo cơ hội sử dụng và đào tạo các nghệ nhân, thợ giỏi có tay nghề và kỹ xảo truyền thống góp phần bảo tồn, phát triển và truyền lại cho đời sau vốn quý nghề nghiệp này của dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển. Đó là do nền kinh tế thị trường của Việt Nam ngày càng phát triển, môi trường kinh tế ngày càng được cải thiện và mối quan tâm của các
doanh nghiệp Nhật Bản đối với Việt Nam - một bạn hàng lớn nhiều tiềm năng ở châu Á ngày càng cao.
Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản năm 1999 tăng 20% so với năm trước, đạt 1,8 tỷ USD. Những sản phẩm xuất khẩu chính là dệt may, hải sản, đồ gỗ, giày dép, thủ công mỹ nghệ ... Nhật Bản với dân số hơn 120 triệu người và là nước có thu nhập bình quân đầu người cao, vì vậy được xem là thị trường có sức hấp dẫp lớn. Nhật Bản nhập khẩu nhiều loại hàng hóa từ nhiều nước trên thế giới và đã trỏ thành một trong những nước nhập khẩu lớn nhất trên thế giới. Đồng thời Nhật Bản cũng là thị trường đòi hỏi chất lượng, mẫu mã và thời hạn giao hàng khắt khe nhất.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, qua tìm hiểu nghiên cứu xét thấy Nhật Bản đang là thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam, cộng với những năm trau dồi kiến thức và lý luận trong trường Đại học Ngoại thương, đồng thời được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Đức Dỵ, em xin chọn đề tài: “Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Thông qua tình hình thực tế xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản, thấy rõ những thuận lợi và khó khăn đối với thị trường Nhật trong những năm gần đây, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, phương pháp nghiên cứu là sự kết hợp giữa phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp dự báo, từ đó đưa ra những
giải pháp tối ưu đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.
4. Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Chương II: Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản: Thực trạng và triển vọng.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
Do thời gian chuẩn bị có hạn, kinh nghiệm thực tế và lý luận còn hạn hẹp nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Em hy vọng rằng, trong tương lai em sẽ có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến đề tài nói trên.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài , em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn - Tiến sĩ Nguyễn Đức Dỵ - và các cô chú công tác tại Vụ xuất nhập khẩu thuộc Bộ thương mại, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Văn phòng đại diện JETRO tại Hà Nội đã cung cấp cho em nhiều tài liệu cập nhật trong qua trình nghiên cứu, nhờ đó em có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành đặc biệt cảm ơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM
---------------------------------------
I/ GIỚI THIỆU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM
1. Vài nét về ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có từ rất lâu, nó gắn liền với đời sống văn hoá - xã hội của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào những câu ca dao, bài thơ ... hình thành nên những nét văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc. Lịch sử phát triển ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam với nghề gốm Bát Tràng xuất hiện từ thế kỷ thứ XV, nghề sản xuất giấy dó của làng Bưởi có từ đầu thế kỷ XVI, nghề dệt vải tơ tằm và đồ gỗ mỹ nghệ có từ cuối thế kỷ XVII ... Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta đã sớm có mặt trên thị trường thế giới và rất được nước ngoài ưa chuộng. Ngay từ thời kỳ thế kỷ thứ XI đến XVIII, qua các cảng Vân Đồn, Vạn Ninh, Phố Hiến, Thuận An, Hội An ... các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam như đồ gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy dó, tơ lụa, đồ bạc, ngà sừng đã vượt hàng vạn dặm đại dương đến với người tiêu dùng bên kia bán cầu.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu của con người ngày càng tăng và nhu cầu ấy không chỉ dừng lại ở tiêu thức ăn no mặc ấm nữa mà còn được đánh giá trên những đồ dùng với tính mỹ thuật cao và độc đáo trong mỗi gia đình. Thông thường, tính văn hoá và độc đáo của mỗi dân tộc đều được thể hiện trên các sản phẩm mỹ nghệ của mỗi dân tộc đó. Một sản phẩm ra đời ngoài việc đáp ứng nhu cầu sử dụng còn phải thể hiện tính nhân văn và văn hoá nghệ thuật của con người. Những người thợ thủ công với đôi bàn tay khéo léo, không chỉ đem đến vải dệt, khăn xếp, nón, cói đan, đồ sành sứ thuỷ tinh ... phục vụ cuộc sống hàng ngày của chúng ta mà còn tạo ra nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ có tính thẩm mỹ cao như hàng mây tre đan, thêu ren, thảm dệt tay, hàng gốm sứ, hàng gỗ mỹ nghệ, sơn mài ... đa dạng trong màu sắc, tinh tế trong kiểu dáng. Cho đến nay, con số làng nghề truyền thống ở nước ta đã lên đến hơn 1.400 với hàng trăm ngành nghề khác nhau trong đó các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chiếm hơn 80% và trong tương lai, chắc chắn rằng con số ấy sẽ còn tăng lên nữa do nhu cầu ngày một cao của thị trường trong và ngoài nước.
1.1. Tiềm năng và thuận lợi của ngành thủ công mỹ nghệ
Dưới ánh sáng Nghị quyết TW khóa VII năm 1993, trong một Hội thảo quốc tế do UNIDO của Liên Hợp Quốc phối hợp với Bộ Công nghiệp tổ chức tại Hà Nội với chủ đề “Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam” đã có phân tích: “Làng nghề truyền thống Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển. Nó gắn bó với nông thôn, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, lao động đông đảo, cần cù, sáng tạo, đầu tư nhỏ nhưng hiệu quả kinh tế xã hội lại cao. Là một mảng lớn của công nghiệp nông thôn, nó góp phần chuyển dịch cơ cấu nông thôn, phá vỡ thế thuần nông, tăng thu nhập của đông đảo dân cư. Những lợi thế này cần được khai thác triệt để, phát triển mạnh, góp phần cùng toàn ngành công nghiệp tạo ra mức tăng trưởng bình quân 15%
vào năm 2000. Sẽ đến ngày, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống được nâng niu hơn, trân trọng hơn. Nó sẽ đi vào cuộc sống mỗi người ở trình độ văn hóa cao hơn và mức sống khá hơn”.
Nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Là một nước có khí hậu nhiệt đới ẩm, Việt Nam có một nguồn nguyên vật liệu khá dồi dào có khả năng đáp ứng tới 95 - 97% nhu cầu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Ở nước ta hầu như ở địa phương nào cũng có nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Các cơ sở sản xuất thường được bố trí ở nơi gần nguồn nguyên liệu nên chi phí vận chuyển nói chung không lớn. Nhu cầu nguyên phụ liệu nhập khẩu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, thường chỉ từ 3% đến 5%. Đây là thuận lợi lớn để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới. Do đó, tuy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa lớn, nhưng tỉ lệ ngoại tệ thực thu cao hơn nhiều so với các loại hàng xuất khẩu khác. Đây thực sự là một tiềm năng lớn, một thuận lợi cơ bản và cũng là thế mạnh của Việt Nam trong việc tổ chức sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Thương mại, đồ gỗ gia dụng đang có xu hướng phát triển mạnh và nếu đạt quy mô lớn thì nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu sẽ chiếm tỷ trọng không nhỏ, thậm chí sẽ là nguồn chủ yếu.
Nguồn nhân lực, với dân số khoảng 80 triệu người trong đó gần 80% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam thực sự có một nguồn lao động dồi dào với đội ngũ nghệ nhân thợ giỏi, tay nghề cao. Đây vừa là tiềm năng vừa là thuận lợi để phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu. Rất tiếc do nhiều nguyên nhân khác nhau cho đến nay Việt Nam mới chỉ khai thác
được một phần rất nhỏ nguồn lực quí báu này. Mặt khác, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thu hút được nhiều lao động, trong đó có số lượng lao động đáng kể là nông nhàn, tạo việc làm và tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo trong dân cư có ý nghĩa rất lớn về chính trị kinh tế xã hội.
Vị trí địa lý, như chúng ta đã biết, so với các sản phẩm công nghiệp với hàm lượng công nghệ lớn, mặt hàng thủ công mỹ nghệ thường có giá trị không cao và thường cồng kềnh trong chuyên chở. Do có vị trí địa lý gần với Việt Nam, cùng nằm trong khu vực châu Á, Nhật Bản thuận lợi trong việc giảm chi phí vận chuyển dẫn đến giảm giá thành sản phẩm khi xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của một quốc gia. Với chiều dài hơn
3.000 km đường biển, với hệ thống giao thông đường bộ, đường sông và xe lửa đã được sửa chữa và nâng cấp trong gần một thập kỷ qua, có thể nói Việt Nam hội đủ các điều kiện thuận lợi về mặt địa lý với chi phí vận chuyển khá thấp để phát triển ngành thủ công mỹ nghệ phục vụ nhu cầu trong và ngoài nước.
Nhu cầu tiêu dùng, số liệu thống kê trong những năm qua cho thấy, nhu cầu thị trường trong nước và thế giới về hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng lên theo mức sống của người dân. Đời sống tăng lên hoạt động du lịch cũng tăng lên gấp bội mà hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những ngành hàng có nhu cầu lớn phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế. Xét trên ý nghĩa đó, theo đà mở rộng giao lưu kinh tế - thương mại, văn hoá - du lịch giữa các nước trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển hàng năm nhập khẩu tới hàng tỉ USD các loại hàng thủ công mỹ nghệ. Mặc dù hàng thủ công mỹ nghệ không phải là nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của cư dân nhưng lại đáp ứng được nhu cầu sử dụng nào đó trong đời sống xã hội, nhu cầu trang trí và thưởng thức những tinh
hoa văn hoá của dân tộc. Đó là tiềm năng và thuận lợi của thị trường cần
được quan tâm để khai thác.
Chi phí đầu tư sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thấp, do vậy có điều kiện phát triển khắp nơi. Hiện nay sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ được thực hiện trong từng hộ gia đình cho nên sử dụng được diện tích ở làm nơi sản xuất. Vì vậy chi phí để xây dựng nhà xưởng không nhiều. Hầu hết các ngành nghề thủ công nông thôn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần với chi phí chỉ vài triệu đến vài chục triệu đồng là có thể sản xuất.
Chính sách quốc gia, trong những năm gần đây, lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm và đã có nhiều chính sách, biện pháp khuyến khích và hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như miễn giảm thuế xuất khẩu, hỗ trợ duy trì và tồn tại làng nghề ...
Theo ông Mai Văn Dâu, thứ trưởng Bộ Thương mại, mặc dù ngành thủ công mỹ nghệ có được năm thuận lợi và tiềm năng kể trên, tuy nhiên để phát triển được thuận lợi, biến tiềm năng sẵn có thành ngoại tệ thu về, ngành thủ công mỹ nghệ còn rất nhiều việc phải làm.
1.2. Những khó khăn và yếu kém của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Đến nay, tuy sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt ở gần
140 quốc gia nhưng vẫn chỉ chiếm từ 3 đến 4% thị phần hàng thủ công mỹ nghệ toàn thế giới. Sản phẩm Việt Nam lại bị cạnh tranh gay gắt bởi sản phẩm Trung Quốc và Thái Lan, nhất là về giá cả, sản phẩm Việt Nam luôn cao hơn từ 10 đến 20%. Theo các doanh nhân sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sở dĩ sản phẩm của họ có giá thành luôn thấp hơn là do các làng nghề
được tập trung lại từng vùng, được Chính phủ hỗ trợ giá thuê đất, giá thuê nhà xưởng, được ưu đãi và hỗ trợ vốn đầu tư trang thiết bị, giá nhân công rẻ hơn Việt Nam. Mức lương cho một công nhân lao động trong làng nghề Trung Quốc là 35 ngàn đồng/ngày thì ở Việt Nam là 50 ngàn đồng/ngày.Do sản xuất hàng loạt nên họ đủ khả năng cung ứng được những hợp đồng lớn, đảm bảo thời gian giao hàng, đồng thời giảm được phí vận chuyển. Sản xuất tập trung nên các làng nghề của họ thường trở thành địa điểm tham quan của khách du lịch nước ngoài, từ đó sản phẩm có cơ hội tiêu thụ, như ở vùng Quế Lâm, Trung Quốc.
