Lời nói đầu
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và sâu sắc. Đó là xu thế tất yếu khách quan và là một quy luật mà mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nét nhất của xu thế này là quá trình tự do hoá buôn bán trong khu vực và phạm vi toàn cầu.
Thực hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế của đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối n
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nhập khẩu ở Công ty XNK & kĩ thuật bao bì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goại, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế. Trong đó,Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng để Việt Nam dần có chỗ đứng trong khu vực và trên phạm vi thế giới, thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng VIII đề ra: “Mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại...xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới...”*
Hoạt động Thương mại quốc tế bao gồm nội dung chủ yếu và quan trọng là các hoạt động xuất nhập khâủ. Nếu xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ tích luỹ cho đất nước thì hoạt động nhập khẩu tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Xuất khẩu nhằm bảo đảm nguồn vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu...
Định hướng cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ sự cần thiết: “...Đẩy mạnh xuất khẩu, huy động các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các vật tư hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống, tích cực cân đối cán cân thanh toán quốc tế góp phần duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế.”**
* Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB sự thật.
** Nghị quyết đại hội đại Toàn quốc lần thứ VII. NXB sự thật
Thực hiện tốt công tác xuất nhập khẩu sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay của nền kinh tế.
Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất - Nhập khẩu của các doanh nghiệp để tìm ra biện pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh Xuất - Nhập khẩu là vấn đề quan trọng hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm trên, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài này là thông qua việc xem xét và phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu, để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, và những hạn chế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT nhằm đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT.
Kết cấu của bài luận văn gồm 3 phần:
Phần thứ nhất: Hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Phần thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động Nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì.
Phần thứ ba: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì
Phần thứ nhất :
Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
I. Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
Khái niệm.
Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì có hạn, đối lập hẳn với thực tế nhu cầu của con người là vô hạn và rất đa dạng. Lý thuyết về thương mại quốc tế giúp chúng ta nhận thấy các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế và lợi ích rõ nhất mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được từ thương mại quốc tế mà nó có thể bù đắp và bù đắp một cách hiệu quả những nhu cầu của con người ta về một loaị hàng hoá nào đó mà nội địa chưa hoặc không có khả năng đáp ứng được.
Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập khẩu là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế
2. Vai trò nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Ngày nay, dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều nỗ lực tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đều hướng các chính sách kinh tế, thương mại của quốc gia mình theo khuôn khổ các khối mậu dịch mà họ sẽ tham gia ở tầm khu vực như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ( NAFTA), ... ở cấp độ liên lúc địa như ASEM, và cao hơn nữa là cấp độ toàn cầu như tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh ấy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh ở phạm vi quốc tế. Không phải là những hành vi buôn bán lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong nước và bên ngoài nước nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp tới sản xuất và đời sống trong nước, nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây thiệt hại cho nền kinh tế trong nước do tính chất phức tạp của nó khi có yếu tố quốc tế tham gia vào. Nhập khẩu với tư cách là một trong hai hoạt động chủ yếu của thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như sự phát triển của thương mại quốc tế.
Trước hết, nhập khẩu có vai trò to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo nên sự cân đối tích cực giữa cung và cầu trên thị trường trong nước. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định.
Thứ hai, nhập khẩu giúp quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ tạo thêm hàng tiêu dùng trong nước, nhập khẩu còn tạo nên nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước, tạo ra chuyển giao công nghệ. Nhờ đó nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, tiết kiệm đựơc chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước.
Thứ ba, với những sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, nhập khẩu làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tạo ra năng lực mới trong sản xuất. Các doanh nghiệp nội địa phải chịu một sức cạnh tranh lớn, để tồn tại họ buộc phải năng động hơn, vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh. Qua đó, hiệu quả sản xuất trong nước được nâng cao, hàng hoá nội địa trở nên có tính cạnh tranh hơn, người lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ tư, kết hợp với xuất khẩu, nhập khẩu tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nền kinh tế,.v.v.
Đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đã có thêm sức mạnh mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với nhiều nhược điểm từng bước được thay thế bằng tính năng động, tự chủ của cơ chế thị trường. Ngoại thương của Việt Nam không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi nội khối xã hội - chủ nghĩa qua các khoản viện trợ hoặc qua các nghị định thư mà được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Chính sách phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của nhập khẩu ngày trở nên rõ rệt: Không chỉ là nhân tố giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà còn là nhân tố làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tiếp tục phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu, Nhà nước ta xác định: Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần chú ý tạo uy tín và quan hệ lâu dài với bạn hàng, coi trọng tính hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu, biết kết hợp hài hoà giữa các mặt lợi ích.
3. Các hình thức nhập khẩu.
Không phải ngẫu nhiên ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động thương maị quốc tế mà là do kinh doanh quốc tế có sự phong phú đa dạng về các phương thức hoạt động. Chính sự đa dạng này cho phép các doanh nghiệp tìm thấy được lợi ích thông qua việc lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của mình nhất. Trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đến nay có một số phương thức nhập khẩu chủ yếu sau mà các doanh nghiệp thường lựa chọn:
a/ Nhập khẩu uỷ thác.
Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm:
- Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
- Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng:
Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài.
2. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.
b/ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).
Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
Đặc điểm:
- Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền.
- ở phương thức này, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau.
c/ Nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu.
Đặc điểm:
- Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên.
- Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng:
1. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài.
2. Một hợp đồng với đối tác liên doanh.
Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả.
d/ Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa.
Đặc điểm:
- Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu.
- Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực tiếp và kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng.
- Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp sau:
+ Dùng thư tín dụng đối ứng: Là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương.
+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương.
e/ Nhập khẩu tái xuất.
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá song không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu. Doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng:
Hợp đồng xuất khẩu
2. Hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng.
- Hàng hoá không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu.
Với nhiều phương thức nhập khẩu như vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh doanh để từ đó ứng dụng các phương thức này một cách linh hoạt với thị trường này, với bạn hàng này, ta có thể dùng phương thức này là có lợi hơn, song với thị trường, với bạn hàng khác và vào một thời điểm khác thì phương thức ấy chưa chắc đã có lợi bằng các phương thức khác. Không nên chỉ áp dụng một hay một vài phương pháp cho mọi thị trường, mọi đối tác.
II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp, bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Qua thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho thích hợp. Có nhiều doanh nghiệp nhờ năng động, nắm bắt phản ứng nhanh nhạy với thị trường mà việc kinh doanh thành đạt, song không ít doanh nghiệp vì khả năng hiểu biết về thị trường hạn chế mà dẫn đến phá sản. Chính vì vậy, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng phải nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết quy luật vận động của thị trường, từ đó phản ứng kịp thời trước những thay đổi của của thị trường. Công việc nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp nhập khẩu gồm có:
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường.
+ Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá và sự biến động của chúng.
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu.
+ Xác định mức giá thấp nhập khẩu đối với thị ttrường có quan hệ giao dịch.
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố tới giá cả, ta sẽ nắm được xu hướng biến động của chúng, từ đó xác định mức giá cho mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường mà ta sẽ giao dịch.
Nếu mặt hàng này thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có những trung tâm giao dịch trên thế giới thì nhất định phải tham khảo giá thị trường thế giới về mặt hàng đó. Và phải chú ý khi định giá cần tính đến yếu tố cước phí vận tải và cũng có thể dựa vào chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của thời kỳ trước, vào giá của lô hàng trước, tính đến những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để tăng hay giảm giá thành nhập khẩu khi giao dịch.
Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu.
a/ Giao dịch thông thường.
Là phương thức giao dịch được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, người bán và người mua trực tiếp quan hệ bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc qua thư từ để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Những nội dung của lần giao dịch này được thực hiện một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán.
b/ Giao dịch qua trung gian.
Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người mua. Các trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới.
Đại lý là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác và đại lý là hợp đồng đại lý.
Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán nhận sự uỷ thác của họ. Những người môi giới khi thực hiện nghiệp vụ không đứng tên mình, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm pháp nhân trước người uỷ thác về việc khách hàng có thực hiện hợp đồng hay không. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn,
Sử dụng đại lý, người môi giới có nhiều thuận lợi hơn do họ có nhiều hiểu biết về thị trường, luật pháp, tập quán của địa phương, và ta cũng có tận dụng được những cơ sở vật chất của họ,... song nó có nhược điểm là ta không có sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường, và lợi nhuận bị chia sẻ.
c/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá.
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, có phẩm chất có thể thay thế được nhau. Giá công bố ở sở giao dịch có thể là giá tham khảo trong việc xác định giá quốc tế.
d/ Giao dịch tại hội trợ triển lãm.
Hội trợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời hạn nhất định, tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng.
Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu thành tựu của một nền kinh tế hoặc tổ chức một nghành nào đó. Ngày nay, triển lãm không phải là nơi trưng bày mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch ký kết hợp đồng mua bán cụ thể.
Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu sau khi chọn các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả phải đi đến ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương.
a/ Khái niệm về hợp đồng kinh tế ngoại thương.
Hợp đồng nói chung là sự thoả thuận giữa hai bên hay nhiều bên nhằm mục đích tạo lập, chuyển dịch, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (nhập khẩu) một khối lượng hàng hoá nhất định, bên mua có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương có những điểm khác so với hợp đồng kinh tế trong nước, đó là:
- Chủ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau.
- Hàng hoá được di chuyển từ nước này sang nước khác.
- Đồng tiền dùng trong thanh toán ngoại thương là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết hợp đồng.
Trong tập quán thương mại quốc tế phần lớn các hợp đồng được thành lập thành văn bản, đó là một chứng từ cần thiết của sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán.
b/ Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng ngoại thương.
Về nội dung của hợp đồng theo nguyên tắc tự do ký hợp đồng hai bên được tuỳ ý quyết định những nghĩa vụ của họ sao cho phù hợp với quyền lợi của cả hai bên. Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương thường khó khăn hơp hợp đồng trong nước do các chủ thể hợp đồng thường không có sự tương đồng về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán,...Do vậy, để tránh sự tranh chấp có thể xảy ra, để đảm bảo sự thi hành hợp đồng được suôn sẻ, nội dung hợp đồng xuất nhập khẩu cần có một số điều căn bản, ngoài ra hai bên có thể ghi thêm các điều khoản khác mà họ thấy cần thiết.
Một số điều khoản căn bản trong hợp đồng kinh tế ngoại thương.
