Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật với quá trình xây dựng & phát triển nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam

Tài liệu Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật với quá trình xây dựng & phát triển nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam: ... Ebook Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật với quá trình xây dựng & phát triển nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật với quá trình xây dựng & phát triển nền Kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật với việc phân tích và chứng minh tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam thời kì quá độ. PHẦN MỞ ĐẦU Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến, sự tác động qua lại lẫn nhau,ảnh hưởng lẫn nhau trong một thể thống nhất. Phép biện chứng là khoa học về sự phát triển. Khái niệm về kinh tế thị trường(KTTT). Việc chuyển đổi nền kinh tế thời chiến sang nền kinh tế thị trường ở nước ta thời kì đầu đổi mới. Tình hình kinh tế lúc bấy giờ và những khó khăn vấp phải. PHẦN NỘI DUNG. 1.Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thời kì quá độ ở nước ta. - Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở VN. - Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường. 2. Đặc trưng bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nền KTTT gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. - Trong nền KTTT thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập,trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu. - Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trườngcó sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Nền KTTT là nền kinh tế mở, hội nhập. 3. Chính sách đổi mới nền kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước ta. - Mục tiêu, chính sách và định hướng phát triển KTTT. 4.Những thành tựu, hạn chế và biện pháp khắc phục trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở nước ta. - Công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ… III. KẾT LUẬN 1. Tổng kết khaí quát lại đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm. 2. Ý kiến của bản thân. I. PHẦN MỞ ĐẦU Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật. Triết học duy vật biện chứng là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Trong đó phép biện chứng đã được nhà triết học Hê-ghen trình bày một cách hệ thống và tương đối hoàn chỉnh. Nhưng ở Hê-ghen phép biện chứng là duy tâm. Mác và Ăng-ghen đã cải tạo phép biện chứng đó và sáng lập ra phép biện chứng duy vật một học thuyết khoa học. Phép biện chứng duy vật có nội dung hết sức phong phú. Nhưng nói một cách khái quát nó là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển của sự vật và hiện tượng trên thế giới. Đó cũng là hai nguyên tắc chung nhất của phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng khẳng định rằng các sự vật hiện tượng trên thế giới liên hệ với nhau một cách phổ biến, chúng tác động qua lại lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau trong một thể thống nhất. Không có cái gì tồn tại riêng rẽ, đơn độc.Các sự vật và hiện tượng đều phụ thuộc lẫn nhau trong sự vận động, chuyển hoá chung của thế giới vật chất. Sự quan sát thông thường cho thấy mối quan hệ tác động qua lại giữa các mặt kinh tế trong xã hội,cụ thể là nền kinh tế thị trường, biểu hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các quy luật như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh tự do…trong sản xuất và phân phối hàng hoá thống nhất trong một thị trường.Sự vật và hiện tượng trên thế giới đều có nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau,chứ không tách rời cô lập lẫn nhau.Do đó khi xem xét sự vật cần phải có quan điểm toàn diện .Vì thế trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị trường nhà nước ta cần phải có những định hướng, phân tích một cách toàn diện các mặt kinh tế khắc phục những khó khăn trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng trên thế giới,các sự vật hiện tượng đều vận động, biến đổi, chuyển hoá từ trạng thái này sang trạng thái khác.Sự phát triển là sự vận động đi lên, có thể theo ba khả năng: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp hoặc từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau mà sự phát triển thể hiện ra khác nhau.Trong lịch sử loài người, nhiều chế độ xã hội đã kế tiếp nhau, lực lượng sản xuất của xã hội đã phát triển từ thấp đến cao.Nền kinh tế thị trường luôn luôn vận động,biến đổi và phát triển.Các quan hệ sản xuất phải phù hợp một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất,lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Trong một nền kinh tế không có một sự kiện nào ở trạng thái cô lập tách rời với sự kiện khác, giữa chúng luôn có mối liên hệ biện chứng. Nguyên tắc về sự phát triển là nguyên tắc chung nhất của phép biện chứng. Nguyên tắc nàygắn liền với nguyên tắc về mối liên hệ phổ biến.Hai nguyên tắc này thống nhất với nhau, chính vì sự liên hệ phổ biến,tức sự tác động qua lai giữa các sự vật hiện tượng, tạo ra sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. 2.Khái niệm về kinh tế thị trường(KTTT). “Một nền kinh tế mà trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường”[ giáo trình:kinh tế chính trị Mác- Lênin]. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó thị trường đóng vai trò là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành các lĩnh vực kinh tế. