Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thị Phương Thế Ngọc Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nhân vật là đối tượng trung tâm, là linh hồn của tác phẩm văn học. Qua nhân vật, nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng, nhận thức,… trước cuộc đời và con người; gửi gắm những tình cảm, suy tư, trải nghiệm của chí

pdf151 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2670 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh lòng mình, đời mình; đồng thời thể hiện tài năng, cá tính, phong cách của mình. Nhìn lại chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, ta thấy xuất hiện nhiều loại nhân vật: người phụ nữ, người nông dân, người lính, người anh hùng, người trí thức,… Mỗi loại nhân vật đều có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh, cuộc sống, diện mạo, tâm hồn, tính cách,… nhưng sâu sắc và phức tạp hơn cả, có lẽ là hình tượng người trí thức. Trí thức là người có kiến thức từ việc học tập, nghiên cứu, luôn khát khao cống hiến tài năng cho đời, và có lối hành xử văn minh, văn hóa. Ở họ, tập trung mọi tinh hoa của dân tộc và nhân loại. Họ là nhân vật trung tâm, là động lực của xã hội, có sự đóng góp to lớn và giúp xã hội phát triển vững chắc, ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Họ mang cái đẹp đến cho đời. Họ khai sáng cho những vùng đất còn tối tăm, hoang dã, cho những con người còn sống trong nghèo đói, lạc hậu, u mê. Trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ, mang lí tưởng, hoài bão, ước mơ cao cả, luôn khát khao sáng tạo, và lúc nào cũng băn khoăn, tìm kiếm cho mình một chỗ đứng, một lẽ sống trong cuộc đời, một con đường đi riêng cho mình. Họ gánh trên vai thiên chức khai hóa dân trí và cải cách xã hội. Bên cạnh đó, họ lại là những người giàu mặc cảm và cô đơn trong những bi kịch cá nhân. Vốn nhạy bén, đa cảm, dễ xúc động, lãng mạn và mơ mộng trước cái đẹp, họ mang đầy những trăn trở, day dứt, dằn vặt, đau đớn trước cái xấu trong cuộc đời và trong chính con người mình. Thế giới tâm hồn của người trí thức đầy bí ẩn, phức tạp, nhiều cung bậc, sắc thái, thanh âm, luôn khát khao vươn đến cái đẹp hoàn mỹ, tuyệt đối. Hiện thực cuộc sống tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, người trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc và những đổi thay trong cuộc sống. Bên cạnh quan niệm sống, lí tưởng sống, họ còn phải tự tìm con đường đúng đắn để cống hiến tài năng và sáng tạo, để hoàn thiện nhân cách, chế ngự tham vọng, tránh rơi vào những sai lầm, đánh mất đi phẩm cách của mình, gây ra những tác hại cho con người và xã hội. Họ luôn muốn sống xứng đáng và đẹp đẽ. Vì thế, trong họ luôn có nhu cầu nhận thức và tự nhận thức; thường xuyên diễn ra những xung đột, những mâu thuẫn, những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, mãnh liệt để tự ý thức, tự nhận thức bản ngã đích thực của mình, để từ đó càng hoàn thiện mình hơn. Nhà văn cũng là trí thức văn nghệ sĩ, nên khi viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ, chính là lúc họ đang viết chuyện của đời mình, của lòng mình, của giới mình. Ở đây, nhà văn và nhân vật đã có mối dây đồng cảm sâu sắc và dường như không có khoảng cách. Hơn ai hết, nhà văn hiểu rõ nhân vật, cũng như hiểu rõ những ngõ ngách, những khía cạnh, những ưu nhược điểm của bản thân mình và đời sống nội tâm phức tạp của mình. Nhà văn mổ xẻ con người và thế giới tâm hồn của nhân vật, cũng chính là mổ xẻ con người và thế giới tâm hồn của nhà văn trong những biến động của cuộc đời và bể dâu của tình người. Tìm hiểu về nhân vật trí thức trong văn học, ta tìm đến với diện mạo và tâm hồn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam nói riêng, của trí thức Việt Nam nói chung. Do vậy, tác giả luận văn muốn khám phá, soi sáng những chiều kích, những ngóc ngách, những góc cạnh trong con người và tâm hồn của nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, những vấn đề xoay quanh nhân vật, và cả những gì nhà văn gửi gắm qua nhân vật của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng Ở đây, chúng tôi phân loại nhân vật trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại như sau: Nhân vật trí thức sáng tạo ra cái đẹp: nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, kiến trúc sư,… Nhân vật trí thức truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa: nhà giáo, nhà báo,… Nhân vật trí thức được đào tạo qua trường lớp, làm những nghề chuyên môn khác như: luật sư, bác sĩ, kỹ sư,… Luận văn tập trung tìm hiểu hai kiểu nhân vật trí thức: người sáng tạo ra cái đẹp và người truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa (chủ yếu là nhà văn và nhà giáo) được gọi chung là nhân vật trí thức - văn nghệ sĩ. Do vậy, luận văn chỉ điểm qua sơ lược những nhân vật trí thức khác để làm nền tảng cho việc khái quát diện mạo chung của giới trí thức Việt Nam. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát phần văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ đầu thế kỉ XX – 2000) chia làm ba giai đoạn: đầu thế kỉ XX – 1945, 1945 – 1975, sau 1975. Ở mỗi giai đoạn, do giới hạn của đề tài, luận văn chỉ chọn tìm hiểu một số tác phẩm nổi bật viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ. Danh mục các tác giả, tác phẩm được chọn để khảo sát: - Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945: + Nhất Linh: Hai vẻ đẹp, Làm gì mà băn khoăn thế, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, … + Khái Hưng: Đẹp, Gánh hàng hoa. + Thạch Lam: Đói, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Sợi tóc, Ngày mới,… + Nguyễn Tuân: Vang bóng một thời, Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn, Thiếu quê hương. + Vũ Trọng Phụng: Số đỏ. + Nguyên Hồng: Lớp học lẩn lút, Miếng bánh, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám, Giọt máu,… + Nam Cao: Trăng sáng, Đời thừa, Quên điều độ, Cái mặt không chơi được, Mua nhà, Sống mòn,… - Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975: + Nam Cao: Đôi mắt, Đường vô Nam, Nhật kí Ở rừng. + Nguyễn Huy Tưởng: Sống mãi với thủ đô. + Nguyễn Đình Thi: Vỡ bờ. + Nguyên Hồng: Cơn bão đã đến. + Nguyễn Minh Châu: Dấu chân người lính. + Trần Đình Vân: Sống như anh. - Giai đoạn từ sau năm 1975 (tính đến năm 2000): + Nguyễn Minh Châu: Cỏ lau, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa,… + Ma Văn Kháng: Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ. + Nguyễn Khải: Gặp gỡ cuối năm, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười. + Nguyễn Huy Thiệp: Huyền thoại phố phường, Chút thoáng Xuân Hương, Mưa Nhã Nam, Vàng lửa, Phẩm tiết,… + Dương Thu Hương: Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù. + Phạm Thị Hoài: Man Nương, Thiên sứ. + Tô Hoài: Cát bụi chân ai. + Nguyễn Việt Hà: Cơ hội của Chúa. Trong giai đoạn 1945 – 1975, luận văn sẽ không trực tiếp đề cập đến văn học thành thị miền Nam, mà khi cần, chỉ liên hệ thêm để so sánh, đối chiếu. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp hệ thống Luận văn hệ thống hóa các tác phẩm viết về người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba giai đoạn để làm rõ sự biến đổi, phát triển của hình tượng nhân vật trí thức. 3.2. Phương pháp phân tích Luận văn sử dụng phương pháp phân tích là chủ yếu để khám phá những nét tính cách đặc trưng cũng như phân tích hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức qua từng chặng đường văn học. 3.3. Phương pháp tổng hợp Phương pháp tổng hợp giúp luận văn khái quát nên những mẫu người tiêu biểu từ việc phân tích những biểu hiện tính cách của hình tượng nhân vật, và khái quát nên những kĩ thuật, hình thức thể hiện phổ biến khi xây dựng nhân vật trí thức. 3.4. Phương pháp so sánh Khi phân tích và khái quát tính cách nhân vật cũng như kĩ thuật, hình thức thể hiện nhân vật, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh để rút ra những điểm giống và khác nhau trong hình tượng nhân vật trí thức ở mỗi chặng đường văn học nói chung, ở mỗi tác giả nói riêng. 3.5. Phương pháp miêu tả lịch sử Luận văn đặt những tác phẩm viết về người trí thức vào từng chặng đường sáng tác để thấy được sự tác động của hoàn cảnh xã hội và góc nhìn nghệ thuật đối với sự thay đổi trong hình tượng nhân vật. Các phương pháp nêu trên sẽ được phối hợp với nhau trong suốt quá trình nghiên cứu để có thể giải quyết tốt những vấn đề đặt ra. 4. Lịch sử vấn đề Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù dùng ngôn từ để khám phá con người và suy ngẫm về đời sống. Lịch sử văn học chính là lịch sử tâm hồn nhân loại. Nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài của văn học trong việc phản ánh hiện thực vẫn là miêu tả số phận con người, khắc họa các tính cách con người. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà văn, bằng tài năng và tâm huyết, xây dựng nên những hình tượng nhân vật trong tác phẩm của mình. Văn xuôi Việt Nam hiện đại có một khối lượng lớn tác phẩm viết về người trí thức. Có lẽ, ở loại nhân vật này, nhà văn dễ dàng bày tỏ, chia sẻ, phát ngôn những quan niệm, tư tưởng, tình cảm,… của mình về con người và cuộc sống. Do vậy, có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà văn, các nhà lí luận phê bình về những tác phẩm viết về nhân vật trí thức. Nguyễn Hoành Khung trong bài viết về Nhất Linh (Từ điển văn học) đã nhận xét rằng nhân vật thanh niên trí thức của Nhất Linh sống trong gia đình giàu sang nhưng luôn cảm thấy băn khoăn về cuộc sống tối tăm của dân quê nghèo khổ, ngu dốt, muốn tìm cách cứu vớt họ. Thế nhưng, “những nhân vật trí thức đầy trăn trở này chỉ để lại trong người đọc một ấn tượng rằng họ không chấp nhận thực tế, họ luôn vật vã, suy tư, đau khổ, nhưng họ không trở thành chiến sĩ cách mạng” [163, tr.1257]. Ở đây, Nguyễn Hoành Khung đã soi chiếu nhân vật trí thức ở vai trò xã hội của họ. Theo Phan Cự Đệ, trong tiểu thuyết Đẹp, “dường như Khái Hưng không lí tưởng hóa lớp văn nghệ sĩ lãng mạn, mà muốn làm sống lại một lớp văn nghệ sĩ vào những năm 40, những “nhân vật thật trong xã hội hiện thời” với tất cả những mặt đẹp, mặt xấu, những nét đáng yêu và đáng ghét của họ, không bình luận, không phê phán. Và cố gắng dựng nhiều kiểu người với những cá tính, phong cách và lối sống khác nhau” [52, tr.923]. Nhìn chung, nhân vật trí thức của Nhất Linh, Khái Hưng là những “nhân vật phi thường” hoặc “nhân vật lãng mạn”: “Họ phần lớn xuất thân từ những gia đình quan lại hay tư sản giàu sang và có một cuộc sống dư dật. Họ nếu không phải là những “khách tình si” cả cuộc đời theo đuổi một mối tình lãng mạn, thì cũng là những “khách chinh phu” mải mê với một lí tưởng cách mạng nào đó. Cuộc sống của họ được các nhà văn thi vị hóa” [Hà Văn Đức; dẫn theo 85, tr.569]. Trong khi đó, khi “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, nhân vật trí thức của Thạch Lam lại “có nét chân thực và gần với cuộc sống đời thường,… thường được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, trở ngại. Cái đói, cái nghèo dường như lúc nào cũng đeo đẳng với số phận của nhân vật, xô đẩy họ vào những tình huống đầy tuyệt vọng” [Hà Văn Đức; dẫn theo 85, tr.580]. Nguyễn Thành Thi (Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam) cũng cho rằng khi tìm kiếm