MỤC LỤC
Trang
Phần I
Lời mở đầu
2
Phần II
Nội dung
3
I. Những quan điểm chung về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
3
II. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
5
2. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6
III. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7
1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân…
8
2. Hiến pháp và pháp luật của nước ta ghi nhận quyền
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của công dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội …..
8
3. Quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền…
9
4. Sự phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương…
10
5. Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống…
10
6. Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu.
10
7. Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ…
11
Phần III
Kết luận
13
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những tư tưởng, những học thuyết về Nhà nước pháp quyền đã ra đời ở các nước Châu Âu và chúng đã trở thành di sản quý báu của nền văn hóa phương Tây.Vấn đề được đặt ra đối với chúng ta là: ở mức độ nào, bằng hình thức nào, qua con đường nào, những tư tưởng và học thuyết về Nhà nước pháp quyền có thể vận dụng ở Việt Nam - một đất nước có nền văn hiến lâu đời, nơi mà Nhà nước và pháp luật cũng đã có từ ngàn xưa, nơi mà đạo đức, phong tục tập quán đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội.Có thể nói rằng, việc hình thành, xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở.Hiện nay, ở Việt Nam, đã có những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…, cho việc bắt đầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền, nhưng quá trình đó không thể nóng vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Em đã chọn đề tài: “Nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” để nghiên cứu phần nào và muốn hiều rõ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.Bởi vậy em rất mong được sự góp ý của quý thầy cô trong khoa cùng bạn đọc để đề án của em được bổ sung đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Những quan điểm chung về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử.
Nhà nước pháp quyền, lúc đầu như một tư tưởng, một học thuyết, sau đó, như một thực tiễn, có lịch sử của nó.Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài người đã bắt đầu tìm kiếm những nguyên tắc, những hình thức, những cơ chế trong mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật và quyền lực.Trong quá trình phát triển các học thuyết về Nhà nước và pháp luật, dần dần xuất hiện tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, pháp luật trở thành sức mạnh mang tính Nhà nước, còn quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận thì trở thành quyền lực Nhà nước.
Một điều quan trọng phải khẳng định là, chính tư tưởng Nhà nước pháp quyền về sự thống nhất giữa sức mạnh và pháp luật có tính định hướng rõ rệt nhằm chống lại quan niệm cho rằng: Sức mạnh (sức mạnh bạo lực) sinh ra pháp luật, sức mạnh luôn là lẽ phải, chân lý thuộc về kẻ mạnh.Theo quan niệm của thế giới cổ đại thì công bằng, lẽ phải, pháp luật là do thượng đế định ra, chúng là những thuộc tính vốn có trong Trời - Đất, chúng đối lập với bạo lực, sự chuyên quyền, độc đoán và cả sự hỗn loạn.Cho nên khi nói về sự phục tùng pháp luật, sự tuân thủ pháp luật của người dân La Mã và Hy Lạp cổ xưa, thì pháp luật ở đây được hiểu là những đạo luật công bằng, hợp với lẽ thường của Trời - Đất, chứ không phải là sự áp đặt của bạo lực.
Hêraclít đã viết: Nhân dân cần phải đấu tranh bảo vệ pháp luật như bảo vệ chính bức tường trong ngôi nhà của mình.Tất nhiên, cái được nhân dân bảo vệ ở đây là pháp luật, là rường cột của chế độ Nhà nước, chứ không phải là bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp cầm quyền.
Platôn cho rằng, một chế độ Nhà nước chỉ có thể tồn tại ở nơi nào đó, nếu ở đấy các đạo luật công bằng giữ vai trò thống trị.Platôn khẳng định: “Tôi nhìn thấy sự tận số của Nhà nước, khi pháp luật không còn hiệu lực và phụ thuộc vào một chính quyền nào đó.Còn ở chỗ mà luật, luật pháp ngự trị trên những người cầm quyền, và những người cầm quyền như là nô lệ của pháp luật, ở đó, tôi trông thấy sự hồi sinh của Nhà nước, trông thấy tất cả phúc lợi mà Trời ban cho Nhà nước”.
Arixtốt cho rằng, trong bất cứ chế độ Nhà nước nào cũng tồn tại ba yếu tố cấu thành quyền lực: Thứ nhất - cơ quan lập pháp, thư hai - cơ quan điều hành, thứ ba - cơ quan tòa án.Theo Arixtốt, ba yếu tố trên tạo thành nền móng của mỗi Nhà nước.Sự phân biệt chế độ Nhà nước khác nhau phụ thuộc chủ yếu vào mức độ và hình thức tổ chức khác nhau của mỗi yếu tố trên.
