Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta

Mở Đầu Trong sự nghiệp đổi mới đất nước những năm gần đây, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; đã dành nhiều trí tuệ, công sức cho việc củng cố hoàn thiện, phát huy vai trò nhà nước. Nhiều hội nghị Trung ương, Bộ chính trị đã tập trung bàn bạc và ra nghị quyết, đề ra các chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng, hoàn thiện và nâng cao vai trò nhà nước; khẳng định các quan điểm, nguyên tắc và định hướng lớn chỉ đạo quá trình củng cố,

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1757 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoàn thiện, đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, chỉ rõ nội dung lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Bên cạnh những kết quả bước đầu quan trọng đã đạt được trong quá trình đổi mới, công tác xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta vẫn còn không ít khuyết điểm yếu kém. Chính vì vậy đại hội IX của Đảng xác định công tác đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động, nâng cao vai trò của bộ máy nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) và chiến lược kinh tế – xã hội 10 năm (2001-2010). Nhận thấy sự quan trọng của vấn đề nhà nước trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn vấn đề “Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta” làm đề tài tiểu luận của mình với mục đích làm rõ hơn khái niệm “nhà nước” và từ đó phân tích một số khía cạnh của vấn đề phát huy vai trò nhà nước XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tôi hi vọng tiểu luận sẽ góp phần chỉ rõ những khó khăn, những khuyết điểm cũng như một số chủ trương, nhiệm vụ của việc phát huy vai trò nhà nước, góp phần xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam ngày càng tốt đẹp hơn. Chương 1: Nhà Nước I. Nguồn gốc nhà nước Vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử vào việc nghiên cứu sự phát triển xã hội đã đưa đến lí luận khoa học về nhà nước,về nguồn gốc và bản chất của nhà nước.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chứng minh rằng nhà nước có tính lịch sử, nhà nước không phải bao giờ cũng có. Nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.Sự ra đời và tồn tại của nhà nước gắn liền với sự ra đời và tồn tại của các giai cấp. Khi giai cấp mất đi thì nhà nước cũng không còn nữa....“Lúc bấy giờ nhà nước sẽ được xếp vào vị trí thật sự của nó.Tức là viện bảo tàng đồ cổ bên cạnh chiếc xa quay sợi và chiếc rìu bằng đồng “. Lịch sử đã cho thấy loài người đã trải qua thời nguyên thuỷ trong đó xã hội không hề biết đến nhà nước, chưa có khái niệm về nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, thể chế xã hội trong thời kì cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự quản của nhân dân. Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự là những người đứng đầu do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo trong thời kì này chưa mang tính chính trị. Trong xã hội chưa có sự phân hoá giai cấp nên chưa thể hình thành một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân. Những cơ quan quản lý xã hội hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của nhân dân. Nhận xét về xã hội đó, Ph Ang-ghen viết: “ Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao ! Không có quân đội,hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc,vua chúa,tổng đốc,trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những vụ xử án,- thế mà mọi việc đều trôi chảy”. Theo Ph Ang-ghen, sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã dẫn tới sự ra đời của nhà nước với các lý do sau: Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa đến kết quả là xã hội phân hoá thành giai cấp và hình thành quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân. Chế độ sỡ hữu chung bị thay thế bởi chế độ sỡ hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và xuất hiện chế độ người bóc lột người. Quan hệ người áp bức người thay thế quan hệ bình đẵng, hợp tác, tương trợ. Sự đói kháng giai cấp ngày càng sâu sắc. Quyền thừa kế các chức vụ xã hội thay thế quyền bầu cử của nhân dân. Quyền lực của các thủ lĩnh được củng cố và tăng cường, và họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân. Các cơ quan của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân, các tổ chức đó trở thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân. Xã hội có nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại là xã hội nô lệ. Nhà nước đó là một thiết chế có tiền thân của mình từ những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Khi xuất hiện giai cấp, chức năng của thiết chế ấy thay đổi từ việc bảo vệ lợi ích chung thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp. Ph Ang-ghen viết: “Lúc đầu xã hội, bằng sự phân công giản đơn trong lao động, thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo vệ những lợi ích chung của mình. Nhưng với thời gian, các cơ quan ấy, mà cơ quan chủ chốt là chính quyền nhà nước, do phục vụ lợi ích riêng của mình, đã từ chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội “. Nói về nguồn gốc nhà nước: Ph Ang-ghen viết: “ Nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp “. Tiếp theo tư tưởng đó, trong tác phẩm “ Nhà nước và cách mạng “(1917) V.I.Lenin đã phê phán quan điểm sai lầm của bọn cơ hội (Bec-stanh, Cau-xki) về vấn đề nhà nước và cách mạng, qua đó đã tiếp tục phát triển lý luận về những vấn đề này. Ông quan niệm: “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được “. Từ đó đi tới khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước và quan điểm “ vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước “. Tóm lại: Nguồn gốc chủ yếu, trực tiếp về sự ra đời của nhà nước là do sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử xã hội. II- Bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước 1. Bản chất của nhà nước Trong lịch sử có nhiều quan niệm khác nhau về nhà nước: “Nhà nước là hiện thân của ý niệm đạo đức”, “Nhà nước toàn dân “, “Nhà nước là cơ quan điều hoà giai cấp”, “Nhà nước vạn năng đứng trên giai cấp bênh vực lợi ích người nghèo”....Đó là những quan điểm sai lầm, chủ quan, có tính phản động, đã xuyên tạc bản chất nhà nước. Nhà nước không phải là cơ quan để điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan để làm “ dịu “ sự xung đột giai cấp, để làm cho sự xung đột ấy diễn ra trong vòng “ trật tự “ nhằm duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này được bóc lột giai cấp khác. V.I.Lenin viết: “ Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập ra một “ trật tự “, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”. Nói một cách khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. “ Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác “. 2. Đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà nước 2.1. Đặc trưng của nhà nước Đặc trưng thứ nhất: Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Trong vùng lãnh thổ đó, quyền lực nhà nước, về nguyên tắc, có hiệu lực đối với mọi thành viên. Biên giới quốc gia xuất hiện, trong đó đồng thời tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội. Đặc trưng thứ hai: Có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế với mọi thành viên trong xã hội. Hệ thống đó bao gồm những quân đội vũ trang đặc biệt (đó là quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang, toà án, nhà tù, pháp luật...), bộ máy hành chính quan liêu thực hiện chức năng cai trị và được trả lương. Lê nin viết: “ Quân đội thường trực và cảnh sát là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước “. Những người đại diện cho nhà nước thực hiên quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Như vậy các cơ quan quyền lực đều từ xã hội mà ra, song chúng ngày càng thoát ly khỏi nhân dân và đối lập với nhân dân. Đặc trưng thứ ba: Nhà nước đặt ra chế độ thuế khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Trong xã hội có giai cấp, chính quần chúng lao động buộc phải đóng góp của cải để nuôi sống bộ máy áp bức mình. Ph Ang-ghen viết: “ Nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội, được đặt lên trên xã hội “. Nhà nước sống được là nhờ sự chu cấp của nhân dân bằng cưỡng bức hay tự nguyện hoặc phối hợp cả hai. 2.2. Chức năng của nhà nước Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. 2.2.1. Chức năng đối nội Buộc các giai cấp bị áp bức phải phục tùng quyền lực của nhà nước. Bảo đảm sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với toàn xã hội về mọi mặt. Nhà nước của giai cấp bóc lột sử dụng một cách thường xuyên và có hệ thống những công cụ bạo lực để duy trì các giai cấp bị áp bức trong vòng “ trật tự “, đàn áp các cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, sử dụng bộ máy thông tin tuyên truyền, các cơ quan văn hoá, giáo dục...làm cho tư tưởng và tổ chức của giai cấp thống trị trở thành thống trị xã hội. 2.2.2 . Chức năng đối ngoại Bảo vệ quốc gia lãnh thổ và lợi ích nhà nước, lợi ích giai cấp thống trị khỏi bị nước khác xâm lược. Hoặc mở rộng lãnh thổ của mình bằng việc xâm lược nước khác. 2.2.3. Mối quan hệ của chức năng đối nội và đói ngoại Hai chức năng trên đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị, là hai mặt của một thể thống nhất trong đó chức năng đối nội là chủ yếu vì nó thể hiện trực tiếp quan hệ cơ cấu giai cấp, chính nó quyết định sự ra đời của nhà nước. Hơn nữa lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì được địa vị thống trị và bóc lột giai cấp trong nước. Còn chính sách đối ngoại phụ thuộc vào bản chất giai cấp và phục vụ chính trị đối nội.Nó là sự tiếp tục của chính sách đối nội. Mối liên hệ này càng trở nên mật thiết trong xã hội hiện đại. Ngày nay khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước ngày càng có vị trí quan trọng. Sức mạnh của một quốc gia, những điều kiện và tiền đề để giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước một phần đáng kể được hình thành trong quan hệ với các quốc gia khác. III- Các kiểu và hình thức của nhà nước 1. Kiểu và hình thức của nhà nước “Kiểu nhà nước “ là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào. Chế độ xã hội nhất định có một kiểu nhà nước nhất định gắn với giai cấp thống trị. Trong lịch sử nhân loại cho đến ngày nay đã tồn tại 4 kiểu nhà nước là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản,nhà nước vô sản. Ba kiểu nhà nước đầu tương ứng với ba hình thái kinh tế xã hội cơ bản dựa trên sự đối kháng giai cấp, còn nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt - nhà nước không còn nguyên