Điều khoản về đối tượng hợp đồng:
+ Điều khoản tên hàng: Cần ghi tên thông dụng, tên thương mại và tên khoa học (nếu có).
+ Điều khoản chất lượng: Hợp đồng cần ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng hoá. Có thể căn cứ vào mẫu hàng, vào các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được tập quán thương mại quốc tế công nhận.
+ Điều khoản số lượng: Hợp đồng phải ghi rõ đơn vị đo lường đươc hai bên lựa chọn, quy định cụ thể số lượng hàng giao dịch. Nếu số lượng quy định phỏng chừng phải dự liệu một số có thể chấp nhận được.
+ Điều khoản trọng lượng của hàng hoá: Có thể tính theo trọng lượng cả bì hay không có bì. Người ta tính theo trọng lượng thương mại tức là trọng lượng của hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn.
Điều khoản về giá cả hàng hoá:
Điều khoản về giá cả hàng hoá trong buôn bán ngoại thương là điều kiện cơ bản, điều kiện giá cả bao gồm: Đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định và giảm giá.
+ Đồng tiền tính giá: Có thể dùng đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được.
+ Mức giá: Thường là mức giá quốc tế.
+ Phương pháp quy định giá: Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng, giá có thể được quy định theo các loại sau:
* Giá cố định: Là loại giá được quy định lúc ký kết hợp đồng và không thay đổi trong cả quá trình hiệu lực. Giá cố định dùng trong các hợp đồng giao hàng ngay hay giao trong thời hạn ngắn, có khi giao hàng trong thời gian dài cũng dùng giá cố định và thường có quy ước trong hợp đồng giá cố định, không thay đổi.
* Giá quy định sau: Là giá được quy định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng xác định thời điểm định giá và nguyên tắc xác định mức giá để hai bên tính toán. Ví dụ: một tháng trước khi giao hàng, người mua có thể được quyền lựa chọn thời điểm định giá trong quá trình thực hiện hợp đồng, có cam kết về nguồn tài liệu thông tin giá cả.
* Giá có thể điều chỉnh lại: Giá được xác định trong hợp đồng lúc ký kết, nhưng trong hợp đồng có quy ước: Nếu lúc thực hiện hợp đồng giá thị trường tăng hay giảm thì giá đã ghi trong hợp đồng sẽ thay đôỉ theo quy ước tăng hay giảm. Thường mức chênh lệch thấp nhất giữa giá hợp đồng so với giá thị trường là 2- 5% thì không được tính lại.
* Giá di động: Giá chỉ tính dứt khoát lúc thực hiện hợp đồng bằng điều chỉnh giá cả cơ sở đã ghi trong hợp đồng tính đến thay đổi về chi phí sản xuất trong quá trình chuẩn bị hàng. Giá sản xuất bao gồm giá nguyên vật liệu, tiền lương. Thường áp dụng cho hàng phải sản xuất dài hạn.
+ Giảm giá: Giá công bố và giá thật chênh lệch nhau vì người mua được giảm giá khi ký kết hợp đồng. Giảm giá có thể vì tiền được trả ngay, mua khối lượng lớn hay vì khách quen,...Các loại giảm giá:
* Giảm giá đơn: Giảm giá so với thời giá thường tới 20 - 30% có khi tới 30 - 40%. Giảm giá như vậy thường gặp ở các hợp đồng mua bán thiết bị, nhất là loại máy có tiêu chuẩn, giảm giá so với giá tham khảo về hàng nguyên liệu công nghiệp giảm trung bình 2- 5%. Mặt khác giảm giá đơn cũng thường gặp khi trả tiền mặt vì thường bán hàng theo tín dụng ngắn hạn, nhưng người mua trả tiền mặt nên được giảm giá 2- 3% giá tham khảo nghĩa là tương ứng với phần trăm vay lãi.
* Giảm giá đoạt doanh số: Giảm giá cho người mua trái vụ để khuyến khích mua hàng lúc khó tiêu thụ.
* Giảm giá kép: Giảm giá khi mua hàng với số lượng lớn với mức tăng dần theo số lượng mua.
Điều khoản giao hàng.
Nội dung cơ bản là xác định thời hạn, thời điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng.
+ Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng: Giao hàng không đúng thời hạn quy định có thể gây thiệt hại lớn và chịu trách nhiệm, có thể phải trả tiền phạt.
+ Điểm giao hàng: Trên thực tế người nhập khẩu thường chỉ định bến đi và bến đến cho hàng hoá. Nơi giao hàng có thể là đầu mối vận tải để mang tiếp hàng đi nơi khác hoặc là nơi họ đã nắm vững tập quán giao hàng, khả năng bốc dỡ, khả năng về kho tàng, trình độ trang thiết bị bảo quản hàng hoá,...
+ Phương thức giao hàng: Về sơ bộ cuối cùng hay giao nhận về số lượng, chất lượng.
+ Thông báo giao hàng: Quy định số lần thông báo và nội dung thông báo khi người bán giao hàng xong.
Điều khoản về thanh toán trả tiền.
+ Đồng tiền thanh toán: Phải là đồng tiền ổn định, tự do chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế, có thể là đồng tiền của bên xuất hoặc bên nhập hoặc là của nước thứ ba.
Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với đồng tiền tính giá. Trong trường hợp không trùng hợp thì trong hợp đồng quy định rõ tỷ giá chuyển đổi từ đơn vị tiền tính giá sang đơn vị tiền thanh toán được thực hiện theo tỷ giá hiện hành ở nước tiến hành thanh toán. Khi chọn tỷ giá ngoại tệ, người ta không chỉ quan tâm đến lợi thế của tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ mà còn tính đến cả khả năng chuyển đổi của ngoại tệ.
+ Thời hạn thanh toán: Có thể trả ngay, trả trước hay trả sau hoặc có thể kết hợp các loại hình đó với nhau trong một hợp đồng.
+ Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức trả tiền nhưng chủ yếu trong thanh toán quốc tế dùng hai phương thức sau:
* Phương thức nhờ thu: Là phương thức thanh toán trong đó người bán hàng sau khi giao hàng hoá - dịch vụ uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền của người mua hàng hoá - dịch vụ.
* Phương thức tín dụng chứng từ: Là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người mua này theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các loại chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng ( letter of credit).Có cá loại thư tín dụng sau đây:
# Thư tín dụng huỷ ngang (revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở (tức ngân hàng phát hành thư tín dụng) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ vào bất cứ lúc nào mà không phải báo trước cho người hưởng (bên bán).
# Thư tín dụng không huỷ ngang: Là loại thư tín dụng mà trong một thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ hay sửa đổi nội dung thư tín dụng nếu không có sự đồng ý của người hưởng, ngay cả khi người yêu cầu mở thư tín dụng (bên mua) ra lệnh huỷ bỏ hay sửa đổi thư tín dụng đó. Như vậy, thư tín dụng không huỷ ngang là cam kết chắc chắn đối với người bán trong việc thanh toán tiền hàng.
# Thư tín dụng huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irrvocable L/C): Là thư tín dụng huỷ ngang nhưng lại có thể được xác nhận bởi một ngân hàng nào đó theo yêu cầu của một ngân hàng mở. Xác nhận ở đây có nghĩa cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Thông thường ngân hàng xác nhận là ngân hàng thông báo thư tín dụng tại nước người bán.
Xét về mặt thực hiện, thư tín dụng có thể là trả tiền ngay (At Sight), hoặc trả tiền sau (With deferrer Payment) hoặc có thể chuyển nhượng được (Transferable) cho người thứ ba.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm hơn so với phương thức nhờ thu. Đối với người bán, nó đảm bảo chắc chắn thu được tiền hàng. Đối với người mua, nó đảm bảo rằng việc trả tiền cho người bán chỉ được thực hiện khi người bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ hợp lệ và ngân hàng đã kiểm tra bộ chứng từ đó.
c/ Phương pháp ký hợp đồng.
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. ở các nước tư bản, hợp đồng có thể được thành lập dưới hình thức văn bản hoặc dưới hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên. ở các nước xã hội chủ nghĩa, hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể được thành lập dưới nhiều cách như:
- Hợp đồng gồm một văn bản, trong đó ghi rõ nội dung buôn bán, mọi điều kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký của hai bên.
- Hợp đồng gồm nhiều văn bản như: điện báo, thư từ giao dịch, chẳng hạn hợp đồng gồm hai văn bản như đơn chào hàng cố định của người bán, chấp nhận của người mua và chấp nhận của người bán.
Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của ta trong quan hệ với các nước. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất được quan niệm. Ngoài ra hình thức văn bản còn tạo thuận lợi cho thống kê, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
*/ Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số đặc điểm sau:
- Cần có sự thoả thuận thống nhất với tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một số điều khoản nào đó rất khó khăn và bất lợi.
- Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. Trước khi ký kết bên kia xem xét lại kĩ lưỡng, cẩn thận, đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống nhất.
- Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phải phản ánh nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ có thể suy luận ra nhiều cách.
- Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến.
- Những điều khoản tron._.g hợp đồng phải xuất phát từ những đặc tính của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội của nước người bán, người mua, từ đặc điểm và quan hệ giữa hai bên.
- Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán hoặc nước người mua.
- Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền ký kết.
- Ngôn ngữ dùng để xây dựng hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo.
*/ Có nhiều cách ký kết hợp đồng đó là:
- Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản).
- Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do. Nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi trong thời hạn quy định cho người bán.
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua. Trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản: đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận của người bán.
- Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thoả thuận giữa các bên (nêu rõ các thoả thuận đã thoả thuận).
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng đã được ký kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập. Các bên cần phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Bên nhập khẩu cần phải xắp xếp các việc phải làm, ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại các diễn biến của các bước thực hiện. Quá trình thực hiện hợp đồng là rất phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của quốc gia, uy tín của doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện cố gắng không để xảy ra những sai sót dẫn đến khiếu nại, đồng thời phải tính toán, tiết kiệm các khoản chi phí lưu thông, và điều quan trọng là phải giám sát và yêu cầu đối tác thực hiện đúng các nghĩa vụ của họ trong hợp đồng. Nếu có những vấn đề phức tạp phát sing các bên phải kịp thời bàn bạc trao đổi, giải quyết kịp thời. Các bước thực hiện hợp đồng gồm có:
Xin giấy Mở thư tín dụng Thuê phương tiện Mua BH
phép NK L/C ( nếu thanh chuyên chở hàng hoá
toán bằng L/C)
Khiếu nại và Làm thử tục Nhận hàng Làm thủ tục
xử lý khiếu nại thanh toán hải quan
( nếu có )
a/ Xin giấy phép nhập khẩu:
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Giấy phép do Bộ Thương mại cấp. Thủ tục xin giấy phép nhập khẩu khác nhau đối với hàng hoá thuộc các nhóm hàng khác nhau. Để được cấp giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có điều kiện:
- Thành luật theo đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của luật pháp hiện hành.