hình ảnh con người trong cõi thầm kín - thế giới nội tâm, thế giới cảm giác phiền phức mà người trí thức nào cũng có, “… Thạch Lam chỉ kể nhiều về những trạng thái bất thường hoặc những cảm tưởng, cảm giác mới mẻ dấy lên trong tâm hồn của họ. Những trí thức bình dân này có thể thành đạt hay thất bại trên đường đời, đáng trọng hay đáng thương trong nhân cách số phận… song tất cả họ giống nhau ở chỗ đều có những trạng thái nội tâm “phiền phức”, những khoảnh khắc bí ẩn, bất thường” [131, tr.64]. Hai ý kiến trên cho thấy nhân vật trí thức có một thế giới tâm hồn phong phú, một nội tâm phức tạp. Đó là địa hạt hấp dẫn sự khám phá của người cầm bút. Khi viết “Lời giới thiệu Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Vương Trí Nhàn cho rằng: “Giả sử như giờ đây, có một ai đó muốn tìm hiểu cuộc sống của lớp trí thức thành thị, nhất là cánh ký giả viết văn, viết báo đương thời xem họ ăn gì, chơi gì, đọc sách ra sao, hưởng thụ ra sao…, tôi nghĩ nhất thiết người ấy phải đọc lại một số trang viết của ông Nguyễn” [145, tr.19]. Theo nhà nghiên cứu này, nhân vật trí thức trong tác phẩm phản ánh khá chân thực hình ảnh người trí thức ngoài cuộc đời. Mặt khác, nó phản ánh hình ảnh của chính Nguyễn Tuân: “Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người lửng lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường với xã hội. Họ như không đi mà chỉ bay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hóa ra không ràng buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Nhà cửa, không thiết tha. Cho đến cả tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều họ quan tâm theo đuổi... Niềm say mê mà nhân vật của Nguyễn Tuân và chính ông để cả đời theo đuổi là say mê tìm hiểu chính mình và và khắc họa bức chân dung tinh thần khác người của mình trước đồng loại” [Vương Trí Nhàn, Lời giới thiệu Thiếu quê hương; 146, tr.330]. Nhà văn Nam Cao có một mảng tác phẩm về đề tài người trí thức. Xoay quanh việc tìm hiểu những tác phẩm này có nhiều ý kiến sâu sắc, thỏa đáng. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đặc biệt chú ý đến những biến động trong đời sống tinh thần của nhân vật trí thức của Nam Cao trong mối quan hệ với hoàn cảnh: “Tiếp xúc với những thực tế khắc nghiệt, trải qua những cuộc vật lộn kiếm sống, con người trí thức tiểu tư sản bị quăng quật nhừ tử cả thể xác lẫn tâm hồn” [166, tr.483]. Bích Thu nhận ra: “Với các nhân vật nhà văn, nhà giáo nghèo, cái nhục vì miếng ăn được Nam Cao đẩy lên đỉnh điểm. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa “vị nhân sinh” và “vị nghệ thuật”, giữa những lo lắng đời thường, thế sự với khát vọng sáng tác nghệ thuật của họ” [Sức sống của một sự nghiệp văn chương; 134, tr.33]. Nguyễn Hoành Khung (trong Nam Cao, về tác gia và tác phẩm) cho rằng: “Trong khi dựng lại tình cảnh nhếch nhác của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của họ, qua đó đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc. (…). Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm trong đời sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó” [134, tr.409-413]. Nhà văn đã phát hiện ra mặc cảm cô đơn, vỡ mộng trong tấn bi kịch tinh thần của người trí thức, và, qua những câu chuyện về người trí thức: “Câu chuyện đời thường xoàng xĩnh thế thôi, nhưng bao vấn đề hệ trọng trong tinh thần thời đại đã được đặt ra một cách ám ảnh: cá nhân và xã hội, lí tưởng và hiện thực, nghệ thuật và tình thương, nhân cách và hoàn cảnh” [134, tr.475]. Một số bài viết khác về tác phẩm viết về người trí thức của Nam Cao: Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực mới (Phạm Xuân Nguyên), Nam Cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lí (Hà Minh Đức) [134], Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn (Trần Đăng Xuyền, Tạp chí Văn học, số 6, 1998) [153],... đều xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức. Đặc biệt, Đinh Trí Dũng (Bi kịch tự ý thức – Nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao) còn phát hiện ra: “Trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 không phải chỉ có các nhân vật của Nam Cao mới có vấn đề tự ý thức. Các nhân vật tiểu tư sản trong truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyên Hồng, Bùi Hiển,… cũng có nhiều phút suy tư dằn vặt đầy cảm động, nhưng chưa ai đưa được vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc, thường trực, nhất quán như ở ngòi bút Nam Cao” [134, tr.213]. Trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ khám phá nhiều tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn văn học 1945 – 1975. Theo ông, tuỳ bút Nhận đường (Nguyễn Đình Thi) đã “ghi lại lộn xộn những thắc mắc nhiều khi đau xót của một cuộc lột vỏ... Cuộc lột vỏ nhiều khi rất đau đớn” [20, tr.130] của người trí thức. Còn Đôi mắt (Nam Cao) là “một tuyên ngôn của những nhà văn lớp trước kiên quyết đoạn tuyệt với con người cũ và cố gắng vươn tới để hoà nhập quần chúng cách mạng” [20, tr.131]. “Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sóng gầm (Nguyên Hồng) miêu tả chuyện thất nghiệp, đói cơm, rách áo, những đau đớn quằn quại trong tâm hồn lớp tiểu tư sản trí thức nghèo ở thành thị; những con đường đến với cách mạng khác nhau của họ, những nỗi băn khoăn, lo lắng của họ trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc” [20, tr.230]. Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật điển hình Tư (Vỡ bờ), “Nguyễn Đình Thi tập trung miêu tả niềm say mê sáng tạo của một nghệ sĩ có tài, trong sạch” [20, tr.357] và “Nhà văn muốn đặt ra vấn đề có tầm khái quát cao: số phận của những nghệ sĩ muốn sáng tạo ra một nền nghệ thuật chân chính trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, một xã hội mà mọi thứ thiêng liêng nhất của con người đều biến thành hàng hóa” [20, tr.369]. Những tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn này đều khẳng định vai trò nghệ sĩ - chiến sĩ của nhân vật trí thức. Hà Minh Đức (Khảo luận văn chương) nhận thấy trong Nhật kí Ở rừng “ít nhiều bóng dáng của con người trí thức tiểu tư sản thời kì trước Cách mạng của Nam Cao đang tự vượt lên ở trình độ cao hơn. Vẫn những tâm trạng dày vò trong cuộc đấu tranh giữa hai con người tích cực và tiêu cực được bộc lộ ra một cách chân tình nhưng khác đi là không xót xa, bế tắc. Con người cũ hiện ra thấp thoáng trong mạch cảm nghĩ như một liên hệ, một trăn trở để càng nổi lên những suy nghĩ khỏe khoắn, tốt đẹp của con người mới” [24, tr.328]. Cũng theo nhà nghiên cứu này, qua nhân vật trí thức của mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã “khai thác sâu vào thế giới tiểu tư sản với những màu sắc đa dạng và phức tạp của nó… Trong cuộc kháng chiến của Thủ đô, những người trí thức tiểu tư sản, đặc biệt là bộ phận tiểu tư sản nghèo, đã biểu thị sâu sắc lòng quyết tâm đánh giặc giữ nước” [24, tr.678]. Những tác phẩm viết sau năm 1975 với cái nhìn tiểu thuyết đã làm thay đổi cách nhìn về nhân vật trí thức. “Khi tiếng nói thế sự vang lên trong văn học, muôn vàn những sinh hoạt đời thường bày ra trước mắt, văn học đề cập đến cái sai, cái xấu, và cả cái ác trong nội bộ con người, giữa con người với con người” [La Khắc Hoà, Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói; 89, tr.62]. Cho nên, “Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này, trong văn xuôi lại nổi lên nhân vật người trí thức. Trong rất nhiều lý do, chúng tôi nghĩ có một lý do rất quan trọng này: Trí thức thường nhạy cảm, dễ thức tỉnh, khả năng tự ý thức cao, hành trình tinh thần của loại nhân vật này thường phong phú, phức tạp” (Nguyễn Thị Bình; 6, tr.311). Do đó, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu tập trung đi vào khai thác những biểu hiện của nhân vật trí thức trong thời hiện đại. Lê Thành Nghị quả quyết, từ nhân vật trí thức trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đọc có thể nhận ra “bài học về nhân thế, sự thực nghiệt ngã trong các mối quan hệ con người, nỗi buồn về những khuất tất ở đời...” [Nguyễn Minh Châu - Người mải miết với cái đẹp; 100, tr.188]. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, “Ma Văn Kháng viết về cái “bi kịch vỡ mộng” của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” rất tâm huyết, suy nghĩ và trăn trở, khát vọng và nỗi đau trước thời cuộc, trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc là kỹ sư của tâm hồn” [Phan Cự Đệ; 20, tr.271]. Lê Thành Nghị (Người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú) phân tích rõ nét hơn nữa: “Đám cưới không có giấy giá thú làm nổi rõ trước mắt bạn đọc một sự tha hóa, pha trộn của đội ngũ trí thức trong trường học, sự tha hóa của nhân cách, sự pha trộn hổ lốn dẫn đến xung đột gay gắt giữa những người đồng nghiệp, sự đảo lộn kỷ cương trong một không gian vốn được xem là nền nếp, sự phạm quy nghiêm trọng ở chốn học đường, những thô phàm trong hành vi và lời ăn tiếng nói của những thầy giáo - lớp người vốn là kỹ sư của tâm hồn, luôn tôn trọng cái đẹp, cái chuẩn xác, cái “mực ngay thước thẳng” ở đời” [100, tr.134]. Từ nỗi đau, bi kịch của một người trí thức, nhà văn Ma Văn Kháng đã khái quát bi kịch chung của người trí thức trong một xã hội, một môi trường, một nền kinh tế cơ chế thị trường, đồng thời đề cập đến thực trạng tha hóa, xuống cấp về đạo đức trong một bộ phận trí thức. Đi sâu vào thực trạng này, nhân vật trí thức càng nhem nhuốc, xúi xó hẳn đi, và phá hủy kiểu nhân vật trí thức truyền thống. Nguyễn Thị Thu Nguyên (Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Thiên sứ) đã có những nhận định khái quát: “Trong truyền thống văn học trước 1945, trí thức như một biểu tượng của dân trí, là tinh hoa của một cộng đồng, người đại diện cho cái mới, cái tiến bộ… Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, do hoàn cảnh lịch sử, nhân vật công – nông – binh lên ngôi, nhân vật trí thức luôn đứng ở vị trí chông chênh và đầy mặc cảm trên hành trình hòa nhập vào dòng thác cách mạng… Trong văn học đổi mới, sự trở lại của nhân vật trí thức đánh dấu một thay đổi quan trọng trong sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, đồng thời cũng là sự thay đổi quan niệm về bản chất văn chương” [89, tr.252]. Ma Văn Kháng đổ lỗi cho hoàn cảnh đã tạo nên bi kịch của người trí thức. Dựa vào mối quan hệ giữa thời thế và con người, Nguyễn Khải đưa ra một loạt trí thức “lạc thời”,... Thế nhưng, nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu tuy có ít nhiều nét nhem nhuốc, xúi xó, vẫn được các nhà văn xem họ là “chuẩn” của cách sống đẹp. Còn trong Thiên sứ, Phạm Thị Hoài đã phá hủy hình tượng nhân vật trí thức truyền thống, nhà văn “tập trung vào một đối tượng mà chị cho là ưu tú (élite), tầng lớp trí thức. Bằng một hệ thống chữ nghĩa sắc như dao và một thái độ không chút khoan nhượng, thậm chí đôi lúc đến mức đanh đá, chị xoáy sâu vào những ung nhọt vẫn bị che giấu của cái tầng lớp thường đầy ảo tưởng về chính mình đó, mổ xẻ không thương tiếc cái tầng lớp là đại diện ấy của xã hội, tự đặt nó đối diện với thực chất chẳng hay ho gì của chính nó, thẳng tay lột tung chiếc mặt nạ lâu nay nó tự đeo cho mình” [Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay – Lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng; 