Trong khi đó ở Việt Nam, các làng nghề, các cơ sỏ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường hoạt động tự phát và phân tán, thiếu trang thiết bị, thiếu thông tin thị trường. Muốn phát huy sản xuất hoặc có đơn đặt hàng lại thiếu vốn vì không vay được từ các nguồn tín dụng hay ngân hàng do không có đất đai, nhà xưởng thế chấp theo quy định. Hiện cả nước có đến
85% hộ cá thể và 68% cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đủ điều kiện để tiếp cận với các nguồn vốn vay. Nhiều chi phí làm đội giá thành sản phẩm như mua nguyên vật liệu nhỏ lẻ không hóa đơn đầu vào, chi phí cho mặt bằng, cho bảo hiểm, cho công đoàn... Bên cạnh đó thị trường thủ công mỹ nghệ nước ngoài luôn biến động và thay đổi thị hiếu. Mành trúc xuất sang Mỹ (sử dụng lâu ngày) khác xuất sang Pháp (sử dụng một mùa). Điều kiện kỹ thuật đòi hỏi ngày càng khắt khe. Sản phẩm mây tre lá, gáo dừa... xuất sang Nhật đảm bảo đúng độ bóng theo yêu cầu, chính xác tiêu chuẩn kích thước theo đơn đặt hàng. Mành trúc xuất sang Mỹ đòi hỏi sơn phải an toàn, không độc hại, không pha chì, kẽm, sử dụng trong sản phẩm phải đảm bảo không gỉ sét... Trong khi đó, cũng vì thiếu vốn, các doanh nhân Việt Nam khó cập nhật được những thông tin quan trọng liên quan đến sản phẩm nên thường thua thiệt trong cạnh tranh.
Bên cạnh đó, những kỹ thuật, công nghệ áp dụng trong ngành nghề truyền thống hiện nay vẫn rất lạc hậu làm cho năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, mẫu mã hàng hóa còn đơn điệu chưa phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, sức cạnh tranh kém. Do nguồn vốn bị hạn chế, cộng với tam lý làm ăn nhỏ nên rất nhiều làng nghề vẫn bằng lòng với sản phẩm mình làm ra, không tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, không chú trọng thay đổi mẫu mã hàng hóa. Thói quen sử dụng kỹ năng đôi bàn tay là chính, bảo thủ, trì trệ về mặt kỹ thuật, chậm cải tiến mẫu mã hình thức sản phẩm. Đồng thời cũng do kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, khả năng quản lý và nguồn vốn đầu tư có hạn nên ít có điều kiện làm ăn lớn. Đặc biệt các sản phẩm của ngành nghề nông thôn thường khó khăn trong khâu tiêu thụ, tiếp cận thị trường vì chưa coi trọng công tác thị trường, thậm chí không có kiến thức về hàng hóa, thị trường, marketing... Hiện tại sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu qua con đường ủy thác cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Trung ương hay các thành phố lớn nên không nắm bắt được đầy đủ yêu cầu của khách hàng về mẫu mã, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán.
Theo số liệu thống kê, toàn bộ cơ sở ngành nghề truyền thống của chúng ta ở nông thôn chỉ có hơn 20% có nhà xưởng kiên cố, hơn 86% số cơ sở sử dụng điện, trình độ cơ khí còn thấp, mới có hơn 40% công việc được thực hiện bằng máy móc nên sức người bỏ ra rất nhiều , chưa áp dụng được công nghệ mới để đẩy nhanh quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Vì vậy hàm lượng công nghệ trên một đơn vị sản phẩm vẫn còn thấp. Có nhiều mặt hàng, do lao động thủ công nhiều nên chi phí lao động sống chiếm một tỷ trọng quá cao trong giá thành dẫn đến tình trạng sản phẩm kém sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Chẳng hạn các làng nghề dệt chiếu ở Tiên Kiều (Thanh Hà), Thanh Kỳ (Tứ Kỳ) hay các làng nghề mây tre đan
ở Hà Tây... vẫn giữ cách làm thủ công từ xa xưa không hề đầu tư cải tiến. Do vậy chất lượng hàng hóa thấp, mẫu mã chưa đẹp, khó tiêu thụ, giá thấp. Tuy nhiên do đặc điểm của sản xuất và của sản phẩm mang tính độc đáo, tinh xảo, với công nghệ cổ truyền kết hợp với kinh nghiệm và bàn tay khéo léo của người thợ đã tạo ra những sản phẩm mang tính đặc thù mà công nghệ hiện đại sản xuất hàng loạt khó thực hiện được. Nhóm này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong sản phẩm các làng nghề như đúc đồng, chạm, khảm, sơn mài... Do vậy, chủ trương đúng đắn nhất là phải kết hợp được khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại với kỹ thuật cổ truyền để nâng cao năng suất chất lượng, cải tiến mẫu mã đề tài sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng
Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng ở các làng nghề hầu hết đều yếu kém, mặt bằng sản xuất chật hẹp, ô nhiễm môi trường nặng nề. Đây là vấn đề hết sức bức xúc, cần có những giải pháp nhanh chóng, toàn diện của địa phương và Nhà nước mới có thể giải quyết...
Trong Hội nghị phát triển ngành nghề nông thôn vào tháng 8/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã đặc biệt nhấn mạnh: “Vấn đề phát triển làng nghề nông thôn trong thời kỳ CNH - HĐH có ý nghĩa chiến lược. Cần phải tháo gỡ tất cả những gì đang cản trở sức phát triển làng nghề”.
Các lực cản thì nhiều, nhưng có thể tóm tắt dưới các nhóm: Các chính sách và luật chưa đủ tạo một hành lang pháp lý cần thiết cho người sản xuất kinh doanh loại sản phẩm giầu chất trí tuệ và nghệ thuật này; Một số quy định chưa hợp lý về thuế, đánh đồng hàng thủ công mỹ nghệ với công nghệ phẩm; Chưa có chế độ trợ giá bảo hộ mậu dịch, ưu đãi tín dụng cho các làng nghề; Tự thân các làng nghề lúng túng do sức ỳ cố hữu khi đi vào cơ chế thị trường.
Có thể nói, ngành thủ công mỹ nghệ đang ở trong tình trạng manh mún, tự phát và thiếu sự chỉ đạo, điều tiết của Nhà nước. Trong nhiều trường hợp, tiềm năng xuất khẩu rất lớn, nhưng do thiếu vốn, mặt bằng chật hẹp và không được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước đã dẫn đến tiềm năng vẫn chỉ là tiềm năng trong hàng chục năm. Nguyên do chính là các Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ ban hành hãy còn ở khá xa tầm tay của các đơn vị sản xuất, các địa phương cũng chưa quan tâm đúng mức đến sản xuất và phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ. Để hàng thủ công mỹ nghệ khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước và thế giới thì sự hỗ trợ của Chính phủ sẽ đóng vai trò lớn trong việc phục hồi và phát triển mặt hàng thủ công mỹ nghệ và những làng nghề truyền thống.
2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của Việt Nam
2.1. Hàng gốm sứ mỹ nghệ, sơn mài mỹ nghệ
Việt Nam có một truyền thống lâu đời về sản xuất gốm sứ, với các làng nghề truyền thống trải dài từ Bắc đến Nam. Song tập trung chủ yếu vẫn là các khu vực có nghề gốm truyền thống như Quảng Ninh, Đồng Nai, Sông Bé, Vĩnh Long .. và đặc biệt trong số đó phải kể đến làng nghề Bát Tràng với các sản phẩm nổi tiếng như tượng phật Tam Đa, lọ hoa, bình trà
... được bạn hàng nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Theo các thương nhân nước ngoài, chất lượng gốm sứ Việt Nam không thua kém các cường quốc sản xuất khác như Italia, Trung Quốc, Malaysia... Do trình độ điêu khắc, tạo dáng sản phẩm tuyệt vời, có khách hàng so sánh mặt hàng gốm đất đỏ của Việt Nam là “Saì Gòn Italia”. Ngoài ra với ưu điểm được làm bằng tay, chủng loại và chất liệu phong phú cho phép người mua hàng có nhiều lựa chọn từ hàng men, không men, đất đỏ... Các sản phẩm cũng đa dạng như chậu tròn, oval, vuông, chữ nhật, hình thú, đôn, hũ, bình... Điều
này giúp khách hàng có một bộ sưu tập đầy đủ trong khi họ chỉ có thể mua hàng đất đỏ ở Trung Quốc, hàng men dạng tròn tại Malaysia và hàng cao cấp tại Italia.
Khác với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác, giá trị của mặt hàng gốm sứ không chỉ thể hiện ở các yếu tố kỹ thuật như độ trắng, thấu quang, sáng, bóng ... mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sở thích, thị hiếu thẩm mỹ cũng như yêu cầu về thời trang và văn hoá tiêu dùng của thị truờng tiêu thụ. Theo ý kiến của Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại : “Hàng gốm sứ của Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, đặc biệt là giá cả. Song đáng tiếc là mẫu mã của chúng ta còn quá nghèo nàn và đơn điệu không đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Thêm vào đó, những nhà sản xuất gốm sứ Việt nam vẫn phải phụ thuộc vào phụ gia men của nước ngoài nên nhiều lúc chưa chủ động trong sản xuất. Có lẽ đã đến lúc các viện nghiên cứu khoa học, các cơ sở sản xuất thử nghiệm sử dụng ngân sách Nhà nước nên tham gia giải quyết khó khăn này của những người sản xuất thủ công Việt Nam”. Do đó, ngoài yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến việc tạo ra các sản phẩm với mẫu mã đa dạng, phong phú ... mang đậm phong cách dân tộc Việt Nam với những hoa văn độc đáo phương Đông - một trong những thủ thuật mà các nhà thủ công Trung Quốc đặc biệt khai thác để trở thành một đôí thủ cạnh tranh của mặt hàng gốm sứ Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, năm 1997 Việt Nam đã xuất được 70 triệu USD hàng gốm sứ mỹ nghệ, năm 1998 con số này giảm đi ít nhiều do thị trường xuất khẩu khó khăn, nhưng năm 1999 đã đạt mức 100 triệu USD và năm 2000 đạt trên 120 triệu USD. Hiện nay, ngành gốm sứ mỹ nghệ Việt Nam đã hình thành ba trung tâm sản xuất có qui mô tương đối lớn ở ba địa phương: Bát Tràng, Lái Thiêu và Đồng Nai với kim ngạch của một trung
tâm một năm trên 20 triệu USD/năm. Với uy tín của ngành hàng gốm sứ mỹ nghệ Việt Nam ngày càng cao, trong mấy năm gần đây đã có nhiều đối tác nước ngoài đặt quan hệ hợp tác lâu dài với các cơ sở sản xuất hàng gốm sứ mỹ nghệ thủ công của Việt Nam: các hình thức hợp tác khá đa dạng từ việc gia công theo mẫu mã và nguyên liệu men nhập ngoại đến việc nhận đại lý tiêu thụ ở nước ngoài và đầu tư vốn thành lập công ty liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều đó cho thấy, ngành gốm sứ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bước đầu đã có uy tín trên trường quốc tế và là đối thủ cạnh tranh với Trung Quốc vốn là quốc gia có bề dày kinh nghiệm hàng nghìn năm.