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.Việc chuyển đổi nền kinh tế thời chiến sang nền kinh tế thị trường ở nước ta thời kì đầu đổi mới. Trong thời kì đầu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó.Nhưng sau ngày giải phóng Miền nam, bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế: tự cấp tự túc,nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực: tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả,nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, tích luỹ hàng năm hầu như không có, vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay hoặc viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao, làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, sản xuất đình trệ nền kinh tế lâm vào tình trạng rối ren sa sút. Với những khó khăn trên vấn đề cần đặt ra lúc này là Đảng và Nhà nước cần phải có những chính sách, biện pháp cụ thể đúng đắn kịp thời khôi phục nền kinh tế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa vào nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn Đảng toàn dân ta trong thời kì đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. II. PHẦN NỘI DUNG Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sang nền KTTT thời kì quá độ ở nước ta. Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế. Đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và thực trạng diễn ra là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn, nó phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và xu thế thời đại.Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế trong những năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ việc thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay nước ngoài.Vì thế việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế là một tất yếu. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTT ở Việt Nam: Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu,đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể được thực hiện thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ. Phân công lao động xã hội với tính chất là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những vẫn tồn tại mà còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cụ thể: trong nền kinh tế nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời như công nghiệp hoá dầu, ngành bưu chính viễn thông, hàng không,xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ… Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể cùng dựa trên chế độ công hữu nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự tách biệt nhất định về kinh tế, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Vì thế quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thực hiện thông qua thị trường. Quan hệ hàng hoá tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ đối ngoại. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phỏt từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sõu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước.Những khía cạnh quy định tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thứ nhất, mụ hỡnh chủ nghĩa xó hội cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, rốt cuộc đó tỏ ra khụng cũn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tỡm kiếm lợi nhuận đó lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh. Vì thế các nước CNXH càc phải thay đổi cơ chế kinh tế cũ để hòa nhập cân bằng với nền kinh tế thế giới đương thời. Thứ hai, mặc dù chủ nghĩa tư bản đó cú những thành cụng nhất định trong phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thứ ba, trong thực tế khụng cú một mụ hỡnh kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trỡnh độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xó hội truyền thống, mà xõy dựng những mụ hỡnh kinh tế thị trường đặc thù của riờng mỡnh. Khụng thể phủ nhận những hạn chế và mõu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải. Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đó từng dự bỏo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tớnh tất yếu kinh tế - xó hội và tớnh tất yếu cụng nghệ - kỹ thuật. Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém. Thứ năm, xột về mặt lịch sử thỡ quan hệ hàng hoỏ - thị trường chỉ là hỡnh thỏi đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xó hội từ trỡnh độ xó hội nụng nghiệp, phi thị trường, lên trỡnh độ xó hội hậu cụng nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung món của cỏc quan hệ thị trường thỡ sự xuất hiện của chỳng cũng khụng cú nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Chính sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đó ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn. Thứ sỏu, sự lựa chọn mụ hỡnh kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trỡnh độ xó hội hậu cụng nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xó hội, mà là trờn cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xó hội và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xó hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phự hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đó qua của chủ nghĩa xó hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hỡnh thỏi kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Nú cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cỏch tụt hậu và nhanh chúng hội nhập, phỏt triển. Đặc trưng bản chất nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói KTTT