Trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân
Trung Tâm Đào Tạo từ xa
Tiểu luận triết học
Đề tài:
NHÂN CÁCH CON NGƯỜI QUA LĂNG KÍNH TRIẾT HỌC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Ngọc Thông
Sinh Viên : Nguyễn Như Cường
Lớp : A1 - Khoa QTKD
Khoá : 1 (2007 - 2012)
Mã SV : TX070087
hà nội - 20/4/2007
Mục lục
Lời mở đầu
Phần I: Kinh tế thị trường – con đường phát triển của đất nước.
1. Kinh tế Việt Nam trước đổi mới.
2. Kinh tế thị trường – con đường phát triển.
Phần
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nhân cách con người qua lăng kính triết học trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II: Nhân cách con người trong cơ chế thị trường.
Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
Những vấn đề cơ bản của cơ chế thị trường ảnh hưởng đến nhân cách con người.
Phần III: Các giải pháp khắc phục..
Các biện pháp giáo dục.
Lời mở đầu
Con người đã xuất hiện trên trái đất cách đây hơn 3 triệu năm, đã phát triển nhanh qua rất nhiều giai đoạn, từ sống trong trạng thái mông muội, thành từng bày, sử dụng những công cụ lao động bằng đá được chế tác rất thô sơ để hái lượm hoa quả, đào bới củ cây và sắn bắn muông thú, cả thức ăn có sẵn trong tự nhiên. Trong quá trình lao động, cơ thể con người tự cải biến, hoàn thiện và phát triển dần tiếng nói, biết cách dùng lửa, biết cách làm ra lửa và giữ lửa. Đó là một quá trình phát triển dài của lịch sử tự nhiên. Quá trình này đã được C. Mác phân tích, nghiên cứu và khẳng định sự ra đời và phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội, bắt nguồn từ sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất – nhân tố quan trọng của phương thức sản xuất.
Do yêu cầu đời sống kinh tế và xã hội của loài người là nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm bớt lao động nặng nhọc, con người không ngừng cải tiến, chế tạo công cụ mới. Đồng thời với sự tiến bộ của công cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Các yếu tố năng động này thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải phù hợp với nó, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, đòi hỏi phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mâu thuẫn sẽ nảy sinh, lúc đó sẽ diễn ra cuộc xung đột gay gắt phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập mối quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển, trong đó các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng có liên hệ biện chứng với nhau thông qua các quy luật khách quan xã hội.
Trong quá trình tìm kiếm con đường đưa đất nước chúng ta thoát khỏi đói nghèo, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đảng và Nhà nước đã lựa chọn con đường đổi mới.
Con đường đổi mới đã được mạch nha phát triển từ đầu những năm 80 chuyển nền kinh tế của đất nước chúng ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Công cuộc đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt đã làm thay đổi hệ thống giá trị xã hội, tạo ra những chuẩn mực xã hội mới, điều đó đã tác động không nhỏ đến cách suy nghĩ và lối sống của người dân. Con người Việt Nam dần hình thành những giá trị mới, nhân cách con người, dân chủ, công bằng xã hội, lợi ích cá nhân, xã hội cùng những mâu thuẫn và tác động của chúng.
Qua bài viết này, tôi xin đề cập đến một trong những vấn đề đáng quan tâm là: “Nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường”.
Phần I
Kinh tế thị trường – con đường phát triển
của đất nước
1. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới:
Suốt 4000 năm lịch sử, nước ta luôn luôn bị xâm lược nhưng lịch sử cũng chứng minh dân tộc ta đã anh dũng chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc.
Đất nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế, giàu tài nguyên thiên nhiên, nhân lực dồi dào, thông minh, cần cù, chịu khó . Tuy nhiên, chiến tranh liên miên đã để lại hậu quả của nó. Đó là một đất nước mà toàn bộ sức người, sức của liên tiếp phục vụ các cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, kinh tế không được chú trọng phát triển, lại bị cấm vận kéo dài, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu. Nhưng với đức tính cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, giàu nghị lực của dân tộc Việt Nam, chúng ta đã từng bước xây dựng lại đất nước với đầy rẫy những khó khăn và thách thức.
Thời kỳ trước Đại hội Đảng VI (1986), với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế Việt Nam không phát triển được, nền sản xuất không đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Hoàn cảnh nước ta trước đó đang từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Về mặt lý luận, lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó thì thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển hình thành một lực lượng phát triển sản xuất mới. Nhưng thực tế nước ta sau chiến tranh cơ sở vật chất xã hội lạc hậu, nghèo nàn, lại bị chiến tranh tàn phá, cấm vận kéo dài, đất nước có 90% làm nông nghiệp, 95% dân cư mù chữ. Vì vậy lực lượng sản xuất không đủ điều kiện tác động đến quan hệ sản xuất cũ lỗi nhằm phá vỡ nó. Hơn nữa, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước không cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế tư nhân, xoá bỏ mọi sự tư hữu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nền kinh tế gặp khó khăn nghiêm trọng.