- Doanh nghiệp có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng đồng Việt Nam tương đương với 200.000 USD tới thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Hoạt động theo đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu phải có nghĩa vụ nộp lệ phí (một lần) bằng tiền Việt Nam. Mức lệ phí cũng như việc nộp và sử dụng lệ phí do Bộ Tài chính và Bộ Thương mại quy định.
b/ Mở thư tín dụng L/C.
Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng phương thức thư tín dụng chứng từ thì bên mua phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo từ bên bán.
Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời hạn giao hàng. Để cho chặt chẽ, hợp đồng thường quy định cụ thể ngày giao hàng, ngày mở L/C. Nếu như hợp đồng không quy định cụ thể thì thông thường thời gian này là khoảng 15 - 20 ngày trước khi đến thời hạn giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản của hợp đồng. Đơn vị hợp đồng dựa vào cơ sở đó, làm đơn xin mở L/C theo mẫu của ngân hàng.
c/ Thuê tàu chở hàng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình thức nào được tiến hành dựa vào ba căn cứ: điều khoản của hợp đồng, đặc điểm của hàng hoá, điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên nhập khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về người mua.
Tuỳ theo đặc điểm hàng hoá kinh doanh, doanh nghiệp lựa chọn phương thức thuê tàu cho phù hợp: thuê tàu chợ, tàu chuyến hay tàu bao. Nếu nhập khẩu thường xuyên với khối lượng lớn thì nên thuê bao. Nếu nhập khẩu không thường xuyên, nhưng khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến. Nếu nhập khẩu với khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ.
d/ Mua bảo hiểm hàng hoá.
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, doanh nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu năm, mỗi khi giao hàng xuống để vận chuyển chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo một văn bản gọi là: “Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm chuyến, doanh nghiệp gửi đến công ty bảo hiểm một băn bản gọi là: “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này, doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Bên cạnh hình thức bảo hiểm, doanh nghiệp cần lựa chọn điều kiện bảo hiểm: Loại A hay B hay C. Để lựa chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp cần căn cứ vào: Tính chất, đặc điểm của hàng hoá, thời tiết, khả năng vận chuyển bốc dỡ, đặc điểm quãng đường,...
e/ Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau:
+ Khai báo hải quan: Chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ khai phải được xuất trình cùng một số chứng từ khác: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bản kê khai chi tiết, vận đơn,...
+ Xuất trình hàng hoá: Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy cần thiết. Hàng hoá nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra. Chủ hàng chịu chi phí, nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiển tra các giấy tờ và hàng hoá, hải quan đưa ra quyết định: cho hàng được phép qua biên giới (thông quan), hoặc cho hàng qua với một số điều kiện kèm theo hoặc hàng không được nhận,...Chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của hải quan.
f/ Nhận hàng.
Để nhận hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về, đơn vị nhập khẩu phải làm các công việc sau:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc giao hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từng quý, từng năm, cơ cấu hàng hoá, lịch tàu, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận.
- Cung cấp tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng (vận đơn, lệnh giao hàng,...) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
- Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận.
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng hoá nhập khẩu.
- Thông báo cho đơn vị đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá.
- Chuyển hàng hoá về kho của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho các đơn vị đặt hàng.
- Kiểm tra hàng hoá: Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra. Mỗi cơ quan tiến hành kiểm tra theo chức năng, quyền hạn của mình. Nếu phát hiện dấu hiệu không bình thường thì mời bên giám định đến lập biên bản giám định. Cơ quan giao thông kiểm tra niêm phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng ra phương tiện vận tải. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập thư dự kháng nếu thấy nghi ngờ hoặc thật sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng như hợp đồng.
g/ Làm thủ tục thanh toán.
Thanh toán là khâu quan trọng trong thương mại quốc tế. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài rất phức tạp nên thanh toán trong thương mại quốc tế phải thận trọng, tránh để xảy ra tổn thất. Có nhiều phương thức thanh toán như: Thư tín dụng (L/C), phương thức nhờ thu, chuyển tiền,...Việc thực hiện theo phương thức nào phải quy định cụ thể trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải tiến hành thanh toán theo đúng điều kiện quy định của hợp đồng.
h/ Khiếu nại và xử lý khiếu nại (nếu có).
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận tải, Công ty bảo hiểm,... tuỳ theo tính chất của tổn thất. Bên nhập khẩu chỉ viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong điều kiện quy định. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất như: biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm),...
Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có các cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn kiện gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế trong hợp đồng.
i/ Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu.
Sau khi nhập hàng từ nước ngoài về, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ tốt trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, tạo điều kiện tái nhập cư và quá trình nhập khẩu tiếp theo. Để tiêu thụ hàng hoá có kết quả cao, doanh nghiệp cần phải:
- Nghiên cứu thị trường trong nước và tâm lý khách hàng trong việc mua hàng hoá, nhất là đối với hàng hóa doanh nghiệp cần kinh doanh.
- Xác đinh các kênh phân phối hàng hoá và các hình thức bán.
- Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng.
- Xác định mức giá cụ thể trên cơ sở cung cầu thị trường và chi phí của doanh nghiệp.
- Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng.
III. Các nhân tố tác động tới hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu của một doanh nghiệp liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực trong thương mại quốc tế. Do vậy, những thay đổi trong cơ chế, chính sách của các quốc gia có liên quan, của luật pháp quốc tế,... đều tác động lớn tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. Để hoạt động nhập khẩu diễn ra một cách suôn sẻ, các doanh nghiệp buộc phải nghiên cứu các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh.
Hệ thống luật pháp trong nước và quốc tế.
Kinh doanh quốc tế nói chung và kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu nói riêng là một hoạt động đa dạng và phức tạp, nó chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật: luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật của nước thứ ba, đồng thời còn chịu tác động của luật pháp - tập quán quốc tế. Hệ thống luật pháp này tạo hành lang bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia vào thương mại quốc tế. Và để hoạt động một cách có hiệu quả, đương nhiên các doanh nghiệp nhập khẩu cần nắm vững được hệ thống luật pháp, phong tục tập quán trong nước cũng như quốc tế và cả luật pháp của nước có liên quan.
Sự thay đổi của thị trường trong nước và nước ngoài.
Chúng ta biết rằng cung cầu là yếu tố quan trọng bậc nhất đối với các nhà kinh doanh. Sự thay đổi cung - cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc làm của các doanh nghiệp là xác định được lượng cung và cầu hiện tại, đồng thời cần phải dự báo được những xu hướng thay đổi của nó trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Với các doanh nghiệp nhập khẩu, việc làm này không chỉ dừng lại ở thị trường nội địa mà phải trên các thị trường khác và cả thị trường quốc tế. Đặc biệt với các doanh nghiệp vừa nhập khẩu thành phẩm vừa nhập khẩu bán thành phẩm và nguyên liệu như Công ty XNK và kỹ thuật bao bì thì hoạt động của họ còn phải chịu chi phối của nền sản xuất và từng thời kỳ phát triển của đất nước.
3. Chính sách quản lý vĩ mô và quan hệ kinh tế quốc tế của Nhà nước.
Ngoài hệ thống luật pháp, tuỳ từng thời kỳ phát triển của đất nước mà chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô quản lí hoạt động nhập khẩu. Các chính sách mà các chính phủ thường đưa ra và tác động trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu là việc dựng nên các hàng rào nhằm bảo hộ nền sản xuất còn yếu sức cạnh tranh trong nước. Các công cụ mà thường sử dụng là công cụ thuế quan và công cụ phi thuế quan (hạn nghạch, giấy phép nhập khẩu, biện pháp quản lí ngoại tệ và các tiêu chuẩn địa phương).
a/ Chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới hoạt động nhập khẩu vì nó là cơ sở để so sánh giá cả của hàng hoá trong nước với thế giới, đồng thời phục vụ cho sự vận động của tiền tệ và hàng hoá giữa các quốc gia, các doanh nghiệp nhập khẩu theo dõi và căn cứ vào tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ để đẩy mạnh hay hạn chế hoạt động của mình. Khi đồng nội tệ bị mất giá thì hoạt động nhập khẩu là không có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá và ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá thì hoạt động nhập khẩu là có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả ít tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá. Sự điều tiết tỷ giá của Nhà nước: cố định, thả nổi, hay thả nổi có quản lý vì thế có tác động rất mạnh tới hoạt động của doanh nghiệp.
b/ Quan hệ kinh tế quốc tế.
Các quan hệ này có tác động tương hỗ tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thấy thuận lợi hơn trong suốt quá trình giao dịch nếu đối tác là một nước láng giềng, trong cùng một khu vực hay cùng một khối. Họ cũng cảm thấy dễ chịu hơn khi các chính phủ dành cho nhau quy chế đặc biệt (quy chế tối huệ quốc, cho hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan,...) và đến lượt nó, nhập khẩu lại củng cố mối quan hệ ấy giữa các quốc gia.
Các nhân tố khác.
a/ Cơ sở hạ tầng.
Hoạt động nhập khẩu diễn ra có thuận lợi hay không phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có: Hệ thống giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống tài chính ngân hàng. Một nước có cơ sở hạ tầng phát triển là cơ sở để phát triển các hoạt động nhập khẩu bởi cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng là việc giảm thiểu các chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
b/ Hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
Tuy là một mặt đối lập, song xuất khẩu lại có tác động to lớn và trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Đó là cỗ máy chính tạo nguồn ngoại tệ an toàn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguồn nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên khai thác của nội địa phục vụ cho các đơn vị sản xuất thì điều này càng có ý nghĩa hơn. Xuất khẩu được đồng nghĩa với việc thị trường được mở rộng, tiêu thụ được nhiều hơn nên sản xuất phát triển và lại càng nhiều nguyên liệu hơn. Thực tế phát triển kinh tế của nhiều nước như: Nhật Bản, Singapore,... đã chứng minh rằng nhập khẩu chỉ phát triển khi xuất khẩu phát triển và ngược lại.