định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp, nhưng đó cũng không phẩi là nền KTTT tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải KTTT tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là KTTT xã hội chủ nghĩa, bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tố chủ nghĩa xã hội. Vậy đặc chưng của nền KTTT định hướng XHCN là gì ? Báo cáo chính trị Đại hội IX đã nêu một số đặc trưng rất cơ bản. Theo nhiều nhà nghiên cứu khoa học thì KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu,tổ chức quản lý và phân phối. Do đó KTTT định hướng XHCN có những đặc trương bản chất sau đây: Về mục đích phát triển KTTT : KTTT tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các nhà tư bản, xây dựng cơ sỉư kinh tế cho chủ nghĩa tư bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản. Bây giờ có điều chỉnh gì cũng là để bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Còn chúng ta xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN, nhất là trong những chặng đường đầu của thời kì quá độ, lực lượng sản xuất còn yếu kém, là để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục và năng cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta dùng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động sáng tạo của người lao độnh, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội, không để cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nền KTTT gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là:kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH.Vì vậy phát triển KTTT nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Trong nền KTTT nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Vì vậy kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Trong nền KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao độnh là chủ yếu: Trong nền KTTT ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo kết quả lao động, hiều quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của KTTT định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. các quy luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh- hợp tác…) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận, quy định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình, nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung- tổng cầu thưch hiện sự điều tiết nền KTTT. Như vậy cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước- thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ thống nhất. Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập: Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền KTTT hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ. Chính sách, nhiêm vụ đổi mới nền kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước ta. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: - Phải tiếp tục thực hiện một cỏch nhất quỏn chớnh sỏch phỏt triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, cựng phỏt triển lõu dài, hợp tỏc và cạnh tranh lành mạnh. Khụng nờn cú thỏi độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xó hội và chấp hành phỏp luật. Kinh tế tập thể gồm cỏc hỡnh thức hợp tỏc đa dạng, trong đó hợp tác xó là nũng cốt. Cỏc hợp tỏc xó dựa trờn sở hữu của cỏc thành viờn và sở hữu tập thể, liờn kết rộng rói những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xó đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xó. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rói trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà phỏp luật khụng cấm. Tạo mụi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xõy dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xó hội gắn với thu hỳt cụng nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hỡnh thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hỡnh thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hỡnh thức sở hữu, giữa cỏc thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hỡnh thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rói vốn đầu tư xó hội. - Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhỡn chung, kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trỡnh độ cũn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường cũn sơ khai, chưa đồng bộ. Vỡ vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hỡnh thành cỏc loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc cũn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phỏt huy những yếu tố tớch cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trũ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lóng phớ, gõy phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bỡnh đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. - Giải quyết tốt các vấn đề xó hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xó hội, thực hiện cụng bằng xó hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xó hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xó hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà cũn thực hiện bỡnh đẳng trong các quan hệ xó hội, khuyến khớch nhõn dõn làm giàu chớnh đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xó hội. - Giữ vững và tăng cường sự lónh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xó hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xó hội, mở rộng hợp tỏc quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng lónh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà cũn đi đúng định hướng xó hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. 