Nhập khẩu thép phế liệu ở Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền

Lời mở đầu Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của nền kinh tế Thế giới, các nước chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác, quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng nhau phát triển kinh tế. Xu thế này đã góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển của một số nước trên thế. Đặc biệt là đối với Việt Nam, thực trạng nền kinh tế sau chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, tiến tới xây dựng, ổn định và từng bước phát triển kinh tế: Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc h

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nhập khẩu thép phế liệu ở Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậu, đời sống nhân dân còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Tình hình đó đòi hỏi nước ta phải có sự đổi mới cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Quan điểm mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam được thể hiện rõ trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII: Thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu thực hiện mục tiêu “ Dân giàu,nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước được thực hiện thông qua việc mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, tín dụng nước ngoài… Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu có tầm quan trọng hơn cả, là yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Nhập khẩu là để bù đắp những mặt hàng còn thiếu mà nền trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Cơ cấu nhập khẩu củaViệt Nam chủ yếu bao gồm những mặt hàng sau: máy móc thiết bị, khoa học kĩ thuật, công nghệ mới và nguyên vật liệu phục vụ cho phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta. Trong giai đoạn trước đây, thép là mặt hàng quan trọng trong cơ cấu nhập khẩu của nước ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp, xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhiều ngành sản xuất nói chung. Tuy nhiên, việc nhập khẩu thép thành phẩm chỉ là biện pháp trước mắt và tình thế. Do đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải đẩy mạnh hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản lượng thép. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp luyện kim nói chung là nguồn nguyên liệu đầu vào cho luyện kim mà chủ yếu là thép phế liệu sẽ đuợc lấy ở đâu khi mà tổng sản lượng thu gom được trong nước chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu, vậy để đảm bảo sản xuất thép trong nước được ổn định thì 70% nhu cầu thép phế này phải được nhập khẩu từ nước ngoài (theo thống kê của Bộ Công nghiệp Việt Nam). Vì vậy, việc nhập khẩu thép phế liệu góp phần tích cực vào sự ổn định và phát triển ngành luyện thép ở nước ta, từ đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là động lực tích cực để xây dựng và cải tạo cơ sở của Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2010. Kết hợp giữa nhận thức nói trên và đợt thực tập tốt nghiệp vừa qua, em đã chọn đề tài “Tình hình nhập khẩu thép phế liệu và các biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền” làm đề tài cho bài thu hoạch thực tập tốt nghiệp. Kết cấu của bài viết gồm có 2 chương: Chương I. Thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền Chương II. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thép phế liệu của Công ty. Mặc dù bài viết chỉ đề cập tới tình hình riêng của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền về hoạt động nhập khẩu thép phế liệu, nhưng em cũng hy vọng độc giả qua bài viết này có thể hiểu thêm phần nào về hoạt động nhập khẩu thép phế liệu nói chung của thị trường Việt Nam và từ đó có được sự quan tâm hơn nữa đối với vấn đề này. Hoàn thành được bài báo thu hoạch này, em đã nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình, đầy trách nhiệm của Thạc sỹ Phạm Thị Mai Khanh và các anh, chị phòng kinh doanh tổng