Những tư tưởng và học thuyết thời cổ đại về Nhà nước pháp quyền đã được các nhà tư tưởng thời Trung cổ và Cận đại tiếp nhận và phát triển lên.Những tư tưởng và học thuyết đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển các học thuyết về tam quyền phân lập, về tính tối cao của pháp luật và về Nhà nước pháp quyền nói chung.
Trong thời kỳ quá độ tự chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, vấn đề có tính quyết định, đó là vấn đề quyền lực chính trị và khía cạnh tổ chức - pháp lý của chúng.Thế giới quan về pháp luật của giai cấp đang lên - giai cấp tư sản - đòi hỏi phải có những thừa nhận pháp lý mới về tự do cá nhân bằng con đường khẳng định sự thống trị của pháp luật trong các quan hệ cá nhân, cũng như trong các quan hệ chung trong lĩnh vực chính trị, Nhà nước.
Nền tảng triết học của lý luận về Nhà nước pháp quyền đã được J.Cantơ nghiên cứu.Theo ông, Nhà nước - là liên minh của nhiều người cùng phục tùng các đạo luật pháp quyền.Nhà nước pháp quyền trong lý luận của ông là mô hình lý thuyết lý tưởng mà con người phải vươn tới trong quá trình tổ chức thực tế Nhà nước pháp quyền.
Nếu trong quan niệm của Cantơ, Nhà nước pháp quyền và các đạo luật của nó là “cái phải như vậy” thì Hêghen lại cho đó là hiện thực, tức là biểu hiện thực tế của lý trí sáng suốt trong các hình thức tồn tại đời thường của con người.Pháp luật, theo Hêghen đó là thực tế của tự do, là “Phương thức tồn tại của lý trí tự do”.Còn Nhà nước, theo ý kiến của ông, cũng chính là pháp luật, chính là pháp luật cụ thể, hay nói cách khác - theo cách lý giải biện chứng - Nhà nước là pháp luật phát triển, là pháp luật phong phú về nội dung, là cả hệ thống pháp luật.Nhà nước như biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, Nhà nước đứng trên đỉnh cao của hình chóp pháp luật cụ thể, Nhà nước đứng trên cá nhân, đứng trên xã hội.Như vậy, Hêghen coi Nhà nước như một biểu hiện thực tế cao nhất của tự do.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các học giả Nga đã có những đóng góp không nhỏ vào việc phát triển lý luận Nhà nước pháp quyền.Vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Nhà nước pháp quyền - đó là sự ràng buộc của Nhà nước bằng pháp luật, sự phục tùng của Nhà nước trước pháp luật.Chính bản thân C.Mác, trong mức độ nào đó đã ủng hộ quan điểm ấy, ông viết: “Tự do là ở chỗ biến Nhà nước, cơ quan tối cao vào xã hội, thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội”.Nhưng khi Mác coi Nhà nước và pháp luật là những yếu tố của kiến trúc thượng tầng - những yếu tố đóng vai trò thứ hai sau hạ tầng cơ sở - thì thái độ của Mác đối với vấn đề Nhà nước pháp quyền có thận trọng và dè dặt hơn.Mác không gắn pháp luật và sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội với mô hình tương lai của xã hội là chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin, xuất phát từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế mới dưới chủ nghĩa xã hội đã nhấn mạnh rằng, nếu như không muốn rơi vào chủ nghĩa không tưởng thì không nên cho rằng sau khi lật đổ chế độ cũ người ta sẽ biết làm việc ngay cho chủ nghĩa xã hội mà không cần đến một nguyên tắc pháp luật nào.Vì vậy, Người chủ trương phải xây dựng pháp luật kiểu mới và trong thời kỳ đầu có thể sử dụng “chân trời hẹp” của pháp luật tư sản.
Những tư tưởng và mô hình về Nhà nước pháp quyền kiểu phương Tây chứa đựng trong mình những thành tựu của các quan điểm dân chủ tiến bộ của cách mạng tư sản trên thế giới.Chúng phản ánh thế giới tiến bộ của các nhà tư tưởng tư sản trước kia cũng như hiện nay và vì thế Nhà nước pháp quyền được xem như một yếu tố của nền văn minh nhân loại.Nhà nước pháp quyền - không chỉ là một trong những giá trị xã hội cao có chức năng khẳng định những nguyên tắc nhân đạo hơn, khẳng định sự công bằng xã hội hơn trước, nó còn là phương tiện chính trị nhằm bảo vệ và bảo đảm tự do, danh dự và nhân phẩm của con người trong xã hội kiểu phương Tây.Hình thành và xây dựng Nhà nước pháp quyền liên quan mật thiết với việc bảo đảm cao nhất quyền tự do của công dân, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trước công dân, cũng như trách nhiệm của công dân trước Nhà nước.
II. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng kế hoạch, bằng chính sách, bằng những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết khác.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Nhà nước ấy do nhân dân lập ra và thông qua tổng tuyển cử toàn dân, được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân.Mọi quyền lực mà Nhà nước có được đều do nhân dân ủy quyền.Mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.Nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược lại ý trí của nhân dân ta.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.Tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, pháp huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó.Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ chức năng xã hội trong tổ chức, trong hoạt động của mình.Càng đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, càng có khả năng phát hiện, nhân thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới chức năng xã hội.Ngược lại, việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp.
2. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát biểu tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội luật gia Việt Nam ngày 25-5-1993, Tổng bí thư Đỗ Mười đã nói: “Tại kỳ họp Quốc hội khóa VIII thông qua Hiến pháp 1992, cũng như tại Hội nghị tập huấn ngành tư pháp toàn quốc năm 1992, tôi đã có dịp nhấn mạnh vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, coi đó là một trong những nhiệm vụ trung tâm của hệ thống chính trị của chúng ta.Đó là Nhà nước thể hiện bản chất thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “…chúng ta dứt khoát phải quản lý xã hội bằng pháp luật”.
Trong những năm qua, để thực hiện đường lối trên của Đảng và Nhà nước, đã xuất hiện một số công trình khoa học về đề tài Nhà nước pháp quyền.Các công trình đó đã đề cập nhiều vấn đề lý thú và có ý nghĩa thực tiễn thiết thực trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.Tuy nhiên, việc đề xuất một mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam cụ thể, hiện vẫn đang nằm ngoài các trang sách, mặc dầu vần đề đó đang ngày càng trở nên cấp thiết do đòi hỏi của đời sống thực tiễn.
Một vấn đề khó khăn bắt nguồn từ thực tế là vấn đề Nhà nước pháp quyền liên quan chặt chẽ và trực tiếp tới chính trị, tới hệ thống chính trị.Xã hội Việt Nam hiện nay đang có nhu cầu ổn định về chính trị để phát triển kinh tế và xã hội, nhân dân ủng hộ những cải cách chính trị theo đường lối thận trọng, từng bước và không gây xáo động lớn.Mô hình Nhà nước pháp quyền được đưa ra khi lý luận về nó chưa chín muồi sẽ là biểu hiện vội vã, không thận trọng.Nếu nhìn lại lịch sử phát triển lý luận về Nhà nước pháp quyền trên thế giới thì chúng ta thấy rằng, lý luận Nhà nước pháp quyền cũng đã hình thành và phát triển theo con đường giải quyết từng vấn đề được đặt ra và mãi sau này mới có lý luận hoàn chỉnh về mô hình Nhà nước pháp quyền kiểu phương Tây.Trong việc tiếp tục nghiên cứu mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam, có thể cho rằng định hướng sau đây là tư tưởng rất quan trọng cho toàn bộ quá trình tìm tòi khoa học: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là một Nhà nước pháp quyền kiểu xã hội chủ nghĩa có tính riêng biệt của Việt Nam.Đó là “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”
III. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định.Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại.C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá trị nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương.Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình.Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân.Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v…Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất.Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc.Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân.Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất.Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là Quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống.Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển.Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp.Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ.Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm.Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân.Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó.Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
4 - Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương.Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.Đây đang là một khâu yếu.
5 - Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân.Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ.Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật.Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp.Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
6 - Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu.Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững.Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả.Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
7 - Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng.Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo.Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v…
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc.Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước.Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật.Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp.Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,vì dân
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta những năm đã qua, cũng như trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII trình Đại hội lần thứ VIII đều xem việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trung tâm của toàn bộ hệ thống chính trị.Xác định nhiệm vụ này, chẳng những Đảng ta đã đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới mà còn thể hiện sâu sắc thái độ trân trọng và kế thừa những nhân tố hợp lý trong các học thuyết và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại.Chính vì thế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình vừa vận dụng và phát triển học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật kiểu mới, lại vừa phải tìm tòi, chọn lọc, kế thừa các nhân tố hợp lý trong các học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn áp dụng ở các nước.
Với đề tài: “Nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, em muốn nhấn mạnh thêm rằng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân chính là tạo điều kiện cho nhân dân có một cuộc sống ấm no, hanh phúc.Vì vậy, là một công dân Việt Nam, chúng ta cần phải cố gắng học tập và làm việc để góp phần xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia năm 2006
2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia năm 1996
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0139.doc