Để gốm sứ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đủ sức “đi xa” hơn nữa trên thị trường thế giới, cần tập trung khai thác triệt để công nghệ cổ truyền kết hợp các ứng dụng tiến bộ mới về kỹ thuật men, sử dụng các thiết bị hiện đại trong quá trình sản xuất. Tiến tới thay thế các lò gốm thủ công bằng các lò gas, lò điện nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng tỷ lệ sản phẩm tốt từ 75% (lò thủ công) lên 95%. Đồng thời, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.
Nghề sơn mài Việt Nam đã xuất hiện từ trước công nguyên cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, tuy phần kỹ thuật có khác. Năm 1932, nhờ một số giáo viên, sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nghề sơn đã được cải tiến với kỹ thuật đặc biệt, mở đường cho nghệ thuật sơn mài hiện nay. Đến nay đã trải rộng và phân bổ hầu khắp cả nước từ Bắc tới Nam trong đó, Nam Định đứng đầu về hàng sơn mài với mẫu mã, chất lượng tốt.
Mặt hàng sơn mài được sản xuất từ những nguyên liệu khá phong phú có sẵn tại Việt Nam đồng thời cũng đòi hỏi phải có sự khéo léo, cẩn thận và khả năng sáng tạo cao. Hàng sơn mài bao gồm chủ yếu là tranh sơn
mài, bàn nghế sơn mài, hộp đựng đồ trang sức, lọ hoa, đồ trang trí nội thất
... nói chung là các mặt hàng mang tính nghệ thuật cao dùng để trang trí. Đặc biệt khách nước ngoài rất ưa thích bát, đĩa sơn mài của ta với hoa văn giản dị, kiểu dáng lạ mắt ...
Quy trình làm hàng sơn mài gồm nhiều công đoạn phức tạp có đến
15 công đoạn từ tiện gỗ, tre làm cốt đến thể hiện đề tài và sơn phủ, đánh bóng. Nguyên liệu cho mặt hàng này cũng có nhiều loại như gỗ sơn, tre, vải, dầu hoả, vỏ trai, vỏ trứng, nhựa thông, vàng, bạc lá ... Các sản phẩm sơn mài cũng đa dạng như bàn ghế, bình phong, tủ , tranh...được làm theo nhiều kiểu như đắp nổi, khắc trũng, vẽ phủ, vẽ vàng... Sau một thời gian ngưng trệ vì nhiều lý do, đến nay sản phẩm sơn mài đã bắt đầu khôi phục. Hàng sơn mài đã được xuất nhiều qua châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật... không chỉ màu đen và marông như trước đây mà nay cải tiến nhiều màu, đáp ứng thị hiếu khách hàng
2.2 Hàng mây tre xuất khẩu, hàng thêu ren, hàng cói, ngô dừa, thảm các loại
Hàng mây tre. Từ những phương tiện sinh hoạt thường nhật trong mỗi gia đình Việt nam như rổ, rá để rửa rau vo gạo, đựng hoa quả hay đôi đũa, chiếc tăm dùng trong bữa ăn hàng ngày cho đến những bộ bàn ghế, kệ trang trí sang trọng ... đều không thể thiếu vắng mặt hàng mây tre. Xa hơn, hàng thủ công mỹ nghệ còn được xuất ra nước ngoài với những vật phẩm trang trí, thời trang như túi xách, làn mây đi chợ, lẵng hoa rồi những giá, rọ dùng để đựng và trang trí trong nhà...
Hàng mây tre xuất khẩu của Việt Nam ra đời nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng của con người. Đây là những mặt hàng dễ làm, dễ đào tạo thợ, nguồn nguyên liệu sẵn có lại cộng với một đội ngũ lao động đông
đảo đã góp phần tăng tỷ trọng đáng kể của hàng mây tre trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam. Việc tập trung sản xuất thành các vùng lớn tạo điều kiện thuận lợi triển khai nhanh các hợp đồng ngoại, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, vừa tạo điều kiện để phát triển cơ cấu vùng. Sự hình thành của các vùng sản xuất lớn, tập trung là do các vùng này sẵn có nghề truyền thống lâu đời và gần nơi cung cấp nguyên liệu. Chẳng hạn, hầu hết các cơ sở sản xuất hàng mây tre tập trung ở Hà Nội và Hà Sơn Bình và một số tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Đặc điểm của vùng này là đất chật, người đông, dư thừa lao động. Vì vậy họ phải duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống để đảm bảo cuộc sống. Mặt khác, các tỉnh này rất gần các vùng cung cấp nguyên liệu. Hầu hết các mặt hàng mây tre sử dụng nguyên liệu chính là từ các vùng rừng núi, trừ một số ít sử dụng mây hoặc bằng tre vườn.
Trước năm 1990, nhóm hàng này phát triển và xuất khẩu với khối lượng lớn (Năm 1989, công ty xuất khẩu mây tre Việt Nam đã xuất khẩu đạt kim ngạch gần 50 triệu USD). Tuy vậy, ngành hàng mây tre của Việt nam còn gặp nhiều khó khăn khi xuất khẩu: mẫu mã, kiểu dáng nghèo nàn kém sáng tạo và bị trùng lặp rất nhiều nên dễ gây cảm giác nhàm chán; khâu xử lý nguyên liệu chưa tốt dẫn đến tình trạng sản phẩm hay bị mốc và có độ bền kém; khâu tiếp thị cũng mang nặng tính thủ công và người sản xuất bị thua thiệt rất nhiều do qua nhiều khâu trung gian. Sơ bộ đánh giá kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 20-25 triệu USD/năm
Hàng thêu ren. Đây là một nhóm hàng mang đậm tính thủ công, sản xuất đòi hỏi sự cần cù, tinh tế và khéo léo. Từ đôi bàn tay tài hoa của người thợ, từng đường kim mũi chỉ đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị tạo hình, giá trị thẩm mỹ lưu truyền đến nhiều thế hệ sau. Có thể nói sản phẩm thêu ren rất đặc sắc do được làm hoàn toàn bằng phương pháp
thủ công: từ đóng khung, căng vải cho đến khâu thêu, đều không hề có sự tham gia của máy móc. Chính vì vậy, sản phẩm thêu rất đa dạng, phong phú, không sản phẩm nào giống sản phẩm nào hoàn toàn cho dù hoạ tiết thêu tương tự như nhau. Mỗi đường nét đều tinh xảo, uyển chuyển, mềm mại, sống động, mịn màng như những nét vẽ nó như được chắt lọc từ những tinh tuý của tâm hồn người nghệ nhân cũng như từ tinh hoa ngàn đời của đất làng nghề.
Sản phẩm chủ yếu của thêu ren là những bộ khăn trải bàn, ga gối, áo thêu, tranh thêu, rèm cửa, kimônô ... rất được người tiêu dùng ưa chuộng, đã và đang từng bước chinh phục thị trường Tây Âu, Đông Bắc Á, Bắc Mỹ... vốn là những thị trường khó tính, đòi hỏi yêu cầu cao như Nhật Bản, Pháp, Ý, Singapore .. và gần đây nhất là thị trường Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta phải sớm nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng các nước này, đa dạng hoá mẫu mã, đề tài, nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường.
Năm 2000, cả nước xuất khẩu trên 10 triệu USD chủ yếu sang Nhật, EU. Hàng thêu ren thổ cẩm là những mặt hàng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Tại Lào Cai, được tổ chức phi chính phủ Pháp – Mỹ giúp đỡ đã lập “Tổ sản xuất hàng thổ cẩm” ở Sapa, trong thời gian ngắn đã thu hút trên 200 lao động, sản xuất và tiêu thụ 30 nghìn sản phẩm (chủ yếu là bán cho khách du lịch nước ngoài – hình thức xuất khẩu tại chỗ). Tại làng Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận) có hàng trăm người chuyên dệt thổ cẩm của dân tộc Chăm rất nổi tiếng. Khách hàng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ đã đến tận nơi đặt mua hàng. Ở các tỉnh phía Bắc, dân tộc Thái, Mường đều có truyền thống dệt thổ cẩm, chúng ta cần có sự quan tâm đặc biệt về những loại sản phẩm này, không nên để mai một.
Hàng ngô, cói, dừa. Nhóm hàng này gồm các mặt hàng như chiếu, dép, thảm._., mành .. với nhiều kiểu dáng đẹp mang đậm tính văn hoá Á Đông và dân tộc Việt Nam. Nguyên liệu để sản xuất nhóm hàng này tập trung khá dồi dào ở các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long ... Trong số đó , phong phú về chủng loại phải kể đến các loại thảm với các nguyên liệu khác nhau như thảm bẹ ngô, thảm cói, thảm đay, thảm xơ dừa
... Đặc biệt là thảm len - nhóm hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, có giá trị cao, thu hút nhiều lao động của các thành phần kinh tế : Nhà nước, tập thể và tư nhân. Thảm len của ta được thị trường nước ngoài ưa chuộng vì chất lượng cao, giá lại thấp so với giá của các nước khác trên thế giới. (Mỗi năm sản xuất và xuất khẩu khoảng 3 triệu m2 thảm len)
Cói, ngô, dừa ... là những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm và không tốn nhiều chi phí khai thác như nhiều nguyên liệu khác. Vì thế mà chúng ta cần tập trung khai thác để sản xuất bởi chi phí cho nhóm hàng này không nhiều nhưng lại thu được lượng ngoại tệ khá cao.
Sản phẩm chiếu, dép, thảm, mành được xuất khẩu chủ yếu sang khu vực Đông Âu, Liên Xô và một số nước khác như Hồng Kông, Thuỵ Điển, Pháp , Ý, Canada ... Tuy nhiên những năm gần đây, tỷ trọng giá trị xuất khẩu nhóm hàng này liên tục giảm so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung. Nguyên nhân là do các thị trường nhập cói lớn như Đức, Hàn Quốc giảm lượng mua đáng kể, thêm vào đó là sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng của các doanh nghiệp Trung Quốc. Điều này cũng đặt ra nhiều thử thách với các làng nghề truyền thống cũng như các doanh nghiệp sản xuất hàng cói, ngô, đay ...
2.3 Hàng thủ công mỹ nghệ khác
Nhóm hàng này bao gồm nhiều mặt hàng khác nhau, tiêu biểu như các mặt hàng chạm khảm từ bạc, kim loại quý, gỗ quý và các loại mỹ nghệ khác. Trong nhóm này thường gồm những mặt hàng khó sản xuất, tốn nhiều thời gian và đòi hỏi trình độ cũng như sự sáng tạo cao. Đồng thời, đây cũng là những mặt hàng có giá trị nghệ thuật cao, đòi hỏi khách hàng phải là những người có thu nhập khá trở lên ...
Hàng gỗ mỹ nghệ với lực lượng nghệ nhân cha truyền con nối được đào tạo từ trường lớp và một số thiết bị vừa nhập khẩu, ngành này đã sản xuất được nhiều loại hàng: tranh tượng, sofa, bình phong, tủ... đẹp, bền với những đường nét chạm công phu, điêu luyện, lôi cuốn sự yêu thích của khách hàng. Khả năng xuất khẩu của ngành khoảng 80 triệu USD/năm qua các thị trường Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Trung Đông, Pháp...
Đặc biệt hàng gỗ chế biến là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn. Năm
1997, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ khoảng 28,7 triệu USD, đến năm 2000 đã tăng vọt lên hơn 65,2 triệu USD, bình quân một lao động trong ngành tạo ra giá trị xuất khẩu 2878 USD, tăng gấp 2,4 lần so với năm 1997.
Ngành chế biến gỗ có nhiều ưu thế về lực lượng lao động, có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm đòi hỏi cao về sự khéo léo, tinh xảo của người thợ mà máy móc khó có thể đạt được. Đây cũng là lợi thế cạnh tranh của ngành so với những nước khác trong khu vực.
