Nhân tố chủ quan với việc thực hiện cụng bằng xó hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc)

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng, thuận lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập... đã làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn so với những thập niên cuối thế kỷ XX. Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộn

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nhân tố chủ quan với việc thực hiện cụng bằng xó hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn đáng trân trọng, kinh tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được giữ vững, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí,… có chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế lại thuộc về những người có thu nhập cao, các tệ nạn xã hội như buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý kinh tế để làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức quan tâm, bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trở nên nghiêm trọng đòi hỏi phải có câu trả lợi thỏa đáng. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH. Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Song việc thực hiện ở các cấp các ngành vẫn còn những vấn đề bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng có nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có tính thời sự trong quá trình thực hiện mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc)" làm đề tài tốt nghiệp. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Xung quanh vấn đề: Nhân tố chủ quan (NTCQ) với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: - "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", do TS Hoàng Thị Thành làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; - "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam", do TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; - "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung", do TS Phạm Hảo, TS Võ Xuân Tiến, TS Mai Đức Lộc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; - "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; - "Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Hoa, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; - "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị)", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; - "Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc trong giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm Văn Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; - "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)", Luận văn thạc sĩ của Vũ Hữu Phê, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004); - "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp", do TS Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006; - "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", của PGS.TS Trần Thành, Tạp chí Triết học, số 2(177), 2006; - "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - những quan điểm cơ bản của Đảng", của TS Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Triết học, số 9(184), 2006 ... Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và tạp chí bàn về vấn đề CBXH ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ triết học như tên đề tài đã nêu ra. Những tài liệu nêu trên chứa đựng những giá trị khoa học rất quý giá, được tác giả tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ nội dung quan niệm CBXH; vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. - Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện CBXH (qua thực tế Vĩnh Phúc), chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ trong việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện nước ta hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Vĩnh Phúc), từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị trong các công trình khoa học đã nghiên cứu để phục vụ cho luận văn. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã dùng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra. 6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của NTCQ đối với việc thực hiện CBXH ở Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc), từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt CBXH ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn sau này. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 1.1.1. Quan niệm ngoài mácxít về công bằng xã hội Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động và lao động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu được, và tuy nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng đồng, không có trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng đồng thì phải chịu sự trừng phạt theo quy ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao... Tất cả đều bình đẳng và tự do" [47, tr. 147-148]. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản phẩm lao động còn ít ỏi chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là phương thức duy nhất để xã hội cùng tồn tại. Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương đối thì xuất hiện tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời cùng với sự bất bình đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Như vậy CBXH bắt đầu bị vi phạm. Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề Nhà nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của mỗi người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai cấp, các giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau; sự bất bình giữa các giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết pháp trị khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng. Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi cày thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất công trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại bọn địa chủ phong kiến đòi công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng nhận xét: "Điều đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại địa chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [42, tr. 243]. Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác ái", của giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội dân chủ theo mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật tiến bộ, công bằng. Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của thời kỳ này. Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa đã ban cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con người thì lại có tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và công bằng, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đã cho rằng không thể thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội. Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra tư tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính nhận thức mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức và bất công. Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công, không nhận thức được hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn của mình. Tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội. Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp, ông cho rằng: xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn kìm hãm, thủ tiêu bình đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo ông, muốn xóa bỏ bất công, bất bình đẳng thì phải xây dựng một nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời ông cũng phê phán sở hữu tư nhân vì sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa thành kẻ giàu người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế ước xã hội thì mới đạt được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo nhưng cũng chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự. Imanuen Cantơ (1724-1804), đại biểu của nền triết học cổ điển Đức, một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác, khi bàn về vấn đề xã hội ông đã cho rằng: CBXH bao gồm công bằng và bảo hộ, công bằng trong trao đổi và phân phối. Đây là tư tưởng tiến bộ của ông mà sau này được nhiều người thừa kế. Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời được xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một mô hình xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như nhau, xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng tạo điều kiện công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây là một mô hình xã hội không tưởng cả về lý luận và thực tiễn, đây là một mơ ước về xã hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về CBXH của nhân loại đã có những bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó. Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm trong lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh CBXH và cũng đạt được một số thành tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đã làm dịu bớt được sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đã nhận thức được rằng cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất một còn nếu không thực sự xoa dịu được tình hình, chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh tương đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về CBXH trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp mang tính hình thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công bằng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương tiện để đạt mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích CBXH mà nhân loại đang cần vươn tới. Olivier de Solages (nhà kinh tế học người pháp) khẳng định: "Đông đảo quần chúng không thể hiện được rằng một sự tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và bằng những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng" [74, tr. 92]. Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều tư tưởng về CBXH theo trào lưu tân cổ điển và cổ điển, họ đã nhấn mạnh tự do cá nhân theo một chiều trong mối quan hệ với CBXH, họ cho rằng chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (TTKT) và tiến bộ xã hội. Vì vậy, muốn phát triển thì phải giảm bớt CBXH, không thể cùng một lúc vừa có TTKT lại vừa có CBXH được, mà chỉ khi nào kinh tế tăng trưởng đến một mức độ nhất định nào đó thì mới có đủ điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính xã hội tư sản bác bỏ vì phủ nhận vai trò CBXH trong việc thúc đẩy TTKT. Max - Weber (nhà xã hội học và triết học người Đức) lại giải thích bất công trong chủ nghĩa tư bản bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp hoặc người lao động, ông còn cho rằng cơ may và vận hội trong cuộc đời không thể chia đều cho mọi người. Đây cũng là lý do để tồn tại những vị thế khác nhau trong xã hội, những điều như vậy là nguyên nhân dẫn đến bất công trong xã hội tư sản. Học thuyết này có đóng góp lớn đối với sự phân tầng xã hội song chưa lý giải trọn vẹn bản chất của sự bất công trong chủ nghĩa tư bản. Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính phiến diện của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đã tìm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tự do cá nhân, CBXH với TTKT, nhưng thực tế lại dẫn đến sai lầm. Đường lối của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển một thời lầm tưởng rằng đã thật sự có CNXH và CBXH, nhưng thực tế thì đó là CBXH mà ở đó đã làm mất động lực TTKT, những kẻ lười lao động nghiễm nhiên lại được hưởng một phần không nhỏ của hệ thống phúc lợi. Ngôi nhà CBXH của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển đã hoàn toàn sụp đổ, đây là tiếng chuông cảnh tỉnh cho ảo tưởng tìm kiếm CBXH đích thực trong chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là lời giải tốt cho nhân loại về CBXH. Như vậy, trong tiến trình lịch sử nhân loại, toàn bộ những quan điểm tư tưởng trước Mác và ngoài Mác cũng như thực tiễn lịch sử đã đề cập đến rất nhiều về vấn đề CBXH, đã có những quan niệm khác nhau về nhưng chưa có một quan niệm nào, đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về CBXH. Tuy nhiên, đây là những tiền đề rất quan trọng cho các nhà tư tưởng sau này khi nghiên cứu về vấn đề CBXH. 1.1.2. Quan điểm mácxít về công bằng xã hội Chủ nghĩa Mác với phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, trên cơ sở thâm nhập trực tiếp vào thực tiễn, đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản về CBXH: CBXH là một phạm trù có tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc, nó thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội nhất định, thậm chí còn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Theo quan điểm mácxít thì trong các nhà nước bóc lột không thể tồn tại CBXH theo đúng nghĩa của nó, mà trái lại càng đẩy bất công xã hội lên tới đỉnh điểm cho cuộc cách mạng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra rằng: sự TTKT trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, vì vậy sự tăng trưởng đó về bản chất không thể tự dẫn tới CBXH được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là không hợp lý vì nó không dựa vào sức lao động mà lại dựa vào tài sản và vốn nên dẫn đến nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự nghèo khổ của công nhân và người lao động. Đây chính là sự phân phối không công bằng trong chủ nghĩa tư bản, làm cho mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng gay gắt. C.Mác chỉ ra rằng, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa chỉ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng XHCN để mở ra một thời đại mới, thời đại đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hóa và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, CBXH sẽ được bảo đảm. Theo các nhà mácxít thì chỉ có chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xã hội phát triển nhất của nhân loại, ở xã hội này sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Xã hội có khả năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, và chỉ như vậy thì mới có thể thực hiện CBXH một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, quan điểm mácxít cũng cho thấy rằng: CNXH với tư cách là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì chưa có CBXH như người ta mong muốn (công bằng tuyệt đối), vì ở đó vẫn còn tồn tại nhiều tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng như tư hữu và những yếu tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đây chính là phân phối theo lao động - một nguyên tắc của việc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc trưng trong quan niệm về CBXH trong thời kỳ này và cũng chính là "thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản". Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôtha", C.Mác đã đề cập tới phân phối trong CNXH, ông cho rằng, trong XHCN, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: Mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội). Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau. Như vậy, theo C.Mác, trong chế độ XHCN thì lao động theo năng lực cá nhân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm ra vừa đúng với cái mà anh ta đóng góp cho xã hội sau khi đã khấu trừ đi số lao động cần thiết để duy trì, phát triển sản xuất và các quỹ phúc lợi xã hội, mọi người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau, nguyên tắc phân phối này được coi là công bằng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện của CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội vì: với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia [45, tr. 35]. Do vậy, muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải lao động không bình đẳng chứ không phải là bình đẳng [45, tr. 35]. Đây cũng là ưu việt những cũng là thiết sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa. C.Mác cũng phân biệt sự khác nhau giữa CBXH với bình đẳng xã hội (BĐXH), theo ông thì CBXH không đồng nhất với BĐXH, có khi chúng ta đang thực hiện CBXH nhưng vẫn chưa thực hiện được BĐXH, khi nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về một phương diện nào đấy như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., BĐXH hoàn toàn là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội về mọi phương diện. Còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xác định, về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ, theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, và vì vậy xét theo khía cạnh này thì CBXH là một dạng, một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của BĐXH, là thực hiện CBXH về một phương diện nhất định, phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới BĐXH hoàn toàn. V.I.Lênin cho rằng: Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), pháp quyền tư sản chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung [34, tr. 116]. Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông cho rằng: "Người nào không làm thì không có ăn", nguyên tắc này được thực hiện "số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau" [34, tr. 116]. Theo quan điểm mácxít thì phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng cao cho việc thực hiện CBXH, không thể có CBXH đích thực trong một xã hội nghèo khổ kém phát triển, đồng thời quan điểm mácxít cũng đề cập đến một xã hội giàu có, của cải dư thừa nhưng lại thiếu công bằng trong phân phối, TTKT là yếu tố quan trọng nhưng không phải là duy nhất để thực hiện CBXH. Đây là quan điểm khác biệt cơ bản giữa quan điểm mácxít với quan điểm ngoài mácxít, phải biết kết hợp hài hòa, biện chứng giữa TTKT và CBXH. Bên cạnh đó quan điểm mácxít cũng chỉ ra điểm khác biệt giữa quan niệm mácxít với các quan niệm khác về CBXH, đó là con đường đấu tranh với những bất công xã hội mà trong đó bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất, "Những điều công bằng về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp luật, có thể còn xa với công bằng về mặt xã hội" [45, tr. 365]. CBXH không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa con người với những bất công trong xã hội. Theo quan điểm mácxít, trong CNXH thì CBXH trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội v.v..., giữa cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) và quyền lợi (quyền được hưởng quyền lợi), công bằng theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Tuy nhiên, theo các ông thì CBXH cũng chỉ mang tính tương đối, nó chỉ thích hợp với giai đoạn thấp của xã hội CSCN, lúc đó vừa lọt lòng từ xã hội TBCN ra sau nhưng cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định [45, tr. 35-36]. Trong các giai đoạn khác nhau thì quan niệm về CBXH cũng khác nhau, quan niệm về CBXH trong CNXH sẽ thay đổi khi CNXH thay đổi sang một hình thức mới cao hơn. Theo quan điểm mácxít thì một xã hội có công bằng thực sự chỉ khi con người không lệ thuộc vào phân công lao động, khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được thu hẹp, lúc đó lao động không còn nhằm mục đích sinh sống mà là nhu cầu hoạt động và phát triển, cá nhân được phát triển một cách toàn diện, sức sản xuất xã hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, của