nghĩa - tương ứng với thời kì quá độ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa công sản. Trong mỗi kiểu lại có những hình thức nhà nước khác nhau. “ Hình thức nhà nước” là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Tổ chức quyền lực nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi cơ cấu giai cấp - xã hội, bởi truyền thống chính trị... Về nhà nước chủ nô, Arixtot (384-322 trCN) cho rằng cần thiết phải củng cố nhà nước chủ nô. Theo ông, người này có ích và có đức là làm nô lệ, người kia có ích và có đức là làm chủ nô. Tất cả đều có lợi ích chung. Nhưng thực ra trong nhà nước nô lệ: Dù là chỉnh thể gì ? quân chủ hay cộng hoà; quý tộc hay dân chủ cũng đều là nhà nước chủ nô, để bảo vệ quyền lợi của chúng. Nhà nước tư sản: Đây là chính quyền của giai cấp tư sản, là công cụ bảo vệ quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản. Chúng cũng có nhiều hình thức như chế độ cộng hoà đại nghị, quân chủ lập hiến. Các nhà nước cộng hoà tư sản lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau: Chế độ cộng hoà đại nghị, chế độ tổng thống...trong đó còn có sự khác nhau về bầu cử, chế độ một viện hay hai viện, về nhiệm kì tổng thống...Nhưng sự khác nhau về hình thức không làm thay đổi bản chất của nó - là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Lenin viết: “ Hình thức nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một. Chung quy tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào cũng là nền chuyên chính tư sản”. 2. Nhà nước XHCN - sự “tự tiêu vong” của nhà nước Muốn xoá bỏ ách áp bức bóc lột và sự tha hoá con người, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải giành lấy chính quyền và thực hiện nền chuyên chính của mình. C.Mác viết: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kì cảI biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy là một thời kì quá độ chính trị, và nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản ”. Trong tác phẩm “ Nhà nước và cách mạng ”(1917) V.I Lenin nhấn mạnh: Trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì nhà nước thực chất là chuyên chính vô sản và chuyên chính vô sản là “ hòn đá thử vàng để phân biệt người Mac-xit và không Mac-xit”. Chuyên chính vô sản đó là “ nhà nước kiểu mới, nhà nước không theo nguyên nghĩa, nhà nước nửa nhà nước ”. Phê phán những kẻ cơ hội muốn phủ nhận nền chuyên chính vô sản, V.I Lenin đã khẳng định: “ Chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp là tất yếu không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt cả thời kì lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “ xã hội không có giai cấp ”, đến chế độ cộng sản chủ nghĩa, chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học thuyết của Mac về nhà nước ”. Đặc điểm của nhà nước này: là “nhà nước nửa nhà nước”, là nhà nước có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Tính giai cấp thể hiện ở chỗ đặt nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Mac Lenin làm nền tảng tư tưởng. Tính nhân dân thể hiên ở chỗ toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động: Dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù. Nó lấy chức năng tổ chức - xây dựng xã hội mới làm chức năng chủ yếu, đương nhiên vẫn coi trọng chức năng bạo lực trấn áp kẻ thù nói chung. Nó là nhà nước sẽ “ tự tiêu vong ” khi mà xã hội không còn giai cấp, không còn bóc lột và chủ nghĩa cộng sản được thực hiện hoàn toàn. Chương II: Vấn đề nâng cao vai trò nhà nước trong Giai đoạn hiện nay I- Tình hình xây dựng nhà nước trong thời gian qua và những yêu cầu đặt ra trong thời kì mới Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình đổi mới ở nước ta đã diễn ra một cách toàn diện, đồng bộ, thu được nhiều kết quả và cũng đã bộc lộ những hạn chế. Chúng ta đã đạt được những tiến bộ quan trọng: Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất,là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện qua các kì bầu cử, các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật... Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới, những mặt yếu kém cùng những khó khăn vướng mắc mới cũng nảy sinh: Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, đIều hành chưa nghiêm. Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kì mới; chưa phát huy được những thế mạnh vốn có cũng như chưa hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.Đất đai và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, còn lãng phí và thất thoát nghiêm trọng.Chưa tăng cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chưa phát triển được kinh tế hợp tác và phát huy khả năng của các thành phần kinh tế khác gây nên sự chênh lệch về thu nhập ngày càng phát triển, một bộ phận kinh doanh phi pháp, làm giàu bất chính. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp còn chưa rõ ràng mạch lạc,mối quan hệ phân cấp trung ương- địa phương còn một số mặt chưa cụ thể. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước, còn có tình trạng buông lỏng và bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng nhà nước trong thời kì mới, chúng ta cần thực hiện tốt những yêu cầu sau: Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước. Coi trọng hơn việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Tiếp tục xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước phải thật sự là công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước; xây dựng và hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của các cơ quan nhà nước ở từng cấp. II- Chủ trương và nhiệm vụ Chủ nghĩa Mac-Lenin khẳng định: Vấn đề nhà nước luôn luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, chính quyền thể hiện đầy đủ quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, do dân, vì dân; chính quyền phải là công bộc của dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Phải chống quan liêu, cựa quyền, chống tham nhũng...trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề quan trọng, tập trung nhiều ý kiến thảo luận tại đại hội IX với mong muốn có sự đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn hệ thống chính trị của nước ta, trước hết là đẩy mạnh cải cách và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của nhà nước góp phần phát triển kinh tế, xã hội.Vấn đề bức xúc mà toàn đảng và toàn dân quan tâm là vấn đề chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước; phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của nhân dân,nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định những quan điểm về cải cách và hoàn thiện nhà nước mà nghị quyết hội nghị trung ương 3 và hội nghị trung ương 7 (Khoá VIII) đã đề ra; đồng thời khẳng định quan điểm đã được đề ra tại đại hội VIII: coi trọng và gắn chặt các nội dung đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước với phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Mục đích của cải cách, hoàn thiện nhà nước là nhằm phát huy đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân, giữ vững trật tự, kỉ cương xã hội. Vì vậy cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước không tách rời việc phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, trong các cơ quan nhà nước các cấp đều có tổ chức đảng và đảng viên. Vì thế, muốn cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước không thể không làm tốt công việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và toàn bộ quá trình đó đều phải có sự lãnh đạo của Đảng. Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước nhằm nâng cao vai trò của nhà nước là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của đảng và nhà nước ta trong những năm tới, nhưng cũng rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi chúng ta phảI làm tốt công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu trong lĩnh vực này. 1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhà nước ta ngày nay là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phải thể hiện rõ bản chất của nhà nước ta là thống nhất nhiều dân tộc anh em, thống nhất từ trung ương đến địa phương, thực hiện dân chủ thực sự và rộng rãi (dân chủ trong bầu cử, trong tư tưởng tự do ngôn luận, đáu tranh phê bình, đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhân dân lao động và cả dân tộc ). Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Nhà nước hoạt động dưới sự lãnh đaọ của Đảng, nhưng các tổ chức Đảng và mọi đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nhà nước XHCN ưu việt ở chỗ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. ý chí của nhà nước là ý chí của toàn dân mà đại diện là liên minh công nông và tầng lớp tri thức. Nhà nước phục vụ những lợi ích cao cả của toàn dân tộc, hướng tới xây dựng và phát triển những quan hệ xã hội tốt đẹp XHCN, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tương lai tươi sáng. 2. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước Trọng tâm của nội dung này là phải phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức lập pháp, hành pháp, tư pháp; các mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức đó với nhau. Cần tinh gọn tổ chức, bộ máy và biên chế, khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Trong nội dung này có thể chỉ ra một số nhiệm vụ sau: Quốc hội cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với tình hình mới. Hiến pháp 1992 được ban hành là nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong thời kì chuyển đổi. Hiện nay, đất nước ta bước sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2002 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải quan tâm xây dựng bộ máy nhà nước cả lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến cơ sở vững mạnh, có hiệu lực và ngang tầm với nhiệm vụ mới. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến pháp cần đựơc khẩn trương tiến hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta có thể cải cách thể chế và hoạt động của nhà nước. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao hiệu quả của quốc hội mà trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyền quyết định các vấn đè lớn của quốc gia và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Tập trung làm rõ chức năng và phương thức hoạt động của chính phủ cho phù hợp với cơ chế mới. Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương. Tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân. Kiện toàn các cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn. Đổi mới và kiện toàn các cơ quan tư pháp nhằm phân định rõ thẩm quyền của từng cơ quan, từng cấp, bảo đảm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan đó. Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, chống tình trạng giữ oan, sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân. 3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỉ cương, kỉ luật, tăng cường pháp chế Phát huy dân chủ là phát huy nguồn sức mạnh to lớn của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung, củng cố, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói riêng. Đề cao dân chủ nhằm để tập trung trí tuệ toàn dân, mọi chủ trương đường lối đều phải được dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, thế mới được dân đồng tình và vận động nhau cùng thực hiện, thông qua đó để quần chúng nhân dân kiểm tra giám sát để thực hiện triệt để và có hiệu quả. Những nhiệm vụ trong vấn đề phát huy dân chủ: Phát huy dân chủ trong việc bầu cử, ứng cử, đảm bảo chất lượng và cơ cấu các đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng.Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan. Phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững kỉ luật, kỉ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật,tuyên truyền giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Phải khắc phục tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước, báo cáo không trung thực …Chúng ta khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết đòi hỏi các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành hiến pháp và pháp luật, cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Pháp chế XHCN là quyền làm chủ của nhân dân lao động được đề cao. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước đều được phổ biến thông suốt và nhân dân thống nhất thực hiện triệt để.Pháp chế XHCN có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ XHCN. Trong mối quan hệ này, dân chủ XHCN là cơ sở để củng cố nền pháp chế XHCN, là yếu tố cần thiết không thể thiếu đựơc để củng cố và mở rộng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tăng cường pháp chế XHCN là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi giai đoạn nhất định. Để tăng cường pháp chế XHCN chúng ta cần phải ứng dụng những biện pháp sau: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác pháp chế Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật Tăng cường công tác kiểm tra giám sát xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật. Vấn đề quản lý xã hội bằng pháp luật chính là đảm bảo hoạt động của một xã hội văn minh và tiến bộ nhất. Bản chất của nhà nước XHCN là hết sức tiến bộ, văn minh và nhân đạo – chuyên chính vô sản là trấn áp đi đôi với giáo dục cải tạo, trong đó giáo dục cải tạo là quan trọng, trấn áp chỉ khi cần thiết cho nên quan điểm về giáo dục cần được coi trọng và phát huy triệt để có hiệu quả. 4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước- xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, nhà nước là công cụ của Đảng. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là tất yếu khách quan nên cần phải được nhận thức đầy đủ và đúng đắn qua lý luận của chủ nghĩa Mac Lenin và thực tiễn cách mạng Việt Nam cho ta thấy rõ điều đó. Kinh nghiệm của cách mạng XHCN trên thế giới cũng giúp ta tinh kết những bài học quý giá về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ, trong cách mạng XHCN và trong sự nghiệp đổi mới, chính vì vậy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là tất yếu sống còn. Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Đường lối chủ trương được thực hiện đúng đắn đầy đủ thông qua cụ thể hoá trong vai trò, nhiệm vụ điều hành của nhà nước. Đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước, phải đảm bảo có năng lực lãnh đạo tốt nhà nước. Bởi vậy yêu cầu đặt ra là phải thường xuyên rèn luyện phấn đấu nâng cao năng lực lãnh đạo của mình đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của từng thời kì. Đồng thời phải tích cực phòng và chống những nguy cơ, sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, chủ quan và sự thoái hoá biến chất của cán bộ đảng viên. Phải đặt ra những nhiệm vụ cụ thể và những biện pháp có hiệu quả trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay Đảng coi lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi trọng tổng kết công tác xây dựng Đảng, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Toà bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Vì vậy vấn đề nâng cao vai trò nhà nước phải chú trọng đến vấn đề lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Quá trình lãnh đạo đổi mới sẽ làm cho Đảng ta ngày càng trưởng thành, nhận thức rõ hơn những thành tựu, những mặt yếu kém của mình để có biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm.Thắng lợi của công cuộc đổi mới trong thời kì qua chứng tỏ Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy được bản lĩnh và những kinh nghiệm của các thòi kì trước, lãnh đạo có kết quả công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức tạp trong nước và quốc tế. 5. Xâydựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực Để thực hiện tốt nhiêm vụ trên, cần thực hiện một số vấn đề chính yếu như: hoàn thiện quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức. Bảo đảm tính nghiêm túc trung thực trong ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35376.doc
Tài liệu liên quan