IV. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với Công ty PACKEXPORT.
Khoa học kỹ thuật là cơ sở để phát triển sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật sẽ làm tiền đề cho công cuộc hiện đại hoá - công nghiệp hoá đất nước. Nâng cao không ngừng trình độ khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, đó là mục tiêu đề ra của mọi quốc gia. Vấn đề chuyển giao thiết bị và kỹ thuật sản xuất bao bì - hoàn thiện sản phẩm trong thị trường quốc tế được tiến hành như là một công cụ góp phần thay đổi, hoàn thiện hơn trình độ khoa học kỹ thuật nền kinh tế của mọi quốc gia, vì thế nó có tầm quan trọng rất lớn. ở đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất bao bì phục vụ xuất khẩu hàng hoá trong quan hệ buôn bán trao đổi giữa các quốc gia với nhau. Vì mỗi quốc gia, nhất là những nước phát triển luôn luôn có những đầu tư thích đáng trong vấn đề thiết kế cải tiến mẫu mã bao bì, chú ý tới sở thích của người tiêu dùng để tiêu thụ được nhiều sản phẩm - hàng hoá.
Thông thường các nước nhập khẩu là những nước đang phát triến do đó thường phải nhập khẩu các loại nguyên liệu, vật tư làm bao bì cao cấp và các dây chuyền thiết bị sản xuất bao bì đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu hàng hoá và tiêu dùng nội địa. Do đó, không tránh khỏi những bất lợi khi quan hệ với các nước phát triển ở chỗ: nhập phải loại vật tư kém phẩm chất, thiết bị và công nghệ đã qua sử dụng, phụ thuộc vào người bán,...
Với ý nghĩa to lớn trong thực tiễn phát triển kinh tế, nhiệm vụ đề ra với công tác nhập khẩu vật tư nguyên liệu sản xuất bao bì đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nói chung và đối với Công ty PACKEXPORT nói riêng là: Đảm bảo góp phần nâng cao trình độ sản xuất trong nước, tăng số lượng, chất lượng của sản phẩm sản xuất trong nước; nhập khẩu vật tư, nguyên liệu sản xuất hàng cao cấp trong khi trong nước chưa sản xuất được
Phần thứ hai:
Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì.
i. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Quá trình hình thành và phát triển.
a/ Quá trình hình thành.
Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được thành lập theo quyết định năm 1976 với tên gọi là Công ty bao bì xuất nhập khẩu. Đến năm 1982 Công ty được đặt tên thành Công ty vật tư bao bì và bao bì xuất khẩu. Tháng 12/1989 do những biến đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế nước nhà và nền kinh tế các nước trong khối xã hội chủ nghĩa một lần nữa Công ty lại đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được giữ nguyên cho đến bây giờ.
Năm 1993 căn cứ theo nội dung nghị định số 388 - HĐBT ngày 20/11/1991 và nghị định số 156 - HĐBT ngày 7/5/1992 về việc thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì được thành lập được thành lập theo:
- Thông bao số 163/ TB ngày 21/5/1993 và công văn số 2999/ KTN ngày 19/6/ 1993 của văn phòng Chính phủ.
- Quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước số 738/ TM - TCCB ngày 28/6/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương mại.
Theo quyết định số 738/TM - TCCB của Bộ trưởng Bộ thương mại Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì có tên giao dịch đối ngoại là Vietnam National packaging technology and import - export corporation.
Điện tín: PACKEXPORT.
Trụ sở chính: 31 phố hàng Thùng - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì gồm một số đơn vị trực thuộc:
- Trung tâm nghiên cứu và phát triển và ứng dụng kĩ thuật bao bì 139 Lò Đúc - Hà Nội.
- Xưởng in thực nghiệm và phát triển bao bì hợp đồng tại 139- Lò Đúc Hà Nội.
- Xí nghiệp sản xuất bao bì carton 251 Minh Khai- Hà Nội.
- Chi nhánh Công ty XNK và kĩ thuật bao bì tại Hải Phòng - 105 Điên Biên Phủ.
- Chi nhánh Công ty XNK tại 82 Hoàng Diệu- Đà Nẵng .
Công ty XNKvà kĩ thuật bao bì là doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thương mại, thực hiện việc sản xuất kinh doanh và nghiên cứu phát triển bao bì. Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng nhà nước có con dấu theo qui định của của Nhà nước. Công ty là hội viên của liên đoàn bao bì châu Âu (APF) và tổ chức bao bì thế giới (WPO).
Theo quyết định số 7381/TM - TCCB mục đích hoạt động của công ty XNK và kĩ thuật bao bì là thông qua hoạt động xản xuất kinh doanh của Công ty nhằm khai thác một cách có hiệu quả các nguồn vật tư nhân lực và tài nguyên của đất nước đồng thời tiến hành nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất để không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng bao bì hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu hàng xuất khẩu và nhu cầu hàng tiêu dùng trong nước.
* Mục tiêu ngành nghề kinh doanh của Công ty:
- Trực tiếp và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu các loại thiết bị, vật tư bao bì và các mặt hàng khác phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức sản suất và gia công, liên doanh liên kết sản xuất các loại bao bì, hàng hoá khác cho sản xuất tiêu dùng trong nước theo qui định hiện hành của Nhà nước và của Bộ Thương mại.
- Nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật về bao bì, làm dịch vụ tư vấn về bao bì.
- In nhãn hiệu, in bao bì và các ấn phẩm khác theo quyết định của Nhà nước.
* Nội dung hoạt động của Công ty bao gồm:
- Trực tiếp sản xuất các sản phẩm bao bì và các sản phẩm hàng hoá khác do Công ty sản xuất khai thác, hoặc do liên doanh liên kết và đầu tư sản xuất tạo ra.
- Trực tiếp nhập khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc phục vụ cho ngành sản xuất và kinh doanh bao bì của Công ty. Được nhập khẩu một số hàng tiêu dùng thiết yếu để phục vụ sản xuất kinh doanh của Công ty khi Bộ Thương mại cho phép.
- Tổ chức sản xuất gia công, liên doanh liên kết sản xuất các loại bao bì hàng hoá khác cho xuất khẩu tiêu dùng trong nước theo quy định hiện hành của Nhà nước và của Bộ Thương mại.
- Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu và thực hiện các dịch vụ bao bì theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
- Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về bao bì .
- Được in nhãn hiệu bao bì và các ấn phẩm khác theo quy định của Nhà nước, của Bộ Thương mại và của Bộ quản lý ngành cho phép.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật về bao bì.
- Hợp tác trao đổi kỹ thuật về bao bì với các tổ chức hữu quan trong và ngoài nước.
b) Quá trình phát triển.
Quá trình phát triển của công ty XNK và kĩ thuật bao bì được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1(từ năm 1973-1990): Giai đoạn vừa hoàn chỉnh vừa xây dựng bộ máy quản lý.
Thời kì này sản xuất ở trong tình trạng thủ công lạc hậu với mấy cỗ máy tự chế trong một địa điểm lụp xụp đường xá lầy lội. Sản phẩm mà Công ty làm ra là những bao bì đơn giản, bởi lẽ dây truyền sản xuất thời kì đó đều là thủ công.
Bao bì sản phẩm ra đời của công ty PACKEXPORT sản xuất ra với nhiệm vụ để đóng góp hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Trong những năm đầu mới thành lập, trình độ sản xuất còn thấp nên sản phẩm của công ty chỉ xếp loại 3 so với đơn vị sản suất bao bì khác. Cũng như các đơn vị khác dưới thời bao cấp, xí nghiệp bao bì xuất khẩu Hà Nội sản xuất theo chỉ tiêu phân cấp của Bộ Thương mại. Nhà nước bảo hộ đầu vào và bao tiêu đầu ra. Do vậy, hoạt động sản xuất kém hiệu quả.
ở giai đoạn này tất cả các mặt hàng vật tư nguyên vật liệu phục vụ công tác kinh doanh và sản xuất bao bì chủ yếu Công ty phải nhập khẩu bằng hợp đồng thương mại theo nghị định thư của Việt Nam và các nước nhập khẩu. Bạn hàng chủ yếu lúc bấy giờ là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó lớn nhất là Liên Xô. Ngoài ra còn một số bạn hàng khác như Nhật Bản, Thụy Điển, Triều Tiên,... nhưng không thường xuyên và lâu dài bởi thường do các nước này có viện trợ hoặc là mình phải nhập do các bạn hàng XHCN không có khả năng cung cấp.
Lượng hàng mà Công ty nhập về chủ yếu bán cho các xí nghiệp sản xuất gia công trực thuộc Công ty chiếm 80%, 20% còn lại bán cho các đơn vị khác nhưng được điều tiết theo kế hoạch định hướng của Bộ Ngoại Thương, số lượng bán ra và giá cả theo định hướng kế hoạch và không nhận uỷ thác.Vì vậy thời kỳ này Công ty không hề có khái niệm thị trường và việc tìm hiểu thăm dò thị trường để thúc đẩy công tác bán hàng là không cần thiết.
Giai đoạn 2 (Từ 1990 đến nay).
Cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Cũng như nhiều doanh nghiệp quốc doanh khác ban đầu công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì cũng gặp phải những khó khăn lúng túng. Những nhược điểm trong cơ chế quản lý cũ đã bộc lộ rõ nét: sản xuất đình trệ, Công nhân không có việc làm, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng giảm sút,...Nhưng với tinh thần quyết tâm cao, cán bộ công nhân trong Công ty đã phấn đấu đổi mới, tự thích nghi và tìm được chỗ đứng của mình trong cơ chế thị trường. Công ty đã nhanh chóng thoát ra khỏi thời kỳ đình trệ, từng bước phát triển sản xuất và phát triển đi lên. Để đáp ứng nhu cầu thị trường Công ty mạnh dạn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nghiên cứu sản xuất, Công ty đã vận dụng các kiến thức mới về kinh tế thị trường, áp dụng các hình thức tiếp thị đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Công ty đã chú trọng tới việc đào tạo lại cán bộ công nhân viên, thực hiện sàng lọc trong nội bộ, bố trí sản xuất phụ, thực hiện chế độ hoạch toán trong nội bộ, giao quyền chủ động cho các xí nghiệp thành viên,...Do đó mà, trong khi một số doanh nghiệp quốc doanh khác lao đao phá sản thì Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì vẫn vững vàng và khẳng định sức sống của mình.