hợp cùng những cán bộ Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền. Nhưng vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, tài liệu tham khảo còn hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các độc giả để giúp em hoàn thiện bài viết này. Chương I: thực trạng nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy ngô quyền I.giới thiệu chung về Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền 1/Sự hình thành và phát triển của Công ty Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (một trong 17 Tổng Công ty lớn nhất của Nhà nước) được thành lập theo quyết định số 69/TTg do Thủ tướng chính phủ ký và ban hành ngày 31/01/1996, trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam). Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Viet Nam Shipbuilding Industry Corporation - Vinashin) được thành lập theo quyết định số 69/TTg do Thủ tướng chính phủ ký và ban hành ngày 31/01/1996, trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Vinashin hiện có 40 đơn vị thành viên, gồm: 29 đơn vị hạch toán độc lập, 7 đơn vị hạch toán phụ thuộc và 4 đơn vị liên doanh; tổng số công nhân viên lên tới trên có khoảng 13000 cán bộ công nhân viên. Các đơn vị thành viên của Vinashin nằm trên khắp đất nước trải dài từ Bắc tới Nam. Tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền là Xưởng phá dỡ tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp, hiện nay trụ sở chính của Công ty: số 234 - Lê Thánh Tông - Ngô Quyền- Hải Phòng, với tổng số công nhân viên là gần 200 người có trình độ chuyên môn từ bậc trung học, đại học và một số đã tốt nghiệp cao học, Công ty làm ăn rất có hiệu quả (doanh thu hàng năm đạt 30%/năm). Hơn nữa, Công ty cũng được sự quan tâm và đầu tư đúng đắn từ các cấp có thẩm quyền và ban lãnh đạo nên hiện giờ Công ty cũng đã có những dây truyền công nghệ đáp ứng được nhu cầu sản xuất . 2)Cơ cấu tổ chức Trong Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền, người có thẩm quyền cao nhất là Giám đốc điều hành. Vì đây là một đơn vị hạch toán độc lập nên tùy thuộc vào tình hình thực tế của Công ty mà Giám đốc đưa ra các quyết định cho phù hợp. Giám đốc có toàn quyền chủ động quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, với sự giúp việc của Phó giám đốc và bộ phận tham mưu giúp việc trong 4 phòng hành chính nghiệp vụ. Giám đốc ra chỉ thị và truyền đạt thông tin trực tiếp xuống các phòng ban tham mưu, và các phòng ban tham mưu này lại xuống các xưởng trực thuộc mình quản lý (xem sơ đồ 1). 3/Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Như đã trình bày ở trên, trong giai đoạn trước khi chuyển thành Công ty, với chức năng là một Xưởng sản xuất thuộc Tổng công ty Vinashin, Xưởng chủ yếu tập trung vào 2 nhiệm vụ chính do Tổng công ty giao cho, đó là: phá dỡ tàu cũ để lấy thép phế liệu và sản xuất khí công nghiệp. Sau quyết định 94/1996- TCT của Vinashin về “Thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô quyền” được Tổng giám đốc ký và ban hành ngày 20/2/1996, Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền đã và đang thực hiện tốt các chức năng sản xuất kinh doanh theo ngành nghề được phép như sau:1. Đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ; 2.Sản xuất khí công nghiệp để phục vụ công nghiệp trong tổng Công ty, trong ngành và tiêu thụ sản phẩm cho nhu cầu thị trường; 3. Kinh doanh vật tư trang thiết bị cho các phương tiện thuỷ; 4.Tổ chức thực hiện các dịch vụ hàng hải; 5.Nhập khẩu thép phế liệu phục vụ cho ngành đóng tàu truyền thống của Tổng Công ty và đáp ứng nhu cầu trong nước đối với mặt hàng này.... Trong đó, Công ty đặc biệt chú trọng tới 2 hoạt động chính phù hợp với chức năng và chuyên môn của mình, đó là: Nhập khẩu thép phế liệu và sản xuất khí công nghiệp. Doanh thu từ các hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Sơ đồ 1: mô hình tổ chức của Công ty CNTT Ngô Quyền Giám đốc Phó giám đốc sản xuất Kế toán trưởng, phòng TK-TC, phòng