4. Những thành tựu, hạn chế và biện pháp khắc phục trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở nước ta. Thành tựu : Qua 20 năm đổi mới, trong đó có phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN, nền kinh tế- xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể. Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và bắt đầu bước vào thời kì phát triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Về công nghiệp: Từ một nền công nghiệp nhỏ bé, hiện nay công nghiệp đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế của đất nước. Nhiều nhà máy lớn với thiết bị máy móc hiện đại được xây dựng và phát triển mạnh. Ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều ngành cong nghiệp mới như các ngành : chế tạo máy, chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử… đặc biệt là nhà máy chế biến dầu thô ở Dung Quất- Quảng Ngãi, đây là nhà máy lọc dầu vào loại lớn nhất khu vực Đông Nam Á . Ngành du lịch và dịch vụ gần đây đã đem lại cho nền kinh tế một thu nhập lớn. Các khu du lịch nổi tiếng,di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút lượng du khách rất lớn cả trong nước và quốc tế. Ngành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế. Xây dựng hệ thống giao thông trên nhiều loại hình, đảm bảo lưu thông được nhanh chóng, phù hợp với tốc độ vận động của kinh tế thị trường. Trong thương nghiệp: những năm gần đây còn mở rộng các quan hệ kinh tế trong khu vực và thế giới, đặc biệt việc nước ta gia nhập WTO vừa qua đã tạo ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế nước ta hội nhập thế giới.Luật đầu tư nước ngoài với những điểm tạo điều kiện cho phía đầu tư đã ngày càng thu được những hợp đồng kinh tế quan trọng. Về nông nghiệp: Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, hiện nay nông nghiệp nước ta có nhiều đổi mới. Sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp đã giải phóng dần dần sức lao động của người dân. Việc áp dụng khoa học kĩ thuật, đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông nghiệp không ngừng đáp ứng nhu cầu người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu và nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, đây có thể coi là một thành tích to lớn của nền nông nghiệp nước ta. Quá trình cải cách kinh tế không chỉ thành công trong việc thúc đẩy kinh tế mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các tầng lớp dân cư Việt Nam. Các mặt xã hội trong vài năm gần đây được nâng cao và cải thiện đặc biệt việc giáo dục đã đạt được những thành tựu đáng kể trong giai đoạn phát triển. Cùng với củng cố kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm 2005 có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm2000 lên tren 10 triệu đồng năm2005 và chỉ số phát triển con người được nâng lên. Cong tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức thông qua việc trợ giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn.Một só dịch bệnh mới và nguy hiểm như dịch SARS , cúm gia cầm H5N1 được ngăn chặn, khắc phục nhanh… Hạn chế : Chất lượng phát triển kinh tế- xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém.Cơ cấu ngành dịch chuyển chậm. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN con nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập. Một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm. Trong tình hình giá cả thế giới có nhiều biến động, công tác quản lý giá cả thị trường, lưu thông tiền tệ có mặt chưa phù hợp, lúng túng, để xảy ra đầu cơ gây đột biến giá một số mặt hàng thiết yếu bất lợi cho hoạt động kinh doanh và đời sống. Biện pháp khắc phục : Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã đề ra hàng loạt các biện pháp thực hiện nhằm định hướng cho nền kinh tế thị trường đạt được kết quả cao nhất mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội như : xác định rõ nội dung mục tiêu và bước đi của quá trình chuyển sang nền KTTT vẫn giữ vững CNXH. Phát huy đầy đủ vai trò của các đòn bẩy kinh tế, cần phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế, tuân thủ theo nguyên tắc tụ do giá cả bên cạnh luôn coi trọng thị trường nông thôn và lấy hoạt động nhập khẩu làm đòn bẩy. Khuyến khích phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp dụng nguyên lý lợi thế trong quan hệ trao đổi quốc tế. Tiếp tục đổi mới sự quản lý của nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Đặc biệt chú trọng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, hướng tới mục tiêu xã hội: “Dân giàu- nước mạnh- xã hội công bằng văn minh”. III. PHẦN KẾT LUẬN Tổng kết khái quát lại đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm. Từ những vấn đề nêu trên ta có thể khẳng định: Việc vận dụng nguyên lý toàn diện của phép biện chứng duy vật vaò việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta là một quyết định sáng suốt của Đảng và nhà nước. Cơ sở lý luận là một chân lý được chứng minh trong suốt quá trình phát triển của xã hội, bên cạnh đó khi áp dụng vào Việt Nam lai được lãnh đạo Đảng xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan, đặt trong điều kiện hoàn cảnh của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và phát triển phù hợp.Đồng thời việc xây dựng KTTT thời kì quá độ ở nước ta là một tất yếu. Trước một thế giới phát triển kinh tế mạnh, một khu vực năng động hội nhập, đời s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0489.doc