Các cơ sở sản xuất mặt hàng này cũng không nhiều, tập trung nhất là
ở Thường Tín - Hà Tây, Đồng Kỵ - Bắc Ninh, và một số cơ sở ở Hà Nam,
Ninh Bình, Hải Phòng, Hà Nội ... và một số địa phương khác như Đồng
Nai, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Huế ...
3. Đặc điểm của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Có thể nói, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam đã thể hiện được những nét truyền thống văn hoá của người Việt cổ. Nghề thủ công mỹ nghệ đã có ở Việt Nam từ rất lâu và cùng với thời gian, ngành nghề này đang được mở rộng ra nhiều vùng trên khắp mọi miền đất nước. Với đông đảo đội ngũ nghệ nhân có tay nghề cao, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang hướng tới việc tạo ra các sản phẩm đẹp về màu sắc, hình dáng đồng thời phong phú về chủng loại, chất liệu nhằm không ngừng thoả mãn nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Giờ đây, hàng thủ công mỹ nghệ đang là một trong những nhóm sản phẩm xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.
Nói đến hàng thủ công mỹ nghệ, người ta không chỉ nghĩ đến mặt hàng tiêu dùng thông thường bởi nó chứa đựng tính chất nghệ thuật, mỹ thuật cao. Chính vì đặc thù của loại hàng hoá này nên không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể kinh doanh xuất khẩu mặt hàng này một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ phân tán. Đặc điểm này vừa có tính ưu điểm đồng thời lại không thể tránh khỏi những nhược điểm nhất định.
Ưu điểm:
- Đầu tư cho sản xuất thấp
- Thuận lợi cho việc huy động nguồn lao động dư thừa và nông nhàn
- Tăng thu nhập cho người lao động
Nhược điểm:
- Khó kiểm soát được chất lượng hàng hoá
- Phương tiện kỹ thuật cho sản xuất còn nghèo nàn, ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá
- Thu gom hàng hoá không được nhanh do sản xuất không tập trung, dễ ảnh hưởng đến thời gian giao hàng
Cuối cùng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam phải luôn gắn chặt với thị trường tiêu thụ, đặc diểm này thể hiện ở hai mặt sau:
- Sản xuất phải có thị trường
- Sản xuất phải theo yêu cầu thị trường.
Để có cái nhìn khái quát hơn sau đây chúng tôi xin đi sâu phân tích vào những đặc điểm sau của ngành nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
3.1 Đặc điểm sản xuất
Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được sản xuất chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, vẫn còn mang nặng tính sản xuất phụ gia đình (nông nhàn). Đặc điểm này cũng xuất hiện ngay cả tại các cơ sở sản xuất của Nhà nước cũng như của tư nhân. Do tính chất đặc thù của ngành hàng là sản xuất chủ yếu bằng tay, tỉ lệ làm bằng máy rất ít, chỉ có một số khâu chế biến nguyên liệu, tạo mẫu, tạo cốt mới có sử dụng máy như máy vò đạp tăm mành, máy chế song, mây, chẻ tăm, máy bào, máy cưa, máy tiện gỗ ... do vậy, những sản phẩm làm ra tuy độc đáo nhưng năng suất lao động thấp, chất lượng chưa đồng đều.
Nguồn nguyên liệu cung cấp để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ rất
đa dạng và phong phú, được khai thác trên mọi miền đất nước. Từ các loại
gỗ, tre, nứa, trúc, giang, song, mây, đay, cói, xơ dừa, dâu tằm tơ, lá bương, lá nón, bông chít đến nhựa cây Sơn Ta, đất sét, cao lanh .. đều rất sẵn có ở nhiều vùng, nhiều nơi. Đây là nguồn nguyên liệu chính để tạo nên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống. Có một số rất nhỏ nguyên liệu phải nhập ngoại như diêm sinh, phẩm, bột màu, sơn bóng, chỉ thêu, vỏ trai, vỏ ốc, men sứ ... nhưng không phải mặt hàng nào cũng cần đến những nguyên liệu này.
3.2 Đặc điểm tiêu dùng
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ nếu xét dưới góc độ giá trị sử dụng, không phải là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với con người trong việc ăn, mặc, ở, đi lại ... nó chỉ góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương, thêm sắc như một thứ gia vị. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ có thể phù hợp với người này nhưng lại không phù hợp với người khác, phù hợp ở thời điểm này nhưng không phù hợp ở thời điểm khác ... Vì thế, nó vừa được tiêu dùng rộng rãi vừa bị bó hẹp trong phạm vi không gian và thời gian. Xu thế đời sống con người ngày càng phát triển thì nhu cầu về tinh thần cũng ngày càng cao, nhờ vậy mặt hàng thủ công mỹ nghệ sẽ có cơ hội phát triển lớn hơn trong tương lai.
3.3 Đặc điểm về thương phẩm
Hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng khá “khó tính”, yêu cầu phải có sự bảo quản và vận chuyển rất cẩn thận do dễ bị ẩm mốc, mối mọt vì được làm bằng những chất liệu là thực vật (trừ hàng gốm, sứ). Nếu các nguyên liệu thực vật này được khai thác không đúng mùa vụ, không đủ độ tuổi và không được xử lý tốt, kịp thời sẽ bị mối mọt làm hư hỏng. Mặt khác, do tính chất hút ẩm cao nên các mặt hàng dễ bị mốc, ngay cả trong quá trình sản xuất, lưu kho và vận chuyển hàng ra nước ngoài.
Hàng thủ công mỹ nghệ còn là mặt hàng dễ hư hỏng, đổ vỡ, xây xát nhất là đối với những mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ, sơn mài ..., do đó yêu cầu về bao bì phải chắc chắn, chịu được vận tải đường dài, hàng phải được chèn lót, kê đệm, bao gói cẩn thận mới giữ được nguyên vẹn, tránh được khiếu nại về chất lượng.
Bên cạnh đó, hàng thủ công mỹ nghệ rất dễ bị ảnh hưởng bởi khí hậu: khí hậu khô hanh sẽ làm cho hàng thủ công mỹ nghệ dễ bị cong vênh, nếu khí hậu ẩm ướt lại dễ làm hàng bị ẩm, mốc. Vì vậy phải đảm bảo quy trình sấy khô nghiêm ngặt, chọn lựa kỹ lưỡng từng sản phẩm trước khi hoàn thiện đóng gói và giao hàng. Bên cạnh đó, để đảm bảo chất lượng hàng phù hợp với khí hậu của thị trường tiêu dùng cần phải có những tìm hiểu cặn kẽ về đặc điểm của mỗi khu vực.
Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ như hàng mây tre, gốm sứ, đồ gỗ chạm khảm rất cồng kềnh, giá cước có khi chiếm một nửa trị giá tiền hàng. Do đó, phần nào làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá, nhất là đối với thị trường xa Việt Nam.
II. VAI TRÒ CỦA HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Hàng thủ công mỹ nghệ từ lâu đã trở thành những sản phẩm gắn bó với cuộc sống con người. Xã hội càng phát triển, cuộc sống càng văn minh thì vị thế của sản phẩm thủ công mỹ nghệ càng được khẳng định và nâng cao. Xét về mặt kinh tế mà nói, đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đóng góp một phần thu ngoại tệ đáng kể và góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước. Mặt khác, việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi một lượng đầu tư ban đầu lớn, khắc phục được khó khăn của các làng nghề Việt Nam là thiếu vốn. Đối với
người lao động, sản xuất thủ công mỹ nghệ giúp tăng thu nhập ngoài thu nhập từ sản xuất nông nghiệp cho người nông dân. Đó là những lợi thế to lớn để có thể phát huy nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Xét về mặt xã hội, nghề thủ công mỹ nghệ là nghề truyền thống ở nước ta. Qua năm tháng, với đôi bàn tay khéo léo các nghệ nhân đã tạo ra cho đời những sản phẩm độc đáo mang bản sắc của quê hương. Hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta có mặt ở nhiều nơi trên thế giới và rất được sự quan tâm của bạn bè quốc tế. Chúng ta đã nhận thức đúng đắn và có chính sách phù hợp để phát triển mặt hàng này.
Mặt khác, thông qua hàng thủ công mỹ nghệ mà thế giới nhận thức và hiểu biết hơn nữa về văn hoá và con người Việt Nam. Với tài hoa của mình, người thợ đã khắc hoạ hình ảnh đất nước, văn hoá và con người Việt Nam trên mỗi sản phẩm góp phần đưa đất nước nhanh chóng hội nhập cùng thế giới.
1. Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện nay khá cao, vào khoảng 6,44% và con số này đặc biệt còn cao hơn ở các vùng nông thôn. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế nước ta hiện nay. Do vậy, xuất khẩu được mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng đã tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Việc dư thừa lao động do chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong thời gian đầu là một tất yếu. Tuy chưa có số liệu thống kê đầy đủ nhưng những năm qua đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động một cách đáng kể theo hướng giảm tỉ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và tăng tỉ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ.
“Nếu vào năm 2010 việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt kim ngạch 1,5 tỷ USD, hoặc cao hơn, thì đó là một chiến công lớn trong sự nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta. Nó sẽ làm đổi đời cho nhiều làng nghề, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động. Cứ xuất khẩu được một triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm cho 3000 đến
4000 lao động chuyên nghiệp và nông nhàn. Trong khi đó một triệu USD hạt điều xuất khẩu chỉ giải quyết được khoảng 400 lao động chuyên nghiệp”.
Tình trạng thiếu việc làm của ta hiện nay tập trung chủ yếu ở nông thôn do đất canh tác bình quân đầu người thấp 750 m2/người , ở miền Bắc là 400 m2/người nên số lượng lao động dư thừa và nhàn rỗi ở nông thôn rất cao. Chỉ trong thời gian mùa vụ mới huy động 100% lực lượng lao động còn trong thời gian nông nhàn, chỉ sử dụng khoảng 25%. Vào những thời gian đó, người nông dân thường làm một số nghề phụ để tăng thu nhập
hoặc họ có xu hướng bỏ ra các thành phố với hy vọng tìm được một công việc tạm bợ. Như vậy, thủ công mỹ nghệ phát triển ở các vùng nông thôn sẽ giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động nghèo, lao động nông nghiệp thiếu ruộng đất và những người bán thất nghiệp. Theo tính toán của các nhà chuyên môn, nếu xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì sẽ thu hút được 3000 đến 4000 lao động chuyên nghiệp. Do đó việc xuất khẩu được mặt hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa không những về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội, cân đối cơ cấu lao động giữa thành thị và nông thôn, giảm bớt được những vấn đề xã hội phát sinh do việc người lao động nông thôn tràn ra thành phố.
Thói đời “Nhàn cư vi bất thiện”, có nghề làm, có thu nhập sẽ hạnn chế nhiều tiêu cực, nhiều tệ nạn xã hội, góp phần làm lành mạnh hóa nông thôn, đặc biệt trong tầng lớp thanh thiếu niên, hướng họ vào sự nghiệp
chung, có ích, cùng nhau chung sức chung lòng, giữ gìn, xây dựng quê hương. Tạo thêm được công ăn việc làm cũng là một biện pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu nhất cho người lao động hiện nay. Đây cũng là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong vấn đề quốc kế dân sinh. Phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là biện pháp tích cực để góp phần thực hiện yêu cầu này, bởi nó sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho mọi tầng lớp lao động ở mọi lứa tuổi, không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn.
2. Sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước
Với điều kiện khí hậu, đất đai Việt Nam rất thuận lợi cho một số cây nhiệt đới phát triển như gỗ, mây tre, nứa, dừa ..., ngoài ra Việt Nam còn có một số loại đất đặc biệt dùng trong sản xuất gốm, sứ. Đây chính là nguồn tài nguyên lớn của đất nước. Việc khai thác nguồn tài nguyên này để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu giúp chúng ta sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên được thiên nhiên ưu đãi. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có giá trị gia tăng cao vì nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chủ yếu được sử dụng từ những nguyên liệu sẵn có trong nước. Đó là gỗ, tre, nứa, trúc, mây, giang, lá nón, bông, đay, cói, sợi dứa, vỏ dừa, vỏ ốc, vỏ trứng ... thậm chí là đất sét, đất bùn. Để có những nguyên liệu này phục vụ sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hầu như không tốn chi phí mua nguyên liệu bởi nó là nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như cây cối, thậm chí cả những vật dụng thừa trong sinh hoạt (vỏ dừa, vỏ trứng...).
Đây là một thế mạnh lớn, góp phần không nhỏ trong quá trình sản xuất, vì vậy chúng ta cần phải biết tận dụng khai thác một cách triệt để và có hiệu quả nhất. Nhưng khai thác được chưa đủ, mà còn phải khai thác có hiệu quả. Cần phải có những biện pháp bảo quản tốt nguồn nguyên liệu này
ngay từ khi bắt tay vào sản xuất cho đến khi sản phẩm đến được tay người tiêu dùng. Bởi lẽ, đa phần nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đều có nguồn gốc thực vật (trừ hàng gốm, sứ) nên rất dễ bị ẩm mốc, mối mọt ... Thêm vào đó, khí hậu nóng ẩm của nước ta cũng ảnh hưởng phần nào chất lượng và tuổi đời của sản phẩm.
Về những nguyên liệu thô chưa sử dụng được ngay, cần qua một số khâu chế biến gia công như nguyên liệu cung cấp cho sản phẩm gốm sứ, cần có kế hoạch khai thác hợp lý tránh tình trạng khai thác bừa bãi, chế biến thủ công .. vừa gây thất thoát tài nguyên, lại vừa khai thác cả những loại tài nguyên không đồng nhất, kém chất lượng. Những yếu kém của loại nguyên liệu này là do khai thác không đúng kỹ thuật, khai thác bừa bãi ... Do đó, nguyên liệu, phụ liệu cho sản xuất gốm sứ hiện nay còn rất thô sơ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cho các cơ sở sản xuất. Để nguồn nguyên liệu nói trên sử dụng có hiệu quả, chúng ta cần có sự quan tâm đầu tư vốn, trang thiết bị hiện đại cho việc nghiên cứu, tiến hành khai thác chế biến sản xuất.
3. Tăng thu ngoại tệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
Đến nay Việt Nam vẫn đang đứng trong danh sách các nước nghèo có thu nhập thấp trên thế giới. Vì vậy muốn tăng trưởng GDP theo đầu người để theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới thì phải huy động nhiều nguồn lực, phải tận dụng mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, trong đó đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng là một hướn đi đúng đắn, là biện pháp quan trọng để phát huy nội lực, góp phần tạo ra tiền đề vật chất quan trọng để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù đứng thứ tám về kim ngạch xuất khẩu năm 2000 với 235 triệu USD, nhiều người vẫn cho rằng số lượng đóng góp tuyệt đối của ngành hàng này quá thấp, mới chỉ đạt chưa đầy 3% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhưng nếu nhìn ở khí cạnh khác: Từ giá trị thực thu thì sự đóng góp của thủ công mỹ nghệ không nhỏ. Các ngành hàng dệt may, giầy dép, tuy kim ngạch thống kê cao nhưng ngoại tệ thực thu lại thấp, chỉ chiếm khoảng
20% giá trị xuất khẩu, vì nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính giá trị thực thu còn thấp hơn nữa, khoảng 5-10%. Trong khi đó, hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm trong sản phẩm thấp: 3-5% giá trị xuất khẩu. Vì vậy giá trị thực thu xuất khẩu hàng thủ công rất cao: 95-97%. Và như vậy, với 235 triệu USD xuất khẩu năm 2000, giá trị thực thu hàng thủ công mỹ nghệ tương đương với giá trị thực thu xuất khẩu 1140 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Điều này cũng có nghĩa là nếu chúng ta tăng thêm giá trị xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tương đương với tăng giá trị xuất khẩu 4,7 triệu USD hàng dệt may. Mặt khắc để thu về (thực thu) 1 tỷ USD hàng dệt may, Nhà nước và doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản đầu tư không nhỏ cho dây chuyền sản xuất, hạ tầng cơ sở, đào tạo nhân lực, giải quyết các chính sách với người lai động... Trong khi đó khoản đầu tư với hàng thủ công mỹ nghệ sẽ ít hơn rất nhiều do sản phẩm thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi đầu tư nhiều máy móc (chủ yếu làm bằng tay), mặt bằng sản xuất có thể phân tán trong các gia đình và sự đầu tư chủ yếu của dân.
Theo kinh nghiệm các quốc gia đang phát triển (NICS), để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, bước đầu ta cần có một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà ta có thế mạnh để xuất khẩu thu ngoại tệ. Dùng số ngoại tệ thu được
nhập khẩu máy móc, trang thiết bị để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Căn cứ vào tiềm năng của nước ta, ngoài dầu thô, than đá, thuỷ sản, gạo và cà phê thì hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào danh mục hàng xuất khẩu chủ lực. Bởi lẽ mặt hàng này có khả năng sản xuất trong nước với khối lượng lớn, hơn nữa có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và có kim ngạch xuất khẩu cao. Vì vậy, phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là phương pháp đem lại lượng ngoại tệ lớn để phục vụ tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay.
4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
Tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngày càng tăng lên, theo đó tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm đi. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở sự chuyển dịch lao động và thu nhập
Chuyển dịch lao động. Lao động trong các ngành nghề rất khó phân biệt một cách rõ ràng, bởi họ tham gia vào các ngành nghề có sự đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, nếu như trức đây nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu và thu hút hầu hết lao động thì hiện nay, thì hiện nay với sự phát triển mạnh của làng nghề, nông nghiệp đã mất đi thế áp đảo và nhường chỗ cho công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Do thu nhập cao, các làng nghề đã trở thành nơi tiêu thụ nhiều loại sản phẩm hàng hóa tiêu dùng và xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nông thôn.
Người dân nông thôn vốn chỉ làm nông nghiệp, chủ yếu quanh quẩn trong lũy tre làng, ít có điều kiện giao lưu, tiếp cận với bên ngoài. Làng nghề ra đời và phát triển tạo điều kiện thúc đẩy sự thay đổi bộ mặt nông thôn. Từ hoạt động kinh doanh của làng nghề tạo nên nhu cầu giao lưu, đòi
hỏi làng nghề phải có bộ mặt mới, văn minh hiện đại, dễ thu hút khách hàng. Để duy trì cho làng nghề của mình tồn tại và phát triển, buộc người làm nghề phải bươn trải ra bên ngoài, tìm kiếm nguồn nguyên liệu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Đồng thời khách bên ngoài tìm đến làng nghề ngày càng nhiều để trao đổi sản phẩm. Thông qua các mối quan hệ đó, sự giao lưu ngày càng thắt chặt hơn, thường xuyên hơn.
Chuyển dịch thu nhập. Từ nhiều năm nay, phát triển nghề thủ công vẫn là hướng chủ yếu và thiết thực nhất để xóa đói, giảm nghèo và cải thiện đời sống nông thôn. Ngay từ khi các nghề thủ công còn được gọi là “nghề phụ” thì nó đã trở thành “thu nhập chính” cho nông dân trong nhiều làng nghề. Việc phát triển xuất khẩu hàng thủ công càng làm tăng nhanh thu nhập của các làng nghề, bộ mặt các làng nghề thay đổi từng ngày. Vùng nghề chuyên sản xuất hàng xuất khẩu trở thành những trung tâm sầm uất và giàu có.
Qua điều tra tại một số làng nghề cho thấy mức thu nhập bình quân chênh nhau khá xa. Nhìn chung, đời sống của dân trong làng nghề cao hơn hẳn dân trong các làng nông nghiệp. Ngoài thu nhập từ nông nghiệp, họ còn có thu nhập từ nghề thủ công. Mức thu nhập từ nghề thủ công khác nhau theo từng loại làng nghề và theo từng loại nghề. Nhiều gia đình có mức thu nhập bình quân từ 1 triệu đồng trở lên, hoặc thu nhập cá biệt tới chục hay hàng trăm triệu đồng một lần khi ký được hợp đồng lớn. Cùng với sự phát triển sản xuất, tỷ trọng thu nhập từ các nghề thủ công ngày càng tăng, số hộ giầu tăng nhanh, số hộ nghèo giảm đi rõ rệt.
5. Duy trì bản sắc văn hoá dân tộc
Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu về vật chất mà còn thể hiện tính nhân văn, tính văn hoá nghệ thuật của con
người, mảnh đất làm ra nó. Các nghệ nhân Việt Nam với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa đã tạo ra ngày một nhiều hơn các sản phẩm độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. Những hình ảnh mang đậm phong cách làng quê Việt Nam như cánh cò, luỹ tre làng, phiên chợ quê, chiều Tây Bắc hay cô gái tát nước đầu đình ... ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên những sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ra nước ngoài. Có thể nói, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam không chỉ góp phần duy trì, bảo tồn nền văn hóa truyền thống của dân tộc mà còn giới thiệu văn hoá Việt Nam cho bạn bè quốc tế gần xa.
Chính vì vậy, việc hỗ trợ các làng nghề thủ công phát triển cũng là một đòi hỏi bức xúc, cấp thiết bởi nó không chỉ là giữ gìn một ngành nghề truyền thống mà còn có ý nghĩa giữ gìn một bản sắc văn hoá người Việt ngàn năm văn hiến.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN: THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
-----------
I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở
VIỆT NAM
1. Tình hình xuất khẩu thời gian qua
Từ thế kỷ 11, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã đựoc xuất khẩu qua cảng Vân Đồn, Vạn Ninh. Trải qua bao bước thang trầm đến sau ngày đất nước thống nhất (1975), xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của mình. Bình quân trong 10 năm (1976-
1985) hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 40% giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đỉnh cao năm 1979 chiếm 53,4%. Xuất khẩu đã thổi một luồng sinh khí vào các làng nghề truyền thống như sơn mài Hạ Thái (Hà Tây), chạm khắc gỗ Vân Hà, thêu ren Sơn Tây, thảm len Tràng Kênh (Hải Phòng), gốm Bát Tràng, Thổ Hà, gốm sứ Bình Dương, Đồng Nai, chiếu cói Kim Sơn, đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng), tranh thêu Đà Lạt... Trong những năm 80, với chính sách khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, chủ yếu là với các nước trong khu vực xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Cho đến trước năm
1990, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của ta chủ yếu bao gồm: các loại thảm len, thảm đay, thảm cói, chiếu cói, hàng mây tre đan, mành trúc , mành cọ, hàng thêu ren, khăn trải giường, áo thêu... Đại bộ phận các hàng hóa này được xuất khẩu sang thị trường các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Kim ngạch xuất khẩu có năm đạt gần 250 triệu Rúp/USD (chủ yếu là Rúp), chiếm tỷ trọng 33,7% kim ngạch xuất khẩu của cả nước (1985), đặc biệt có năm tỷ trọng lên tới 53,4% (1979).
Đến những năm đầu của thập kỷ 90, do thị trường xuất khẩu truyền thống của ta bị đột ngột thu hẹp, thêm vào đó là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước đã làm sức sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bị
giảm sút nghiêm trọng, tác động mạnh và ảnh hưởng xấu đến việc làm và thu nhập của người lao động trong ngành này. Sau một số năm lao đao tìm kiếm thị trường mới và tổ chức lại sản xuất để thích nghi với cơ chế thị trường, dần dần chúng ta đã tìm ra lối thoát, đầu ra cho các ngành nghề này phát triển và từ năm 1995 thủ công mỹ nghệ đã bước vào thời kỳ mới, dần tái khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế.
