Nhà nước & vai trò của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta

Tài liệu Nhà nước & vai trò của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta: LỜI MỞ ĐẦU Sự ra đời của Nhà nước có vài trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Trong một xã hội có giai cấp, Nhà nước không chỉ là người đại diện cho giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị mà ở một mức độ nhất định, còn là người đại diện cho lợi ích chung của xã hội. Nhà nước là nhân tố điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu ở các nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quy... Ebook Nhà nước & vai trò của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nhà nước & vai trò của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản mà nó là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử. Từ đại hội VI của Đảng (năm 1986) đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 20 năm đổi mới, Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế cũng như xã hội, được công nhận trên toàn thế giới . Tuy nhiên trong các Văn kiện của Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4 nguy cơ thách thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” được đánh giá là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nước, là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sư phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì không thể giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Vì thế kết hợp hài hoà giữa sự vận hành của cơ chế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và là giải pháp mang lại thành công trên con đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, Nhà nước giữ vai trò định hướng tạo “hành lang” pháp lý và môi trương đầu tư để các chủ thể có thể có thể phát huy tính năng động, sáng tạo của mình. Nhận thức được tầm quan trọng về Nhà nước và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nên em đã chọn đề tài “Nhà nước và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta’’ Là một sinh viên năm nhất nên tầm hiểu biết, nhận thức và lý luận của em còn nhiều hạn chế . Bởi vậy em rất mong được sự giúp đỡ và đóng goáp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. I.Lý luận chung về Nhà nước 1. Các quan điểm trước Mác về Nhà nước 1.1. Thời kỳ cổ trung đại Trong thời kỳ này, đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra những kiến giải khác nhau về nguồn gốc Nhà nước. Các nhà tư tưởng thuyết thần học cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra Nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, Nhà nước là một sản phẩm của thượng đế. Các nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng đã cố gắng chứng minh rằng Nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia trưởng, thực chất Nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực Nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loài người. 1.2. Thời kỳ trung đại Thời kỳ này đánh dấu bằng hàng loạt quan điểm mới về Nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên chưa giải thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước. Đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho rằng sự ra đời của Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết giữa những con người sống trong tự nhiên không có Nhà nước. Chủ quyền Nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp Nhà nước không giữ được vai trò của mình.các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ Nhà nước và ký kế khế ước mới. Tiêu biểu cho Thuyết khế ước xã hội là các nhà tư tưởng tư sản như Jean Bodin, Thomas Hobben, John Locke, S.L Montesquieu,... Thuyết bạo lực cho rằng Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất,là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với các thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt - Nhà nước - để nô dịch kẻ chiến bại. Các học giả của thuyết tâm lý quan niệm Nhà nước xuất hiện do nhu cẩu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sỹ,… 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về Nhà nước 2.1. Nguốn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, kiểu và hình thức Nhà nước 2.1.1. Nguồn gốc Nhà nước Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác Lênin được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ăngghen. Đây là tác phẩm được phát triển từ tư tưởng “Quan niệm duy vật về lịch sử” của Mác, tiếp thu và phát triển những thành tựu nghiên cứu “xã hội cổ đại” của nhà bác học Mỹ - Lewis H.morgan.Với quan điểm biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng một cách khoa học rằng Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có Nhà nước: Trong chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc bộ lạc Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một xã hội không có giai cấp, chưa có Nhà nước. Nhưng những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước lại nảy sinh chính trong xã hội đó. Vì vậy, việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thuỷ sẽ làm cơ sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh Nhà nước sau này. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ tư hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu kẻ nghèo, không có sự chiếm đoạt tài sản của người khác. Tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc. Thị tộc là một tổ chức lao động và sản xuất,một đơn vị kinh tế xã hội. Trong thị tộc mọi người đều bình đẳng, không một ai có đặc quyền đặc lợi. Trong thị tộc đã tồn tại sự phân công lao động, nhưng mới chỉ là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ chứ chưa mang tính xã hội. Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân, do phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, các thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát triển của kinh tế xã hội đã làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, mặt khác địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông đã giữ vai trò chủ đạo trong đời sống và chế độ mẫu hệ chuyển thành chế độ phụ hệ. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý các công việc của thị tộc. Nhưng quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ mới chỉ là quyền lực xã hội, chưa mang tính giai cấp và hệ thống quản  lý còn rất đơn giản. Quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà nó gắn liền với xã hôi, do toàn xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng. Để tổ chức và quản lý thị tộc, đã xuất hiện hình thức hội đồng thi tộc. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất trong thi tộc. Trong đó mọi người lớn tuổi không phân biệt đàn ông hay đàn bà, đều là thành viên của hội đồng thị tộc. Hội đồng có quyền quyết định tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc. Các quyết định của hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung và có tính bắt buộc chung đối với mọi người. Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự… để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung. Họ có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực đó hoàn toàn không dựa vào bộ máy cưỡng chế đặc biệt mà dựa vào tập thể cộng đồng trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm của các thành viên. Những người đứng đầu thị tộc không hề có đặc quyền đặc lợi so vơí các thành viên khác trong thị tộc. Họ cùng chung sống, lao động và hưởng thụ như mọi thành viên và phải chịu sự kiểm tra của cộng đồng. Họ có thể bị bãi miễn   bất cứ lúc nào nếu mất uy tín và không được tập thể ủng hộ. Nhiều yếu tố tác động trong đó có tác động của chế độ ngoại tộc hôn, đòi hỏi các thị tộc phải mở rộng các quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền lực của bào tộc dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức quyền lực thị tộc, sự tập chung quyền lực ở mức độ cao hơn. Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bộ lạc cũng dựa trên cơ sở những nguyên tắc của tổ chức thị tộc và bào tộc nhưng mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Tuy nhiên, quyền lực vẫn mang tính xã hội, chưa mang tính giai cấp. Sự tan rã của thị tộc và sự xuất hiện của Nhà nước Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ và sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế bằng phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, mỗi lần lại có những bước tiến mới làm sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ.  Lần đầu tiên trong xã hội thị tộc có sự phân công lao động xã hội lớn, nghề chăn nuôi dần dần trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi ngành trồng trọt. Lần phân công lao động này làm cho xã hội có những biến đổi sâu sắc. Năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, của cải làm ra nhiều hơn cả nhu cầu duy trì cuộc sống của chính bản thân. Do đó, đã xuất hiện sản phẩm dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt những sản phẩm dư thừa đó. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành người giàu, kẻ nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện làm thay đổi chế độ hôn nhân. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế chế độ quần hôn. Gia đình cá thể ra đời.                Thủ công nghiệp ra đời và phát triển dâẫ đến lần phân công lao động thưứhai là thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, đẩy nahnh quá trình phân hóa xã hội. Sau lần phân công lao động xã hội đàu tiên nô lệ đã ra đời nhưng còn lẻ tẻ, thì nay đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng. Sự ra đời của sản xuất hang hóa làm cho thương nghiệp phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội lần thứ 3. Lần phân công lao động xã hội này làm xuất hiện một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và buộc ngưòi sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế và bóc lột cả người lao động lẫn người tiêu dung. Sự ra đời và bành trường của thương mại đã kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, nạn cho vay nặng lãi, quyền tư hữu về ruộng đất và chế độ cầm cố. Tất cả những yếu tố mới xuất hiện nói trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc. Chế độ thị tộc đã tỏ ra bất lực và phải nhường chỗ cho sự ra đời của Nhà nước. Tổ chức thị tộc, vốn sinh ra và tồn tại trong một xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại, thì nay một xã hội mới ra đời do ba lần phân công lao động xã hội đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội mới đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp và giữ cho xã hội trong vòng “trật tự”. Chính vì vậy, Nhà nước xuất hiên. Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của cả một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội” có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột ấy có “trật tự”. Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ bị mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. 2.1.2. Bản chất của Nhà nước Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy Nhà nước. Nhờ có Nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có thêm những phương tiện mới đẻ đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Theo Mac và Anghen thì Nhà nước về bản chất “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”(1) Mác - Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.22, tr.290-291. được thể hiện trên hai mặt phương diện là giai cấp và xã hội. Xét về phương diện tính giai cấp thì Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp,thiết lập và duy trì trật tự giai cấp trong xã hội. Không có và không thể có Nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc Nhà nước chung cho mọi giai cấp. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, Nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.tuy nhiên cũng có trường hợp, Nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định, hoặc Nhà nước cũng có thể thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp khác.những trường hợp trên có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp thù địch với nhau,sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định. Xét về phương diện tính xã hội thì Nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiền trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp, Nhà nước còn phản ánh lợi ích của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội thể hiện ở việc Nhà nước bao giờ cũng là công cụ để đảm bảo những điều kiện cho quá trình sản xuất của xã hội, là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, là công cụ chủ yếu giai quyết các vấn đề nảy sinh từ xã hội. Nhà nước không thể là Nhà nước điều hoà sự xung đột, mà trái lài, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Theo đó thì Nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do Nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Vậy Nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. 2.1.3. Đặc trưng của Nhà nước Bản chất của Nhà nước thể hiện ở đặc trưng của nó.Bất kỳ Nhà nước nào cũng có 3 đặc trưng cơ bản sau: Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định Khác với tổ chức bộ lạc, thị tộc nguyên thuỷ, thì ở đây quyền lực Nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với Nhà nước. Mỗi Nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định. Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chê đối với mọi thành viên trong xã hội Khác với cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, Nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt như: quân đội, cảnh sát, nhà tù… và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khoá, cống nạp như vậy hàon toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thức tổ chức Nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy, Nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện bóc lột của giai cấp bóc lột 2.1.4. Chức năng cơ bản của Nhà nước Bản chất giai cấp của Nhà nước còn được thể hiện ở các chức năng của nó.tùy theo góc độ khác nhau, chức năng của Nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, Nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, Nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức năng Nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của Nhà nước bắt nguồn từ lí do ra đời của Nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của Nhà nước. Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị.Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình.Song, chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thong qua chức năng xã hội. Ph.Angghen viết: “Ở khắp nơi,chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị,và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”.(2) Sđd, t.20, tr.253 Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm, và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xá lập. Chức năng đối nội và chức năng đói ngoại Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại. Chức năng đối nội của Nhà nước: nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị, được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hoá, giáo dục) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý trí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội. Chức năng đối ngoại của Nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các Nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay thi chức năng đối ngoại của Nhà nướccó tầm quan trọng đặc biệt. Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phất từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất, chúng tấc động tới nhau và. liên quan tới nhau. 2.1.5. Các kiểu và hình thức Nhà nước Kiểu Nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Mỗi kiểu Nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình thức Nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước.Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức Nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của Nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp – xã hội, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước… Các kiểu và hình thức Nhà nước trong lịch sử Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu Nhà nước: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu Nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định. Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là Nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại mà tiêu biểu là các hình thức lịch sử Nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ.các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy Nhà nước, còn bản chất của chúng đều là Nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ. Nhà nước phong kiến: Đây là Nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói chung, ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức phổ biến. Quyền lực Nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán. Mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ của mình.Chúa phong kiến nhỏ chỉ là chư hầu của chúa phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất nhưng chỉ có thực quyền trên lãnh thổ của mình, ít có khả năng chi phối các lãnh địa khác. Mối liên hệ thực sự giữa chúa phong kiến Châu Âu chủ yếu được thiết lập bằng các hình thức liên minh của các Nhà nước cát cứ, trong đó Thiên chúa giáo trở thành mối quan hệ tinh thần thiêng liêng giữa các tiểu vương quốc phong kiến. Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền là hình thức Nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất. Trong Nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Tuy nhiên, tính tập quyền đó trong thực tế lịch sử là dựa vào sức mạnh quân sự là chủ yếu. Do vậy, nguy cơ cát cứ phân quyền luôn thường trực. Mỗi khi chính quyền Nhà nước trung ương suy yếu thì nguy cơ cát cứ lập tức xuất hiện biến thành các cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực địa chủ các địa phương. Dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, Nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô. Nhà nước tư sản: Đây là Nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau,nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hòa lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng hòa Đại nghị, cộng hòa tổng thống trong đó hình thức cộng hòa Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất. Trong thực tế, nhằm thích úng với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể của Nhà nước tư sản hiện đại lại có sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ chức một viện hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội các. Hình thức Nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất của nó - đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lenin đã chỉ ra: “Những hình thức của Nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một:chung quy lại tất cả những Nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiện phải là nền chuyen chính tư sản”. Ngày nay Nhà nước tư sản hiện đại có vẻ bề ngoài như là những hình thức và thể chế dân chủ nhất: nó tuyên bố quyền dân chủ và bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân, thừa nhận quyền của người lao động được ứng cử vào các cơ quan quản lý Nhà nước. Song trong thực tế, đó chỉ là sự dân chủ và bình đẳng có tính chất hình thức và hạn chế. Pháp luật bảo vệ tài sản của giai cấp tư sản đưa ra những điều kiện mà người lao động khó vượt qua. Và trong những cuộc bầu cử, giai cấp tư sản nắm trong tay mình bộ máy tuyên truyền đồ sộ, chi những khoản tiền khổng lồ để cổ động cho người của mình. Tính chất hình thức và hạn chế đó của dân chủ tư sản trước hết do chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa - chế độ kinh tế do chế độ sở hữu tư bản tư nhân chủ nghĩa quy định. Theo đó, từ dân chủ được chính thức tuyên bố, đến dân chủ được thực hiện trong thực tế còn tùy thuộc vào cuộc đấu tranh của quần chúng. Song, trong khi chỉ ra những mặt hạn chế của dân chủ trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, cũng cần thấy trước khi có nền dân chủ vô sản, dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản là nấc thang khá quan trọng trong sự tiến hóa của nền dân chủ trong lịch sử. Sự ra đời chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến về chất trong sự phát triển của Nhà nước. Ở đó, nó đã kết tinh được những giá trị dân chủ được sang tạo ra trong thời kỳ trước khi giai cấp công nhan cầm quyền, đồng thời thể hiện được những nhân tố mang tính nhân loại, mang tính nhân dân chứa đựng trong một số chuẩn mực dân chủ đang được thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển hợp quy luật của các giá trị đó là những nhân tố nội nội tại dẫn tới phủ định chủ nghĩa tư bản. Nền dân chủ vô sản với tư cách là nền dân chủ cao về chất so với dân chủ tư sản cũng chỉ ra đời một khi biết kế thừa phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ mà loài người đã sáng tạo ra trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, chúng ta cũng phải thấy rằng, ngay ở những nước tư bản phát triển khá cao trong thời kỳ hiện nay, không ít những yêu cầu dân chủ sơ đẳng của người dân vẫn bị chà đạp. Vì vậy chỉ có thể đạt được một Nhà nước thật sự dân chủ của nhan dân, khi xóa bỏ Nhà nước tư sản để xá lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa. II.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước xã hội chủ nghĩa 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh - người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp đứng đầu Nhà nước trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của người cũng là quá trình tìm kiếm một Nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ trong cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền Nhà nước luôn luôn là một vấn đề cơ bản. Sau khi tìm được con đương cứu nước, Người đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do hạnh phúc độc lập cho tổ quốc. Ngay từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa, ở các khu giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng 8 năm 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử gia Uỷ Ban dân tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời bảo đảm tính hợp pháp của chinh quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân đội Đồng Minh đổ bộ vào miền Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào khai sinh của nước việt nam mới - nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định độc lập tư do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập đó. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp hiến, hợp công lý. Trong phiên họp đầu tiên của chính phủ. Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiêm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là “phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nươc việt nam dân chủ cộng hoà được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra quốc hội đầu tiên của nước ta. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan Nhà nước , cán bộ viên chức Nhà nước từ trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật của đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống. Trong tư tưởng của Người luôn chứa những tư tưởng hết sức có giá trị. Trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuẫn giữa “pháp trị”và “đức trị”. Người nói: “Nhà nước phải vừa giáo dục và sử dụng pháp luật để cải tạo họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ theo pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Bác nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, “Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. 1.2. Mô hình Nhà nước xã hội chủ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10948.doc
Tài liệu liên quan