cải dư thừa thì khi đó mới là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Mọi cá nhân có nhu cầu phát huy mọi tiềm năng để vươn tới ngang nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội thì khi đó mới đạt tới công bằng tuyệt đối. Trên cơ sở nền tảng của quan điểm mácxít, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người luôn coi CBXH gắn với độc lập dân tộc và CNXH, theo Hồ chí Minh thì tiến lên CNXH, CNCS là phương thức duy nhất đúng hợp lòng người để thực hiện CBXH "chỉ có CNCS mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình và hạnh phúc" [49, tr. 115]. "Mục tiêu của CNXH là gì? nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động... "Chủ nghĩa xã hội là gì? là mọi người ăn no mặc ấm, tự do" [52, tr. 22], Người nói: "có khi vật tư hàng hóa không thiếu, mà phân phối không đúng thì gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có hai điều quan trọng luôn phải nhớ: "Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên" [51, tr. 185]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì công bằng không có nghĩa là cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Không có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó việc dễ cũng cùng điểm như nhau" [51, tr. 143]. Từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng trong chế độ xã hội thực dân không có CBXH mà "... Nhân dân chỉ có nghĩa vụ, như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi" [53, tr. 219], công nhân, nông dân là những người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, nhờ đó xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng lại rất bất công vì họ luôn là những người nghèo khổ, trong khi đó một số người lại "ngồi mát ăn bát vàng", theo Người thì nguyên nhân của sự bất công đó là "vì một số người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội " [53, tr. 203]. Người kết luận rằng CBXH chỉ có trong xã hội mới, dưới chế độ dân chủ cộng hòa " Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [53, tr. 219]; "Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động...Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ" [53, tr. 310]. Như vậy CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được gắn kết với bình đẳng xã hội tức là mối quan hệ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, bình đẳng giữa nghĩa vụ với quyền lợi. Bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, bình đẳng giữa người với người trong việc thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi ấy, đó chính là thực hiện CBXH. Phân phối công bằng theo Người là: "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng". Đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện nước ta hiện nay; Do đó, sự bình đẳng của những người lao động trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, mà cụ thể là sự ngang bằng nhau về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ tư liệu sản xuất, bảo đảm cho mỗi người đều có thể phát huy mọi khả năng của mình để vươn tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì CBXH không những chỉ là mục tiêu của CNXH mà còn là một động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước, là một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng CNXH nhất là trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, Theo Người không nhất thiết là kinh tế phải phát triển ở trình độ cao thì mới thực hiện được CBXH "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Người nhấn mạnh: "CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng v.v... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em. Thế ta đã đến đấy chưa? chưa đến. CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần " [54, tr. 219]. Người kiên quyết chống lại chủ nghĩa bình quân, "đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? là ai cũng như ai, bằng hết. Bình quân chủ nghĩa là trái với CNXH, thế là không đúng" [54, tr. 386]._.. Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, công bằng và bình đẳng là một mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới, nó không phải là chủ nghĩa bình quân cào bằng trong sự nghèo khổ. Mục tiêu của nghĩa nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân là phấn đấu: Làm cho người nghèo thì đủ ăn Người đủ ăn thì khá giàu Người khá giàu thì giàu thêm [52, tr. 65]. Bên cạnh đó, Người rất chú trọng đến lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi người không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, đồng thời đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, chính chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên gây ra trăm thứ bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí, chủ quan v.v... mang tính cá nhân, không nghĩ tới lợi ích giai cấp, dân tộc. Tuy nhiên cũng cần phân biệt rằng chủ nghĩa cá nhân khác lợi ích cá nhân, nếu chống chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi ích chính đáng của cá nhân thì sẽ dẫn tới sai lầm, Người khẳng định rằng " Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn" [55, tr. 291]. Việc đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của mỗi cá nhân, (tức là biện pháp nhằm đảm bảo CBXH). Tư tưởng "mình vì mọi người, mọi người vì mình" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể và cộng đồng. Như vậy, Hồ Chí Minh đã có quan điểm về CBXH khá toàn diện và sâu sắc.Thực chất của CBXH theo Người là không gì khác ngoài mối quan hệ giữa giữa cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng (trừ những người già cả, bệnh tật và trẻ em). Người cũng cho thấy rõ rằng không nhất thiết phải xã hội giàu có thì mới thực hiện được CBXH, mà ngay khi xã hội còn chưa thật giàu có vẫn thực hiện được CBXH, tùy điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà việc thực hiện CBXH khác nhau. Người cũng chỉ rõ CBXH khác với cào bằng, bình quân chủ nghĩa nếu đồng nhất chúng thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế. Người chỉ ra rằng thực hiện CBXH là cả một quá trình, phải làm từng bước một, tránh sự nôn nóng và tránh sự trì trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối cùng người khẳng định CBXH là mục tiêu của CNXH mà chúng ta cần phải vươn tới, chỉ có xã hội XHCN mới thực sự đem lại CBXH cho nhân dân lao động, phương thức duy nhất để thực hiện CBXH là đi lên CNXH, CBXH là việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. CBXH phải được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người. CBXH là trách nhiệm chung của nhà nước, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của mình đối với nhà nước và xã hội. 1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN, đây là mô hình kinh tế phù hợp với Việt nam và là mô hình kinh tế lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử - mô hình kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH. Trong điều kiện đó, CBXH phải được hiểu như thế nào cho đúng với điều kiện Việt nam hiện nay. Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa về công bằng như sau: 1…Khái niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với người. CBXH đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân (những giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ. Không có sự tương xứng trong những quan hệ ấy là bất công. 2. Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi xã hội có sự đòi hỏi riêng về CBXH [28, tr. 580-581]. Trong từ điển Triết học giản yếu do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê Hữu Tầng biên soạn thì khái niệm công bằng, công lý được trình bày như sau: Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung, bất di, bất dịch phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử, phán ánh hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của từng giai cấp theo quyền lợi của mình. Trên cơ sở quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái niệm công bằng mang một nội dung mới: Tất cả mọi người đều có thể trong thực tế, phát triển như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt động vì lợi ích xã hội. Nguyên tắc Mỗi người làm theo năng lực, và hưởng theo lao động được thực hiện, chỉ khi nào tới CSCN thì mới thực hiện được nguyên tắc Mỗi người làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu [62, tr. 97-98]. Theo PGS,TS Dương Xuân Ngọc: Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ phát triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. CBXH vừa là khát vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu của sự phát triển xã hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [63, tr. 37-39]. Theo GS,PTS Lê Hữu Tầng: khái niệm CBXH và BĐXH tuy có nội dung rất gần nhau nhưng dù sao chúng vẫn là những khái niệm khác nhau. Sự khác nhau ấy là ở chỗ nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xã hội về một phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.v.v), và nói tới BĐXH hoàn toàn là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xã hội về mọi phương diện. Trong khi đó, nói tới CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người không phải về một phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương diện hoàn toàn xác định: về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau thì hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Theo nghĩa này mà xét thì CBXH là một dạng, một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của BĐXH, là thực hiện BĐXH về một phương diện nhất định, phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới bình đẳng xã hội hoàn toàn chứ chưa phải là đã đạt tới BĐXH hoàn toàn [78, tr. 27-28]. Theo TS Nguyễn Thị Nga: Công bằng xã hội hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công [61, tr. 3]. Như vậy: CBXH là khái niệm chỉ sự tương xứng giữa vai trò và vị thế của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp, nhóm xã hội), giữa cái mà họ tạo ra được xã hội với cái được nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc ngược lại) như cống hiến và hưởng thủ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội [91, tr. 25]. Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Thứ nhất, CBXH là một khái niệm mang tính lịch sử - xã hội, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thì nội dung CBXH cũng khác nhau. Thứ hai, CBXH là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau và là sự đối xử khác nhau với những người có đóng góp khác nhau, những khác biệt bẩm sinh hoặc có những điều kiện xã hội khác nhau. CBXH được thực hiện bằng cơ chế thị trường và sự điều tiết của nhà nước. Chỉ như vậy thì mới thực hiện được CBXH một cách thực sự. Thứ ba, CBXH không chỉ là ở sự phân phối kết quả sản xuất, tức là sự tương xứng giữa lao động và thu nhập, cống hiến và hưởng thụ mà còn phải xét đến việc có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu sản xuất như vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật.v.v. Phải có cơ hội ngang nhau để phát huy năng lực cá nhân. Thứ tư, CBXH không chỉ đơn thuần là cống hiến về mặt kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, mà phải tính đến việc cống hiến về tư liệu sản xuất (vốn, tài năng trí tuệ…) và họ phải được hưởng một phần thành quả lao động từ sự cống hiến ấy. Chỉ như vậy thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế - xã hội và mới là CBXH. Thứ năm, CBXH phải tính đến sự cống hiến trong quá khứ và hiện tại của các chiến sĩ cách mạng, lực lượng vũ trang, đó là những thương binh, những liệt sĩ, người có công với cách mạng đã hy sinh xương máu sức lực của bản thân mình trong các cuộc kháng chiến vì mục tiêu và lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc và họ phải được bù đắp lại một phần tương xứng. Đó mới là CBXH. Thứ sáu, Kinh tế thị trường đã tạo động lực cho phát triển và TTKT, đồng thời tạo nên sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, về mặt tích cực nếu giàu nghèo là do sự cống hiến về lao động, tài năng, trí tuệ. thì đó là CBXH, nhưng giàu nghèo do làm ăn phi pháp, làm giàu không chính đáng thì đó lại là bất công trong xã hội. Đối lập với CBXH là bất công: Bất công trong tự nhiên: như về thể chất, điều kiện, hoàn cảnh (ốm yếu, tàn tật; đồng bằng với miền núi; nông thôn với thành thị; Dân tộc thiểu số với dân tộc đa số; vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo với thành phố, các trung tâm tỉnh lị v.v...). Bất công phi lý phi pháp: là loại bất công mang tính tiêu cực không chính đáng như tham ô, hối lộ, tham nhũng lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý để tìm kiếm lợi ích, làm giàu không chính đáng. Bất công này cần phải nhanh chóng xóa bỏ thì mới có thể thực hiện được CBXH. Nước ta trong điều kiện hiện nay, CBXH phải được xem xét một cách toàn diện trong các lĩnh vực trong đó công bằng trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò quyết định. Công bằng trong kinh tế trong điều kiện hiện nay trước hết phải tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội phát triển khả năng, năng lực của mình, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh doanh, coi kinh tế của họ là một trong những bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, chỉ như vậy thì mới phát huy được tính năng động sáng tạo, phát huy được mọi nguồn lực và thúc đẩy LLSX phát triển. LLSX kém phát triển thì việc thực hiện CBXH khó có thể thực hiện được. CBXH phải cân đối giữa các vùng, các miền, giữa các dân tộc, các tầng lớp trong quá trình phát triển. KTTT thường đi đôi với sự phân hóa giàu nghèo vì vậy việc phát triển KTTT định hướng XHCN hiện nay, vấn đề thực hiện CBXH là cả một quá trình lâu dài và phức tạp trong toàn bộ quá trình phát triển, phải giải quyết dần dần, gắn CBXH ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Tuy nhiên, trong tình hình đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, quản lý và điều tiết của NTCQ, tránh tình trạng phân hóa quá mức, làm cho mức độ giàu nghèo giảm xuống theo đà TTKT ngày càng cao, tạo nên sự hợp lý giữa các vùng, các tầng lớp và các dân tộc. CBXH phải đảm bảo tính thống nhất và hợp lý giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ của các thành viên trong xã hội. Cống hiến nhiều thì hưởng nhiều, cống hiến ít thì hưởng ít, cống hiến khác nhau thì hưởng thụ khác nhau, tránh tình trạng cào bằng bình quân chủ nghĩa. CBXH phải giải quyết hợp lý quan hệ giữa kinh tế và vấn đề xã hội, đảm bảo mọi tầng lớp xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề nghiệp, trợ cấp lúc khó khăn hoạn nạn, đảm bảo các chính sách ưu tiên, ưu đãi của xã hội đối với các gia đình chính sách như gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng căn cứ cách mạng, người cơ nhỡ, người ốm đau tàn tật không nơi nương tựa. CBXH đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình. CBXH đòi hỏi phải xóa bỏ những bất công trong xã hội, chống đặc quyền, đặc lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công phi phí, đi ngược với lợi ích của sự phát triển của xã hội, vi phạm nguyên tắc CBXH. CBXH là một trong những yêu cầu của sự phát triển xã hội vì CBXH là cái đảm bảo cho mức hưởng thụ của người lao động tương xứng với cống hiến của họ mà còn được nâng cao cùng với sự nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của họ. Như vậy CBXH phù hợp với nhu cầu bên trong của người lao động nên nó kích thích tính năng động, sáng tạo, thúc đẩy người lao động đem hết khả năng, lòng nhiệt tình, sức lực, trí tuệ của mình để tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. CBXH kích thích các nhà kinh doanh bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất, kích thích các nhà quản lý phát huy hết năng lực và sáng kiến để hoàn thiện tổ chức hợp lý hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu đảm bảo CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối, chính sách đối với các thành phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu, độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống thu nhập không chính đáng, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp cận được cơ hội và mọi người đều bình đẳng trong nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề này chính là thực hiện CBXH và là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy TTKT và ngược lại TTKT lại là động lực để thúc đẩy việc thực hiện CBXH, TTKT phải gắn liền với CBXH ngay trong từng bước và ngay trong từng chính sách phát triển. CBXH có vai trò rất quan trọng, mất CBXH có thể kìm hãm tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một nền kinh tế - xã hội ổn định và lành mạnh thì phải loại trừ được ngày càng nhiều những bất công trong xã hội. Chủ nghĩa mác-xít đã vạch ra những bất công trong chủ nghĩa tư bản sẽ làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản. Sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã chứng minh hùng hồn vai trò của CBXH trong việc đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Những đòi hỏi về CBXH trong tương lai không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế, mà còn là CBXH về chính trị, xã hội trong các vấn đề về quyền con người và quyền công dân, về vai trò vị trí của các giai cấp và các nhóm xã hội trong mỗi quốc gia, quan hệ giữa công dân với Nhà nước về bình đẳng sắc tộc, chủng tộc. CBXH còn là cơ sở, nguồn gốc của các chính sách xã hội, chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành nên chính sách chung của toàn xã hội của một Đảng hay chính quyền nhà nước trong việc giải quyết hay quản lý các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội [28, tr. 478]. Như vậy có nghĩa là các vấn đề chính sách xã hội cần được giải quyết thỏa đáng theo hướng đảm bảo CBXH, nếu không lấy CBXH làm nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của mình thì chính sách xã hội sẽ trở thành lực cản của TTKT, tạo ra những bất ổn định xã hội. Thành công của sự nghiệp 20 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân, giai cấp, tầng lớp, nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có một chính sách xã hội hợp lý và công bằng. Chúng ta đang thực hiện nền KTTT có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì CBXH được hiểu là mối quan hệ giữa cống hiến (nghĩa vụ) và hưởng thụ (quyền lợi), cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, cống hiến khác nhau thì hưởng thụ khác nhau (làm theo năng lực, hưởng theo lao động). CBXH còn được hiểu ở sự điều tiết của nhà nước, đó là các chính sách ưu đãi đối với những bất công tự nhiên, những cống hiến trong quá khứ (kể cả vật chất, tinh thần, công sức, xương máu, vốn, chất xám). Đó chính là CBXH trong điều kiện nước ta hiện nay. Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc ta đã cho thầy vấn đề CBXH luôn được đặt lên hàng đầu, dân tộc ta đã trải qua gần một nghìn năm Bắc thuộc; Tư tưởng nho giáo tác động rất mạnh mẽ, đến đời sống tâm lý xã hội của người dân Việt Nam, nhưng tư tưởng về CBXH không những không bị pha trộn mà còn phát triển khá đậm nét thông qua các câu hò, vè, ca dao, tục ngữ, dân ca: Con vua thì lại làm vua Con sãi ở chùa thì quét là đa Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa. CBXH luôn là khát vọng lớn nhất của toàn dân tộc: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc. Cương lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng ta vạch ra con đường đấu tranh đúng đắn vì tiến bộ và CBXH xã hội: làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi lên CNXH. Trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I, II, III, IV, V, CBXH được thể hiện thông qua việc cải cách ruộng đất, cải tạo XHCN, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. Đặc quyền đặc lợi, các chính sách thuế, bảo hiểm và trợ cấp xã hội, trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Trước khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc được đặt lên hàng đầu. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH, do hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, khó khăn chồng chất, lại áp dụng mô hình kinh tế theo kiểu Liên Xô cũ, cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp với hình thức sở hữu quốc doanh và sở hữu hợp tác xã, công hữu về tư liệu sản xuất nên dẫn đến kinh tế phát triển chậm, thu không bù chi, kết hợp với chế độ phân phối bình quân bao cấp nên công bằng trong thời kỳ này được hiểu theo nghĩa bình quân - sự bình quân theo kiểu "chia đều sự nghèo khó", theo GS,TS Lê Hữu Tầng trong thời kỳ này là: Trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp mà chúng ta lầm tưởng duy nhất đúng, là cái duy nhất đảm bảo thành công xây dựng CNXH, khái niệm công bằng được đồng nhất hoàn toàn với khái niệm bình đẳng, còn khái niện bình đẳng được hiểu là sự ngang bằng nhau hoàn toàn giữa người và người về phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Kết quả là khái niệm công bằng về thực chất bị đem đồng nhất với khái niệm cào bằng một cách bình quân chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch khỏi trục bình quân đó đều bị coi là biểu hiện của không công bằng. Chính quan điểm sai lầm đã làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc sống về thực chất là bóc lột người có công đối với sản xuất và phát triển xã hội [79, tr. 62]. Như vậy, trong thời kỳ này đã nhầm lẫn CBXH và BĐXH, CBXH được xem như là sự ngang bằng nhau về mọi phương diện giữa mọi thành viên trong xã hội; quan niệm sai lầm này đã triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội; Ph. Ăngghen từng nói: "cho rằng luận điểm là một nguyên tắc tối cao và là một chân lý cuối cùng thì thật là ngu xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với bất bình đẳng, công bằng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với không công bằng" [46, tr. 840]. Như vậy trong một thời gian khá dài chúng ta đã nhầm lẫn giữa công bằng với bình đẳng, với chủ nghĩa bình quân cào bằng, dẫn đến triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, có nguy cơ bị đẩy lùi tới bên bờ vực thẳm. Trước tình hình đó, với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật" Đảng ta quyết định thực hiện đường lối đổi mới. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất "bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Đến hội nghị trung ương 8 khóa V (6/1985) đánh đấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh, thừa nhận sản xuất hàng hóa và quy luật sản xuất hàng hóa. Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn trên lĩnh vực kinh tế và đưa ra kết luận thuộc lĩnh vực kinh tế: Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc, đồng thời xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta. trong cơ chế quản lí kinh tế lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba có ý nghĩa lớn trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội khẳng định dứt khoát chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI là bước đột phá lớn và toàn diện, làm xoay chuyển tình hình đưa nước ta tiến lên, Đại hội xác định: đảm bảo CBXH là một trong 5 mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới, giải quyết việc làm và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là những vấn đề trọng tâm của chính sách CBXH; Thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, chống thu nhập bất hợp pháp và đặc quyền đặc lợi. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề CBXH được Đảng ta xác định đây là một nội dung của chính sách xã hội và là điều kiện và động lực của TTKT và tiến bộ xã hội trong thời kỳ đổi mới. Đại hội cũng xác định thực hiện CBXH không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn cả trong chính trị, văn hóa, giáo dục đặc biệt là khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu chính đáng là bước đột phá trong quan điểm CBXH của Đảng, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục khẳng định phát triển, cụ thể hóa những chủ trương chính sách của Đảng về CBXH mà đại hội VII đã nêu ra, CBXH được Đảng ta xác định là một động lực, nội dung, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đạị hội cũng chỉ rõ: Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, CBXH phải được thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn cả khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. với nhiều hình thức, tạo ra cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng hợp lý năng lực của mình [12, tr. 113]. Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: phát triển kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội. Đây là những bước phát triển quan trọng có tính chất đột phá của Đảng ta trong giai đoạn mới. Đại hội Đại IX (4/2001) của Đảng tiếp tục khẳng định "…phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường" [12, tr. 88-89]. Đại hội X (4/2006) Đảng ta một lần nữa khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội" [13, tr. 26]. Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc [13, tr. 101]. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng [13, tr. 178-179]. Thứ nhất, TTKT luôn luôn gắn liền với tiến bộ và CBXH trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển đất nước. TTKT là điều kiện, tiền đề để thực hiện CBXH và ngược lại thực hiện CBXH là động lực thúc đẩy TTKT - xã hội một cách bền vững. Chúng ta không chấp nhận TTKT cao sau đó mới thực hiện CBXH và cũng không đơn thuần thực hiện CBXH một cách giản đơn thuần túy, cũng không phải thực hiện TTKT một cách độc lập tách rời CBXH. Mỗi chính sách về phát triển kinh tế - xã hội nước ta đều nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và CBXH, mỗi chính sách xã hội đều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển. TTKT phải gắn với CBXH trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, ở mọi địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, Đảng khuyến khích, tạo điều kiện mọi người dân làm giàu theo pháp luật, tạo mọi điều kiện để không có hộ nghèo đói. Khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, đồng thời thực hiện cải cách tiền lương, tích cực tạo điều kiện trong việc chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho người dân. Hoàn thiện các chính sách trợ cấp cho các đối tượng chính sách, đa dạng hóa các hình thức cứu trợ xã hội, dịch vụ y tế cho phù hợp với từng lĩnh vực, từng địa phương. Thứ hai, CBXH là động lực để phát triển kinh tế, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, cống hiến khác nhau thì hưởng thụ khác nhau, tránh bình quân chủ nghĩa, cào bằng nhằm tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội. Thực hiện phân phối trong kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Thứ ba, CBXH trong quá trình phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa không đơn thuần là điều hòa lợi ích, phân phối và thu nhập của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội cho hợp lý mà còn phải đảm bảo cho mọi tầng lớp trong xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề nghiệp, được tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, có điều kiện và cơ hội phát triển, thể hiện năng lực cá nhân. Thứ tư, CBXH là công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất và trong phấn phối sản phẩm lao động, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người phát huy hết năng lực cá nhân để cống hiến cho xã hội. CBXH không phải là sự cào bằng, chủ nghĩa bình quân. Công bằng trong cơ hội làm việc, cơ hội phát triển và được hưởng thành quả lao động tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ, chỉ như vậy thì mới tạo ra được sự công bằng trong phát triển. Thứ năm, CBXH ở nước ta là một trong những đặc trưng cơ bản trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích xóa bỏ mọi bất công, mọi áp bức, đem lại tự do hành phúc cho con người. Đây là sự CBXH to lớn và triệt để nhất mà toàn Đảng toàn dân ta phấn đấu đạt tới. Mục tiêu lâu dài này được thể hiện cụ thể hóa trong giai đoạn đầu là khuyến khích mọi người dân tham gia làm giàu chính đáng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì trở nên khá giả, người khá giả thì trở nên giàu có. Chúng ta cũng thầy rằng có một bộ phận dân cư, một số vùng giàu lên trước, từ đó làm bàn đạp thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời phải có những chính sách kinh tế - xã hội đặc biệt để trợ giúp người nghèo, tạo tiền đề phát triển. Về nguyên tắc không có công bằng tuyệt đối khi mà xã hội vẫn còn tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu của con người với khả năng hiện thực của điều kiện kinh tế - xã hội. Vì vậy, công bằng là làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng, đó