Theo thống kê của Bộ Thương mại, đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công nghiệp Việt Nam đã tăng gấp 3 lần so với năm 1996 - theo nhiều chuyên gia nhận định - đây là một bước phát triển nhảy vọt, nhất là trong khi kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước chỉ tăng có 2 lần.
Trên đà phát triển như vậy, mục tiêu đến năm 2005 được nhà nước ta đặt ra là 900-1.000 triệu USD (trong đó, đồ gỗ gia dụng khoảng 350- 400 triệu USD), với tốc độ tăng bình quân 25%/năm. Tuy nhiên, kết quả trong 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chỉ đạt non 114,3 triệu USD, giảm sút 16% so với cùng kỳ năm trước. Vậy con số mục tiêu 1,5 tỷ USD vào năm 2010 liệu có đạt được không, câu hỏi này không chỉ phụ thuộc vào các doanh nghiệp trong ngành mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác.
Vào thời kỳ cuối 1980 ta đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô, gạo với khối lượng tương đối lớn và hàng công nghiệp nhẹ xuất khẩu cũng tăng trưởng nhanh ( may mặc, thực phẩm chế biến, gia công mũ giày... ), nên tỷ trọng nhóm hàng thủ công nghệ giảm đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Bình quân trong thời kỳ 1986-1990 , tỷ trọng cả hàng công nghiệp nhẹ và hàng thủ công chỉ còn 29,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời kỳ này có năm đạt khá cao ( gần 250 triệu Rúp/USD ) nhưng chủ yếu là tính giá
bằng Rúp theo giá hình thành không thay đổi trong thời gian dài nên nếu xét về thực chất, giá này thường cao hơn thời giá cùng loại xuất sang thị trường ngoại tệ tự do chuyển đổi từ 1,5 đến 2 lần. Do đó trị giá thực của kim ngạch xuất khẩu tính bằng USD cũng chỉ khoảng 130-150 triệu USD/năm.
Sau khi mất thị trường Đông Âu và Liên Xô năm 1991, hàng thủ công mỹ nghệ đã trải qua bao gian truân vất vả trong cơ chế mới để tổ chức lại sản xuất kinh doanh, chuyển đổi thị trường, tìm kiếm và xây dựng lại quan hệ bạn hàng. Nhờ sự đổi mới tích cực đó mà 4 năm trở lại đây, nhóm hàng này trở lại thời kỳ hoàng kim. Liền hai năm 1999 – 2000 được liệt vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng cao nhất.
Năm 1997, theo thống kê của Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 121 triệu USD. Trong đó trên 50% là hàng gốm sứ mỹ nghệ ( khoảng 62 - 63 triệu USD ) và khoảng 25% là hàng gỗ mỹ nghệ ( 30 triệu USD ), bao gồm các loại hàng như : tranh, tượng gỗ, hàng sơn mài, đồ gỗ chạm, khảm... Năm 1998, do khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực, kim ngạch xuất khẩu giảm chỉ đạt 111 triệu USD. Năm 1999, chín tháng đầu năm đã xuất khẩu 118 triệu USD, cả năm đạt 168 triệu USD, tăng 51,28 % so với năm 1998.
Kim ngạch xuất khẩu trên đây chưa tính đến đồ gỗ gia dụng, đây cũng là những mặt hàng thủ công ( tuy trong sản xuất có một số khâu sử dụng thiết bị máy mọc công nghiệp, chủ yếu là trong khâu xử lý nguyên liệu như trong một số ngành nghề thủ công khác ). Nhóm hàng này năm
1997 đã đạt kim ngạch xuất khẩu gần 70 triệu USD, năm 1998 do gặp khó khăn kim ngạch giảm chỉ còn gần 60 triệu USD. Với chủ trương cho nhập
khẩu thêm nguyên liệu gỗ để sản xuât, nhóm hàng này có khả năng tăng xuất khẩu nhanh.
Nếu tính nhóm hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm cả đồ gỗ gia dụng thì kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này năm 2005 có thể dự đoán đạt khoảng 900 - 1000 triệu USD. Đây là con số đáng khích lệ, có nhiều ý nghĩa chính trị - kinh tế - xã hội, nhất là trong điều kiện xã hội ta hiện nay còn thiếu nhiều việc làm. Với kim ngạch 900 - 1000 triệu USD, tương đương với xuất khẩu 4 triệu tấn gạo, nhóm hàng này vẫn thuộc 10 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất hiện nay, mặc dù tỷ trọng nhóm hàng này chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu năm 1998 hàng thủ công mỹ nghệ mới có mặt ở khoảng 50 nước thì năm 2000 đã lên tới gần 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường với sức mua lớn và ổn định như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Âu, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hôngkông, Hàn Quốc... Dẫn đầu kim ngạch là nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ (100 triệu USD), mây tre đan (70 triệu USD), đồ gỗ mỹ nghệ (20 triệu USD), thêu ren thổ cẩm (20 triệu USD), thảm các loại (15 triệu USD)...
Theo số liệu của Bộ thương mại, trong 5 năm 1996-2000, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đã có bước phát triển khá tốt. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mới chỉ đạt 78,6 triệu USD sang 70 thị trường, nhưng đến năm 2000 đã tăng lên đến 236,8 triệu USD với 120 thị trường (tăng gấp 3 lần so với năm 1996). Đây là những dấu hiệu đáng mừng bởi hàng thủ công mỹ nghệ của ta không chỉ tăng được về mặt số lượng hàng xuất khẩu mà còn đạt được bước đột phá mới về thị trường tiêu thụ. Với kết quả ấy, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được xếp trong 10 nhóm mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch hàng năm trên 100 triệu USD của Việt
Nam hiện nay, sau các nhóm mặt hàng: Dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, gạo, hải sản, cà phê, máy vi tính và linh kiện lắp ráp.
Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2001, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã giảm sút, chỉ đạt 114,3 triệu USD, giảm gần 16% so với cùng kỳ năm trước, trong khi xuất khẩu chung của cả nước tuy gặp khó khăn nhưng vẫn tăng trưởng với tốc độ trên 15% ... Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ năm 2001 cũng chỉ đạt mức 237 triệu USD - con số không khả quan lắm nếu nhìn vào kim ngạch xuất khẩu năm 2000. Những con số thống kê trên cho ta thấy mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định, song việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta vẫn chưa đạt tới trình độ phát triển vững chắc.
Hiện tượng sụt giảm trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân: do mẫu mã sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam hiện còn đơn điệu, ít sáng tạo mẫu mã mới; do vẫn còn manh mún trong sản xuất nên chưa đủ khả năng xuất ._.thủ công mỹ nghệ của Việt Nam như kiểu dáng, mẫu mã, tiêu chuẩn, chất lượng, những quy định về xuất nhập khẩu, phương thức bán hàng ... để có những thay đổi linh hoạt cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện thị trường Nhật Bản.
+ Nghiên cứu những nhu cầu mới phát sinh của thị trường Nhật Bản để có thể mở rộng hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực mới nếu được Nhà nước cho phép.
+ Nghiên cứu tiềm năng bán hàng của các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới, phân tích các kênh bán hàng, giá cả, mẫu mã, quảng cáo .. để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Từ đó
đưa ra những kết luận bổ ích cho việc xâm nhập thị trường Nhật Bản ngày càng dễ dàng hơn sau này.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu về sự biến động nhu cầu đối với hàng thủ công mỹ nghệ và những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động đó để có chính sách xuất khẩu phù hợp. Thông thường có thể thấy các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động nhu cầu này bao gồm:
Nhân tố có tính chu kỳ làm dung lượng thị trường biến đổi như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, tính chất thời vụ trong sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá.
Nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như sự tiến bộ
của khoa học công nghệ, tập quán tiêu dùng, các hàng hoá thay thế.
Nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như sự đầu cơ, chiến tranh, hạn hán, bão lụt, các xung đột chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường kinh tế, môi trường văn hoá và môi trường cạnh tranh. Do sản phẩm thủ công mỹ nghệ không thuộc nhóm các nhu yếu phẩm nên chỉ ở những nước có nền kinh tế tương đối phát triển như Nhật Bản, người tiêu dùng mới quan tâm đến các sản phẩm mang tính nghệ thuật trang trí. Tuy nhiên, ở mỗi nước, đặc điểm về văn hoá, lối sống, thị hiếu người tiêu dùng lại rất khác nhau nên doanh nghiệp cần nghiên cứu, nắm bắt được đặc điểm của thị truờng Nhật Bản khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường rất “kén chọn” này. Ngoài yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất cần đặc biệt chú ý đến việc tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nét
đặc trưng về văn hoá của người tiêu dùng Nhật Bản. Chẳng hạn như đồ gốm sứ, người Nhật đánh giá cao đồ gốm sứ mang phong cách châu Á với màu trắng, hoa văn đơn giản, kiểu dáng cổ ... chứ không ưa chuộng màu sắc sặc sỡ, kiểu dáng hiện đại khoáng đạt.
Đặc biệt, cần tìm hiểu rõ tình hình cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản để xem xét khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp. Do năng lực cạnh tranh chưa cao, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể lựa chọn thâm nhập vào các thị trường ngách (niche market) là những thị trường, nhóm khách hàng hoặc sản phẩm có nhu cầu mà các doanh nghiệp lớn không để ý tới để khai thác triệt để, bán được nhiều hàng hơn, tăng thu lợi nhuận. Sau đó, doanh nghiệp cần nghiên cứu môi trường bên trong của mình để xem xét khả năng sản xuất sản phẩm của mình: khả năng cung ứng nguyên liệu, nguồn nhân công, khả năng tài chính ... Từ đó, xây dựng kế hoạch xuất khẩu sao cho tận dụng được tối đa các nguồn lực của mình.
2.3. Xây dựng chính sách giá như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu
Từ trước đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường chỉ lựa chọn chính sách giá phù hợp với giá trên thị trường chứ chưa sử dụng nó như một công cụ cạnh tranh. Điều này khiến cho giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào sự biến động của thị trường xuất khẩu, đôi khi không đem lại doanh thu và lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp. Để xây dựng một chính sách giá hiệu quả, trước hết doanh nghiệp cần căn cứ vào mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, xâm nhập thị trường, tập trung xuất khẩu số lượng lớn hay mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là xâm nhập thị trường, doanh
nghiệp nên bán với giá hợp lý để hấp dẫn thu hút khách hàng. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp cần tính toán sao cho sản phẩm được bán với giá có lợi nhất để thu lợi nhuận tối ưu. Đồng thời, đối với từng loại sản phẩm, doanh nghiệp cũng nên có chính sách giá thích hợp. Với những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế, chúng ta có thể xuất khẩu với giá cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh. Với những sản phẩm tương tự sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, giá xuất khẩu phải ngang bằng thậm chí thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh mới có thể tiêu thụ được do khả năng cạnh tranh của chúng ta kém hơn họ.
2.4 Lựa chọn tham gia hội chợ triển lãm quốc tế về hàng thủ công mỹ
nghệ phù hợp
Trong các hình thức để thông tin tới khách hàng về doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp như: quảng cáo, tham dự hội chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ với công chúng ... các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thường lựa chọn hình thức tham gia hội chợ triển lãm. Thông qua hội chợ như vậy, doanh nghiệp có thể thông tin kịp thời cho đông đảo khách hàng để họ nhận diện được sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời tìm hiểu sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, và nhất là ký kết các hợp đồng xuất khẩu, tìm bạn hàng mới. Tuy nhiên, với điều kiện hạn chế về kinh phí, việc tham dự hội chợ triển lãm đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là rất tốn kém lại chỉ diễn ra trong thời gian ngắn.
Doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nên tham gia các hội chợ quốc tế về hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức định kỳ hàng năm ở Nhật, là những hội chợ có uy tín, tập trung đầy đủ các nhà cung ứng hàng thủ công mỹ nghệ lớn và các nhà trung gian mua bán hàng có uy tín trên
thế giới. Đối với mỗi hội chợ triển lãm, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu của mình khi tham gia và chuẩn bị thật chu đáo cho hội chợ triển lãm đó. Trong thời buổi cạnh tranh cao, việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Hiện nay lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, hơn nữa lại có nhiều người Nhật đang sống và làm việc tại Việt Nam nên việc tăng cường tiếp thị tại chỗ qua các cửa hàng bán lưu niệm tại những điểm du lịch hoặc cửa khẩu cũng là một biện pháp tốt tạo tiếng vang cho sản phẩm.
Cuối cùng, một công việc rất quan trọng là đánh giá hiệu quả tham gia hội chợ triển lãm của doanh nghiệp sau khi kết thúc hội chợ triển lãm, qua đó rút kinh nghiệm cho lần tham gia sau. Đôi khi đây là công việc quyết định sự thành công của doanh nghiệp trong lần tham gia hội chợ triển lãm sắp tới, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam lại rất hay bỏ qua công tác này. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa thu được kết quả như ý muốn khi tham gia hội chợ triển lãm.
2.5 Mở rộng nhiều hình thức kinh doanh hàng xuất khẩu
Hàng thủ công mỹ nghệ thường được bán theo từng lô hàng nhỏ, hợp đồng nhỏ. Nhiều khách hàng nước ngoài, nhất là khách mới, muốn mua những lô hàng nhỏ để bán thử trên thị trường, không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay. Để có thể tân dụng được mọi đối tượng khách hàng, đề nghị cho phép các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này, tùy theo phương thức bán hàng trả chậm, phương thức gửi bán hoặc phương thức đại lý ở nước ngoàI có sự bảo lãnh tín dụng của ngân hàng hoặc của quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
2.6 Sử dụng mạng Internet để trao đổi, tìm kiếm thông tin về sản phẩm thủ công mỹ nghệ giữa ta và bạn hàng quốc tế
Trước đây, việc giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu bằng hiện vật, tờ rơi, thư tay... thường tốn nhiều thời gian, chi phí và đôi khi lại không đem lại hiệu quả cao. Ngày nay, các doanh nghiệp có thể ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình cho đông đảo khách hàng một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn bằng cách mở trang Web của riêng mình. Thông qua các trang Web, doanh nghiệp có thể giới thiệu với khách hàng những thông tin mới nhất về sản phẩm của mình kèm theo hình ảnh giới thiệu các mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ để khách hàng lựa chọn, đồng thời cung cấp những chi tiết cần thiết cho việc ký kết hợp đồng để khách hàng có thể quyết định việc ký hợp đồng ngay lập tức hoặc đàm phán thêm thông qua thư điện tử ... giao thức này vừa nhanh chóng, vừa tiết kiệm được chi phí đi lại cho mỗi bên, đem lại hiệu quả cao cho hợp đồng xuất khẩu.
Nhiều khi, thông tin về thị trường, chính sách của Nhà nước là rất quan trọng, có khi quyết định sự thành bại cho các thương vụ của doanh nghiệp. Vì vậy, chúng ta nên xây dựng các trang Web hoặc các văn phòng cung cấp thông tin tại các tỉnh thành.
Ngày 7.11.2001 vừa qua, "Mạng điện tử hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam" chính thức khai trương nhằm giới thiệu và bán hàng hoá Việt Nam (chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ) cho người tiêu dùng Nhật Bản. Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) dưới sự chỉ đạo và hợp tác của Bộ Kinh tế thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI) và Bộ Th- ương mại Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam (VIETRADE) đã
tiến hành xây dựng mạng thương mại điện tử thí điểm nhằm phổ cập hình thức thương mại điện tử vốn chưa được phát triển giữa hai nước.
Mục đích của chương trình thử nghiệm này là thông qua việc đặt mua hàng qua mạng có tính chất thí điểm của người tiêu dùng Nhật Bản để phát hiện và nắm chắc những điểm cần lưu ý và những vấn đề còn tồn tại để từ đó xây dựng quan hệ thương mại điện tử giữa hai nước ngày càng hiệu quả hơn. Địa chỉ trên mạng: Có 19 công ty, doanh nghiệp của Việt Nam được lựa chọn tham gia chương trình này. Các mặt hàng giao dịch: Gồm 200 mặt hàng, chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Mục đích chủ yếu là thông qua việc đặt mua hàng qua mạng của người tiêu dùng Nhật Bản nhằm kiểm chứng một số vấn đề sau: Tạo mô hình kinh doanh mới (tìm chọn doanh nghiệp, hàng hoá có thể giao dịch, vấn đề xây dựng và hạch toán giá thành...); Cách xây dựng và vận hành mạng (thiết lập hệ thống và xây dựng trang Web, quản lý việc đặt và giao hàng, vấn đề an ninh trên mạng...); Việc giao nhận vận chuyển (quản lý và vận hành việc giao nhận trên mạng ra sao...); Vấn đề thanh toán (cách quản lý và vận hành việc thanh toán trong thương mại điện tử như thế nào...).
Cũng trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ của JETRO, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có thể tiếp cận Chương trình Khuyến khích thắt chặt thương mại (TTPP) qua mạng Internet để tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Nhật Bản. TTPP sẽ cung cấp thông tin về các
điều kiện kinh doanh, các dịch vụ sưu tra và danh sách các công ty Nhật Bản có nhu cầu đặt hàng thủ công mỹ nghệ tại địa chỉ trang web Được biết, JETRO đang phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh tiến hành thiết lập trang Web về thị trường Nhật Bản. Trang Web này về có chức năng cung cấp các báo cáo thị trường về các ngành hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép.
2.7 Doanh nghiệp xuất khẩu và cơ sở sản xuất cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó
Sản xuất là đầu vào của xuất khẩu, nhưng thông thường người sản xuất không được tiếp xúc với khách hàng nên những thông tin về thị hiếu tiêu dùng của khách hàng họ không nắm bắt được và họ cũng không biết được ý kiến của khách hàng đánh giá về sản phẩm họ làm ra. Điều này chỉ có thể thông qua công tác đối ngoại của doanh nghiệp hoặc các cơ quan chức năng xúc tiến thương mại.
Vì vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu và người sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt. Giúp ngừời xuất khẩu nắm rõ tiềm năng sản xuất để chắp nối với thị trường nước ngoài. Đồng thời cung cấp kịp thời cho người sản xuất thị hiếu của khách hàng, định hướng mặt hàng, định hướng thị trường, yêu cầu chất lượng, giúp cơ sở đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu thị trường nước ngoài. Thực tế trong kinh doanh,
những doanh nghiệp xuất khẩu nào kết hợp tốt với người sản xuất thì khả
năng thành công cao hơn rất nhiều.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp dù kinh doanh trên bất cứ lĩnh vực nào cũng đều chịu sự định hướng, chỉ đạo giám sát của các cấp quản lý vĩ mô. Sự chỉ đạo này có thể tích cực (thúc đẩy) cũng có thể tiêu cực (kìm hãm) đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý vĩ mô đối với hoạt động xuất nhập khẩu có thể thấy trên các mặt: hệ thống thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính, chính sách khuyến khích xuất khẩu.... Trong thời gian trước mắt, để khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, Nhà nước nên xem xét và giải quyết các vấn đề sau:
*/ Hoàn thiện các chính sách về xuất nhập khẩu và thuế áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ xuất khẩu
Mặc dù cơ chế mới làm cho vấn đề thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn giản hơn nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thủ tục phiền hà cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp: việc miễn thu lệ phí hải quan đối với hàng xuất khẩu vẫn chưa được thực hiện, doanh nghiệp xuất hàng vào ngày thứ bẩy, chủ nhật hoặc ngày lễ phải làm đơn xin làm thủ tục ngoài giờ gây khó khăn, tốn nhiều thời gian của doanh nghiệp ... Nhà nước cần nhanh
chóng phối hợp với Tổng cục Hải quan để nhanh chóng giải quyết những vướng mắc trên, tạo hành lang thông thoáng, thuận tiện nhất có thể cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhiều đơn vị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn gặp khó khăn do qui định của Chính phủ về thời gian nhập nguyên liệu và xuất thành phẩm. Theo qui định này, nếu trễ thời hạn 3 tháng, doanh nghiệp phải đóng thuế bằng 40% giá trị lô hàng nhập. Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp thường mất một tuần để làm thủ tục lấy hàng và nhiều khi không thể tổ chức sản xuất ngay lập tức số nguyên liệu đã nhập. Kết quả là doanh nghiệp chưa kịp xuất khẩu đã phải chịu thuế.
Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở văn bản Nhà nước cũng nên xem xét việc ưu tiên hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu áp dụng chế độ “luồng xanh” (miễn kiểm hoá, tự chịu trách nhiệm) bởi đây là nhóm hàng làm bằng phương pháp thủ công, chất lượng hàng rất dễ bị ảnh hưởng trong quá trình kiểm hoá. Hải quan cũng cần có biện pháp thông thoáng khi kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu có uy tín, vì hàng thủ công mỹ nghệ rất cồng kềnh, nhưng giá trị thực ra không nhiều.
Về chính sách thuế, theo một số chuyên gia kinh tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa đơn giản, vừa phức tạp và mức thuế suất đối với một số mặt hàng chưa hợp lý. Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được Nhà nước khuyến khích sản xuất và xuất khẩu nhưng vẫn áp dụng mức thuế 5% khi xuất khẩu là chưa hợp lý, Nhà nước cần xem xét giảm mức thuế này xuống còn 0%, đồng thời giải quyết nhanh chóng việc hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho nhà sản xuất.
Đối với hàng xuất khẩu tại chỗ (bán cho khách nước ngoài vào Việt Nam công tác và du lịch) cũng được coi là hàng xuất khẩu và được hưởng thuế giá trị gia tăng 0% tức là cũng được khấu trừ hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào. Các doanh nghiệp cũng đề nghị giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống còn 25%. Nếu những khó khăn này được giải quyết, các doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm do đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Ngoài ra, do đặc điểm nguyên liệu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thường phải đi mua dưới dạng thu gom, số lượng rất nhỏ, giá trị thấp nhưng ngành thuế đòi hỏi một cách máy móc phải có bảng kê chi tiết nguyên liệu đầu vào. Nếu không đơn giản hoá thì vô hình trung sẽ hợp thức hoá những tiêu cực cho một số thủ tục không cần thiết.
*/ Xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là hai nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. Do vậy, vấn đề quan trọng là Chính phủ cần có biện pháp để ổn định giá hàng hoá, ổn định trị giá đồng nội tệ và có tỷ giá hối đoái hợp lý, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ nên xem xét việc áp dụng chính sách tỷ giá cao đối với mặt hàng khuyến khích như hàng thủ công mỹ nghệ nhằm tăng thu lợi nhuận, khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
*/ Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng
Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay là cơ chế và thanh toán, vay vốn qua ngân hàng. Phần lớn cơ sở vật chất của nhiều doanh nghiệp đều nghèo nàn không thể thế chấp trong vay vốn để kinh doanh, dẫn đến chậm trễ trong thanh toán, thiệt hại cho doanh nghiệp và cả người lao động. Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng, tín dụng, thanh toán để tạo điều kiện dễ dàng cho cả phía Việt Nam lẫn bạn hàng nước ngoài giao dịch, thanh toán một cách nhanh chóng. Đặc biệt, các ngân hàng cần mở rộng nhiều hình thức thanh toán ở nhiều địa điểm khác nhau, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
*/ Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
Để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tiếp cận thuận lợi hơn với nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, song mây, tre lá... đề nghị cho áp dụng một số chính sách biện pháp sau:
Đối với gỗ nguyên liệu được khai thác từ các rừng tự nhiên được các bộ ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gia hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa phương quản lý (trên cơ sở hạn mức chung do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt), đề nghị ưu tiên cho các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hoạt động đó thì mới được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau. Tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm.