Tóm lại, với truyền thống 26 năm xây dựng và trưởng thành, tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì đã trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự biến đổi của cơ chế quản lý của Nhà nước. Để đứng vững trong cơ chế thị trường và góp phần đưa nước ta ra nhập thị trường thế giới Công ty đã luôn phát huy truyền thống lao động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh, vượt qua những thử thách gay go của nền kinh tế thị trường từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế đất nước, góp phần tích cực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Một số đặc điểm chủ yếu của Công ty XNK và kỹ thuật Bao bì.
Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động bộ máy của Công ty.
a. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
Theo quy định của Bộ Thương mại và căn cứ tình hình thực tiễn của Công ty, bộ máy quản lý được tổ chức như sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty
XNK và kỹ thuật Bao bì.
Tổng Giám Đốc
Phó giám đốc XNK Phó giám đốc SX - Tiêu thụ
Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Tổng Trung
XNK KD XNK KT kế tổ chức kho tâm
1+ 2 vật tư 3 tài vụ hoạch HC Cổ NCPT
tổng Loa ƯDKT
hợp Bao bì
Xí Xí Xí Xí Xí Chi Chi
nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp nhánh nhánh
bao bì bao bì in 139 bao bì bao bì Đà Hải
chất dẻo carton Lò Đúc Hùng Đà Nẵng Phòng
Hải Phòng Pháp Vân Vương Nẵng
Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Giám đốc Công ty tổ chức điều hành mọi hoạt động của Công ty theo chế độ thủ trưởng và đại diện cho mọi quyền lợi - nghĩa vụ của Công ty trước pháp luật và các cơ quan quản lý của Nhà nước.
Giúp việc cho Giám đốc Công ty là phó Giám đốc Công ty do Giám đốc Công ty đề nghị và được Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Mỗi phó giám đốc được phân công phụ trách một hay một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về công việc được giao.
Giám đốc Công ty quy định cơ cấu, tổ chức bộ máy, nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và mối quan hệ của các đơn vị trực thuộc Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước.
* Chức năng của các phòng ban được quy định như sau:
+ Phòng kế hoạch tổng hợp.
- Có chức năng xây dựng và tổng hợp các loại kế hoạch, giúp Giám đốc kiểm tra đôn đốc về sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết, xây dựng cơ bản,...
- Nghiên cứu, tổng hợp và xử lý thông tin thị trường trong và ngoài nước kịp thời báo cáo, đáp ứng cho sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch dự trữ, kế hoạch kiến thiết cơ bản, tổng hợp và lập báo cáo thực hiện kế hoạch.
+ Phòng kinh doanh vật tư bao bì:
- Thực hiện mua bán, liên doanh liên kết sản xuất các loại vật tư nguyên liệu, thiết bị, sản phẩm bao bì và các hàng hoá khác.
- Giao dịch ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán gia công, vận chuyển,... theo dõi tình hình buôn bán vật tư.
- Khai thác nguyên vật liệu thay thế nhập khẩu và khai thác nguồn hàng xuất khẩu cho Công ty. Nghiên cứu tình hình thị trường, mức giá cả để có thể thông báo kịp thời cho các phòng ban chi nhánh liên quan.
+ Phòng xuất nhập khẩu 1+2+3:
- Phòng XNK bao gồm phòng XNK 1, 2 và 3. Ba phòng này thực hiện các chức năng kinh tế đối ngoại theo điều lệ của Công ty và theo quy định của Nhà nước. Được phép XNK các loại bao bì và sản phẩm liên quan đến bao bì
+ Tổng kho Cổ Loa:
- Có chức năng bảo quản, xuất nhập, tái chế hàng của Công ty đặt tại khu vực. Xuất nhập hàng hoá kịp thời và đúng trình tự. Mở sổ sách theo dõi tình hình XNK hàng hoá, đối chiếu chứng từ luân chuyển cho các phòng ban liên quan.
+ Phòng nghiên cứu phát triển:
- Có trách nhiệm nghiên cứu thị trường để có tin tức cập nhật cho Công ty, áp dụng những tiến bộ khoa học hợp lý nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm sản xuất.
+ Phòng tổ chức hành chính:
- Giúp Giám đốc nghiên cứu và xây dựng quản lý kinh doanh điều hành công tác sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời điều hành công tác hành chính.
- Tổ chức sắp xếp cán bộ, thực hiện chế độ với cán bộ
+ Phòng tài vụ kế toán:
- Giúp Giám đốc tổ chức hoạch toán kinh tế bằng tiền, tổ chức mọi hoạt động kinh doanh - sản xuất trong phạm vi cả Công ty.
- Tổ chức hoạch toán kinh tế ở Công ty và hướng dẫn hoạch toán kinh tế với các đơn vị trực thuộc. Tổ chức duyệt quyết toán của Công ty và các đơn vị trực thuộc.
- Thực hiện các chế độ chính sách về kế toán.
- Tham gia vào quá trình duyệt quyết toán ký kết các hợp đồng thương mại với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Cơ cấu tố chức của PACKEXPORT là một chỉnh thể thống nhất, quan hệ mật thiết với nhau nhằm thực hiện những mục tiêu chung của Công ty. Các tổ chức tham mưu quản lý, các văn phòng đaị diện tại nước ngoài, các đơn vị kinh doanh và các xí nghiệp liên doanh trong và ngoài nước liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị cũng như của toàn Công ty. Đồng thời các bộ phận này cũng chịu sự quản lý, chỉ đạo và điều hành chung của ban giám đốc PACKEXPORT.
b. Cơ chế hoạt động.
Để có thể thích nghi tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, PACKEXPORT cũng như nhiều doanh nghiệp khác trong cả nước đều ý thức được điều quan trọng rằng: cần thoả mãn nhu cầu tối đa của khách hàng, nhằm lôi kéo được, duy trì được thị phần và thu được lợi nhuận, đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách tăng nhanh số vòng quay. Để thực hiện được mục tiêu này trước hết PACKEXPORT cần phải có một đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ nghiệp vụ, có kiến thức nhất định về ngành hàng kinh doanh (chủ yếu là máy móc thiết bị). Đồng thời PACKEXPORT cũng phải tạo ra một tổ chức hoạt động gọn nhẹ, phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên và mỗi ca kíp làm việc.
Quán triệt tinh._.và ngoài nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt chức năng của mình.
Song song với việc mở rộng thị trường Công ty cần xác định những thị trường trọng điểm của mình để tập trung hoạt động có hiệu quả hơn. Trước đây thị trường trọng điểm của Công ty là Liên Xô cũ, còn hiện nay phần lớn giá trị nhập khẩu của Công ty là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên. Đây là điều mà chúng ta cần suy nghĩ vì Trung Quốc chưa hẳn là một nước phát triển, chưa tập trung được những công nghệ, thiết bị hiện đại dù có ưu điểm là giá vật tư nguyên liệu và thiết bị thấp hơn so với các nước khác. Trong tương lai Công ty cần hướng và những thị trường như Pháp, Mỹ vì đây là những nước có nền công nghiệp phát triển, có khả năng cung cấp thiết bị hiện đại, phong phú cho Công ty.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi.
Để có thể tồn tại và phát triển trong mọi cơ chế cạnh tranh hiện nay, Công ty cần có đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi. Dù hiện có trên 80% cán bộ có trình độ đại học, có kinh nghiệm nhưng đa phần đã lớn tuổi nên Công ty cần có chính sách tuyển dụng mới. Đối tượng của chính sách này đa phần là sinh viên khối kinh tế và các trường kĩ thuật mới ra trường, nhưng có trình độ, năng động và có nguyện vọng gắn bó lâu dài với Công ty. Tuy chưa có kinh nghiệm nhưng với sự giúp đỡ của những cán bộ dày dạn kinh nghiệm thì chắc chắn trong tương lai họ sẽ là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay.
Đội ngũ cán bộ Công ty phải có kiến thức, sáng tạo và biết tạo ra bầu không khí thuận lợi trong cơ quan để tăng hiệu quả công việc. Đặc biệt là lãnh đạo cần sử dụng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần để động viên cán bộ công nhân viên. Cụ thể là sẽ qui định một khoản tiền thưởng khi cán bộ ký kết được hợp đồng hay thưởng khi Công ty làm ăn có lãi, hoặc tổ chức cho nhân viên đi nghỉ mát,v..v. Bên cạnh đó cán bộ lãnh đạo còn phải có khả năng ngoại giao tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, có tính quyết đoán trong công việc.
Đội ngũ cán bộ giỏi của Công ty cần giỏi về nghiệp vụ, thành thạo về ngoại ngữ, am hiểu cả kỹ thuật lẫn nghiệp vụ ngoại thương. Nhìn chung cán bộ Công ty thường chỉ được đào tạo chuyên về một lĩnh vực riêng như nghiệp vụ ngoại thương hay kỹ thuật. Để thực hiện tốt việc nhập khẩu thì nó đòi hỏi cán bộ phải nắm vững cả hai lĩnh vực trên.
Do vậy cán bộ Công ty phải tự tìm tòi, nghiên cứu, học tập nên gặp nhiều khó khăn. Chính vì thế PACKEXPORT cần thực hiện chính sách cử cán bộ đi đào tạo thêm về trình độ kỹ thuật được nâng cao về các nghiệp vụ ngoại thương và ngoại ngữ. Bên cạnh đó cán bộ nghiệp vụ còn phải nắm vững Luật Thương mại mới của nước ta (có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 ), các qui định của Bộ Thương mại về hàng hoá cấm nhập khẩu, ngừng nhâp khẩu cũng như tập quán thương mại quốc tế hay luật pháp của mỗi quốc gia,...để vận dụng có hiệu quả trong kinh doanh.
Giải pháp này chắc chắn sẽ được Công ty thực hiện tốt nhất nếu như Công ty có người làm công tác tổ chức cán bộ có trình độ, năng lực về công tác cán bộ, đánh giá và nhận xét cán bộ một cách chính xác, tham mưu chuẩn xác cho lãnh đạo Công ty về việc bố trí, xắp xếp và sử dụng cán bộ theo sở trường năng lực. Đánh giá cán bộ không đúng, không chính xác dẫn đến sử dụng cán bộ một cách tuỳ tiện, làm mất đi động lực phấn đấu của từng cá nhân.