KD Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch sản xuất Bộ phận KD-Dịch vụ – Vật tư Xưởng phá dỡ tàu cũ Xưởng ôxy Điều hành mệnh lệnh Thông tin II. tình hình nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy ngô quyền 1) Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu thép phế liệu Phù hợp với tình hình thực tế nước ta đang trong giai đoạn cất cánh, trước năm 1998 công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số lượng thép lớn. Trong giai đoạn này, thép là mặt hàng nhập khẩu quan trọng trong cơ cấu nhập khẩu của nước ta vì đây là mặt hàng cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp (đặc biệt là ngành công nghiệp nặng), ngành xây dựng… Theo thống kê của Bộ công nghiệp: để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thép trong nước thì cần phải nhập khẩu 70%. Tuy nhiên, nhập khẩu không phải là biện pháp hiệu quả và lâu dài cho các nền kinh tế nói chung. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đã đẩy mạnh hoạt động sản xuất theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng và sản lượng thép để đáp ứng nhu cầu trong nước thay cho nhập khẩu, và nguyên liệu chính dùng cho luyện thép là thép phế liệu nhập khẩu chứ không phải là quặng khai thác được ở trong nước. Theo thống kê của Bộ công nghiệp hơn nửa lượng thép tiêu thụ trong nứoc là từ sản xuất trong nước, một nửa còn lại là nhập khẩu, trong đó 80% thép sản xuất trong nứơc là từ nguồn phôi nhập khẩu, trong số phôi thép sản xuất trong nước lại phụ thuộc tới 70% nguyên liệu nhập khẩu từ ngoài vào. Như vậy, Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào thị trường bên ngoài từ thép thành phẩm, bán thành phẩm cho tới nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Sang năm 1998, nhà nước ta đã cho phép nhập khẩu thép phế liệu: Điều 3.5 của Thông tư 01/1998- TM- XNK (ngày 4/2/1998 Thông tư về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu ) có quy định “ Thép phế liệu và thép phá dỡ tàu cũ khi nhập khẩu phải có ý kiến của Bộ công nghiệp”. Việc cho phép nhập khẩu đã làm cho sản lượng thép phế liệu nhập khẩu vào nước ta tăng mạnh ở giai đoạn sau: Theo thống kê của Cục hải quan 1998 là: trên 50000 tấn, 2000 là: 170000 tấn, đến năm 2002 là: 261389 tấn, và theo dự báo: nếu các lò luyện kim cùng đưa vào hoạt động và ngành thép đạt công suất 2 triệu tấn phôi thép/năm thì nhu cầu đối với thép phế liệu để phục vụ ngành luyện kim là rất lớn. Thưc trạng này đã biến Việt Nam từ một nước nhập khẩu phôi thép và thép thành phẩm trở thành một thị trường nhập khẩu thép phế liệu để phục vụ cho sản xuất phôi thép. Chính vì vậy, chỉ một trở ngại nhỏ cản trở thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam sẽ làm cho các lò luyện thép bị đình trệ vì đói nguyên liệu. Để việc nhập khẩu thép phế được tiến hành thuận lợi hơn , theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sưa – Viện trưởng Viện luyện kim đen: “ Nhà nước cần ban hành tiêu chuẩn về thép phế liệu cũng như các văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất thép nhập khẩu thép phế liệu” 1, 2, 3, 4: "Ngành thép trước nguy cơ đói nguyên liệu" - VIETNAM NET ngày 22 /10/2003 , theo ông Phạm Chí Cường- Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam: “ Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho thép phế liệu nhập khẩu dựa trên tiêu chuẩn quốc tế thông dụng” . Nhưng về phía Bộ tài nguyên và môi trường, ông Nguyễn Khắc Kinh – Vụ trưởng Vụ thẩm định và đánh giá tác động tài nguyên môi trường lại cho rằng: “Không thể cứ nhập khẩu bừa thép phế liệu hoặc mua tàu cũ về phá dỡ tràn nan ở Việt Nam để lấy thép phế. Việc thực hiện mục tiêu 1,5 triệu tấn phôi/ năm là cần thiết nhưng không phải làm ra thép bằng mọi giá”3. Cũng theo ông Kinh: “ năng lực xủ lý chất thải của Việt Nam hiện còn quá kém, nay lại để chất thải ngoại tràn vào thì Việt Nam sớm trở thành bãi giác”4. Như vậy, nguy cơ đói nguyên liệu cho ngành sản xuất thép đang dần lộ diện bởi sự khập khễnh giữa tiêu chuẩn