2. Kinh tế thị trường – con đường phát triển:
Từ thực tế tình trạng đất nước, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và nhà nước ta đã phân tích rõ nguyên nhân, thực trạng của nền kinh tế, đã thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong sự phát triển kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta phát triển theo kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Tại đại hội VI của Đảng, Đảng ta chủ trương “Để phát huy vai trò to lớn của nền kinh tế nhiều thành phần phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”.
Đến đại hội VIII, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường, quy luật phân công lao động được diễn ra mạnh mẽ hơn, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, đem lại hiệu quả cao cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác không chỉ dừng lại ở phân công lao động trong nước mà còn mở rộng phân công lao động và hợp tác trong khu vực và trên thế giới. Điều đó không chỉ cho phép nước ta học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến mà còn có thể giao lưu trong lĩnh vực văn hoá-xã hội.
Vấn đề sở hữu tư nhân vốn là sở hữu tư bản vốn có của con người nhưng đã có một thời gian dài chúng ta không thừa nhận mà còn phủ định một cách tuyệt đối mọi hình thức sở hữu tư nhân trong kinh doanh và làm ăn kinh tế. Khắc phục sai lầm đó, cơ chế thị trường với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã và đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh và có hiệu quả, góp phần đồng bộ xây dựng cơ chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường có những mặt tích cực là tạo ra những động lực mới để phát huy năng lực sáng tạo, khai thác mọi nguồn lực, phát triển và tăng trưởng kinh tế cao. Đó là nguồn lực tổng hợp to lớn và nhiều mặt và có khả năng to lớn đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế.
Chiến lược phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường là tiền đề để mở đường cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhằm xây dựng nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó. Thực tế những năm qua cho thấy bên cạnh những thành tựu, những làm ăn thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, dẫn đến các hình thức lừa đảo, tham nhũng, hối lộ, trốn thuế..., thương mại hoá tràn lan, xâm nhập vào tất cả những lĩnh vực trong các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội..., làm giá trị đạo đức, tinh thần bị xuống cấp, đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội ngày càng tăng.
Vì vậy, việc hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường đang là một vấn đề quan trọng hiện nay.
Phần II
Nhân cách con người trong cơ thế thị trường
Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực:
Con người là sản phẩm của tự nhiên, trải qua quá trình tiến hoá lâu dài, chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc tạo ra nền văn hoá vật chất và tinh thần, mặt khác trong lao động, con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, đó là những nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các lĩnh vực của đời sống tinh thần, chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con người, và qua xã hội lại hình thành cá nhân và nhân cách.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sôi nổi hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và trở nên sông đội hơn. Việc hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, giảm tốc độ lạm phát, tăng nhanh xuất khẩu, có bước phát triển mới về đối ngoại, khởi động tiến trình dân chủ, giữ vững được cuộc sống, ổn định chính trị, xã hội. Chính những thành tựu đó đang tạo ra những điều kiện mới cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Việc chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nó tạo ra những điều kiện tiềm để kinh tế cho sự phát triển. Đồng thời, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy và mở rộng hợp tác quốc tế, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng thu nhập quốc dân và toàn xã hội. Dưới tác động của quy luật lợi nhuận, cạnh tranh, cung cầu nền kinh tế thị trường có sức động viên to lớn các nguồn lực tài nguyên và con người, nó giúp con người sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sức lao động phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế. Chính nền kinh tế thị trường đang tạo thuận lợi cho sự phát triển của mỗi cá nhân về nhiều phương diện, nhất là phương diện tài năng và trí tuệ.
Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra các điều kiện vật chất để xây dựng phát huy nguồn nhân lực con người, tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hài hòa, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần.
Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt, điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạp về trí tuệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu, mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá, đạo đức theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng, trong giao dịch...
Tuy nhiên, cần thấy rằng không phải cứ xây dựng được nền kinh tế thị trường phát triển là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành trong con người. Có những lúc, những nơi kinh tế thị trường không những không làm ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành nô lệ của đồng tiền hoặc là đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luân thường đạo lý.