89, tr.175]. Chưa khi nào, nhân vật trí thức bị phanh phui đến tận cùng những mặt trái, góc khuất như trong những tác phẩm viết về họ sau năm 1975. Mang tinh thần phê phán, nhà văn có ý thức mổ xẻ cái xấu xa, cái thấp hèn của con người. Cho nên, hình tượng nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ như trong nhận thức truyền thống của cộng đồng nữa. Nguyễn Huy Thiệp viết khá nhiều truyện ngắn về người trí thức. “Nhà văn đề cập đến những “trí thức giả cầy” và “sự ngu dốt của bọn có học”. Đối với Nguyễn Huy Thiệp, nghệ sĩ chẳng phải loại người nào đặc biệt. Văn chương cũng như mọi nghề khác vậy thôi. Thậm chí một số ông nhà văn còn nhếch nhác, bệ rạc quá quắt nữa là đằng khác” [Nguyễn Đăng Mạnh; 97, tr.254]. Sử dụng những nhân vật đã ổn định về giá trị trong quá khứ để chuyển tải các vấn đề hiện tại, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên một cuộc tranh cãi thú vị trong giới nghiên cứu, phê bình: Một trường hợp đang bàn cãi (Đặng Anh Đào; Văn nghệ, ngày 3-9-1988), Khởi sắc hay là sự chuyển mình của văn học (Nguyễn Oanh, Văn nghệ, 3-12-1988), Về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Văn Lưu, Báo Hà Nội mới, 28-8- 1988),... Trong Nhà văn hiện đại - Những giới hạn và sứ mệnh, Trần Văn Toàn có cái nhìn thấu đáo hơn: “Các nhà văn trong những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là những người có thể tạng mẫn cảm. Họ hiểu và cảm nhận một cách tinh tế sức o ép của cuộc đời lên tồn tại của một cá thể. Có khi họ còn được miêu tả như một nhà tiên tri thấu thị. Rất tinh tế nhưng bất lực. Tất cả họ đều bị lún sâu trong đám bùng nhùng của hiện thực đời sống, hoàn toàn không có khả năng tác động đến hiện thực” [89, tr.133]… Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ trình bày một số ý kiến, bài viết có liên quan tới đề tài. Nhìn chung, có nhiều ý kiến, bài viết về nhân vật trí thức trong văn học, nhưng đó mới chỉ là những bài viết rải rác, chưa có một công trình dày dặn nào khảo sát loại hình nhân vật này qua ba giai đoạn phát triển của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Do vậy, chúng tôi, bằng khả năng còn hạn hẹp của mình, mong muốn đóng góp một vài ý kiến trong việc nghiên cứu hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. 5. Đóng góp của luận văn 5.1. Trên cơ sở nhìn nhận vai trò của người trí thức văn nghệ sĩ trong đời sống xã hội hiện đại qua từng giai đoạn phát triển, luận văn xác định vị trí của hình tượng nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. 5.2. Với cái nhìn hệ thống, luận văn khảo sát, mô tả hình tượng nhân vật trí thức - văn nghệ sĩ theo sự phân chia giai đoạn và theo cái nhìn nghệ thuật của nhà văn (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết); từ đó, rút ra những đặc điểm chính của loại nhân vật này trong quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. 5.3. Luận văn tìm hiểu và khái quát những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại để làm nổi rõ hơn vị trí, đặc điểm của hình tượng nhân vật trong văn học, đồng thời thấy được phần nào đặc điểm sáng tạo nghệ thuật của nhà văn - những trí thức ngoài cuộc đời. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn triển khai thành ba chương: Chương 1: Người trí thức hiện đại Việt Nam - từ cuộc đời đến những trang văn Chương 2: Hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - những mẫu người đa tính cách Chương 3: Hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức và đậm chất tự truyện, bi kịch Chương 1: NGƯỜI TRÍ THỨC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TỪ CUỘC ĐỜI ĐẾN NHỮNG TRANG VĂN Trí thức là người có kiến thức, tài năng, nhân cách và cá tính sáng tạo. Ở bất kỳ thời đại nào, họ đều có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vong, phát triển và tiến bộ của xã hội. Họ thực hiện sứ mệnh của lịch sử, thiên chức của người “làm đổi thay thế giới”, khai hóa đất nước, đưa đất nước, dân tộc đến với chân trời tri thức, với ánh sáng văn minh và giá trị nhân văn cao cả. Bàn tay và khối óc của họ làm ra của cải vật chất cho xã hội, phát minh ra những thành tựu khoa học vĩ đại, kiến thiết nên những công trình kiến trúc đồ sộ, vẽ nên những bức danh họa muôn đời, sáng tạo những áng văn chương bất hủ,… Người trí thức in đậm dấu ấn cá nhân của mình ở những biến chuyển lớn lao của đời sống xã hội, của quốc gia dân tộc. Văn học là nơi ghi lại những dấu ấn sâu đậm đó của người trí thức, đặc biệt của giới văn nghệ sĩ. Văn học và đời sống có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn học phản ánh mọi khía cạnh của đời sống. Đời sống xã hội với những biến cố quan trọng, những sự thay đổi lớn lao ảnh hưởng đến cuộc sống con người, tác động sâu sắc đến tinh thần, tình cảm, suy nghĩ, hành động của họ. Có thể nói, mọi sự thay đổi của đời sống xã hội đều tác động đến người trí thức, và cũng chính người trí thức, với nhu cầu nội tại của mình, góp phần làm thay đổi đời sống xã hội. Văn học là nơi thể hiện sâu sắc, chân thực, toàn diện hình ảnh và vai trò của họ ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của đất nước. Ở chương 1, tác giả luận văn đi vào tìm hiểu vai trò của người trí thức trong đời sống xã hội hiện đại và vị trí của hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba giai đoạn phát triển: Đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ năm 1945 đến năm 1975, và từ sau năm 1975 (tính đến năm 2000). 1.1. Vai trò của tầng lớp trí thức trong đời sống xã hội hiện đại 1.1.1. Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945). Sau khi xâm lược nước ta, Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất từ năm 1897 đến năm 1914, lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929) khiến cho nước ta suy sụp, kiệt quệ về kinh tế, đời sống nhân dân đói khổ, lầm than, biến nước ta thành nơi tiêu thụ hàng hóa, và thành nơi cung cấp sức người sức của cho gót giày xâm lược của bọn lính viễn chinh. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, cơ cấu xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc. Một số thành phố công nghiệp ra đời, nhiều đô thị, thị trấn xuất hiện, cuộc sống thay đổi từ thành thị đến nông thôn. Những giai cấp, tầng lớp xã hội: tư sản, tiểu tư sản (trí thức, viên chức, học sinh, sinh viên,…), công nhân, dân nghèo thành thị,… xuất hiện ngày càng đông đảo. Trước thực trạng đó, tầng lớp trí thức phải trăn trở, hành động để tìm một lối thoát cho đất nước. Ngay từ đầu thế kỉ, các nhà nho yêu nước mang tư tưởng tiến bộ đã thức thời, và, chịu tác động của việc truyền bá tân thư, đã tập hợp lại đi tìm một đường lối cứu nước mới : cải cách và duy tân. Họ thấy được tầm quan trọng của văn hóa và trình độ dân trí của một quốc gia nên đã mở trường Đông Kinh nghĩa thục để truyền bá tư tưởng yêu nước và duy tân. Phong trào lan rộng từ Bắc chí Nam, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với những nhà nho và trí thức tân học buổi đầu. Tuy về sau phong trào duy tân thất bại, nhưng nó đã để lại những âm vang cuộn trào trong lòng những người yêu nước, và ghi lại những dấu ấn khó phai về vai trò, tấm lòng và bản lĩnh của trí thức Việt Nam. Văn hóa Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Quốc, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Lớp thanh niên Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây, văn hóa Pháp, trở thành tầng lớp trí thức Tây học. Bên cạnh đó, ngoài chính sách bình định quân sự và khai thác kinh tế, thực dân Pháp còn thi hành chính sách văn hóa nô dịch, biến một số trí thức trở thành những kẻ lai căng, nô lệ, thực thi những chính sách cai trị của chúng, thành những “ông Tây An Nam” lạc lõng trên đất nước mình. Còn phần lớn trí thức Tây học đều có tinh thần dân tộc sâu sắc và có ý thức tự học, tự lập rất cao, mong muốn cống hiến tài năng, tâm huyết cho đất nước. Họ ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, mang khát vọng thay đổi hoàn cảnh tối tăm hiện tại. Để nâng cao dân trí, họ khuyến khích học chữ quốc ngữ. Họ đề xướng nhiều phong trào cải cách xã hội, chống lại lễ giáo phong kiến lỗi thời, lạc hậu, tôn trọng tự do cá nhân,… Có thể kể qua một số tên tuổi như Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Hải Triều, Nam Xương, Nguyễn Huy Tưởng,… Những trí thức này, ngoài vai trò khai hoá ánh sáng và cải cách xã hội, họ còn đảm nhận những vai trò kép: nhà chính trị - khách văn chương. Trong giai đoạn này, hoạt động kinh doanh văn hóa ra đời và phát triển sôi động. Do sự phát triển của đô thị, ._.một lớp công chúng mới xuất hiện, có đời sống tinh thần và thị hiếu mới. Họ tìm đến văn học như một phương tiện giải trí, một công cụ nhận thức về thực tại cuộc sống đang thay đổi xung quanh, và những bí ẩn trong đời sống nội tâm, trong thế giới tinh thần của con người hơn là những bài học thuyết giảng về đạo đức của văn học trung đại. Họ đòi hỏi tác phẩm văn học phải phù hợp và phản ánh được nếp tâm lí, cách cảm nghĩ, những nhu cầu mới,… Mặt khác, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo, với văn chương. Những trí thức dân tộc nhân đó mà thực hiện sứ mệnh khai thông dân trí, mở mang dân khí. Họ dùng văn chương như một phương tiện chuyển tải ánh sáng văn hóa và phát huy hồn dân tộc. Qua văn chương, họ gửi vào đấy lòng yêu tiếng Việt. Văn chương có thể làm cho xã hội tiến bộ hơn, văn minh hơn, và người trí thức phải là những người tiên phong, nòng cốt trong việc khai thông dân trí, tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Những điều này khiến cho đời sống xã hội đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở nên sôi động, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi mới theo hướng hiện đại hóa, mau chóng hòa nhập vào thế giới. Hơn nữa, dưới chính sách chèn ép, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân ta nói chung, đời sống của tầng lớp trí thức nói riêng lâm vào tình trạng ngột ngạt, khó khăn, bế tắc. Thực thi những thủ đoạn cai trị hà khắc, bạc đãi các tầng lớp tiểu tư sản, các trí thức người Việt, thực dân Pháp cố tình đẩy họ vào tình trạng thất nghiệp, bần cùng hóa, nhằm triệt tiêu khả năng phản kháng của họ. Trong khi đó, trên vũ đài chính trị xuất hiện những lực lượng xã hội mới. Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời 2/1930, phong trào cách mạng do giai cấp vô sản và Đảng lãnh đạo phát triển với các cao trào mới. Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bất mãn sâu sắc với thực dân Pháp, lại vốn có lòng yêu nước, nên không ít trí thức trong số họ, cùng với các giai cấp khác như nông dân, công nhân,… đã đến với cách mạng, tham gia phong trào giải phóng dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giành độc lập, tự do, thể hiện rõ ý thức trách nhiệm của người công dân trong một đất nước đang bị nô dịch. 1.1.2. Những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, người thư kí trung thành của thời đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975) Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem lại những đổi thay lớn lao, kỳ diệu cho dân tộc và cho cả những cuộc “đời thừa” của người trí thức. Từ thân phận nô lệ, con người ngỡ ngàng, sung sướng đón nhận sự tự do của một nước Việt Nam độc lập. Đời sống cá nhân được đặt vào cộng đồng, sống với đời sống chung của dân tộc và đất nước trong những năm tháng cam go, quyết liệt, trong dòng chảy của lịch sử, lay chuyển và thức tỉnh ở mỗi cá nhân ý thức công dân, tinh thần dân tộc tiềm tàng bấy lâu. Người trí thức, với sự nhạy cảm vốn có, đã cảm nhận được một cách sâu sắc những biến đổi lớn lao ấy. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kì khôi phục đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lúc này, xã hội Việt Nam lại đứng trước những thử thách mới: Một mặt là những nhu cầu thiết yếu của con người trong cuộc sống thời bình sau bao nhiêu năm chiến tranh khốc liệt; Một mặt lại tiếp tục đấu tranh chống một thế lực thù địch mới - đế quốc Mỹ - để thực hiện những mục tiêu cách mạng: thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Những thử thách này buộc con người Việt Nam phải phát triển theo những điều kiện lịch sử mới, những yêu cầu mới của cách mạng trong sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái chung. Sau hiệp định Genève, đất nước chia hai, miền Nam buộc phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức thực hiện những thủ đoạn tàn ác đàn áp nhân dân, chống phá cách mạng, muốn làm tiêu tan khát vọng độc lập, thống nhất, dân chủ, và thủ tiêu ý chí chiến đấu của nhân dân ta. Chúng muốn “Chinh phục trái tim và khối óc”, “Hủy diệt màu xanh trong tâm hồn Việt Nam”. Chúng đàn áp dã man giới trí thức tiến bộ ở các thành thị miền Nam. Bất chấp sự đàn áp dã man đó, trí thức Nam Bộ vẫn tiếp tục đấu tranh sôi nổi ở các đô thị miền Nam, trong đó, văn hóa văn nghệ là một trận tuyến. Văn học yêu nước ở các đô thị miền Nam hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh phức tạp với sự phân chia giới tuyến giữa những văn nghệ sĩ phản động làm tay sai cho Pháp và những văn nghệ sĩ chân chính một lòng vì đất nước. Trải qua bao nhiêu đau thương mất mát, trả giá bằng máu và nước mắt, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là một thử thách vô cùng khốc liệt, nhưng cũng là một chiến công vĩ đại, oanh liệt, hào hùng. Cuộc chiến đấu ấy đã làm sục sôi tình yêu nước, khơi dậy mọi sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, tập hợp mọi công dân Việt Nam trong một ý chí chung, một vận mệnh chung, một nhiệm vụ chung. Hoàn cảnh đất nước đòi hỏi con người phải có sự biến chuyển, sự thay đổi cho phù hợp với thời đại. Nếu trước đây, người trí thức “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước”, thì bây giờ, đã thực sự có bước chuyển tiến bộ trong nhận thức, tư tưởng, hành động. Từ địa vị nô lệ đến địa vị người làm chủ đất nước, người trí thức hiểu một cách sâu sắc vai trò của họ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. “Hơn ai hết, họ cảm nhận được sự thay đổi của vận mệnh dân tộc, vận mệnh công dân và giác ngộ sâu sắc về vai trò mới của mình. Sau một thoáng ngơ ngác, choáng ngợp của buổi “ban đầu dân quốc”, các nhà văn, nhà thơ đã mau chóng hòa nhập, mau chóng tìm được nguồn cảm hứng mới mẻ, không kém phần sôi nổi và bồng bột từ thực tế lịch sử mới để sáng tác. Từ thế giới cái Tôi tuyệt đối, cái Tôi nhiều giọng điệu, nhiều cung bậc từng thống lĩnh văn chương trước năm 1945, các nhà văn, nhà thơ đã bắt đầu làm quen với thế giới của cái Ta hòa đồng, cái Ta không ranh giới giữa nghệ sĩ và công dân, giữa nghệ sĩ và Tổ quốc” [164, tr.568]. Người trí thức thực hiện vai trò kép: nghệ sĩ - chiến sĩ, sống, lao động, chiến đấu cho Tổ quốc vinh quang. Họ dùng tài năng, trí tuệ và ngòi bút của mình phục vụ cho kháng chiến, xây dựng một nền văn nghệ cách mạng, có sức động viên, cổ vũ lớn lao tinh thần của quần chúng tham gia kháng chiến. Trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng… Anh chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.646]. Trước sự đổi đời và đổi thời, giới văn nghệ sĩ Việt Nam đã kịp thời thức tỉnh và thức thời, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho cách mạng. Chúng ta có thể kể đến những tên tuổi: Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,… Có thể nói, giới trí thức đã góp phần không nhỏ cho thắng lợi của dân tộc. Có một thời, người ta quan niệm trí thức chỉ là tầng lớp trung gian của cuộc kháng chiến. Họ không đông đảo như nông dân, công nhân - lực lượng nòng cốt của kháng chiến. Nhiều người trong số họ không trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhưng, xét cho cùng, chính trí thức là người góp phần đưa kháng chiến đến thành công. Họ soi lối, chỉ đường, vạch ra những kế hoạch tác chiến cụ thể. Họ biết cách đi sâu sát quần chúng, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, tác động to lớn đến tâm lí chiến đấu. Hãy nhìn lại sự đóng góp to lớn của họ trên mặt trận văn hóa văn nghệ để đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của trí thức ở giai đoạn này. 1.1.3. Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975) Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước tự do, con người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh nhưng lại đương đầu với những khó khăn chồng chất, những thử thách khắc nghiệt của thời hậu chiến. Từ thời chiến chuyển sang thời bình, cuộc sống lại hiện ra với tất cả những mặt phức tạp vốn có của nó. Những khó khăn và khủng hoảng của đời sống kinh tế xã hội, tính phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường, sự đổi thay những quan niệm về đạo đức, nhân sinh, lối sống,… đẩy tới sự phân cực giữa trắng – đen, thiện – ác, tốt - xấu. Khái quát bức tranh xã hội Việt Nam những năm bước ra từ thời chiến, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nhận định: “Thời này diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người” [161, tr.5]. Hiện thực cuộc sống với những bộn bề, trăn trở, với những niềm vui và nỗi buồn của con người vừa bước ra khỏi cơn ác mộng đằng đẵng ba mươi năm là sự thách thức lớn đối với người trí thức. Làm thế nào để xây dựng lại đất nước, làm thế nào để hàn gắn vết thương chiến tranh,… Đến giai đoạn này, người trí thức càng thể hiện rõ hơn vai trò khai sáng. Họ tìm cách cải cách xã hội cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước ngày càng trở nên bức thiết. Trước tình hình đó, tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Đại hội Đảng lần VI/1986) đã mang lại luồng sinh khí mới cho mọi mặt đời sống xã hội, đã củng cố lòng tin của giới trí thức, giúp họ nghĩ hành động theo đúng lương tâm, lương tri, và lý tưởng của mình, góp phần phát triển đất nước. Từ những năm 90 trở lại đây, đất nước ta chuyển hướng theo nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong bối cảnh giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa. Giao lưu văn hóa là một cơ hội để văn hóa, văn học Việt Nam có dịp cọ xát với thực tế, tìm kiếm một hướng đi riêng. “Sự mở rộng giao lưu văn hóa, không chỉ với khu vực các nước Xã hội chủ nghĩa mà là với toàn thế giới, chấp nhận giao lưu đa chiều, đa phương, tuy không tránh khỏi những phức tạp, nhưng rõ ràng có tác dụng tích cực, thúc đẩy sự khởi phát nhiều tiềm năng văn học dân tộc, nhiều thể nghiệm cách tân” [6, tr.134]. Như vậy, trong thời đại hội nhập, một yêu cầu cơ bản và cần thiết được đặt ra là giao lưu văn hóa “hòa nhập chứ không hòa tan”, tiếp thu những văn minh tiến bộ nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc – cái gốc của dân tộc Việt Nam. Muốn được như vậy, người trí thức phải đi đầu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bước ra từ cuộc chiến, người trí thức trở về với cái Tôi cá nhân (cái Tôi đã có sự hòa hợp, thống nhất với cái Ta), trăn trở tìm hướng phát triển cho đất nước: công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo cơ chế xã hội chủ nghĩa có sự chi phối của kinh tế thị trường; và một hướng đi mới cho văn học: xây dựng một nền văn hóa, văn học đậm đà bản sắc dân tộc, bắt kịp và giao lưu với văn hóa, văn học thế giới. Họ trở thành điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ, thành lương tri và sự phản tỉnh của dân tộc, thành sức mạnh của nhân cách cá nhân trên hành trình tự hoàn thiện chính mình. 1.2. Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại 1.2.1. Ưu thế nhận thức của văn xuôi nghệ thuật hiện đại Trong văn học trung đại, thể loại văn học chủ đạo là thơ. Khách văn chương - những trí thức phong kiến - dùng hình thức văn học này để giãi bày tình cảm và nói chí. Thơ giàu cảm xúc, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh, dễ dàng truyền tải những tình cảm, ý chí của chủ thể sáng tạo (người nói, người viết) đến khách thể tiếp nhận (người đọc, người nghe). Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú, nhưng cái cốt lõi của thơ là trữ tình. Nó là tấm gương của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Trong văn học hiện đại, thơ chiếm một tỉ lệ lớn trong sáng tác, ở bất kỳ hoàn cảnh nào, thời đại nào, con người cũng có nhu cầu bộc lộ tình cảm của mình. Văn xuôi xuất hiện muộn hơn thơ. Bắt đầu từ “Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn) năm 1010, đến ba thế kỉ sau, đời Trần mới có tiếp những áng văn xuôi kể chuyện ma quái, thần linh (Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh). Năm thế kỉ nữa mới có được văn xuôi quốc ngữ hiện đại nhờ vào sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ, sự xuất hiện của báo chí và phong trào dịch thuật, và nhờ vào những tìm tòi, thể nghiệm (cả về nội dung, hình thức, thể loại,… ) của người trí thức trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà nho, quan lại hay thân sĩ - những trí thức của thời đại cũ - hoặc tự nhiệm hoặc hưởng ứng phong trào Cần Vương, đứng lên cầm gươm giết giặc và cầm bút làm văn chương: Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Phan Tòng,… Họ kêu gọi nhân dân chống giặc, thổ lộ nỗi lòng trước cảnh nước mất nhà tan, ca tụng những gương trung nghĩa của anh hùng cứu nước. Thể loại văn học được sử dụng chủ yếu cho việc bày tỏ cảm xúc là chiếu, biểu, thư, hịch, câu đối, văn tế, thơ cảm hoài. Đầu thế kỉ XX, những nhà nho có tư tưởng tiến bộ, dân chủ (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền,…) đã phát động phong trào Duy tân rộng khắp trong cả nước nhằm truyền bá, giáo dục cho nhân dân những tư tưởng mới, giác ngộ nhân dân, tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước, để từ đó có thể phát kiến con đường cứu nước mang lí tưởng tư sản. Nhận ra sự ảnh hưởng to lớn, mạnh mẽ, và sức rung động sâu xa của văn chương, họ biến văn chương thành vũ khí, thành “thứ công cụ vạn năng, vừa là trống, là chiêng thức tỉnh người mê ngủ, vừa là gươm, là súng đánh đổ cường quyền” [21, tr.83]. Để thực hiện được điều đó, cần phải có một thứ ngôn ngữ thống nhất (vì trong nhân dân nhiều người không biết chữ Hán, chữ Nôm), và một thể loại thích hợp với việc giải thích, trình bày tư tưởng. Vấn đề thiết yếu đặt ra là cải cách văn tự, cải cách ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật của văn học. Đông Kinh nghĩa thục đã chủ trương dùng chữ quốc ngữ và viết văn xuôi. Phục vụ cho mục đích chính trị - xã hội, nhưng vô hình chung, các nhà nho duy tân đã là người khơi nguồn cho sự phát triển của văn xuôi tiếng Việt. Từ đó, văn xuôi - với sự phát triển phong phú của các thể loại và sự hiện đại hóa trong kĩ thuật tự sự - đã trở thành một hình thức nghệ thuật thích hợp với việc phản ánh đời sống và những biến chuyển trong tâm trạng con người. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn phản ánh đời sống thành thị Việt Nam những năm 1930 – 1945 cùng với những tâm trạng băn khoăn của một bộ phận trí thức mới muốn đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, lên tiếng cho tự do hôn nhân, phê phán kịch liệt đại gia đình phong kiến. Tác phẩm của các nhà văn hiện thực (Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,…) đi sâu vào những đề tài xã hội và đời tư, thế sự, bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận của con người, phản ánh hiện thực cuộc sống tối tăm, ngột ngạt, bế tắc, có tác dụng tích cực cho sự chuyển biến tư tưởng và nhận thức đúng đắn hiện thực của lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, muốn thay đổi hoàn cảnh hiện tại của đất nước với một khát vọng không che giấu: thoát khỏi thân phận nô lệ, giành lại tự do. Văn xuôi trong giai đoạn 1945 - 1975 đã phản ánh hiện thực đời sống trong hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ; ghi lại và tạo dựng được những bức tranh chân thực về một giai đoạn lịch sử của dân tộc với nhiều biến cố trọng đại, nhiều gian lao, hi sinh, nhưng cũng rất đỗi hào hùng; thể hiện được những hình ảnh mới mẻ về quần chúng nhân dân trong sự thức tỉnh và trưởng thành với sức mạnh vĩ đại và những chiến công, những hi sinh to lớn, những phẩm chất cao đẹp kết tinh truyền thống dân tộc và tinh thần của thời đại. Còn tác phẩm văn xuôi sau năm 1975 thì phản ánh cuộc sống như một phức hợp với ngổn ngang những tạp âm đời thường, đi sâu vào nỗi mất mát của con người bước ra từ cuộc chiến, cuộc sống đời thường với những góc khuất, những “vùng mờ ẩn ức”, hạnh phúc riêng tư của con người, đời sống tâm linh với những sắc thái tình cảm, những nhu cầu bản năng, những dục vọng thấp hèn,… Như vậy, văn xuôi phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người kể chuyện (người trần thuật) nào đó. Sự vận động của hiện thực cuộc sống được phản ánh qua các sự kiện, biến cố trong tác phẩm, qua đó, góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật, số phận từng cá nhân. Văn xuôi có khả năng tái hiện đời sống xã hội rộng lớn và bộc lộ, thể hiện từng số phận con người, cho nên nó mang ưu thế đặc thù: chức năng nhận thức. Nhờ ưu thế nhận thức đó, văn xuôi với các thể loại của nó (tiểu thuyết, truyện ngắn, tuỳ bút, hồi kí, nhật kí,…) được sử dụng để thể hiện hình tượng người trí thức trong đời sống một cách toàn vẹn, sinh động, đồng thời đi sâu khám phá số phận của tầng lớp trí thức trong việc thực hiện vai trò xã hội và trong cuộc sống cá nhân. 1.2.2. Sự nhận thức và tự nhận thức về thiên chức xã hội của tầng lớp trí thức Đảm nhận vai trò khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội, người trí thức nhận thức rất rõ về thiên chức cao cả của tầng lớp mình. 1.2.2.1. Sống trong một nước thuộc địa, bị nô dịch, bị cai trị bằng những chính sách khủng bố, đàn áp, đại đa số quần chúng đói nghèo, mù chữ, trình độ dân trí chưa cao, trong khi đó đất nước đang chuyển mình lớn lao, yêu cầu của thời đại, của dân tộc đang thôi thúc mãnh liệt, người trí thức nhận thức và ý thức được vai trò, thiên chức của mình đối với sự phát triển xã hội. Trong bài “Thiên chức của văn sĩ Việt Nam”, nhà văn Lan Khai từng khẳng định: “Trong bài diễn văn đọc tại hội nghị quốc tế các nhà văn họp năm 1935, một văn sĩ Pháp, André Gide đã nói: “Ngày nay, vấn đề cốt yếu là tạo ra một nhân loại mới”. Tôi muốn nói khác: “Ngày nay, vấn đề cốt yếu của chúng ta là tạo ra cho cuộc đời tương lai một lớp người Việt Nam mới, bằng những khả năng của dân tộc” [Dẫn theo 164, tr.389]. Muốn tạo ra “một lớp người Việt Nam mới”, tầng lớp trí thức phải đóng góp tài năng, truyền bá ánh sáng văn hóa, nâng cao dân trí, có những chính sách cải cách xã hội cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của xã hội đương thời. Vận mệnh và trình độ của một quốc gia được đo bằng trình độ của người trí thức. Ở thời kì trung đại, văn chương là một trong những thú vui tiêu khiển thanh nhã của nhà nho. Họ thuộc tầng lớp quý tộc, quan lại, có cuộc sống sung túc hoặc trung lưu. Những vấn đề của cuộc sống đời thường (cơm áo gạo tiền) chưa tác động sâu sắc đến họ. Họ không xem văn chương là một cách để kiếm sống. Người sáng tác chưa có ý thức rõ ràng về mục đích của việc cầm bút, cũng như chưa quan tâm đến “quyền tác giả”. Trái lại, người trí thức của thế kỉ XX ý thức rất sâu sắc về nghề nghiệp. Viết văn trở thành một nghề để kiếm sống (Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt, Cơm áo không đùa với khách thơ), và để thực hiện lí tưởng, hoài bão trong cuộc đời. Lí tưởng, hoài bão đó không gì khác hơn là muốn nâng cao dân trí người Việt Nam và cải tạo xã hội. Hơn thế nữa, viết văn là cái nghề không nhằm vào sự giàu sang, vinh thân phì gia, càng không chịu thân phận công chức nô lệ. “Cái định hướng chọn loại nghề tự do này cũng nói lên phần nào ý thức dân tộc, lòng tự trọng, niềm mong mỏi tự do của người trí thức Việt Nam; và mặt khác cũng chứng minh sự nhạy cảm của một thế hệ trí thức trước nhu cầu canh tân, đổi mới. Họ đã không thể đi con đường của các văn thân - sĩ phu trước đó hoặc của những người cộng sản đồng thời là con đường đầy chông gai và nguy hiểm; không thể hoặc phải tránh những con đường đó, họ phải chọn con đường xây dựng nền văn hóa dân tộc theo xu thế hiện đại, để cho kịp người và bằng người” [164, tr.392]. Nhận thức được nghề văn thích hợp với điều kiện kinh tế, khả năng, tâm lí của mình, giới trí thức tân học buổi đầu, và nhất là lớp trí thức Tây học những năm 1930 – 1945, đã tìm đến văn chương như một lẽ sống duy nhất. Trong hoàn cảnh nô lệ, ngoài con đường làm cách mạng, con đường làm văn chương thích hợp với các trí thức tâm huyết với đất nước. Qua văn chương, họ có thể nói tiếng nói của dân tộc, làm cho nó trong sáng, tinh tế hơn, góp phần phát triển nền văn hóa của dân tộc, khơi dậy trong nhân dân tình yêu sâu sắc đối với tiếng Việt. 1.2.2.2. Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã đem lại cho giới trí thức một sự phát hiện lớn lao: Sức mạnh quật khởi của đất nước và con người Việt Nam trong một vẻ đẹp mới lạ của cuộc sống thời chiến, của đời sống cộng đồng. Người trí thức nhận ra tâm thế của mình thay đổi theo sự đổi thay của thời đại. Sau phút ngỡ ngàng, họ sung sướng và nhanh chóng bắt kịp bước đi của lịch sử. Họ không còn muốn trốn chạy, ẩn mình trong những “vỏ ốc”, những “tháp ngà” của cái tôi cô đơn, riêng lẻ. Họ nhận ra: “Cảnh tưng bừng của cả dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy. Tôi cảm thấy khắp nơi ở xung quanh tôi và trong lòng tôi một cuộc tái sinh màu nhiệm” [Hoài Thanh. Dân khí, Tạp chí Tiên phong, số 3/1945]. Họ đã phải tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng gian khổ, phức tạp để nhận thức và tự nhận thức về thiên chức xã hội mới trong giai đoạn mới của đất nước. Phần đông người trí thức đi theo cách mạng, phục vụ cách mạng, mong muốn cống hiến sức lực, tài năng, vạch đường, chỉ lối đưa cách mạng đến thành công, đưa đất nước thoát khỏi ách nô lệ. Nhà văn vừa sáng tác với tư cách một nghệ sĩ sáng tạo, vừa sáng tác với tư cách một người làm nhiệm vụ cổ động, tuyên truyền cách mạng, ghi lại những mâu thuẫn của thời đại, những vấn đề của cuộc sống tinh thần, của lịch sử dân tộc. Chẳng hạn như phong trào đấu tranh chính trị và khuynh hướng văn học yêu nước, cách mạng ở các đô thị miền Nam (1954 – 1975). Mỹ và chính quyền Sài Gòn dùng văn nghệ như một vũ khí chống lại cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc ta. Trong khi không ít trí thức lầm đường, lạc lối, bị “chiêu bài” của Mỹ làm mờ mắt, quay lưng lại với nhân dân, viết những văn phẩm suy đồi, phản động, lệch lạc, tiếp sức cho văn nghệ thực dân mới,... thì số đông trí thức chân chính đã dấy động những cuộc đấu tranh chính trị, những cuộc biểu tình rộng khắp trong sinh viên, học sinh: Trần Quang Long, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Lê Vĩnh Hòa, Miên Đức Thắng, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Văn Xuân, Lý Chánh Trung, Trần Nguyên Lan, Lữ Phương,... Vũ khí của họ chính là ngòi bút: Con sẽ vót nhọn thơ thành chông Xuyên vào gan lũ giặc Con sẽ mài thơ thành kiếm sắc Chặt đầu văn nghệ tay sai… (Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long) Họ nhận thức và ý thức sâu sắc trách nhiệm và nhiệm vụ của một người cầm bút: “Văn học ngày nay của chúng ta làm gì khác hơn nếu không phơi trần ra sự thực ấy để kêu đòi cho đời sống tươi sáng hơn” [Lữ Phương - Mấy vấn đề văn nghệ, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1967]. “Bút máu” (Vũ Hạnh) là một tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm nặng nề của người cầm bút, đồng thời là lời cảnh báo gián tiếp đến những cây bút phản động, tiếp tay cho kẻ thù. Phong trào đấu tranh chính trị và những tác phẩm văn học yêu nước có tác dụng lớn lao, có tính chiến đấu mạnh mẽ. Nó thức tỉnh những trí thức vô tình lầm lạc và một bộ phận nhân dân đô thị, nhất là thanh niên. “Nó đã tẩy rửa phần nào những vẩn đục của bùn nhơ tư tưởng mà kẻ thù đã gieo rắc, và đem lại cho những người này lòng tự trọng, ý thức về nhân phẩm, tinh thần dân tộc truyền thống và nhiệt tình yêu chân lí” [123, tr.126]. Sự tích cực thực hiện vai trò xã hội của người trí thức đã góp phần thúc đẩy đời sống xã hội và tiến trình lịch sử, cũng như góp phần hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 theo xu hướng đại chúng hóa và có sự phân chia “giới tuyến”. 1.2.2.3. Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt, trở lại với cuộc sống muôn mặt của đời thường, bao nhiêu mặt trái, góc khuất của cuộc đời hiện ra: con người vật vã trong cuộc mưu sinh, trong những vết thương tâm hồn không thể lành lặn bởi chiến tranh, trong cuộc vật lộn nhân cách với cơm áo, tiền bạc, danh vọng, địa vị. Đứng trước nhiều thay đổi, nhiều bộn bề trong cuộc sống đời thường, người trí thức lại băn khoăn, tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi: Thiên chức của người trí thức trong thời đại mới? Sứ mệnh của người trí thức là gì? Lý tưởng của người trí thức là ở đâu?... Cả một thế hệ trí thức lại bắt đầu nhập cuộc, lắng nghe hơi thở của đời sống, sự chuyển mình của thời đại. Họ nhận thức qui luật phát triển của xã hội ở giai đoạn mới, xác lập những chuẩn mực và giá trị tư tưởng mới, kết hợp giữa việc giữ gìn, phát huy truyền thống với hiện đại hóa, giữa phê phán và xây dựng, giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Để bắt kịp nhịp sống sôi động của thời đại, và phản ánh trung thực hiện thực cuộc sống đa dạng, người trí thức cần xác tín thái độ, nhận thức trách nhiệm đối với bản thân, nghề nghiệp, và với xã hội, để tránh tình trạng tha hóa về đạo đức, đánh mất nhân phẩm của con người. Trong thời đại giao lưu, hội nhập, họ tiếp xúc với văn hóa, văn học các nước trên thế giới, quen thuộc với những giá trị chung của nhân loại, có nhu cầu trao đổi, trò chuyện, đối thoại, giao lưu,… Đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, người trí thức lại tiếp tục thực hiện thiên chức xã hội của tầng lớp mình: xây dựng một đất nước giàu đẹp, văn minh, xây dựng một xã hội với những nền tảng đạo đức bền vững, mang đậm giá trị nhân văn. Cuộc sống đời thường và những vận động ở chiều sâu của nó đòi hỏi một loại văn học mới - văn học nghiền ngẫm hiện thực - khác với văn học sử thi giai đoạn trước. Đổi mới là yêu cầu khách quan của sự phát triển, và là nỗi khát khao, nguyện vọng của những nhà văn có trách nhiệm, có lương tâm. Nhà văn được giải phóng cá tính sáng tạo, được tự do trong sáng tác, không còn ép mình, gò mình viết nên những đứa con tinh thần theo khuôn mẫu, lí tưởng, thước đo của thời đại. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân và sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ đã thúc đẩy văn học Việt Nam đổi mới, làm cho văn xuôi Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ và có nhiều thành tựu mới. 1.2.3. Sự nhận thức và tự nhận thức về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức Bên cạnh thiên chức xã hội, người trí thức sống, làm việc trong môi trường cộng đồng và trong nhiều mối quan hệ chồng chéo với gia đình, xã hội. Không phải lúc nào họ cũng gặt hái được những vinh quang, thắng lợi, mà, trong đời sống cá nhân, họ vẫn vấp phải những bi kịch, đắng cay. 1.2.3.1. Khi cái Tôi cá nhân xuất hiện, nó phá vỡ nhiều khuôn khổ, quan niệm. Trong đó, con người thành thực với tâm hồn mình hơn. Họ bắt đầu nhận thức và tự nhận thức về số phận của mình. Trong một xã hội nhiều biến động như xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, tầng lớp trí thức mang tâm thế hoang mang, cô đơn, nhiều mâu thuẫn: lúc vội vàng, hăng say theo đuổi lí tưởng, hoài bão; lúc thờ ơ, chán nản, hoài nghi trước thực tại. Họ băn khoăn trong việc lựa chọn hướng đi và dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn bã, chán chường. Trí thức luôn khao khát sáng tạo, thể hiện và cống hiến tài năng, nhưng sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đã tác động rất lớn đến cuộc đời họ, khiến họ khó thể thực hiện được những hoài bão cao đẹp. Họ bị cuốn vào vòng xoay áo cơm, dễ bị sa ngã trước cám dỗ, thậm chí, đối diện với sự tha hóa nhân cách. Họ bắt đầu tự nhận thức về những bi kịch cá nhân, có nhu cầu bộc bạch, thể hiện, nghiền ngẫm số phận và bi kịch cá nhân. Họ vừa muốn phản ánh hiện thực cuộc sống, vừa muốn đi sâu khám phá cái tôi - thế giới tâm hồn bí ẩn, phức tạp. Văn xuôi là hình thức nghệ thuật thích hợp nhất. Sau 1975, bước ra từ cuộc chiến, như bao người khác, trí thức lại quay về với cuộc sống đời thường. Cái tôi, một lần nữa, trỗi dậy mãnh liệt với ý thức cá tính sâu sắc. Họ tiếp nối cuộc hành trình dang dở vì hoàn cảnh lịch sử, thể hiện những khát vọng sáng tạo cái đẹp và cống hiến tài năng. Nhưng những đổi thay trong quan niệm cuộc sống, đặc biệt là sự ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, tác động sâu sắc đến họ. Sự phân hoá giàu nghèo, sự phân biệt địa vị, chức vụ, gia thế đã đẩy người trí thức vào những tình huống trớ trêu, bi kịch và tình trạng tha hoá, xói mòn nhân cách. Con người sống giữa cộng đồng, và đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi cá nhân, đến từng số phận. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người đã khiến người trí thức tìm đến với hiện thực đời sống, khám phá những góc khuất, miền tối, vùng cấm địa trước đây. Họ được miêu tả ở nhiều góc độ (tốt - xấu, thiện – ác,…) và ở mọi cung bậc (xã hội, tự nhiên, tâm linh, bản năng, vô thức,…). Nhà văn đi sâu khai thác nội tâm, đào xới đời sống tâm linh với những sắc thái tình cảm riêng tư, những dục vọng, bản năng, tận cùng của nỗi đam mê và đau khổ - điều mà ở giai đoạn 1945 - 1975 họ chưa dám thể hiện. Trong sự vật lộn với cuộc sống đời thường, người trí thức luôn khát khao mãnh liệt vươn đến một thế giới của thần thánh, thế giới của lòng tin, thế giới của tình yêu thương, thế giới của những giá trị nhân văn cao cả. Hình tượng người trí thức mất dần tính nguyên phiến, sử thi, mà được soi chiếu từ nhiều chiều, hiện ra trong nhiều mâu thuẫn, nhất là trong đạo đức, tình cảm. Ngoài con người xã hội kinh điển còn có một loạt những con người trong cùng xã hội và ngay trong cùng một con người. Trong họ, thường xuyên diễn ra những cuộc đấu tranh để tồn tại, để tự nhận thức, tự ý thức, và để giữ được nhân cách. ._. bà mẹ lao động nghèo như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), là cô gái quê như Tâm (Cô hàng xén), hay là những cô gái giang hồ phải sống đời ô trọc, lầm lỡ như cô Liên, cô Huệ (Tối ba mươi). [Nguồn: Vương Trí Nhàn: “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn học số 5, 1990.] Quả thật, trí thức là tinh hoa của đất nước (“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”), phần tinh hoa trong con người trí thức văn nghệ sĩ là tiêu chuẩn tốt đẹp mà con người nói chung cần vươn tới, trân trọng, nuôi dưỡng. Con người khi có được cốt cách trí thức là con người trưởng thành, đáng kiêu hãnh, một nền kinh tế trí thức là một nền kinh tế phát triển, theo kịp thời đại. Đọc tác phẩm văn xuôi hiện đại viết về người trí thức, dĩ nhiên ta gặp các nhân vật có cốt cách trí thức. Nhưng đáng nói hơn là khả năng “trí thức hóa” những người xung quanh, môi trường xung quanh của người trí thức trong các tác phẩm này. “Trí thức hóa” ở đây hiểu theo cả hai mặt: a) Cái tốt đẹp, tinh hoa ở nhân vật người trí thức tỏa sáng, nhân lên ở những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường; b) Cái tốt đẹp, tinh hoa bị tha hóa, mai một như là bài học chua xót hay như là những lời cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam. Một ví dụ cho trường hợp thứ nhất (a): Trong mối tương quan với nhân vật ông giáo, cái cách mà lão Hạc - một người nông dân - suy nghĩ và hành động quả thật mang hơi hướng cốt cách của một người trí thức. Ông giáo cạnh Lão Hạc (Lão Hạc – Nam Cao) làm cho Lão Hạc có một điểm tựa tinh thần, một người bạn tin cẩn, ngược lại nhân cách người cha đáng kính của Lão Hạc đặt cạnh ông giáo, làm cho ông giáo càng phải giữ gìn cốt cách trí thức hơn. Cũng như thế, tinh hoa trí thức ở nhân vật “tôi” - ông giáo chắc chắn làm cho nhân vật người vợ, Binh Tư và dân làng Vũ Đại cũng trở nên trí thức hơn trong cách ứng xử. Đặc biệt, bài học ứng xử ở đời: Phải “cố tìm mà hiểu” “những người xung quanh ta” của nhân vật tôi – “ông giáo”, chắc chắn có khả năng “trí thức hóa” con người và môi trường rất lớn. Có thể tìm thấy nhiều ví dụ tương tự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), “chữ” của “người tử tù” tài hoa lẫm liệt Huấn Cao là thứ ánh sáng vẫy gọi những người sống nhầm chỗ, chọn lầm nghề như ngục quan, thơ lại đến với cái tài, cái dũng, cái thiên lương. Cái tài, cái dũng, cái thiên lương của Huấn Cao đã làm cho một kẻ “mê muội” như ngục quan tỉnh ngộ ra nhiều điều tốt đẹp. Một số ví dụ cho trường hợp thứ hai (b): Sự tha hóa của các nhân vật trí thức của Nam Cao và bài học từ sự phản tỉnh của họ (Hộ trong Đời thừa, Điền trong Trăng sáng, Thứ trong Sống mòn,…); Sự tha hóa đáng tiếc của nhân vật Thuật (Đám cưới không có giấy giá thú, Ma Văn Kháng),… còn mang lại những bài học cay đắng và sâu sắc hơn. Hình tượng nhân vật trí thức có khả năng “trí thức hoá” hình tượng con người Việt Nam, làm tỏa sáng những tính tình tốt đẹp, những cốt cách của con người. Con người Việt Nam dù ở tầng lớp nào cũng đều hiện lên trong văn học với một bản lĩnh vững vàng và những nét đẹp tính cách, tâm hồn. Ngay cả khi đề cập đến cái xấu, cái ác của con người, hình tượng nhân vật giúp ta nhận thức, đề phòng, cũng như biết cách tự vệ và tiêu diệt cái xấu, cái ác. Hình tượng nhân vật trí thức còn góp phần phát triển nền văn học: quan niệm nghệ thuật về con người, hệ thống thể loại, kĩ thuật tự sự,... Cùng với quá trình vận động và phát triển của hình tượng nhân vật, văn học cũng vận động và phát triển theo. Đó là sự vận động và phát triển của một nền văn học có sự nhận thức, có ý thức, và mang tính tự vấn cao, để có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại và con người, đồng thời, làm cho thời đại và con người tiến bộ, phát triển lên ở một tầm vóc cao hơn, cả về vi mô lẫn vĩ mô. Như vậy, trong chương này, luận văn đã tìm hiểu những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hình thức, nghệ thuật thể hiện này, dưới tài năng và tài hoa của người sáng tác, đã xây dựng được hình tượng người trí thức trong văn học - những mẫu người hội đủ cả vinh quang và cay đắng, kiêu hãnh và mặc cảm như chính nguyên mẫu ngoài cuộc đời. KẾT LUẬN 1. Từ đầu thế kỉ XX đến nay (tính đến năm 2000), đất nước và xã hội Việt Nam trải qua nhiều cơn biến động, ba đào: một cuộc Âu hóa làm đổi thay quan niệm cũ (XX – 1945), một hành trình đấu tranh gian khổ cho độc lập, tự do (1945 – 1975), một công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế (sau 1975). Trong những biến cố của đời sống xã hội, người trí thức có một vai trò quan trọng, to lớn tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước: Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945); Người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - Người thư ký trung thành của thời đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975); Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975). Văn xuôi nghệ thuật mang chức năng nhận thức, với những đặc trưng về thể loại, đi vào khám phá hình tượng nhân vật trí thức chủ yếu ở hai phương diện: Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức. Từ cuộc đời đến những trang văn, qua các góc nhìn và tư duy nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết) của các thế hệ nhà văn, nhân vật trí thức được xem xét ở các khía cạnh: Người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học; Người trí thức như là đối tượng trung tâm của văn học; Người trí thức và nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ, quần chúng cách mạng; Người trí thức – linh hồn của văn hóa và giá trị nhân văn, tinh thần dân chủ. 2. Ở từng chặng đường văn học, tùy vào cái nhìn nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết), hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách - được thể hiện nghiêng về vinh quang hay cay đắng, kiêu hãnh hoặc mặc cảm. 2.1. Qua cái nhìn sử thi của văn xuôi Việt Nam hiện đại (1945 – 1975), hình tượng người trí thức là những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc cảm. Theo tiếng gọi của lí tưởng cách mạng, người trí thức văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến, hòa vào đời sống chung của dân tộc, nhưng vẫn còn rơi rớt những mặc cảm lạc lõng trong quan hệ với cộng đồng của một số trí thức chưa kịp thức thời, giác ngộ. Thế nhưng, cốt cách trí thức và thái độ thức thời chân chính đã giúp cho người trí thức không ngừng tự vươn lên, vượt qua “cái tôi” để chiến thắng niềm mặc cảm lạc lõng đó. Người trí thức thể hiện ước muốn “nhận đường” và “lột xác”, trở thành người thư ký trung thành của thời đại, ghi lại một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đại, hào hùng, xây dựng hình tượng con người Việt Nam anh hùng, bất khuất, có tác dụng cổ vũ lớn lao, mạnh mẽ tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước của nhân dân