thép phế liệu của Việt Nam với tiêu chuẩn Thế giới. Trong khi đó, giá thép trên thị trường thế giới có những biến động mạnh (giá các nguyên liệu cho luyện thép như: quặng, gang, thép phế, than cốc...) giá phôi thép; giá thành phẩm thép xây dựng, thép tấm, lá ...liên tục tăng. Trước tình hình đó, các chuyên gia ngành thép cảnh báo sản lượng thép toàn cầu sẽ sụt giảm hàng loạt sau những đợt nguyên liệu đầu vào tăng chóng mặt. Cung- cầu thép đang rơi vào tình trạng hỗn loạn, không có đủ cung để đáp ứng cầu đang tăng quá nhanh. Theo dự kiến, đến năm 2004, nhu cầu sẽ là 936triệu tấn, tăng 5% so với 2003 và sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Các chuyên gia ngành thép còn cho biết nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do Trung Quốc đang bước vào xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản làm cho nhu cầu về thép tăng (2003 là 35 triệu tấn phôi, trong đó nhu cầu trong nước là trên 25 triệu tấn). Ngoài ra, Mỹ đã xoá bỏ thuế nhập khẩu (thuế nhập khẩu= 0% ) đối với mặt hàng thép làm cho nhu cầu thép của nước này cũng tăng mạnh. Đây là những nguyên nhân chính gây lên sự biến động lớn cho thị trường thép trên thế giới, vì Mỹ và Trung Quốc là 2 quốc gia lớn và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thị trường Thế giới. Tình hình trong nước và thế giới như vậy đã gây nên sự biến động lớn về giá thép ở Việt Nam: Đầu quý I/2004 là 6,4-6,5 triệu/tấn thép, vậy mà đến cuối quý I- đầu quý II/2004 đã là 8,5- 9,3 triệu/tấn. Chỉ trong một thời gian ngắn giá thép đã tăng chóng mặt. Để bình ổn lại thị trường, Hiệp hội thépViệt Nam, Tổng Công ty thép, tổ điều hành thị trường trong nước đã họp và kiến nghị với chính phủ 4 biện pháp: 1.Thúc đẩy sản xuất phôi thép trong nước; 2.Tháo gỡ vấn đề nhập khẩu thép phế liệu để sản xuất phôi; 3.Kiểm tra mạng luới phân phối để tránh đầu cơ; 4.Nhập khẩu thép thành phẩm khi nguồn cung trong nứơc chưa đủ đáp ứng. Bộ công nghiệp cũng có kiến nghị chính phủ sớm điều chỉnh các quy định về việc nhập khẩu thép phế liệu theo hướng coi thép phế liệu là nguyên liệu cơ bản của ngành thép. Vì thép phế liệu là mặt hàng phế liệu, có ảnh hưởng tới môi trường Việt Nam, nên hoạt động nhập khẩu thép phế liệu vào nước ta sẽ do Bộ Tài nguyên – Môi trường toàn quyền quản lý, trên cơ sở đó Bộ ra quyết định số 03/2004/QĐ- BTN-MT ban hành ngày 02/04/2004 –“Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài nguyên môi trường về việc ban hành quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất”, theo Quyết định này: “Các cơ sở sản xuất thuộc các ngành thép, giấy, thuỷ tinh và nhựa đều được nhập khẩu phế liệu về làm nguyên liệu sản xuất”. Quy định này nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động có nguồn ngyên liệu giá rẻ hơn để phục vụ sản xuất thép làm giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, không thể tiến hành nhập khẩu phế liệu bừa bãi, phế liệu nhập về phải đảm bảo tiêu chuẩn sau: “không lẫn tạp chất nguy hại; không lẫn chất thải, trừ tạp chất không nguy hại còn bám dính hoặc bị rời ra trong quá trình vạn chuyển, bốc xếp”. Quyết định này cũng quy định một số điều kiện đối với các doanh nghiệp được phép nhập khẩu - chỉ những tổ chức, cá nhân có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu nhập khẩu đảm bảo các điều kiện về môi trường trong quá trình lưu giữ phế liệu nhập khẩu; có đủ năng lực xử lý các tạp chất đi kèm với phế liệu nhập khẩu mới được phép nhập khẩu phế liệu. Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế đã được các Bộ, Ngành có liên quan quan tâm và tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhằm giúp các doanh nghiệp được thuận lợi hơn khi tiến hành hoạt động kinh doanh này. Sẽ không có một trở ngại quá lớn nào về mặt pháp lý gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành nhập khẩu thép phế vào Việt Nam: . Văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp và hiện hành đối với nhập khẩu thép phế liệu của Nhà nước ta là Quyết định số 03/ 2004/QĐ- BTN- MT của Bộ tài nguyên môi trường ban hành ngày 02/04/2004 . Thép phế liệu nằm trong danh mục những mặt hàng được phép nhập khẩu theo quy định của Nhà nước. . Hiện nay Nhà nước không có quy định hạn ngạch nhập khẩu đối với thép phế. . Thuế nhập khẩu thép phế liệu là 0%. 2) Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền 2.1) Động cơ của hoạt động nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền * Xuất phát từ nhu cầu thị trường: Sắt thép được coi là một trong những mặt hàng có tầm quan trọng chiến lược trong công cuộc xây dựng đất nước. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhu cầu ngày càng cao đối với mặt hàng thép. Khi kinh tế – xã hội phát triển thì nhu cầu của con người đòi hỏi ngày càng cao, có thể nói nhu cầu của con người là không giới hạn. Hiện nay, nước ta còn lạc hậu, kém xa các nước trên thế giới (một phần là do bị chiến tranh tàn phá trong một thời gian dài). Vì vậy, đất nước cần phải chuyển mình, đổi mới nền kinh tế - xã hội để bắt kịp với xu thế phát triển của toàn thế giới. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, vấn đề cơ bản và cũng là nền tảng là phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để từ đó đặt nền móng cho đất nước đi lên (như một ngôi nhà muốn vươn cao, vươn xa thì trước hết phải tạo được móng nhà vững chắc). Trong đó sắt thép đóng vai trò quan trọng, chiến lược trong sự nghiệp cách mạng cải cách cơ cấu kinh tế - xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhu cầu về thép ngày càng tăng, trong khi nền công nghiệp khai thác quặng ở nước ta còn thấp kém chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu của ngành luyện kim. Hơn nữa, thị trường thép trên thế giới đang có sự biến động mạnh (giá cả tăng chóng mặt) khiến cho giá nhập khẩu thép vào nước ta cao. Trước tình hình đó, giải pháp trước mắt và cũng là lâu dài cho ngành thép ở nước ta là : nhập khẩu thép phế liệu về để sản xuất phôi thép phục vụ cho ngành luyện thép đáp ứng nhu cầu thép đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam. *Đối với Công ty: Hoạt động nhập khẩu thép phế liệu là phù hợp với đặc điểm kinh doanh của Công ty- Ngành nghề truyền thống và cũng là xuất phát điểm của Công ty là nhập khẩu tàu cũ về để đóng mới và sửa chữa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài. Cùng với việc nhập khẩu tàu cũ từ nước ngoài về, thay vì vận chuyển tàu không, Công ty vận chuyển thêm sắt thép phế nhập khẩu trên những con tàu nhập khẩu đó, tránh sự lãng phí và tiết kiệm được chi phí nhập khẩu . Hơn nữa, hoạt động đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ của Công ty cũng cần sử dụng lượng sắt thép phế liệu lớn, do đó thay vì mua lại ở thị trường trong nước, Công ty nhập khẩu trực tiếp thì giá sẽ thấp hơn. Như vậy, hoạt động nhập khẩu thép phế liệu không chỉ giúp cho Công ty tăng doanh thu và lợi nhuận trong kinh doanh mà còn đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường góp phần bình ổn lại thị trường thép trong nước và cũng không trái với quy định pháp luật Việt Nam. 2.2 Kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền a) Giai đoạn 1996 –1999: Như đã trình bày ở trên, tiền thân của Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền là Xưởng phá dỡ tàu cũ và sản xuất khí công nghiệp thuộc Tổng công ty Vinashin, với chức năng đó thì mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của Xưởng đều phải dựa trên chỉ tiêu, mệnh lệnh của Tông công ty, chưa thực sự tự ý thức và phát huy tối đa mọi tiềm năng có được để đạt hiệu quả cao. Sau khi có quyết định thành lập Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền và trở thành một trong 29 đơn vị hạch toán độc lập, Công ty đã chủ động trong kinh doanh và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh của mình. Công ty đã có nhiều đổi mới, phát huy tối đa mọi nguồn lực có thể có để từng bước nâng cao chất lượng kinh doanh nói chung và kinh doanh thép phế liệu nhập khẩu nói riêng. Bảng 1. Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu (KNNK) thép phế liệu của Công ty giai đoạn 1996 – 19995 Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty giai đoạn 1996 - 1999 STT Năm Sản lượng(tấn) KNNK (USD) 1 1996 1130 63000 2 1997 1350 77000 3 1998 2300 138000 4 1999 3050 189100 Bảng 1 cho thấy sản lượng và kim ngạch nhập khẩu của Công ty nhìn chung tăng từ năm 1996 đến năm 1999. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này là không đều giữa các năm: giai đoạn 1996 – 1997 tăng thấp - sản lượng tăng 20%, KNNK tăng 22%, 1997 – 1998 tăng mạnh - sản lượng tăng 70%, KNNK tăng 79%, 1998 – 1999 sản lượng tăng 33%, KNNK tăng 37%. Năm 1998 có sự tăng trưởng mạnh như vậy là do Nhà nước đã cho phép nhập khẩu mặt hàng này và từ năm nay sản lượng nhập khẩu vào Việt Nam nhìn chung tăng cao do nhu cầu nguyên liệu cho ngành thép lớn. Qua phân tích cũng cho thấy mức độ tăng sản lượng và KNNK không bằng nhau- KNNK thường tăng cao hơn sản lượng trong cùng một thời kì, nguyên nhân chủ yếu là do giá thép phế liệu trên thị trường trong nước và Thế giới đang biến động theo xu hướng ngày càng tăng. Trong giai đoạn đầu thành lập, ngành kinh doanh “nhập khẩu thép phế liệu của Công ty còn non trẻ, chủ yếu thực hiện theo phương thức “nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ để sản xuất sắt thép. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh “ thép phế liệu nhập khẩu” trong giai đoạn này chưa thực sự làm ăn có hiệu quả, doanh thu thấp, hình9thức kinh doanh còn manh mún, nhỏ bé, phân tán. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu của Công ty, do đó chỉ có thể được tính gộp vào là doanh thu chung của ngành “ phá dỡ tàu”. * Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do: 1. Do mới thành lập nên vốn của Công ty còn hạn hẹp, nên không thể thực hiện các hợp đồng lớn về nhập khẩu tàu cũ được, mà sản lượng thép phế liệu hoàn toàn dựa vào số lương tàu cũ nhập về để phá dỡ. Điều này dẫn đến sản lượng thép phế liệu của Công ty thấp. Ngoài ra, mới thành lập cũng là nguyên nhân tạo ra sự bất lợi về thời gian và điều kiện gia nhập thị trường chưa đủ để tạo lập cho mình một vị trí và chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy Công ty chưa khẳng định được uy tín của mình, Điều này khiến cho công việc kinh doanh của Công ty gặp rất nhiều khó khăn: khó khăn trong việc ký kết các hợp đồng nhập khẩu tàu cũ (khó khăn trong khâu đầu vào), các doanh nghiệp trong nước còn ít biết đến sự tồn tại của Công ty hoặc nếu có biết thì vẫn chưa có cơ sở để họ đặt niềm tin để kí các hợp đồng mua sắt thép phế liệu của Công ty (khó về đầu ra). 3. Nhiệm vụ đóng tàu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sản lượng thép phế liệu thấp: Do từ sau khi Nhà nước cho phép các doanh nghiệp được phép phá dỡ tàu cũ để lấy sắt thép phế liệu, khiến cho ngày càng có nhiều doanh nghiệp phá dỡ tàu cũ nên việc mua tàu cũ bị căng giá. 4. Việc làm thủ tục mua bán còn nhiều phiền toái, phụ phí cao, nhất là đối với tàu cũ của nước ngoài. Nhiều khi bế tắc sản xuất do khâu thủ tục phải “qua” nhiều “ cửa”, nhiều “dấu”, đối tác mất niềm tin, Công ty mất nguồn cung. 5.Mặt khác, lúc bấy giờ quy trình công nghệ phá dỡ tàu để sản xuất sắt thép phế liệu còn rất xa lạ đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa tự sản xuất vừa tự rút ra quy trình công nghệ sản xuất cho mình. Do vậy năng suất thấp, việc quản lý lao động rất khó khăn, khó giao chỉ tiêu, khó đạt mức khoán, khó quản lý sản phẩm và tài sản dễ dẫn đến lãng phí, hao hụt, mất mát... 6. Giá phế liệu không ổn, do việc cung cấp sản phẩm khi thì dồn dập, khi thì khan hiếm 7.Chất lượng công nhân viên làm việc chưa có chuyên môn kĩ năng cao dẫn đến năng suất lao động thấp, sản lượng thép phế liệu thấp. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc kinh doanh “ thép phế liệu nhập khẩu” nói riêng và hiệu quả kinh doanh của cả Công ty nói chung chưa cao. Tính cho tới cuối năm 1999, doanh thu của cả ngành “phá dỡ tàu cũ” ước tính đạt trên 20 tỷ VNĐ. Thực trạng trên đòi hỏi Công ty phải có sự đổi mới từ công tác tổ chức, quản lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ cho tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty. * Giai đoạn 2000- 2004 Trước thực trạng làm ăn kém hiệu quả như vậy, Công ty đã phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để góp phần cải thiện lại tình hình. Trước hết phải kể đến sự đổi mới trong phương thức kinh doanh: thay vì nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn dưới hình thức “ nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ để sản xuất thép phế liệu”, nay Công ty đã tiến hành nhập khẩu trực tiếp thông qua thu mua thép phế liệu. Điều này giúp cho sản lượng thép phế liệu mà Công ty nhập khẩu tăng cao. Bảng2. Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu thép phế liệu của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền6 Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép phế liệu của Công ty giai đoạn 2000 - 2004 TT Năm Sản lượng(tấn) Knnk( USD) Thị trường 1 2000 7.500 562.500 100%châu âu 2 2001 11.000 847.000 100%châu âu 3 2002 13.700 2.856.000 70%châu âu, 30%châu á 4 2003 16.000 4.080.000 90%châu á, 10%châu âu 5 2004 21.000 6.447.000 70%châu á,30%châu âu và mỹ Từ bảng trên cho thấy, số lượng thép phế liệu Công ty nhập khẩu tăng nhanh trong giai đoạn 2000- 2004, tuy nhiên sự tăng trưởng này không đồng đều giữa các năm: 2000- 2001 tăng 3500 tấn (tăng trên 40%), 2001- 2002 tăng 2000 tấn( tăng 18%), 2002- 2003 tăng 3000 tấn (tăng 24%), 2003- 2004 tăng 5000 tấn (tăng 30%). Mặc dù, sự tăng sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty trong những năm qua là không đồng đều cả về số lượng và tỷ lệ tăng trưởng giữa các năm, nhưng nhìn chung sản lượng thép phế nhập khẩu của Công ty đã tăng khá cao từ năm đầu giai đoạn (năm2000) cho tới năm kết thúc giai đoạn (năm 2004) từ 7.500tấn lên tới 21.000tấn ( tăng 180%). Cùng với sự tăng lên về số lượng thì KNNK đối với mặt hàng này cũng tăng với mức tăng cao hơn. Đặc biệt là trong giai đoạn 2001 – 2004, KNNK tăng tới mức chóng mặt (tăng 5.600.000 – tương ứng trên 660%). Nguyên nhân chủ yếu là do giá thép trong giai đoạn này tăng cao( tăng từ 77USD/tấn năm 2001 lên tới 307USD/tấn năm 2004),và một phần cũng là do sản lượng tăng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2005, sản lựong thép phế liệu nhập khẩu của Công ty đạt 16.450tấn, đạt 57% kế hoạch năm, KNNK đạt trên 5triệu USD. Mặc dù con số này còn rất nhỏ so với tổng KNNK của Việt Nam nhưng nó cũng góp phần bình ổn lại thị trường đang trong tình trạng hỗn loạn cung – cầu về thép. Nếu tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng như vậy việc hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu năm nay của Công ty sẽ là tất yếu. Từ bảng 2 cũng cho ta thấy sự thay đổi đáng kể về thị trường nhập khẩu của Công ty, chuyển dịch từ nhập khẩu thép phế liệu hoàn toàn từ Châu Âu (năm 2000, 2001 nhập khẩu 100%) dần sang nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Châu á ( hiện nay lượng thép phế nhập khẩu từ châu á chiếm trên 70%). Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi trên? Trước đây, bạn hàng truyền thống của Công ty công nghiệp tàu thuỷ Ngô Quyền là các nước nằm trong khu vực Châu Âu, Công ty chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh ở khu vực thị trường này, do đó việc thép phế liệu được nhập khẩu 100% từ đây là hoàn toàn phù hợp . Tuy nhiên đó chỉ mang tính tạm thời và tình thế. Xuất phát từ mục tiêu tăng doanh thu và lợi nhuận, đòi hỏi Công ty phải chủ động tìm kiếm những khu vực thị trường mới có giá rẻ hơn, có nhiều lợi thế đối với công việc kinh doanh của mình. Thị trường Châu á bao gồm các nước nằm trong cùng khu vực địa lý, có cùng chung đường bờ biển, hoặc là những nước có đường biên giới giáp với Việt Nam, vì vậy thuận lợi rất nhiều cho các hoạt động giao lưu kinh tế văn hoá giữa ta với các nước bạn nói chung và cho hoạt động nhập khẩu của Công ty nói riêng. Điều này giúp cho Công ty tiết kiệm được chi phí và thời gian từ khâu nghiên cứu thị trường, kí kết hợp đồng và cuối cùng là vận chuyển thép phế liệu về nước. Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước Châu á là tương đối gần so với Châu âu, vì vậy ta có bắt thể nắm bắt tình hình thị trường và có thông tin nhanh về sự thay đổi của thị trường này giúp ta có sự điều chỉnh nhanh, chính xác và kịp thời. Ngoài ra, lợi thế có chung đường bờ biển sẽ tạo lợi thế cho việc tiến hành mua bán ngoại thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, do việc vận chuyển dễ dàng, mà thép phế liệu do Công ty tàu thuỷ Ngô Quyền nhập khẩu được coi là mặt hàng cồng kềnh, có trọng tải lớn nên phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng tàu thuỷ. Trên cơ sở đó cho thấy quyết định chuyển hướng thị trường này của Công ty là đúng đắn, phù hợp với thực tế kinh doanh của Công ty. 3. Cơ cấu, giá, chất lượng và thị trường nhập khẩu thép phế liệu của Công ty * Về cơ cấu nhập khẩu: Do chính sách bảo hộ ngành thép của Nhà nước nên hoạt động nhập khẩu thép phế liệu có những bước phát triển đáng kể nhằm đáp ứng thị trường về cơ cấu, chủng loại, chất lượng. Trong số các mặt hàng được phép nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật, cơ cấu nhập khẩu của Công ty chủ yếu tập trung vào 2 mặt hàng sau: Thép phế liệu dùng cho cán kéo chiếm 48% tổng KNNK, thép phế liệu dùng cho nấu chảy chiếm 45% tổng KNNK của Công ty. * Về giá nhập khẩu: Cũng như hầu hết các đơn vị kinh doanh với mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận thì việc xem xét và lựa chọn giá trước khi kí hợp đồng mua bán là rất cần thiết. Đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu, giá cả ở một số thị trường lớn đóng vai trò quyết định và là cơ sở để người mua chấp nhận giá từ phía chào hàng đưa ra. Đối với Công ty công nghiệp tàu thủy Ngô Quyền cũn vậy: Sau khi nhận được đơn chào hàng của nước ngoài chào bán, cơ sở để tính giá nhập khẩu của Công ty là giá ở một số thị trường thép phế liệu lớn trên thế giới, hoặc có thể tham khảo giá của bạn hàng truyền thống Châu Âu hay giá trên các tạp chí , bản tin có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, Công ty không thể không tính đến giá đầu ra cho mặt hàng này nhằm đảm bảo thu lợi nhuận và làm ăn có hiệu quả. Để đi đến quyết định có chấp nhận giá của phía chào hàng đưa ra hay không, Công ty phải tính toán phần chênh lệch giữa giá thép phế liệu nhập khẩu và giá bán lại ở thị trường trong nước, sau khi trừ đi các khoản chi phí có liên quan có thu được lợi nhuận không và khoản lợi nhuận thu được này có được coi là hiệu quả kinh doanh hay không? Hiện nay, giá nhập khẩu và giá bán lại thép phế trên thị trường Việt Nam của Công ty: Tuỳ từng chủng loại mà Công ty sẽ nhập khẩu và bán lại với các mức giá khác nhau: - Loại thép phế liệu dùng cho Cán kéo: Công ty nhập khẩu với giá là 270- 280 USD/ tấn giá CNF Cảng Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C, phí giao nhận bốc xếp Cảng, phí giám định...), giá bán loại này trên thị trường hiện nay: từ 4.800.000đ/tấn đến 5.400.000đ/tấn tuỳ thuộc vào kích thước và chủng loại cụ thể. - Loại thép phế liệu dùng cho nấu chảy: giá nhập khẩu là 225 USD/tấn giá CNF Hải Phòng (chưa có thuế VAT, bảo hiểm, phí mở L/C...), giá bán 3.900.000đ/tấn- 4.100.000đ/tấn( chỉ bán cho các lò luyện phôi thép, như: Công ty gang thép Thái nguyên, Thép Hoà Phát...). Ngoài việc thụ động chờ phía chào hàng đưa ra đơn giá, sau đó so sánh và đưa ra quyết định có chấp nhận giá đó hay không, Công ty cũng đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để chuyển mình sang thế chủ động tìm đến những thị trường mới có giá thấp và đảm bảo cung cấp ổn định, lâu dài cho Công ty. * Về chất lượng thép phế liệu nhập khẩu:._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0062.doc
Tài liệu liên quan