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế, gây ra những tác động xấu. Việc đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích tập thể, lợi ích xã hội là một nguy cơ lớn, lợi nhuận kích thích sản xuất nhưng mặt khác lợi nhuận cũng đẩy con người tới những hành vi phá hoại môi trường sống, làm tha hoá đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên thương trường làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn nhưng cũng làm con người sống ích kỷ, tính toán ngay với đồng loại, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết tính toán sòng phẳng, lạnh lùng, thiếu nhân tính. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm sống động thị trường nhưng cũng làm xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá con người. Cùng với sự kích thích phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực trong xã hội. Nếu như trước đây cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cùng với chủ nghĩa bình quân đã triệt tiêu nguồn động lực của sự phát triển, thì ngày nay nền kinh tế mặc dù còn đang ở giai đoạn hình thành cũng đã bắt đầu nảy sinh những vấn đề phức tạp. Việc khuyến khích các hình thái tổ chức kinh tế nhiều thành phần hợp tác, cạnh tranh với nhau cùng phát triển sản xuất, kinh doanh tất yếu dẫn đến sự phản công xã hội, sự phân hoá giàu nghèo. Chấp nhận sự phân tầng xã hội trong chừng mực nhất định là điều kiện bắt buộc của sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Những bài học kinh nghiệm của nhiều nước đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình phân hoá cơ cấu xã hội, đặc biệt là sự tách biệt khá xa giữa người giàu và người nghèo. Bên cạnh một bộ phận dân cư có thu nhập cao chính đáng nhờ biết kinh doanh, ở nước ta đã và đang xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, làm hàng giả, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm. Nạn buôn lậu va trốn thuế đang rất trầm trọng, phá sản trong kinh doanh, nợ nần chồng chất không thanh toán gây ra biết bao tai hại cho người lương thiện, cho xã hội. Ngoài ra, đi kèm với nền kinh tế thị trường là hàng loạt tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc, mại dâm, buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng, làm khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân, tế bào của xã hội là những căn bệnh trầm trọng không dễ bề khắc phục trong kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường hàng hoá đòi hỏi phải mở rộng quan hệ với các nước, thông qua mở rộng quan hệ với các nước chúng ta tăng nhanh xuất khẩu, có những bước tiến dài trong quan hệ kinh tế đối ngoại, trong quá trình giao lưu với các nước, một mặt chúng ta tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh của nhân loại, làm phong phú cho nền văn hoá, nhưng qua đó cũng tràn vào nước ta những luồng văn hoá độc hại, đồi truỵ, những lối sống thực dụng lan rộng trong xã hội, gây tác hại rất lớn đến thế hệ trẻ.
Qua những phân tích trên cho thấy kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người chủ nghĩa xã hội là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và xây dựng nhân cách con người phải vừa có sự thống nhất và sự đấu tranh khuyến khích những nhân tố tích cực đồng thời cũng phải đấu tranh quyết liệt với những tiêu cực, sai trái.
Phần III
Các giải pháp khắc phục
Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát. Để xây dựng con người về mọi mặt, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề hình thành nhân cách con người đóng vai trò cực kỳ quan trọng và để thực hiện được điều đó chúng ta cần phải có một số giải pháp nhất định.
Nhân cách khi hình thành một cách tự phát thì bao giờ cũng thiếu hoàn thiện. Vì vậy giáo dục và giáo dục đạo đức là một trong những phương thức, giải pháp quan trọng nhất, trực tiếp quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức. Giáo dục toàn diện và có hệ thống sẽ phát triển hài hoà các phương tiện lý trí, ý chí, tính mở rộng cũng như năng lực thực tiễn của con người. Sự phát triển toàn diện đó sẽ là cơ sở cho phát triển đạo đức của nhân cách. Trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế thị trường chưa hoàn thiện thì giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức đòi hỏi được tiến hành đồng bộ, có hệ thống với những hình thức thích hợp cho các đối tượng, các lứa tuổi, các lĩnh vực khác nhau của con người, phải đưa ra những điển hình tiên tiến, những cá nhân xuất sắc, những tấm gương người tốt việc tốt, đó chính là những tấm gương, những hiện thân của các giá trị đạo đức. Nhờ thế chúng có sức mạnh to lớn trong việc biến các kiến thức mà con người thu nhận qua truyền đạt thành sức mạnh đạo đức bên trong nhân cách. Trong điều kiện hiện nay, khi những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội đang là một vấn đề nhức nhối trên bình diện đạo đức thì hiệu quả của việc giáo dục đạo đức bằng bằng nêu gương mang lại nhiều ý nghĩa to lớn.
Nhân cách là đặc điểm nổi bật của lối sống lại là một yếu tố của văn hoá phát triển theo định hướng dân tộc, hiện đại và nhân văn, bởi thế xây dựng lối sống có văn hoá chính là xây dựng nhân cách sống của con người, khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, trước mắt là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, từ nhân cách đến phẩm chất cuộc sống, bao gồm cả cuộc sống vật chất lẫn cuộc sống tinh thần luôn hướng tới những chuẩn mực đạo đức. Môi trường cần có cho phẩm chất cuộc sống thể hiện thành hiện thực chính là việc đất nước phải ổn định về chính trị, công bằng xã hội được đề cao, mọi tệ nạn phải được loại trừ, lên án. Xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, dân chúng giàu có, ấm no.
kết luận
Trên bước đường xây dựng đất nước tiến lên công nghiệp hoá- hiện đại hoá có rất nhiều thuận lợi nhưng chúng ta cũng gặp rất nhiều khó khăn thách thức. Đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn nghiên cứu, tìm tòi những chủ trương, biện pháp sáng tạo thích hợp để giải quyết những khó khăn thách thức, những mâu thuẫn mới xuất hiện, nạn tham nhũng tràn lan, quan liêu nặng nề, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, việc cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dân chủ, công bằng, xã hội văn minh đòi hỏi phải giữ vững nhân cách con người và định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ trên lĩnh vực chính trị mà phải cả lĩnh vực kinh tế - xã hội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35952.doc