ta. Người trí thức văn nghệ sĩ đã rất tận tâm với lí tưởng nghệ thuật mới mẻ đó. Họ vươn mình trở thành những trí thức - chiến sĩ với một niềm tin bất diệt vào độc lập, tự do. Nhân vật trí thức kết tinh những phẩm chất cao đẹp của thời đại. Họ tìm kiếm và thể nghiệm một lẽ sống đẹp trong cuộc đời. 2.2. Qua cái nhìn tiểu thuyết của văn xuôi Việt Nam hiện đại (trước 1945 và sau 1975), hình tượng người trí thức là những mẫu người giàu kiêu hãnh và mặc cảm trong ý thức sâu xa về nhân cách, về bản thể. Trí thức thường rất kiêu hãnh về bản ngã của mình. Sự kiêu hãnh đó thể hiện ở tình yêu, lòng tôn thờ, niềm khát khao sáng tạo cái đẹp, tha thiết với hoài bão, lí tưởng cao cả trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Họ tìm kiếm những con đường khác nhau để đi tìm, theo đuổi mục đích lớn nhất của cuộc đời mình. Với người trí thức, sống là phải làm việc, phải cống hiến và sáng tạo. Cái đích mà họ khát khao vươn tới chính là cái đẹp. Sự kiêu hãnh đó còn thể hiện ở niềm khát khao vươn đến một thế giới tinh thần phong phú, độc đáo, một nhân cách đẹp theo quan niệm, cảnh ngộ của mỗi người, mỗi thời. Trí thức vốn rất đa cảm và nhạy cảm, thế giới tinh thần, đời sống nội tâm của họ phong phú với nhiều cung bậc, lắm thanh âm, đa màu sắc: Nhân vật trí thức luôn có ý thức “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác” của Thạch Lam; Nhân vật trí thức tài hoa tài tử và rất “ngông” của Nguyễn Tuân; Nhân vật trí thức khắc khoải với tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Nam Cao;… Trí thức luôn biết tự nhận thức, tự đấu tranh, tự vấn để vươn đến một thế giới tinh thần độc đáo và một nhân cách toàn vẹn, đẹp đẽ. Không phải chỉ được thể hiện ở sự kiêu hãnh về bản ngã, hình tượng người trí thức trong văn học còn được soi chiếu trong niềm mặc cảm, cay đắng, cô đơn trong hành trình đi tìm bản thể. Trí thức dễ rơi vào mặc cảm cô đơn, vỡ mộng. Họ cô đơn vì chịu sự tác động của hoàn cảnh xã hội lên thân phận cá nhân (nhân vật trí thức của Nhất Linh, Nguyễn Tuân). Họ cô đơn trong sự đối mặt với chính mình, với những cuộc đấu tranh căng thẳng trong tâm hồn mình (nhân vật trí thức của Nam Cao, Nguyên Hồng). Họ cô đơn vì mặc cảm con người thừa, thân phận bèo bọt và lạc loài, lạc thời (nhân vật trí thức của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Bảo Ninh,…). Họ cô đơn trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, sự huỷ hoại về nhân tính (nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp). Họ cô đơn trong dòng chảy trôi của cuộc sống đời thường (Hoàng – Cơ hội của Chúa, Nguyễn Việt Hà, Kiên - Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh),… Sự cô đơn đó xuất phát từ bi kịch vỡ mộng, và tạo nên một niềm mặc cảm chân thành, lành mạnh, và chính đáng của những con người luôn biết ý thức sâu sắc về bản ngã của mình. Người trí thức trong văn học còn đối mặt với mặc cảm tha hóa của bản thân và của tầng lớp mình. Lúc đầu chỉ là những hiện tượng tha hóa riêng lẻ (nhân vật trí thức lưu manh của Vũ Trọng Phụng, nhân vật trí thức có những biểu hiện tha hóa nhân cách của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu), về sau là sự tha hóa tập thể và nó trở thành một vấn nạn đáng báo động về sự xuống cấp, suy đồi đạo đức (đám đông trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng, Thiên sứ - Phạm Thị Hoài, Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà,…). Thế nhưng, nhân vật trí thức của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu còn biết tự thú, tự vấn, sám hối với niềm mặc cảm bi thiết, còn đám đông trí thức trong văn học sau 1975 không mấy người biết mặc cảm trước sự tha hóa của bản thân mình. 2.3. Trong tư tưởng và ý thức của người Việt Nam, trí thức đại diện cho trí tuệ, tâm hồn, tinh hoa của cộng đồng. Nhưng khi tư duy sử thi nhường chỗ cho tư duy tiểu thuyết, hình tượng người trí thức trong văn học không còn là những con người luôn vật vã đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách, mà họ được đem ra xem xét, mổ xẻ, khám phá ở nhiều bình diện, đặc biệt là những góc khuất của tâm lí, tâm linh. Nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ một cách thần thánh, “vô trùng”, mà là con người “như tự nó” với sự tồn tại của cả “cái tốt và cái xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” trong cùng một con người. Họ mang những nét tính cách rất “phản anh hùng” (nhân vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà). Dưới cái nhìn sử thi hoặc cái nhìn tiểu thuyết, ở mỗi chặng đường văn học, chân dung, tính cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được thể hiện khá chận thực, toàn diện. Hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách – là loại nhân vật có sự phát triển khá nhất quán cùng với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. 3. Trong chương 3, luận văn nghiên cứu hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trước hết, viết về người trí thức là một nhu cầu bức bách, thiết yếu và là một thách thức lớn đối với người cầm bút. Nó đòi hỏi lòng can đảm, sự dũng cảm và thái độ “trung thực vô ngần” khi nhà văn bộc bạch, phơi bày, mổ xẻ con người mình và tầng lớp mình. Do đặc trưng riêng của loại hình nhân vật, người trí thức trong văn học là những hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa nhận thức. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà văn thể hiện sự nhận thức, tự nhận thức về vai trò xã hội cũng như sự nhận thức, tự nhận thức số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức. Do vậy, trong tác phẩm viết về người trí thức, nhà văn xây dựng cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức, xây dựng nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức và sử dụng ngôn ngữ kể chuyện giàu ý nghĩa nhận thức, triết lí. Bên cạnh đó, hình tượng người trí thức còn đậm chất tự truyện. Vì thế, các thể loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tùy bút rất thích hợp để nhà văn, thông qua nhân vật, bộc lộ cái tôi, cái chủ quan. Để khắc họa hình tượng người trí thức đậm chất tự truyện, nhà văn sáng tạo nên những cốt truyện tâm lí, những tình tiết, những nhân vật đậm chất tự truyện và sử dụng điểm nhìn trần thuật mang chất tự truyện. Cuộc đời của nhân vật trí thức đúng là những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi. Tính cách, số phận của nhân vật trí thức gần với tính cách, số phận của nhân vật bi kịch. Nhà văn thường đặt nhân vật vào những tình huống, xung đột nội tâm và thể hiện những tính cách, số phận bi kịch của người trí thức để khám phá ra thế giới tâm hồn sâu thẳm, đầy phức điệu của người trí thức và sự mênh mông, bừa bộn, hỗn tạp của cuộc sống. Khi thể hiện tính cách, số phận bi kịch của nhân vật trí thức, nhà văn xoáy sâu vào những trạng thái tâm lí và những dòng độc thoại nội tâm. Cốt cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được soi sáng dựa trên mối quan hệ tương tác với những loại nhân vật khác trong tác phẩm (công nhân, nông dân, người lính,…). Nhưng cốt cách của nhân vật trí thức cũng tác động rất lớn đến hành vi, ngôn ngữ, nhận thức, tâm hồn,… của những loại nhân vật khác. Nói cách khác, hình tượng nhân vật trí thức trong văn học có khả năng “trí thức hóa” những người xung quanh, môi trường xung quanh. Cốt cách trí thức của nhân vật người trí thức tỏa sáng, nhân lên ở những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường. Cốt cách trí thức của họ cũng làm cho người đọc cùng chia sẻ nỗi bất an trong lòng khi mà cái tốt đẹp, tinh hoa bị tha hóa, mai một. Trong trường hợp này tác phẩm là bài học chua xót hay là lời cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam. 4. Qua sự phác họa những đặc trưng tiêu biểu trong hình tượng nhân vật trí thức và những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, có thể rút ra một kết luận chung nhất: Văn học không chỉ phản ánh hiện thực đời sống, hiện thực thời đại mà còn là, luôn là bức tranh phản chiếu tâm thế, “não trạng” của thời đại, và, hơn ở đâu hết, hình tượng người trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại cho ta thấy rõ nhất, cái tâm thế, “não trạng” ấy. Ai đó đã nói rằng: Hãy cho biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói cho biết anh là người thế nào. Sẽ không hề vu vơ hay quá lời khi ta cũng nói theo cách đó: Hãy cho biết một giai đoạn, một nền văn học viết về người trí thức như thế nào, tôi sẽ nói về đặc điểm, trình độ phát triển của giai đoạn hoặc nền văn học ấy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh – Lê Thị Dục Tú (2001), Thạch Lam - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên. 4. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du. 5. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiepxki, (Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội. 7. Nam Cao (1987), Tuyển tập truyện ngắn, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập (2 tập) – Hà Minh Đức sưu tầm, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Nam Cao (2006), Sống mòn, Nxb Giáo dục. 10. Nam Cao (2003), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học. 11. Nguyễn Minh Châu (2001), Dấu chân người lính, Nxb Thanh niên. 12. Nguyễn Minh Châu (2003), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học. 13. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội. 14. Tân Chi (1999), Thạch Lam – Văn và đời, Nxb Hà Nội. 15. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội. 16. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học, số 6. 17. Đặng Anh Đào (1988), “Một trường hợp đang bàn cãi”, Văn nghệ, ngày 3-9-1988. 18. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – Con người và văn chương, Nxb Văn học. 19. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn (1930 – 1945), Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 21. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học. 23. Hà Minh Đức (1991, chủ biên), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Hà Minh Đức (2003), Khảo luận văn chương (tái bản lần 3), Nxb Khoa học xã hội . 25. Hà Minh Đức (2007), Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học. 26. Umberco Eco (2003), “Về một vài chức năng của văn học”, Tạp chí Văn học, số 5. 27. Văn Giá (2002), Một khoảng trời văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Việt Hà (2006), Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 29. Nguyễn Việt Hà (2006), Khải huyền muộn, Nxb Hội nhà văn. 30. Lê Thị Đức Hạnh (2000), Nguyễn Công Hoan - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Hegel (1999), Mĩ học (Phan Ngọc dịch, tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội. 34. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du. 35. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội. 36. Hoàng Ngọc Hiến (2006), “Đọc Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà”, Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 37. Trần Văn Hiếu (2005), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam thời kì 1930-1945: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 38. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và Mũi Cà Mau. 39. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn. 40. Lê Cẩm Hoa (2000), Nhất Linh – Con người và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 41. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới, Nxb Văn học, Hà Nội. 42. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 43. Phạm Thị Hoài (1988), Thiên sứ, Tạp chí Tác phẩm văn học, Số 7. 44. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai (hồi kí), Nxb Hội nhà văn. 45. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Hội nhà văn. 46. Tô Hoài (2007), Mười năm, Nxb Hội nhà văn. 47. Đỗ Kim Hồi (1994), “Đôi mắt của Nam Cao”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 48. Nguyên Hồng (2002), Truyện ngắn trước 1945, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển 2, tập 4, Nxb Văn học. 49. Nguyên Hồng (1961), Sóng gầm, Nxb Văn học. 50. Nguyên Hồng (1998), Cơn bão đã đến, Nxb Văn học. 51. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Hậu thiên đường, Nxb Hội nhà văn. 52. Khái Hưng (2001), Đẹp, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 53. Mai Hương (2000, tuyển chọn), Vũ Trọng Phụng - Một tài năng độc đáo, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội. 54. Dương Thu Hương (1987), Bên kia bờ ảo vọng, Nxb Phụ nữ. 55. Dương Thu Hương (1988), Các vĩ nhân tỉnh lẻ, Nxb Thanh niên Hà Nội. 56. Dương Thu Hương (1988), Những thiên đường mù, Nxb Phụ nữ. 57. Trần Đình Hượu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 58. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết (2 tập), Nxb Thanh niên. 59. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới. 60. Nguyễn Khải (1983), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới. 61. Nguyễn Khải (1999), Vòng sóng đến vô cùng, Nxb Trẻ TP.HCM. 62. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 63. Ma Văn Kháng (1986), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ. 64. Ma Văn Kháng (2001), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 65. Ma Văn Kháng (2003), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Công an nhân dân. 66. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, Nxb Công an nhân dân. 67. Nguyễn Hoành Khung (1997), “Đời thừa”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 68. M.B. Kharapchenco (1979), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 69. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, (nhiều người dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 70. Lê Minh Khuê (1992), Viết về cái ác cũng là một cách thức tỉnh nhân tính, Nxb Tác phẩm mới. 71. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 72. Milan Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 73. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn. 74. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học. 75. Thạch Lam (1999), Sợi tóc, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 76. Thạch Lam (1999), Gió đầu mùa, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 77. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb KHXH. 78. Phong Lê (1986), “Người trí thức kiểu Nam Cao và chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực”, Tạp chí văn học, số 5. 79. Phong Lê (1987), “Nam Cao – văn và đời”, Tuyển tập Nam Cao, tập 1, Nxb Văn học. 80. Phong Lê (1997), Văn học Việt Nam trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 81. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 82. Phong Lê (2003), Nam Cao - Người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực, Nxb ĐHQG Hà Nội. 83. Nhất Linh (1989), Bướm trắng, Nxb Tổng hợp An Giang. 84. Nhất Linh (2000), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học. 85. Nhất Linh (2001), Đoạn tuyệt, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 86. Nhất Linh (2001), Đôi bạn, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia. 87. Phạm Quang Long (1994), “Một đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nam Cao”, Tạp chí văn học, số 2. 88. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 89. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006, chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục. 90. NguyễnVăn Lưu (1988), “Về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”, Báo Hà Nội mới, 28-8-1988. 91. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 92. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học, Hà Nội. 93. Hoàng Như Mai (1989), Trí thức và nghệ sĩ, Nxb Tổng hợp An Giang. 94. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Văn học. 95. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 96. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 97. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Nxb Văn học. 98. Tôn Thảo Miên (1998), Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 99. Nguyễn Thanh Minh (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật, Nxb Văn học. 100. Lê Thành Nghị (2003), Văn học – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội nhân dân. 101. Phương Ngân (2001, tuyển chọn), Nguyễn Huy Tưởng – Khát vọng một đời văn, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội. 102. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn học, số 5. 103. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn. 104. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tayt truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 105. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại, Nxb Hội nhà văn. 106. Phùng Quý Nhâm (1992), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 107. Phùng Quý Nhâm (1998), “Tinh thần phân tích tâm linh - một đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực”, Tạp chí Văn học, số 4. 108. N.I. Niculin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu quốc học. 109. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học. 110. Nguyễn Oanh (1988), “Khởi sắc hay là sự chuyển mình của văn học”, Văn nghệ, 3-12-1988. 111. M.F. Ôpxiannhicôp (2001), Mĩ học cơ bản và nâng cao, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 112. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học xã hội, TP.HCM. 113. Hoàng Phê (1997), Tự điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 114. Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục. 115. Vũ Trọng Phụng (2006), Số đỏ, Nxb Văn học. 116. Vũ Trọng Phụng (2006), Giông tố, Nxb Văn học. 117. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn. 118. J.P. Sartre (1999), Văn học là gì? (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 119. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. 120. Trần Đình Sử (2002), Đọc văn và học văn, Nxd Giáo dục, Hà Nội. 121. Trần Đình Sử (2003, chủ biên), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb ĐHSP Hà Nội. 122. Trần Hữu Tá (1988), “Lời tựa Bướm trắng”, Bướm trắng, Nxb An Giang. 123. Trần Hữu Tá (2001), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP.HCM. 124. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, Nxb Quân đội nhân dân. 125. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học. 126. Hoài Thanh (1978), Toàn tập, Nxb Văn học Hà Nội. 127. Ngô Thảo (2000), Văn học với đời sống - Đời sống văn học, Nxb Văn học. 128. Bùi Việt Thắng (2001), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn học. 129. Đoàn Cầm Thi (2004), “Cơ hội của Chúa - Từ nhật kí đến hậu trường văn học”, Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn. 130. Nguyễn Đình Thi (2001), Vỡ bờ (2 tập), Nxb Văn học. 131. Nguyễn Thành Thi (2006), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb Khoa học xã hội. 132. Nguyễn Thành Thi (2008), “Lược đồ văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại”, Bình luận văn học, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 133. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội nhà văn. 134. Bích Thu (2004, tuyển chọn), Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Nxb CAND. 135. Nguyễn Ngọc Thiện (1996, chủ biên), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 – 1939, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 136. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. 137. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP.HCM. 138. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo – Thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên, TP.HCM. 139. Hoàng Trinh, Nam Mộc, Duy Thành, Nguyễn Cương (1978), Văn học, cuộc sống nhà văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 140. Hà Bình Trị (1991), “Chất trữ tình trong sáng tác của Nam Cao”, Báo Giáo dục và thời đại, số 37. 141. Hà Bình Trị (1992), “Tâm lý nhân vật trong một số sáng tác của Nam Cao”, Tập san Giáo dục phổ thông, số 3. 142. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học. 143. Trần Thị Thanh Trúc (2004), Số phận tinh thần của con người trong tác phẩm của Nam Cao, Luận văn thạc sĩ ĐHSP. TPHCM. 144. Nguyễn Tuân (2002), Vang bóng một thời, Nxb Văn học. 145. Nguyễn Tuân (1998), Tùy bút viết trước 1945, Nxb Hải Phòng. 146. Nguyễn Tuân (2005), Thiếu quê hương, Nxb Văn học. 147. Lê Thị Dục Tú (2003), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Nxb Thanh niên. 148. Xuân Tùng (2000, sưu tầm), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng. 149. Nguyễn Huy Tưởng (1996), Sống mãi với thủ đô, Toàn tập (tập 4), Nxb Văn học. 150. Nguyễn Huy Tưởng (1997), Vũ Như Tô (Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX), Nxb Sân khấu. 151. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 152. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1900 – 1945), Nxb Đại học quốc gia TP.HCM. 153. Trần Đăng Xuyền (1998), “Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn”, Tạp chí Văn học, số 6. 154. Trần Đăng Xuyền (2002), “Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học, số 10. 155. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn hiện thực - Đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội. 156. Phạm Hoàng Yến (1996), “Truyện ngắn Nam Cao với phương thức cấu trúc theo số phận nhân vật”, Tạp chí Trung học phổ thông – Khoa học xã hội, số 18. 157. Peter Zinoman (2002), “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 6. 158. Trần Đình Vân (1965), Sống như anh, Nxb Văn học. 159. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ TP.HCM. 160. Nguyễn Khắc Viện (1993), “Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại””, Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. 161. Một số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở trường THPT, Tài liệu lưu hành nội bộ, 2007. 162. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương – Nxb Trẻ TP.HCM. 163. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới mới. 164. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại một thế kỉ văn học, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 165. Nhiều tác giả (1995), Hồi ức binh nhì, Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994, Nxb Văn học. 166. Nhiều tác giả (1994), Bến trần gian (Tập truyện ngắn chọn lọc cuộc thi tạp chí Văn nghệ Quân đội 1992 – 1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 167. Nhiều tác giả (2001), Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (tái bản lần 5), Nxb Giáo dục, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5163.pdf
Tài liệu liên quan