Giải pháp này chắc chắn sẽ được PACKEXORT thực hiện tốt nhất vì điều này bắt nguồn từ việc Công ty đã có sẵn đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ hơn. Hơn nữa số cán bộ này luôn cố gắng học hỏi nâng cao trình độ của bản thân. Hiện nay Công ty đã có một số lượng đáng kể cán bộ có trình độ sau đại học như thác sĩ, phó tiến sĩ. Đó là chưa kể tới lực lượng trẻ vừa tốt nghiệp loại giỏi tại các trường đại học có uy tín đang rất muốn làm việc tại Công ty.
Thực tế hiện nay Công ty phải xắp xếp, bố trí lực lượng của mình cho hợp lý hơn để phát huy năng lực sáng tạo của mỗi người. Với những cá nhân đã nhiều tuổi, trình độ thấp, năng lực chuyên môn hạn chế, kinh doanh không có hiệu quả Công ty có thể thực hiện giảm biên chế. Ngược lại những cá nhân có trình độ, được đào tạo chính quy, nhanh nhẹn tháo vát, năng động trong kinh doanh đem lại hiệu quả cho Công ty thì cần được khen thưởng thích đáng.
Tóm lại, để vượt qua thử thách, cán bộ trong Công ty cần đoàn kết thống nhất hơn nữa, không ngừng trau dồi nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ và phải đồng tâm hiệp lực cùng hướng tới mục đích làm cho Công ty lớn mạnh không ngừng.
Hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ nhập khẩu.
Hiện nay các nghiệp vụ mà Công ty đang áp dụng là phù hợp và có hiệu quả. Nhưng điều này không có nghĩa là các nghiệp vụ đó không bao giờ thay đổi. Trong thời gian tới, nhiều yếu tố mà Công ty không kiểm soát được như kinh tế, chính trị, pháp luật,... sẽ thay đổi và điều này sẽ kéo theo việc thay đổi các nghiệp vụ cho phù hợp với tình hình.
Ngay từ khâu chọn đối tác kinh doanh Công ty phải tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài về quá trình phát triển của họ, lĩnh vực kinh doanh của họ, những ưu điểm, khuyết điểm của vật tư nguyên liệu, thiết bị do họ sản xuất,... Đây là điều quan trọng vì trong kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều tham gia kinh doanh và trong đó có cả những Công ty ma, những Công ty trung gian môi giới, những Công ty làm ăn trái pháp luật.
Trong đàm phán cần nắm vững nghệ thuật đàm phán, biết vận dụng ba yếu tố của đàm phán là bối cảnh, thời gian và quyền lực của đàm phán sao cho có lợi nhất.
- Bối cảnh đàm phán là môi trường và điều kiện để các chủ thể tiến hành đàm phán như: địa điểm diễn ra, thời cơ, tiềm lực, con người. Nguyên tắc mà Công ty cần quán triệt là phải che dấu bối cảnh của mình và tìm hiểu, khai thác bối cảnh của đối tác.
- Về thời gian đàm phán, đó là một quá trình có điển khởi đầu và có điểm kết thúc.
Kết điểm là những điểm chết về thời gian và đàm phán, về chất lượng, hay về giá cả thiết bị. Đàm phán sẽ kết thúc khi một trong hai bên hay cả hai bên đến điểm chết. Công ty cần che dấu những điểm chết của mình như chất lượng mà chủ đầu tư yêu cầu, vốn dành cho nhập khẩu,... và khai thác điểm chết của đối phương. Ví dụ như chúng ta biết rằng vật tư nguyên liệu, thiết bị sản xuất bao bì của Trung Quốc thường có chất lượng không cao so với hàng của Thụy Điển, Pháp, Nhật Bản và Nam Triều Tiên nên chúng ta có thể tận dụng điểm yếu này trong đàm phán để buộc họ nhượng bộ một số nhược điểm khác.
- Quyền lực của đàm phán là sức mạnh của sự am hiểu của chủ thể tham gia đàm phán. Muốn nắm được quyền lực này thì Công ty phải hiểu về chuyên môn kỹ thuật, về pháp luật.
Khi ký kết hợp đồng Công ty chú ý nhiều đến điều khoản giá cả để tiết kiệm vốn. Nhưng không vì thế mà Công ty nhập khẩu những vật tư chất lượng kém, thiết bị cũ do các nước khác thải loại, chưa dùng được bao lâu đã phải thay thế và ảnh hưởng tới môi trường sống. Hợp đồng cần chặt chẽ về mọi điều khoản để tránh thua thiệt về sau. Hiện nay các điều khoản về bất khả kháng chưa được các doanh nghiệp Việt Nam cùng PACKEXPORT quan tâm đúng mức và chính điều này đã gây khó khăn cho chúng ta. Đơn giản là vì tình hình mỗi nước đều có khả năng thay đổi, đều có thể xảy ra các tình trạng bất khả kháng theo chiều hướng không có lợi cho Công ty nên PACKEXPORT cần quan tâm tới vấn đề này để được an toàn trong kinh doanh.
Khi thực hiện các thủ tục hải quan để tiếp nhận hàng hoá, Công ty cần chú ý điểm sau: Hải quan Việt Nam dù có nhiều cố gắng trong việc đơn giản hoá các thủ tục hải quan nhưng trên thực tế thì cán bộ trong Công ty vẫn phàn nàn về cách thức của họ. Để tránh phiền hà, khi làm thủ tục hải quan cán bộ công nhân cần chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết như: hợp đồng, quyết định của Bộ Thương mại phê duyệt nhập khẩu, công văn phê duyệt của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, tờ khai hải quan bẳng kê chi tiết lô hàng nhập khẩu, lệnh giao hàng, hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận chất lượng, chứng nhận xuất xứ, phiếu đóng gói chi tiết,... Trong tờ khai hải quan cần nêu rõ mã của hàng hoá nhập khẩu. Vì là một Công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu thường xuyên phải quan hệ với hải quan nên Công ty cần xây dựng tốt mối quan hệ với hải quan.
Giải pháp về đổi mới kinh doanh.
Hiện nay lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của PACKEXPORT vẫn là nhập khẩu vật tư nguyên vật liệu, thiết bị máy móc sản xuất bao bì, đây là thế mạnh và cũng là nhiệm vụ chính của Công ty. Trong khi đó xuất khẩu của Công ty đạt kết quả thấp thậm chí năm 2001 vừa qua, Công ty còn không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu. Để phục vụ tốt hơn nữa cho nhập khẩu, Công ty cần đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu. Làm như vậy sẽ giúp Công ty tăng thêm ngoại tệ cho nhập khẩu đồng thời mở rộng quan hệ với các Công ty khác để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhập khẩu.
Một điều dễ thấy ở PACKEXPORT là Công ty còn nặng về nhập khẩu uỷ thác. Để khắc phục nhược điểm này Công ty chú trọng tới hình thức nhập khẩu tự doanh. Đây là một hình thức kinh doanh mang lại lợi nhuận cao và giúp Công ty chủ động trong kinh doanh, chủ động trong lựa chọn vật tư, thiết bị nhập khẩu nhưng nó cũng khá mạo hiểm. Nhưng muốn kinh doanh có hiệu quả trong cơ chế thị trường thì phải chấp nhận mạo hiểm. Chính vì vậy, PACKEXPORT nên tìm kiếm vốn từ các nguồn khác nhau như vay ngân hàng, vay các tổ chức hành chính quốc tế để nhập khẩu tự doanh,... đồng thời, Công ty phải tiến hành nghiên cứu nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước xem họ cần loại vật tư nguyên liệu, thiết bị nào, thông số kỹ thuật ra sao, chủng loại quy cách như thế nào,... sau đó PACKEXPORT sẽ tiến hành giao dịch nhập khẩu với đối tác nước ngoài rồi cung cấp lại cho doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu.
Đổi mới hình thức kinh doanh còn có nghĩa là Công ty phải năng động tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Cụ thể PACKEXPORT phải tăng cường các hoạt động tiếp thị trên thị trường nhằm nâng cao uy tín của mình với các doanh nghiệp. Có như vậy các chủ đầu tư mới tin tưởng vào khả năng nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT . Ngoài ra, Công ty có thể sử dụng chính sách tăng lương, tăng thưởng để khuyến khích cán bộ của mình tự tìm kiếm bạn hàng cho Công ty. Thực tế đây là biện pháp tìm bạn hàng khá hữu hiệu vì cán bộ của Công ty có mối quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường có nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn phát đạt muốn nhập khẩu thiết bị để hiện đaị hoá sản xuất. Trong khi đó Công ty lại chưa thực sự quan tâm đến những bạn hàng này. Thực tế là từ trước đến nay PACKEXPORT vẫn có quan hệ với các doanh nghiệp tư nhân nhưng chỉ dừng lại ở việc nhập khẩu nguyên liệu hay hàng tiêu dùng cho họ. Tới đây Công ty cần tăng cường quan hệ với các doanh nghiệp này để mở rộng phạm vi kinh doanh cuả mình.
Nhưng điều cần thiết nhất là Công ty phải đổi mới thực sự các hoạt động kinh doanh của mình. Đó là việc Công ty sẽ liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài để trực tiếp đứng tên hay tham gia đấu thầu với tư cách là người bán. Đây là hình thức kinh doanh hoàn toàn mới với Công ty. Trước đây Công ty cũng liên doanh với các doanh nghiệp khác nhưng chỉ để sản xuất hàng xuất khẩu khác như xí nghiệp liên doanh sản xuất tất sùi ở Nga. Còn trong hình thức này Công ty đóng vai trò như người bán đứng ra cung cấp mọi loại vật tư nguyên liệu và thiết bị đồng bộ theo yêu cầu của chủ đầu tư mà không phải bỏ ra nhiều vốn để nhập khẩu những loại vật tư nguyên liệu hay thiết bị máy móc đó. Lúc này liên doanh vừa đóng vai trò sản xuất vừa làm chức năng cuả Công ty ngoại thương tới tay người tiêu dùng. Nếu phát hiện ra nhu cầu của khách hàng, Công ty sẽ tham gia đấu thầu hay gửi các bản chào hàng của mình. Với uy tín và lợi thế trong kinh doanh PACKEXPORT sẽ dễ dàng được bạn hàng tin cậy và lựa chọn. Sau đó Công ty sẽ tiếp tục thông báo về nhu cầu này cho đối tác liên doanh của mình để họ tiến hành sản xuất, cải tiến cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Công ty sẽ tiếp tục tiến hành các thủ tục nhập khẩu và cung cấp cho chủ đầu tư. Trong suốt thời gian bảo hành Công ty sẽ đóng vai trò người bán đứng ra kiểm tra, bảo hành hướng dẫn kỹ thuật vận hành máy móc. Như vậy sẽ tiết kiệm được các chi phí cho chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật.