mới là công bằng. Thứ sáu, CBXH phải tính đến hoàn cảnh lịch sử. Những thành quả mà nhân dân ta có được hôm nay là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục, lâu dài trong gần nửa thế kỷ để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo về quyền độc lập, tự do, tự chủ của dân tộc, đã biết bao nhiêu anh hùng, thương binh, liệt sĩ, bao nhiêu người "tiền khởi nghĩa","có công với cách mạng" đã không tiếc máu xương, công sức vì lý tưởng cao cả cho toàn dân tộc, thì đương nhiên CBXH là những chính sách ưu đãi đối với họ. 1.2. NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.2.1. NTCQ đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Cùng với quá trình hoạt động thực tiễn của con người, khái niệm " NTCQ" và điều kiện khách quan (ĐKKQ) từng bước được hình thành và phát triển. Để hiểu được nội dung của khái niệm này thì nhất thiết phải tìm hiểu đến những khái niệm có liên quan như khái niệm "chủ thể", "khách thể", chỉ khi nào hiểu được cái khái niệm này thì mới hiểu được khái niệm NTCQ và ĐKKQ. "Chủ thể", "khách thể" là những khái niệm rất quan trọng, trong mối quan hệ với khái niệm._.c cương vị chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước, có trách nhiệm trình bày chủ trương, chính sách của Đảng trước cơ quan, đơn vị và trước toàn thể nhân dân nhằm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng theo thẩm quyền của mình, biến nó thành pháp luật của Nhà nước. Vì vậy phải xây dựng tổ chức Đảng thực sự trong sạch và vững mạnh là một đòi hỏi tiên quyết để đảm bảo phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. - Đảng phải đào tạo và sử dụng những cán bộ có đức có tài. Đảng chỉ lãnh đạo được công cuộc đổi mới thành công nếu đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, thiếu đội ngũ này thì quá trình thực hiện CBXH nước ta khó có thể đi đến thành công, việc nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường phụ thuộc rất lớn vào việc sắp xếp và sử dụng cán bộ công chức Nhà nước có phẩm chất và năng lực hiện nay là một yêu cầu cấp bách. Cán bộ lãnh đạo quản lý phải được đào tạo bồi dưỡng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước ta là sự phản ánh trình độ lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong sự nghiệp phát triển đất nước, đảm bảo TTKT và thực hiện CBXH. Thứ hai, hoàn thiện thệ thống chính sách kinh tế, xã hội đảm bảo CBXH. Cơ sở quyết định cho việc đảm bảo thực hiện CBXH là một nếu kinh tế phát triển vì chỉ như vậy thì xã hội mới có đẩy đủ điều kiện vật chất để thực hiện CBXH. Vì vậy, Nhà nước phải tạo ra những điều kiện bình đẳng cho các thành viên trong xã hội trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội phát triển, vì vậy cần phải hoàn thiện một số chính sách kinh tế, xã hội như nhau: - Chính sách tài chính và thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo ra vốn đầu tư phát triển bằng cách tăng tích lũy để tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho toàn dân. Vì vậy, Nhà nước sử dụng ngân sách như một công cụ tài chính để điều chỉnh kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích phát triển kinh tế, điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng, kiềm chế lạm phát. Nền tài chính quốc gia phải kiểm chế được lạm phát, đồng thời phải đảm bảo chi tiêu dùng thường xuyên nhưng phải hợp lý. Cần ưu tiên ngân sách cho việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, tiếp thu công nghệ hiện đại, chăm sóc sức khỏe, đảm bảo quốc phòng, an ninh, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc nhằm thực hiện CBXH. Cần phải nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế, phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm trong chi tiêu nhà nước, doanh nghiệp và tiêu dùng của dân cư, huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực hiện tiết kiệm để tăng đầu tư, phải chú trọng nguồn thu lâu dài. Hiện nay hệ thống thuế của nước ta còn phức tạp, chồng chéo chưa hợp lý, ít khuyến khích sản xuất lại nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng, nên cần đổi mới chính sách thuế theo cách đơn giản, ổn định, công bằng, khuyến khích làm ăn hợp pháp, thực hiện chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế đối với đầu tư, phát triển, với những vùng khó khăn như miền núi, vùng dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo, vùng sâu vùng sa... Những đối tượng chính sách xã hội như thương binh, liệt sĩ, gia đình có công, bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người mất sức lao động... Thông qua các chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. - Cần hoàn thiện chính sách giá cả, đổi mới công tác quản lý, tăng cường dự trữ quốc gia, đổi mới phương thức hoạt động của quỹ bình ổn giá, phải biết điều tiết giá cả trong những trường hợp cần thiết nhằm hạn chế biện động gia, tránh tình trạng lương chưa tăng nhưng giá đã tăng, giá tăng nhanh hơn lương, đây là lý do ảnh hưởng đến những người nghèo, những người có thu nhập thấp dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. - Chính sách đầu tư là yếu tố cơ bản để đạt được mục đích vừa TTKT vừa thực hiện CBXH, nên đầu tư vào nơi có TTKT hay vào nơi giải quyết được nhiều việc làm, đầu tư vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu tạo điều kiện thực hiện CBXH. Vì vậy, chính sách đầu tư phải chú ý đến đặc điểm từng ngành, vùng, từng lĩnh vực, tránh đầu tư tràn lan, manh mún, mà không đem lại kết quả. Nên tập trung đầu tư vào phát triển kinh khu vực miền núi, vùng nông thôn, nhằm từng bước thực hiện CBXH. Việt Nam có 80% dân số sống ở nông thôn, sống bằng nông nghiệp là chính, trình độ thấp, lạc hậu, nặng nề trồng trọt nên sự giàu có ở nông thôn là rất khó khăn, vì vậy muốn rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị thì phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, phát triển mở rộng thị trường nông thôn, thúc đẩy lưu thông phân phối, giao lưu hàng hóa, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông thôn, tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, từ đó mới có điều kiện để phát triển sản xuất, thu nhập cao hơn, từng bước rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đồng thời xây dựng các trung tâm khoa học tổng hợp nhằm cung cấp thông tin cho sản xuất kinh doanh ngay trên địa bàn nông thôn. Miền núi là nơi cư trú của đồng bào dân tộc thiếu số, trình độ dân trí thấp, đời sống vật chất và văn hóa còn thiếu và lạc hậu. Vì vậy cần tăng cường đầu tư và triển khai các chương trình kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung vận động cuộc sống định canh định cư, phát triển kinh tế gia đình, thực hiện giao đất giao rừng. Tập trung phát triển nâng cấp cơ sở, hạ tầng kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đào tạo bồi dưỡng và đãi ngộ xứng đáng cán bộ các dân tộc thiểu số. Nhà nước cần có chính sách hợp lý về chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, phát triển khu công nghiệp miền núi, phát triển các trung tâm thị trấn, thị tứ... nhằm hỗ trợ nông thôn miền núi phát triển. Nhà nước cần có chính sách đầu tư để phát triển mạng lưới y tế ngay tại thôn bản, đồng thời phải có ưu đãi xứng đáng với đội ngũ cán bộ y tế trên thôn bản để có một đội ngũ y tế giỏi, nhiệt tình phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Nhà nước cần đầu tư hơn nữa trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng lưới y tế kết hợp với cán bộ y tế có tay nghề cao, thuốc men được hỗ trợ đầy đủ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân nông thôn và miền núi có điều kiện chăm lo sức khỏe để tái sản xuất sức lao động, đồng thời thực hiện CBXH. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ xứng đáng cho đào tạo giáo dục về cơ sở vật chất như trường học, trang thiết bị, đồ dùng học tập cho học sinh miền núi, đồng thời có chính sách khuyến khích hơn nữa để cán bộ giáo viên có thể tự nguyện và đảm bảo đến công tác dạy học tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số nhằm từng bước khắc phục sự nghèo nàn lạc hậu cả về vật chất lẫn tinh thần, sớm rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn miền núi và thành thị. - Chính sách về lợi nhuận. Theo nguyên tắc thị trường thì các yếu tố như vốn, tài sản, sức lao động phải được trả giá đầy đủ và công bằng nhưng hiện nay đang phát sinh bất bình đẳng về thu nhập và hưởng thụ, nguyên nhân chính là chênh lệch về sở hữu tài sản, vốn, sức lao động, điều kiện sống giữa các vùng... vì vậy để thực hiện CBXH cần phải hoàn thiện chính sách phân phối lợi nhuận theo nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, vì vậy Nhà nước phải phân loại được doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện thuận lợi và khó khăn để đưa ra mức thuế phù hợp. Điều tiết mức thu nhập cá nhân thông qua Luật Thuế thu nhập, điều chỉnh giá thuê nhà, đất, giá điện nước, các dịch vụ cho các cơ sở sản xuất và các đối tượng khác nhau. Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa những ngành có lợi nhuận độc quyền, có chính sách điều tiết thu nhập giữa các ngành, các cơ quan, các cá nhân khác nhau, khuyến khích sử dụng lợi nhuận vào mục đích đầu tư, đổi mới chính sách tiền lương, hiện nay tiền lương chưa phải là nguồn thu nhập chủ yếu của người hưởng lương, muốn có CBXH thì tiền lương phải phản ánh đúng giá cả sức lao động, thỏa mãn nhu cầu tái sản xuất lao động và đảm bảo cuộc sống bình thường, thu từ lương phải cao hơn chi phí cho cá nhân. Như vậy mức lương tối thiểu phải phù hợp với mức độ phát triển kinh tế - xã hội. Lương thấp là nguyên nhân tha hóa biến chất trong cán bộ công chức nhà nước, là nguồn gốc gây ra các hiện tượng tiêu cực, bên cạnh đó cần phải tính đến bảo hiểm đối với những người thất nghiệp, không có việc làm. Các chính sách về bảo hiểm xã hội phải được cải tiến và thực hiện có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế, đảm bảo CBXH và phục vụ cho TTKT. Bản chất của cơ chế thị trường là cạnh tranh gay gắt, chúng ta mới là quen với cơ chế thị trường nên còn một bộ phận chưa kịp thích nghi, dễ bị cơ chế đào thải, vì vậy Nhà nước phải có những chính sách điều tiết đối với những cá nhân đó bằng chính sách cứu trợ, bảo hiểm, cấp vốn... để họ sớm được hòa nhập với cộng đồng, đó chính là CBXH trong xã hội XHCN. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thực sự trong sạch vững mạnh. Cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự trong sạch vững mạnh, một Nhà nước của dân, do dân và vi dân, do nhân dân lao động làm chủ, ở đó mọi người đều sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước điều hành xã hội bằng pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bình đẳng thực sự cho mọi người dân trong xã hội, quyền bình đẳng cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh, các thành phần kinh tế. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện sự thống nhất quyền lực nhưng có phân chia rõ ràng cụ thể và chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan của bộ máy Nhà nước, tạo sự kiểm tra giám sát lẫn nhau giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước phải tạo cơ chế, phương thức hoạt động để Quốc hội thể hiện đầy đủ, tập trung ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân, Nhà nước phải tạo cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước nhằm khắc phục hạn chế trong cơ cấu tổ chức và hoạt động, đồng thời phải sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp để nó đủ sức bảo đảm duy trì tôn trọng hiệu lực của pháp luật. Để làm được điều đó thì phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tăng cường công tác lập pháp. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, đây là nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện CBXH. Nếu hành chính Việt Nam phải có một chính sách nhất quán, hoạt động phải cụ thể, thiết thực, phải tạo được động lực cho sản xuất kinh doanh phát triển, tìm cách tháo gỡ nội lực, tận dụng khai thác ngoại lực để phát triển kinh tế, khắc phục thủ tục hành chính rườm rà "phép vua thua lệ làng". Cần xác định đúng và rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cả hệ thống hành chính Nhà nước. Nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ quản lý, cần tuyển chọn đội ngũ công chức Nhà nước có năng lực các có phẩm chất đạo đức vì nó quyết định đến chất lượng bộ máy Nhà nước, vì vậy phải nhanh chóng hoàn thiện quy chế, chuẩn mực tiêu chuẩn, chức danh cán bộ công chức theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đồng thời luôn luôn bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ công chức, đồng thời trả lương xứng đáng để họ yên tâm công tác và tránh tình trạng tiêu cực. Hoạt động tư pháp là nhằm bảo vệ nền móng pháp luật bảo vệ quyền sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế theo pháp luật. Tư pháp Nhà nước phải là trọng tài giải quyết tranh chấp, chống độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của các chủ thể kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng trong các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế và của nhân dân lao động. Do vậy trong điều kiện nước ta hiện nay, cần thiết phải có cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của cơ quan tư pháp Nhà nước. Thứ tư, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện dân chủ hóa trong đời sống xã hội. Phải đảm bảo quyền dân chủ, phát huy đầy đủ vai trò của toàn thể nhân dân, đây là một yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện CBXH. Đối với nước ta hiện nay, thể chế dân chủ đang được từng bước xây dựng chưa đồng bộ và hoàn thiện. Để đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, cần phải hoàn thiện thể chế dân chủ XHCN đồng thời thực hiện dân chủ trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Giai đoạn trước mắt cần triển khai tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Thiết chế phải quy định rõ những điều dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra, đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm trước dân và báo cáo công khai trước dân. Thiết chế phải quy định rõ phải tiếp dân, giải đáp những thắc mắc của nhân dân về cán bộ công chức Nhà nước, đồng thời phát huy mở rộng các hình thức để dân tự bàn, tự xây dựng, tuy nhiên là phải tuân theo hiến pháp và pháp luật. Phải tạo ra được một cơ chế mà cán bộ công chức phải sợ dân, dân là chủ, dân làm chủ, tất cả là của dân, do dân và vì dân, vì vậy cán bộ phải sợ dân mỗi khi có việc làm sai trái, trách nhiệm của người cán bộ phải được quy định rõ ràng với một hệ thống pháp luật nghiêm minh và phải bị trừng trị thích đáng. Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội và pháp luật. Trước hết, phải tập trung giải quyết việc làm, đây là phương hướng quan trọng nhất mà Nhà nước và toàn thể nhân dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt các chương trình kinh tế xã hội, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư, mọi cơ sở sản xuất kinh doanh mở mang ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, đồng thời thực hiện phân bố lại dân cư trên địa bàn có tính chất chiến lược về kinh tế, an ninh - quốc phòng, mở rộng kinh tế đối ngoại và xuất khẩu lao động. Thực hiện xóa đói giảm nghèo nhất là với các vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong nước và ngoài nước, quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và thực sự có hiệu quả. Pháp luật là công cụ của Nhà nước để quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế tự do cạnh tranh nhưng phải tuân theo hiến pháp và pháp luật, nhất là về lĩnh vực kinh tế, hành lang pháp lý, hệ thống pháp luật càng rộng và chặt chẽ thì công bằng xã hội càng được đảm bảo giữa các chủ thể kinh doanh và giữa các thành phần kinh tế, hạn chế được tiêu cực trong xã hội. Pháp luật phải tạo ra được môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thật bình đẳng, hấp dẫn, thuận lợi cho các doanh nghiệp. Nhà nước dùng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ thị trường và chính bản thân minh, tôn trọng quy luật khách quan, loại trù hiện tượng chủ quan, tùy tiện. Nhà nước sử dụng phòng luật để khai thác tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho công bằng và bình đẳng xã hội. Trong thời gian vừa qua, những tiêu cực trong nền kinh tế thị trường đã làm cho bất công trong xã hội có xu hướng tăng lên, hậu quả đó là do hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và chưa thực sự nghiêm minh. Hiện tượng luật nhiều nhưng hiệu quả của luật lại ít dẫn đến tình trạng cơ chế "xin-cho ", hiện tượng làm ăn phi pháp, tham nhũng, buôn lậu tràn lan, nhìn vụ việc tiêu cực bị phát hiện, xong tệ nạn xã hội vẫn chưa thuyên giảm, những người làm luật lại chính là những người vi phạm pháp luật. Vì vậy, để phát huy vai trò của NTCQ, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH hiện nay là một yếu tố hết sức quan trọng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống luật pháp. KẾT LUẬN Đảng ta luôn khẳng định tất cả vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", " kết hợp tăng trưởng kinh tế với CBXH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển" và ngay "trong từng chính sách phát triển". Như vậy CBXH là một trong những cái đích quan trọng mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới mục tiêu đó. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhằm mục đích thực hiện CBXH. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt hạn chế, không lành mạnh vi phạm đến nguyên tắc thực hiện CBXH. Vì vậy để thực hiện được mục tiêu đó, vai trò của nhân tố chủ quan rất quan trọng có ý nghĩa quyết định. Vai trò đó được thực hiện thông qua định hướng phát triển kinh tế, phân bổ nguồn lực, đảm bảo CBXH, Tạo hành lang pháp lý, môi trường ổn định, điều tiết phân phối thu nhập, chế định và thực hiện chính sách xã hội. Sau 20 năm thực hiện đổi mới, bước đầu đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, CBXH từng bước được thực hiện, tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn đó vẫn còn những khiếm khuyết bất cập, chính sách phát triển kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ, còn nhiều lỗ hổng trong quản lý kinh tế, TTKT tự phát diễn ra nhiều nơi làm cho tình trạng bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng gia tăng. Hiện tượng phân hóa giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ, khoảng cách giàu nghèo ngày một gia tăng, hiện tượng này là do nguyên nhân TTKT. Vì vậy, vai trò nhân tố chủ quan phải định hướng, lãnh đạo quản lý, điều tiết và thực hiện tốt cơ chế thị trường để cho mọi thành phần kinh tế không chạy đua TTKT một cách tự phát, không nên theo đuổi lợi nhuận bằng mọi giá, tránh tình trạng phân hóa giàu nghèo quá mức làm xuất hiện những tầng lớp có thu nhập quá cao dẫn đến chệch hướng XHCN. Hiện tượng thất nghiệp còn nhiều, dân chủ bị vi phạm ở nhiều nơi, những bất công phi lý có chiều hướng ngày càng gia tăng, nguyên nhân do một số kẻ lợi dụng kẽ hở trong quản lý kinh tế, trong chính sách và pháp luật để tham nhũng, buôn lậu, chốn thuế, kiếm lợi bất chính và giàu lên một cách không chính đáng. Những hiện tượng tiêu cực đó đang làm giảm đi vai trò và hiệu lực của NTCQ, làm thất thoát ngân sách của Nhà nước và tài sản của nhân dân, làm giảm vốn đầu tư cho TTKT và vốn trợ cấp cho những người thuộc diện chính sách xã hội. Đây chính là nguyên nhân cơ bản và chủ yếu của sự bất công, làm tăng thêm bức xúc xã hội. Vì vậy, để thực hiện CBXH trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thì phải tăng cường phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trên cơ sở phương hướng giải quyết CBXH. CBXH phải gắn với TTKT trong từng bước và trong từng chính sách phát triển, phải gắn với bản sắc văn hóa dân tộc, với dân chủ và muốn có CBXH thực sự thì phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý rộng rãi và thông thoáng, đồng thời phát huy vai trò NTCQ trong giai đoạn mới nhằm tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế và thực hiện CBXH. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiền Anh (1997) "Vài suy nghĩ về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (18), tr. 42-45, Đỗ Trọng Bá, "Đảm bảo công bằng xã hội và việc xóa bỏ các bất công", Lý luận chính trị, (9), tr. 18. Trần Bảo (1989), "Bàn về những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội"; Triết học, (4). Phạm Tất Dong (2000), "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội - một nội dung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Quốc phòng toàn dân, (7), tr. 29-30. Phạm Văn Dũng (2004), Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc trong giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV, Vĩnh Phúc. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Thị Điều: "Thực hiện công bằng xã hội góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân", Nghiên cứu lý luận, (7), tr.19. Nguyễn Ngọc Hà (2002), "Nguyên tắc phân phối về mục tiêu công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Triết học, (8), tr.13-17. Lương Việt Hải (2004), "Công bằng xã hội trong kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Triết học, (4), tr. 5. Phạm Hảo, Võ Xuân Tiến, Mai Đức Lộc (đồng chủ biên) (2000), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khắc Hiền (1994), "Kinh tế thị trường và công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (2), tr. 34-38. Nguyễn Đình Hiền (1998), "Một số vấn đề tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 11-13. Vũ Hiền (1999), "Tăng trưởng kinh tế và nghịch lý của sự tăng trưởng", Thông tin lý luận, (12), tr. 7-11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Việt Nam 1992 (1992), Nxb Sự thật, Hà Nội. Võ Thị Hoa (2002), Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Minh Hoài (2000) "Tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay", Con số và sự kiện, (1+2), tr.27-30. Trần Đình Hoan (1996), "Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay", Tạp chí cộng sản, (1). Nguyễn Minh Hoàn (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh công bằng và bình đẳng xã hội", Triết học, (10). Nguyễn Minh Hoàn, "Thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Triết học, (6), tr. 5. Lê Huy Hoàng (2001), "Xây dựng chính sách xã hội tạo sự công bằng, bình đẳng trong việc phát huy nguồn lực sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay", Triết học, (9), tr. 5-8. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Tấn Hùng (1996), "Vấn đề công bằng và bình đẳng trong xã hội", Nghiên cứu lý luận, (7), tr. 15. Nguyễn Tấn Hùng (1999), "Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta", Triết học, (5), tr. 20. Lê Hồng Khánh (2001), "Vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Triết học, (2), tr. 26-29. Lê Hồng Khánh (2003), "Vấn đề công bằng xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ở nước ta hiện nay", Triết học, (8), tr. 54-57. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Dương thị Liễu (1996), Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với qua trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án phó tiến sĩ; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Bộ Lĩnh (Chủ biên) (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Xuân Long (1996), "Một vài biện pháp hạn chế mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội", Lý luận chính trị, tháng, (7), tr.14-17. Trương Gia Long, "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong xu thế hội nhập hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (24), tr. 32-36. Trịnh Duy Luân và Bùi Thế Cường (2001), "Phân tầng xã hội và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Xã hội học, (2), tr.3-11. Trần Thị Lý (2000), "Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở nước ta", Kinh tế phát triển, (36), tr. 29-31. C. Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh về Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Ngọc Minh (2000), Vấn đề nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: Một số lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Viện Triết học, (2006), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Vũ Viết Mỹ (2004), "Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa", Lý luận chính trị, (12), tr.30. Bùi Hoài Nam (2004), "Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở nước ta giai đoạn 1996-2004", Con số và sự kiện, (8), tr. 18-21. Nguyễn Thị Nga (Chủ nhiệm đề tài), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Nga (2006), "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay những quan điểm cơ bản của Đảng", Triết học, (9), tr 3-8. Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng (1997), Từ điển Triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. Dương Xuân Ngọc và Nguyễn Văn Nhớn (2002), "Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội ", Triết học, (7), tr. 34-39. Trần Thảo Nguyên (2003), "Khái niệm công bằng trong triết học phương Tây hiện đại và vấn đề công bằng xã hội trong "Lý thuyết về công bằng" của Giôn Rols", Triết học, (6), tr.5. Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2005 (2006), Nxb Thống kê, Hà Nội. Vũ Hữu Phê (2004) Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương), Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Xuân Phong (2003), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị), Luận văn thạc sĩ; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Vũ Ngọc Phùng (Chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trịnh Huy Quách (1996), "Bàn về công bằng trong thu nhập và ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế", Những vấn đề kinh tế thế giới, (4). Nguyễn Trần Quế (1997), "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam", Những vấn đề kinh tế thế giới, (6), tr. 19-24. Nguyễn Trung Quế (2003), "Xóa đói giảm nghèo ở nông thôn", Công tác tư tưởng văn hóa, (2). Lê Văn Sang và Kim Ngọc (Chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai đoạn "thần kỳ" và Việt Nam thời kỳ "đổi mới"; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Sở Lao động Thương bình và xã hội Vĩnh Phúc (2005), Tổng hợp kết quả thực hiện chương trình qốc gia xóa đói giảm nghèo, việc làm giai đoạn 2001 - 2005, Vĩnh Phúc. Olivier de Solages (1996), Những thành công và thất vọng về phát triển trong thế giới thứ ba, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội. Lương Sơn, "Công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 16-19. Nguyễn Văn Tài (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người", Triết học, (11). Lê Hữu Tầng (1993), "Phân hóa giàu nghèo xét từ góc độ công bằng và bình đẳng xã hội", Triết học, (4), tr.54-58. Lê Hữu Tầng (1994), "Tư tưởng của Mác về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội", Triết học, (2), tr.27-31. Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; Nxb Khoa học xã hội; Hà Nội. Lê Hữu Tầng, "Về công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 33-38. Bùi Đình Thanh, "Công bằng xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (18), tr. 6-12. Hoàng Thị Thành (Chủ nhiệm đề tài) (1998), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ngô Quang Thành (2000), "Các định tố của bất bình đẳng về thu nhập và chiến lược tăng trưởng kinh tế trong công bằng xã hội cho Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (8, tr 3-10. Trần Thành (2006), "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Triết học, (2) tr. 3-9. Trần Văn Thọ và Hitômi Asano (1999), "Phát triển kinh tế và công bằng xã hội đánh giá thành quả đổi mới và suy nghĩ về chiến lược phát triển của Việt Nam", Sinh hoạt lý luận, (1), tr. 34-41. Thủ tướng Chính phủ (2003), Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Hà Nội. Lưu Đạt Thuyết (2004), "Giải quyết một số vấn đề xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Lý luận chính trị, (11), tr. 45. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê, Hà Nội. Từ điển Triết học (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội. Từ điển Triết học giản yếu (1987), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. Vũ Anh Tuấn (2006), Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Tùng (2004), "Nâng cao vai trò ngân sách nhà nước trong việc xóa đói giảm nghèo thực hiện công bằng xã hội", Kinh tế và phát triển, (8), tr. 9-11. A.K.Uleđốp (1980), Những quy luật xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên) (2001), Lịch sử triết học; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2567.doc
Tài liệu liên quan