Đối với các nguyên liệu khác như song, mây, tre, lá... các đơn vị khai thác cho sản xuất hàng xuất khẩu kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ
xuất khẩu (giao đất, giảm tiền thuê đất hoặc tiền thuê sử dụng đất... ). Tại Philippines, Chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty tư nhân lập nông trường mây rất hiệu quả.
Nhà nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung cấp cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như nguyên liệu gỗ, nguyên liệu sản xuất gốm sứ... vì các cơ sở sản xuất thường không đủ vốn và kỹ thuật để đầu tư. Nguyên liệu khai thác, xử lý đúng quy trình sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm, tăng thêm độ bền, tính hấp dẫn của hàng hóa.
*/ Giảm bớt tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích giảm giá thành
Hàng thủ công mỹ nghệ thường là hàng cồng kềnh, giá trị không cao (xuất khẩu một cont. 40 feet hàng mây tre đan thường chỉ được 7 – 8 ngàn USD theo giá FOB) nên cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho mặt hàng này:
Hàng thủ công mỹ nghệ được vận chuyển từ nơi sản xuất đến các cảng khẩu trên tất cả các phương tiện đều được hỗ trợ 30 – 50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm.
Giảm 50% theo biểu giá hiện hành cho tất cả các chi phí, lệ phí tại các cảng khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu (từ việc lưu kho lưu bãi, gửi hàng, lệ phí cảng khẩu, thủ tục phí... )
Giảm 50% theo biểu giá cước hiện nay tiền cước phí bưu phí là hàng mẫu hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc hàng mẫu tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài.
*/ Chính sách đối với nghệ nhân
Nghệ nhân có vai trò rất lớn đối với làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân không có làng nghề. Vì vậy muốn duy trì và phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ, hỗ trợ, khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển nghề, mở rộng sản xuất, truyền dạy nghề cho con cháu.
Đề nghị Chính phủ có chính sách ban hành quy chế chính thức về phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng”, hoặc huy chương “Đôi bàn tay vàng” kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi theo quy định đề ra. Tiêu chuẩn được phong nghệ nhân phải là thợ giỏi, có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật kỹ xảo riêng, tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo được đồng nghiệp thừa nhận. Đó phải là những sản phẩm có giá trị nghệ thuật được xã hội công nhận hoặc những sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, có thành tích truyền nghề dạy nghề... Khi đạt được danh hiệu đó nghệ nhân sẽ được hưởng các quyền lợi như: thưởng tiền khi nhận danh hiệu và huy chương, được bồi dưỡng kiến thức về hội họa, mỹ thuật tại trường cao đẳng mỹ thuật, được hưởng thù lao xứng đáng khi tham gia truyền nghề và được thưởng khi có thành tích xuất sắc. Được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp hữu ích. Khi có sản phẩm độc đáo hoặc mẫu mã hàng hóa xuất khẩu với khối lượng lớn thì được xét thưởng theo kết quả xuất khẩu (hoa hồng). Được Nhà nước hỗ trợ
kinh phí cho hoạt động của CLB nghệ nhân trao đổi kinh nghiệm nghề
nghiệp.
Chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi được thực hiện tốt là một đảm bảo, duy trì và phát triển độ ngũ thợ thủ công lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hóa của dân tộc, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước.
*/ Tăng cường trợ cấp và khuyến khích xuất khẩu
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong danh sách nhóm hàng khuyến khích xuất khẩu và nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta trong thời gian tới. Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa xã hội lớn lao, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân ở vùng nông thôn. Tuy nhiên hiện nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam lại kém ưu thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu do giá xuất khẩu cao hơn so với giá của các đối thủ cạnh tranh do giá thành sản xuất của chúng ta còn cao và trong thời gian ngắn chưa có biện pháp cắt giảm ngay. Do đó, Nhà nước cần có chính sách trợ giá cho hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ để tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngoài hình thức trợ giá xuất khẩu, Chính phủ có thể khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thông qua hình thức thưởng xuất khẩu cho doanh nghiệp đạt được kim ngạch cao trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp xuất được sản phẩm mới hoặc doanh nghiệp thâm nhập được thị trường mới. Số tiền thưởng xuất khẩu có thể được tính bằng một tỷ lệ % trên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của doanh nghiệp hoặc là một số tiền nhất định được trích ra từ quỹ
hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ xuất khẩu còn nhiều hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh nên rất cần đến sự giúp đỡ của Chính phủ, và dưới hình thức trực tiếp lẫn gián tiếp.
KẾT LUẬN
-------
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Trong báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Nước ta có nguồn nguyên liệu và lao động khá dồi dào, thuận lợi cho việc sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hơn nữa, nhu cầu về mặt hàng này ngày càng tăng nhanh, nhất là tại các nước đang phát triển. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chúng ta đang có nhiều lợi thế
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngoàI ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa xã hội rất to lớn. Với dân số khoảng 80 triệu người, trong đó gần 80% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt nam đang đứng trước các cơ hội và thách thức to lớn. Bên cạnh thế mạnh về nguồn lao động dồi dào - một trong những yếu tố quan trọng phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, nhưng nếu chúng ta không biết sử dụng
nguồn nhân lực này một cách hợp lý thì trái lại đó lại là một gánh nặng đối với của nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, tình trạng những người nông dân bỏ ruộng vườn và làng quê về sinh sống tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng ... đã gây ra biết bao điều nhức nhối về mặt xã hội. Để giải quyết vấn đề này, thì việc tạo cho họ công ăn việc làm là một trong những biện pháp hữu hiệu vì một mặt chúng ta đã thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo cho người dân lao động, mặt khác lại có điều kiện thu về cho đất nước những khoản ngoại tệ mạnh phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Có phải chăng, việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là một trong những biện pháp trực tiếp khắc phục những nhược điểm nói trên. Theo ước tính cho thấy, nếu Việt Nam hàng năm tăng một triệu USD hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ thì có thể giải quyết công ăn việc làm cho hơn 50.000 người lao động. Theo sự phân tích trong bài luận văn nói trên, em hoàn toàn tin tưởng rằng thị trường Nhật Bản trong tương lai có thể thu hút thêm hàng chục triệu đôla hàng thủ công mỹ nghệ của Việt nam và điều đó có nghĩa là chúng ta đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Mặt khác, phát triển các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc, góp phần tăng cường giao lưu quốc tế. Địa danh các làng nghề sẽ là điểm đến đầy tiềm năng của du lịch. Phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập từ ngành nghề phi nông nghiệp tạo nguồn vốn quan trọng tại chỗ để chủ động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Trên đây là một số suy nghĩ bước đầu của em về đề tài: “Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam” . Đây là một đề tài khá lý thú và bổ ích không chỉ đứng trước góc độ nghiên cứu lý thuyết mà nó còn mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn cho các làng nghề truyền thống của Việt Nam. Trong thời gian học tập tại trường, trong các dịp đi thăm các làng nghề thủ công mỹ nghệ, được tiếp xúc với các nghệ nhân lớn tuổi, được nghe những câu chuyện đầy tâm huyết về nghề, được nhìn tận mắt sự cần cù chăm chỉ của người thợ thủ công Việt Nam, em không khỏi có những mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho những người nông dân Việt Nam. Tuy còn nhiều khó khăn song với những thế mạnh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam như đã được trình bày trong bài luận văn, chắc chắn rằng ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ có một vị trí xứng đáng trong danh mục các ngành nghề mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
------
1. Một số cơ chế, chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá XNK - Phụ trương tập san Ngoại thương
8/1999
2. Đề án xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ đến năm 2005 - Bộ
thương mại, 3/2000
3. Báo cáo tình hình xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ - Bộ
thương mại, 16/8/2000
4. Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm từ năm 1996 - 2000
5. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010 - Bộ
thương mại, 6/2000
6. “Nghề cổ nước Việt” - Vũ Từ Trang, NXB Văn hoá dân tộc
7. “Hướng đi nào cho gốm sứ Việt Nam phát triển trong cơ chế thị
trường” - Tạp chí Mỹ nghệ & Kim hoàn số 69
8. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Việt Nam : Khắc phục khó khăn, khai thác tiềm năng xuất khẩu” - Tạp chí Mỹ nghệ & Kim hoàn số 72
9. Vai trò Nhật Bản trong quá trình phát triển kinh tế Asean - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 4/2002
10. Cải cách cơ cấu kinh tế Nhật Bản: Chính sách quản lý vĩ mô - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 5/2002
11. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ xuất khẩu sang Nhật : Thiên thời, địa lợi ...” - Kinh tế Sài Gòn, 3/2000
12. “Hỗ trợ làng nghề phát triển” - Quý Hào, Thời báo Kinh tế Việt
Nam ngày 2/10/2000
13. “Xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ: Nhận biết cơ hội qua con mắt nước ngoài” - Felix Abt, Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày
18/10/2000
14. “Để hàng Thủ Công Mỹ Nghệ đủ sức cạnh tranh” - Nghiêm
Quảng, Sài Gòn giải phóng ngày 29/1/2001
15. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ: cái khó còn bó cái khôn” - Đỗ
Quyên, Doanh nghiệp ngày 28/3/2001
16. “Vị thế hàng thủ công : Trở ngại trong sản xuất và xuất khẩu” - An Yên, Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 10/8/2001
17. “Ngành Thủ Công Mỹ Nghệ, những khó khăn cần được tháo gỡ”
- Thuý Hải, Sài Gòn giải phóng ngày 15/8/2001
18. “Sẽ hết long đong làng nghề? Thúc đẩy xuất khẩu hàng Thủ Công Mỹ Nghệ” - Phạm Hùng Nghị, Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 5/9/2001
19. “Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Việt Nam : Tiềm năng và thuận lợi” - Bảo Minh, Quốc tế ngày 13/9/2001
20. “Nghề thủ công với phát triển đời sống nông thôn” – Vũ Huy
Thiều, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002
21. “Hàng thủ công mỹ nghệ phát triển hướng tới hội nhập” – Lê Văn
Sâm, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002
22. “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam qua các thời kỳ” – Nguyễn Văn Hóa, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 4/2002
23. “Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam: Thực trạng và GiảI pháp” – Ba Đình và Lê Long, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002
24. “Đã có nhiều cơ chế hỗ trợ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ” –
Hòa Thanh, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng
8/2002
25. “Khả năng to lớn của ngành thủ công mỹ nghệ Tp Hồ Chí Minh”
– Thanh Hòa, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng
8/2002
26. “Văn hóa nông thôn và làng nghề” – TS. Lê Văn Lan, Tạp chí
Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002
27. “Sáu kiến nghị của nghệ nhân Hải Phòng” - Đào Xuân Hùng, Hội nghệ nhân thợ giỏi Hải Phòng, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng 8/2002
28. “Nhũng thị trường chính của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam”
– Lê Văn Sâm, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng
8/2002
29. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 2000 – NXB Thống kê 2002
30. “Hàng thủ công mỹ nghệ – thị trường và những khó khăn” –
Phùng Long, Tạp chí Sản phẩm và Làng nghề Việt Nam tháng
4/2002
31. Kinh doanh với thị trường Nhật Bản – NXB Lao Động 2001
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8393.doc