Với giải pháp đổi mới hình thức kinh doanh như trên, chúng ta tin rằng Công ty sẽ đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Một số kiến nghị đối với nhà nước.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì chỉ những nỗ lực của Công ty thôi chưa đủ mà cần có cự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp sau:
Thuế nhập khẩu.
Chúng ta đều biết rằng thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, là một biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. Tại các nước phát triển thuế thu nhập có vai trò rất quan trọng còn ở nước ta thuế xuất nhập khâủ chiếm phần lớn trong nguồn thu của ngân sách.
Theo đánh giá chung thì hiện nay thì hệ thống thuế của nước ta có nhiều vấn đề bất cập cần xem xét. Chúng ta chủ yếu tiến hành đánh thuế theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với tổng giá trị hàng hoá tính theo giá CIF. Trong khi đó, Công ty lại nhập khẩu với giá trị lớn nên mức thuế phải nộp khá lớn. Hiện nay một số các thiết bị phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu đã được miễn thuế và Nhà nước chỉ đánh thuế với các thiết bị chính với thế suất ưu đãi, nhưng vẫn còn những vấn đề đặt ra: Các Công ty liên doanh được quyền nhập khẩu thiết bị với thuế suất bằng không trong khi Công ty vẫn phải chịu thuế. Điều này không tạo được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Nhà nước cần điều chỉnh để tạo được sự công bằng trong kinh doanh.
Thuế nhập khẩu chỉ làm hạn chế việc nhập khẩu thiết bị mà không có ý nghĩa bảo hộ sản xuất trong nước do đây là loại hàng hoá mà nước ta không sản xuất được.
Biểu thuế của nước ta vừa đơn giản, vừa phức tạp. Nó không có quy định ưu đãi với các thiết bị của các nước khác nhau và có mức thuế suất từ 0 đến 100%. Biểu thuế cũng chỉ rõ mức thuế với từng mặt hàng cụ thể, nhưng lại không kê khai đầy đủ được các chủng loại khác nhau. Chính điều này gây khó khăn cho cán bộ Công ty khi nhập khẩu những thiết bị không xác định được nó nằm vào nhóm nào để tính thuế. Vì vậy, Nhà nước cần lựa chọn đưa ra một biểu thuế đối với từng nhóm hàng chung hay xây dựng biểu thuế chi tiết với tất cả các loại vật tư nguyên liệu hay thiết bị cụ thể.
Xu hướng giảm thuế quan đang được thực hiện rộng rãi trên khắp thế giới để khuyến khích trao đổi giữa các nước. Mặt khác, đây cũng là yêu cầu bắt buộc để tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO hay tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của khu vực ASEAN (AFTA). chúng ta dự định từ nay đến năm 2006 sẽ cắt giảm thuế suất còn từ 0 đến 5% với hàng hoá từ các nuức ASEAN.
Tóm lại, từ những vấn đề này Nhà nước cần nghiên cứu để sửa đổi thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp để tạo điều kiện cho Công ty thực hiện tốt việc nhập khẩu vật tư thiết bị sản xuất bao bì nhất là bao bì cao cấp. Nhà nước nên thực hiện chính sách miễn thuế hoàn toàn đối với thiết bị sản xuất bao bì trong thời gian tới. Đây sẽ là một nhân tố nâng cao hiệu quả kinh doanh của PACKEXPORT.
Thực hiện việc quản lý ngoại tệ có hiệu quả.
PACKEXPORT cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều phải sử dụng ngoại tệ trong thanh toán mà Nhà nước quản lý ngoại tệ với các hoạt động của Công ty khá chặt chẽ, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. Tuy nhiên, việc quản lý này chưa thực sự có hiệu quả cao trên bình diện của nền kinh tế. Ngoại tệ dành cho nhập khẩu trong khi trên thị trường còn lưu hành nhiều ngoại tệ dù Nhà nước đã có quy định thanh toán trong nội địa không sử dụng ngoại tệ. Nhà nước cần xem xét, điều chỉnh nguyên tắc và cơ chế phân bổ ngoại tệ cho nhập khẩu.
PACKEXPORT cần được ưu tiên phân bổ vốn ngoại tệ nhiều hơn các đơn vị nhập khẩu hàng hoá khác vì Công ty thực hiện nhập khẩu giá trị lớn. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần cho phép các doanh nghiệp có ngoại tệ trao đổi với nhau khi cần thiết. Điều nay có nghĩa là PACKEXPORT có thể vay mượn hay liên kết với các doanh nghiệp khác, tranh thủ ngoại tệ của họ cho các chế độ hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, Nhà nước gặp một số khó khăn khi thực hiện giải pháp này. Khó khăn trước tiên là chúng ta rất khó kiểm soát được ngoại tệ nhất là lượng ngoại tệ trên thị trường tự do của nước ta. Hơn nữa, kinh tế nước ta còn quá nhỏ bé và yếu kém nên không đảm bảo được sự ổn định và tăng giá của đồng Việt Nam đối với ngoại tệ của các nước như Mỹ, Đức, Anh,... Cụ thể khi Đôla tăng giá đột ngột như thời gian vừa qua gây thiệt hại cho cả PACKEXPORT và nền kinh tế nhưng chúng ta lại buộc phải chấp nhận tình hình này mà không có giải pháp hữu hiệu để đối phó. Ngân hàng Nhà nước không thể can thiệp bằng cách bán Đôla ra thị trường vì dự trữ ngoại tệ của chúng ta không nhiều.
Chính sách tỉ giá hối đoán hợp lý:
Tỷ giá hối đoái của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến việc kinh doanh của PACKEXPORT. Hiện nay chủ trương của Đảng là hướng mạnh ra xuất khẩu. Từ cuối năm 1996 đồng đôla lên giá không ngừng tạo điều kiện tốt cho uất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, điều này lại gây thiệt hại lớn cho các Công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu như PACKEXPORT.
Chính vì vậy nhà nước nên áp dụng một chế độ nhiều tỷ giá đối với PACKEXPORT. Tức là với thiết bị sản xuất bao bì khi nhập khẩu thì được tính theo tỷ giá riêng ưu đãi hơn khi nhập khẩu các hàng hoá khác. Như vậy thì các hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu đều được khuyến khích.
Những biến động mạnh của tỷ giá hối đoái gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế nói chung cũng như các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng nếu tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và nội tệ tăng đột ngột thì hàng nhập khẩu sẽ tăng giá đồng thời các khoản nợ của nước ta cũng tăng lên.Còn ngược lại các khoản thu tư xuất khẩu lại giảm xuống và dẫn đến tình trạng nhập siêu. Điều này dẫn đến Nhà nước phải can thiệp để giữ tỷ giá bán sao cho nhỏ nhất.
Thực hiện cải cách các thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính phiền hà là căn bệnh chính của nước ta muốn có hiệu quả cao trong kinh doanh nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Để tạo điều kiện cho Công ty XNK và kĩ thuật bao bì hoạt động tốt nhà nước phải cải tiến thủ tục nhập khẩu.
Cụ thể Nhà nước cần phải chỉ đạo các cơ quan chức năng có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý nhập khẩu. Bộ Thương mại có tránh nhiệm phê duyệt các dự án theo thẩm quyền của mình, Tổng cục Hải Quan có trách nhiệm kiểm tra giám sát hàng nhập khẩu thu thuế hàng nhập khẩu.
Đặc biệt là ngành hải quan cần đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của mình vì đây là ngành gây nhiều phiền hà nhất cho các doanh nghiệp. Sau khi bãi bỏ giấy phép nhập khẩu chuyến, một số thủ tục mà các chuyên viên Bộ Thương mại thường làm trước đây được chuyển sang cho hải quan thực hiện. Tuy nhiên do trình độ chuyên môn của các cán bộ hải quan chưa theo kịp với yêu cầu khách quan nên hoạt động kém hiệu quả. Ngoài ra một số cán bộ hải quan bị biến chất gây ra những tiêu cực làm mất lòng tin của các doanh nghiệp.
Bộ thương mại cần nâng cao trình độ của cán bộ trong việc xem xét phê duyệt các hợp đồng thiết bị, chỉ các cán bộ có trình độ chuyên môn mới nắm rõ việc nhập khẩu thiết bị đó có lợi hay không mới xem xét kỹ lưỡng và hiểu được chính xác các điều khoản hợp đồng. Có như vậy trong 15 ngày Bộ mới trả lời về cho phép thực hiện hợp đồng hay không. Bộ cũng nên phân công rõ từng cán bộ phụ trách về một lĩnh vực cụ thể để các chuyên viên của bộ nắm rõ hơn về lĩnh vực mình phụ trách và để các doanh nghiệp thuận lợi cho việc liên hệ.
c. Các chính sách hỗ trợ khác.
Song song với việc thực hiện các giải pháp trên Nhà nước cũng cần thực hiện các chủ trương chính sách sau.
- Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý và cơ chế quản lý hiện đại để giúp Công ty và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong môi trường đó.
- Phải có các chính sách về xuất nhập khẩu nhất quán, ổn định để các hoạt động của Công ty không bị xáo trộn và giữ được chữ tín với bạn hàng.
- Nhà nước tiến tới ban hành một luật Công ty chung cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để taọ ra sự bình đẳng trong kinh doanh. Đồng thời có chính sách, chế độ đối xử không phân biệt với mọi thành phần kinh tế. Không nên chỉ ưu tiên khuyến khích mọi thành phần trong nền kinh tế làm ăn có hiệu quả. Nhà nước cần có xu hướng giảm thuế suất để hướng tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực để tạo điều kiện cho PACKEXPORT cũng như các Công ty khác mở rộng hoạt động kinh doanh. Đồng thời cần hạn chế đến mức tối thiểu việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, hạn nghạch theo xu hướng chung của thế giới.
- Nhà nước cần có hướng chỉ đạo để ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Thương mại có thể đứng ra bảo lãnh cho Công ty vay những khoản tiền lớn từ các hãng sản xuất nước ngoài dưới dạng trả chậm với mức lãi suất ưu đãi. Điều này sẽ giúp Công ty hoạt động tốt hơn mà không cần vay tiền ngân hàng.
III - Điều kiện để thực hiện các giải pháp.
Trên đây là một số giải pháp hoàn thiện và đổi mới hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư nguyên liệu, thiết bị sản xuất bao bì xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì. Nhưng muốn thực hiện được những giải pháp này, Nhà nước và Công ty cần có các biện pháp hỗ trợ.
PACKEXPORT là một Công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu vật tư nguyên liệu và thiết bị máy móc sản xuất bao bì. Do vậy, vốn là vấn đề nan giải đối với Công ty. Để giải pháp về vốn của Công ty được thực hiện một cách có hiệu quả, Nhà nước nên xem xét cung cấp thêm vốn kinh doanh cho Công ty. Đơn giản hơn là nhà nước cho phép Công ty giữ lại thuế vốn để tiếp tục kinh doanh. Công ty sẽ có trách nhiệm bảo toàn, sử dụng hợp lý và có hiệu quả vốn kinh doanh. Ngoài ra Công ty cần yêu cầu các chủ đầu tư trong nước thanh toán đầy đủ, nhanh chóng phí uỷ thác để tránh tình trạng ứ đọng vốn và tăng nhanh vòng quay vốn lưu động.
Để thực hiện giải pháp mở rộng thị trường, PACKEXPORT cần tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng cáo về hình ảnh của Công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thông qua những hoạt động này bạn hàng trong và ngoài nước sẽ tin tưởng hơn vào PACKEXPORT và tìm đến với Công ty. Bên cạnh đó Công ty cũng nên tổ chức thường xuyên các hội nghị khách hàng, hội thảo khoa học để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng một cách chính xác. Còn Nhà nước sẽ cung cấp những thông tin về đối tác nước ngoài và về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thị trường nước ngoài. Nhà nước cũng có thể đứng ra tổ chức các hội trợ, triển lãm lớn có sự tham gia của các nhà sản xuất nước ngoài và các chủ đầu tư trong nước.
Đào tạo đội ngũ cán bộ là giải pháp đúng đắn của PACKEXPORT vì cán bộ sau khi đào tạo sẽ đóng góp được nhiều hơn cho Công ty. Để khuyến khích họ, Công ty nên giúp đỡ thanh toán một số chi phí trong quá trình học tập. Ngoài ra cần phải tạo điều kiện về mặt thời gian để cán bộ trong Công ty vừa làm việc vừa học tập tốt. Về phía Nhà nước, cụ thể là Bộ Thương mại cần tổ chức những khoá học ngắn hạn để nâng cao hiểu biết về những chủ trương, chính sách mới của nhà nước.
Muốn hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ nhập khẩu thì trước hết Công ty phải tự hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình. Trước tiên là phải đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân trong Công ty để bố trí công việc cho phù hợp. Công ty cần quy định rõ quy chế làm việc trong nội bộ của mình đồng thời phân công trách nhiệm đến từng cán bộ để họ tự chịu trách nhiệm về công việc. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với từng cá nhân để khuyến khích họ sáng tạo trong công việc và thực hiện tốt hơn các nghiệp vụ nhập khẩu. ở tầm vĩ mô thì Bộ Thương mại cần cử những chuyên viên cao cấp xuống Công ty để hướng dẫn cán bộ xử lý các nghiệp vụ phức tạp mới phát sinh. Ngoài ra, Nhà nước có thể tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về nghiệp vụ nhập khẩu để cán bộ trong Công ty tham khảo và rút ra bài học kinh nghiệm.
Để có thể tồn tại trong cơ chế thị trường Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì cần phải đổi mới phương thức kinh doanh. Nhưng muốn như vậy trước hết Công ty cần phải giúp cho cán bộ thấy được yêu cầu khách quan phải đổi mới và những lợi ích do các phương thức kinh doanh mới đem lại. Sau đó cần khuyến khích, yêu cầu cán bộ thực hiện triết để các phương thức kinh doanh mới. Còn Nhà nước sẽ phải trao quyền tự do trong các hoạt động kinh doanh để Công ty có thể thực hiện triệt để các phương thức mới. Ngoài ra Nhà nước cần cho phép Công ty mở rộng phạm vi kinh doanh sang hình thức liên doanh với người bán hay làm đại lý cho các nhà sản xuất.
Hiện nay chỉ một số máy móc chính của thiết bị toàn bộ phải chịu thuế suất ưu đãi còn các thiết bị phụ trợ không phải nộp thuế, giải pháp bãi bỏ hoàn toàn thuế xuất nhập khẩu trong tương lai sẽ làm mất đi nguồn thu lớn của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần chú ý tới việc tăng các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế lợi tức của Công ty để bù vào ngân sách. Ngoài ra, ngành hải quan cũng phải tích cực kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu dùng để sản xuất bao bì và thiết bị máy móc sản xuất bao bì. Rất có thể do được miễn thuế mà các Công ty tiến hành nhập khẩu ồ ạt cả những thiết bị kém chất lượng, không đạt yêu cầu. Về phía mình, PACKEXPORT sẽ phải thực hiện đầy đủ thuế đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, Công ty phải thường xuyên báo cáo tình hình nhập khẩu lên Bộ Thương mại để Bộ xem xét.
Nhà nước ta cần chủ động tham gia vào các tổ chức tài chính, tiền tệ trong khu vực và trên thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Có như vậy chúng ta mới quản lý ngoại tệ có hiệu quả và một tỷ giá hối đoái hợp lý. Sau khi đã thu hút được ngoại tệ, Nhà nước cần ưu tiên cho các Công ty xuất nhập khẩu như PACKEXPORT. Có như vậy thì vốn không bị lãng phí vào việc cấp giấy phép cho các doanh nghiệp có ngoại tệ được trao đổi với nhau. Bằng cách này, Công ty có thể tranh thủ ngoại tệ của những đơn vị chưa có nhu cầu. Ngoài ra trong điều kiện thiếu ngoại tệ như hiện nay, ngân hàng nên cho phép thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt Việt Nam đối với các giá trị thấp. Điều này xuất phát từ thực tế một số bạn hàng từ Trung Quốc, Đài Loan, Nam Triều Tiên chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt Việt Nam không qua ngân hàng. Về phần mình khi cần thanh toán bằng ngoại tệ mạnh thì Công ty phải lên kế hoạch trước một tháng và gửi đến cho ngân hàng để họ chuẩn bị trước. Như vậy thì Nhà nước sẽ quản lý tốt ngoại tệ và Công ty thì hoàn thành các thủ tục thanh toán.
Việc Nhà nước bãi bỏ giấy phép xuất nhập khẩu chuyến chính là cải cách thủ tục hành chính. Nhưng để cải cách triệt để hơn, Nhà nước cần quy định một cơ quan như Bộ Thương mại đứng ra quản lý tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể với PACKEXPORT khi đăng ký hợp đồng ngoại với Bộ Thương mại thì Bộ cần quyết định rõ máy móc thiết bị này có phải chịu thuế hay không, nếu có thì với thuế suất nào,... Như vậy Hải quan không có trách nhiệm tính thuế nữa mà chỉ thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hàng nhập khẩu. Điều này sẽ giúp các thủ tục hải quan bớt phiền hà và tiêu cực đồng thời tiết kiệm thời gian giao nhận hàng của Công ty. Về phía mình Công ty cũng nên có những đề đạt, góp ý với Bộ Thương mại về các thủ tục hành chính để hoạt động kinh doanh được thực hiện.
Trên đây là các giải pháp và điều kiện để nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì. Chắc chắn là còn nhiều sai sót và ít tính khả thi song những giải pháp và những điều kiện này cũng góp phần vào đề xuất những ý kiến nhỏ bé vào công tác nhập khẩu của Công ty. Rất mong những ý kiến này sẽ được Công ty xem xét và bổ xung, thay đổi cho phù hợp để có thể áp dụng vào thực tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu cuả Công ty.
Kết luận
Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại nhằm đạt được mục tiêu Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Nói tới kinh tế đối ngoại thì phải nói tới thương mại quốc tế vì nó là một nhân tố phát triển thông qua trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước. Kinh doanh xuất nhập khẩu là nội dung quan trọng, cốt lõi của thương mại quốc tế. Việt Nam là một nước đang phát triển nên yêu cầu nhập khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc, kỹ thuật hiện nay là rất cấp bách. Tuy nhiên để nhập khẩu có hiệu quả cao thì cả doanh nghiệp và Nhà nước đều phải cố gắng.
Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì là một trong ít các doanh nghiệp thực hiện tốt việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu sản xuất bao bì cao cấp phục vụ hàng xuất khẩu, máy móc thiết bị để sản xuất bao bì xuất khẩu. Đây là Công ty đầu ngành về nhập khẩu vật tư và thiết bị bao bì trong thời kỳ bao cấp. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, dù gặp nhiều khó khăn nhưng Công ty vẫn không ngừng vươn lên, đổi mới trong hoạt động kinh doanh để tồn tại và phát triển.
Việc đưa ra một số giải pháp đổi mới hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư - máy móc thiết bị bao bì trên đây chỉ là đóng góp nhỏ của cá nhân em để PACKEXPORT tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn trong tương lai.
Do thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì không nhiều nên luận văn của em không tránh khỏi hạn chế. Rất mong được sự chỉ đạo hướng dẫn của các thầy cô giáo và các cô chú cán bộ công nhân viên trong phòng xuất nhập khẩu số 1, xuất nhập khẩu số 2 và trong Công ty để bài viết sau được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin trân thành cảm ơn thầy giáo T.S Đỗ Đức Bình, các thầy cô giáo trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế cùng toàn thể các cô chú cán bộ công nhân viên trong Công ty xuất nhập khẩu bao bì - PACKEXPORT đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và làm luận văn này.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Kinh tế quốc tế - GS.TS Tô Xuân Dân - ĐKKTQD - NXB Giáo Dục - 1996.
Giáo trình Quản trị kinh doanh quốc tế - TS. Đỗ Đức Bình - Trường ĐHKTQD - 1997.
Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII - NXB Chính trị Quốc Gia.
Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS. Vũ Hữu Tử - NXB Giáo Dục Hà Nội - 1994.
Môi trường kinh doanh thuận lợi, một trong những thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh của Doanh nghiệp - TS. Đỗ Đức Bình.
Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty PACKEXPORT từ năm 1998 - 2001.
Tạp chí Kinh tế - kỹ thuật Bao bì số 10 - 24.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0051.DOC