Nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 và sự ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam

Lời mở đầu Tài chính là một lĩnh vực cực kỳ nhậy cảm của nền kinh tế, không ai có thể phủ nhận điều này bởi tầm quan trọng của nó. Một nền kinh tế mạnh phải thường đi liền với một cơ chế tài chính ổn định và vận hành một cách trơn tru . Việc quản lý tài chính yêu cầu phải được thực hiện từ cấp nhà nước tới cấp cơ sở ở mỗi một quốc gia sao cho có sự hài hoà. Nếu có nguyên nhân nào đó xảy ra trong nền kinh tế dẫn đến sự sụt giá nghiêm trọng của đồng bản tệ , và nếu chính phủ không thể làm tăng g

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3694 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 và sự ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá trị của đồng bản tệ được thì khi đó có thể nói rằng khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xảy ra. Khi đó hậu qủa của nó đói với nền kinh tế là không thể kiểm soát được và nó làm giảm mạnh sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 1997 là một điển hình và xảy ra với quy mô rộng , lan truyền hầu hết khắp Châu á , đặc biệt là những nước chịu hậu quả nghiêm trọng như Thái Lan, Indonesia , Malaysia...nền kinh tế suy sụp nghiêm trọng . Việt Nam tuy không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng này nhưng dù sao nó vẫn tác động đến nền kinh tế nước ta . Do đó nghiên cứu về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng để rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý tài chính. Đề án môn học này mới chỉ ở mức nghiên cứu của sinh viên nên chưa có sự đánh giá hoàn toàn chính xác và mới chỉ ở mức nghiên cứu tài liệu mong các thầy thông cảm. Em xin chân thành cảm ơn thày Hào đã giúp đỡ em hoàn thành đề án môn học này. chương I . Cơ sở lý luận về cơ chế tài chính và biểu hiện của khủng hoảng tài chính. Tại sao lại xảy ra khủng hoảng tài chính. * Hệ thống tài chính là một hệ thống không thể thiếu được trong một nền kinh tế. Hệ thống tài chính là những quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối nhưng gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung hay không tập trung. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng , chức năng của tài chính là: + Phân phối với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. nhưng phải đảm bảo các nguyên tác sau: Đảm bảo cân đối giũa : tích lũy và tiêu dùng, nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn... phải có tính thống nhất : giữa trung ương với địa phương , giữa các ngành và các lĩnh vực. Có tính hiệu quả: tức là phải đảm bảo tái tạo và phát triển nguồn vốn, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. + Giám đốc và kiểm soát . Từ khi có Nhà nước thì phạm trù “tài chính” được ra đời. Điều này thể hiện tài chính là công cụ để Nhà nước kiểm soát , giám sát các hoạt động trong nền kinh tế . Các hoạt động tài chính có thể nói là phản ánh rất chính xác tình hình của nền kinh tế, thông qua rất nhiều chỉ tiêu. Như vậy , để có một nền kinh tế mạnh và phát triển ổn định , cân bằng thì không thể tồn tại một hệ thống tài chính yếu ớt , không ổn định được . Mỗi một quốc gia trên thế giới đều có những chiến lược , mục tiêu kinh tế của riêng mình và do đó họ cũng xác định việc hình thành một hệ thống tài chính phù hợp để song hành với các hoạt động trong nền kinh tế. * Hệ thốnng tài chính thường bao gồm các thành phần sau: a . Thành phần kinh tế Nhà nước Bản chất là một hệ thống các quan hệ kinh tế làm hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước. Về hình thức , nó là một bảng cân đối , so sánh và đối chiếu các khoản thu nhập và chi tiêu của ngân sách nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định , thường là một năm. Ngân sách Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng , đó là: + Ngân sách nha nước là nguồn cung cấp nhu cầu tài chính , đảm bảo duy trì cho sự hoạt động và phát triển của Bộ máy nhà nước. + Ngân sách nhà nước là cơ sở để thực hiện chức năng, vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế như: ổn định kinh tế . Tăng trưởng kinh tế. Khắc phục những ảnh hưởng ngoại lai và những thông tin không đối xứng. + Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nhà nước tác động đến nền kinh tế thông qua chính sách tài chính quốc gia và sử dụng ngân sách nhà nước. *Các nguồn thu của ngân sách nhà nước : Thuế. Thuế thường chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước để htực hiện công bằng xã hội , hướng dẫn cho sản xuất - tiêu dùng , phân bổ các nguồn lực và do đó tác động đến nền kinh tế. thuế chính là công cụ , là đòn bẩy của nền kinh tế. Do sở hữu tài sản. Sở hữu các doanh nghiệp nhà nước. Vùng trời, vùng biển cũng mang lại thu nhập cho ngân sách nhà nước. Sở hữu tài nguyên : rừng , biển hầm mỏ, đất đai... có thể cho thuê khai thác. Phí và lệ phí. Thu từ dịch vụ hành chính như: Công chứng . Xác nhận . Cấp Vida . Phạt vi cảnh do vi phạm luật lệ an toàn giao thông và những quyb phạm về quản lý xã hội khác. Ngoài ra ngân sách nhà nước còn có những khoản thu nhập khác như được các nước khác tài trợ khi bị thiên tai, thảm hoạ hay những dự án đặc biệt . * Các khoản chi của ngân sách nhà nước: -- Chi tiêu để phát triển kinh tế: +Cơ sở hạ tầng về mặt kỹ thuật : Hệ thống giao thông , đường sá, sân bay, bến cảng... Hệ thống thông tin, viễn thông. Các cơ sở sản xuất, khai thác năng lượng , để tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế và thu hút đầu tư tư nhân. + Coe sở hạ tầng về mặt xã hội như : Y tế , văn hoá, các công trình phúc lợi. + Xây dựng hệ thóng pháp luật. Chi cho hệ thống quốc phòng, hệ thống bảo đảm an ninh và trật tự xã hội. --Trợ cấp xã hội. Đây là chi tiêu mang tính chất không công cộng thuần túy.Bởi đối với nhà nước thì là công cộng nhưng đối với doanh nghiệp , cá nhân thì lại không công cộng. Thông thường ở các nước thì thu nhỏ hơn chi , do đó cần phải giảm bội chi ngân sách bằng các cách như : cải cách thuế làm sao cho chính sách thuế dễ hiểu , công chúng có ý thức nộp thuế, cán bộ ngàng thuế phải được nâng cao trình độ ; phát hành trái phiếu vào lưu thông để bù đắp cho chi tiêu ; đồng thời cần giảm chi tiêu một cách có hiệu quả nhưng phải tuân theo những nguyên tác sau: không được cắt giảm một cách tuỳ tiện, không được cắt giảm một cách bình quân, sự lựa chọn phải căn cứ vào hiệu quả của các dự án trong ngắn hạn hoặc dài hạn. Tài chính của các doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là khâu tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp nằm trong hệ thống tài chính của một quốc gia và có vai trò cũng rất quan trọng. Doanh nghiệp có mối liên quan chặt chẽ với tất cả các chủ thể khác trong nền kinh tế cho nên tài chính doanh nghiệp cũng là vấn đề nhậy cảm. Việc quản lý tài chính doanh nghiệp không phải là đơn giản mà phải dựa vào những chỉ tiêu mang tính chất đặc trưng. Nội dung quản lý tài chính của các doanh nghiệp gồm: + Vốn. Là toàn bộ tài sản ứng ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Có thể là : tiền mặt, giấy tờ có giá, tư liệu sản xuất hay hàng hoá. Vốn gồm có hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. Vốn lưu động là toàn bộ các khoản tiền, giấy tờ có giá, nguyên vật liệu... chuyển toàn bộ một lần vào quá trình sản xuất. Vốn cố định là giá trị của máy móc, thiết bị , nhà xưởng... Quản lý vốn cố định cần quan tâm đến khấu hao tài sản cố định. Đó là việc trích lập quỹ nhằm sửa chữa, bảo dưỡng... và tới một lúc để thay thế tài sản cố định. + Doanh thu. Được tính bằng sản lượng nhân với giá bán. Đây chỉ là một chỉ tiêu phản ánh quy mô tổng hợp , không phản ánh chất lượng . Nó chỉ phản ánh khả năng thích ứng của doanh nghiệp và khả năng chiếm lĩnh thị trường. + Chi phí sản xuất. Đây là giá trị tài sản mà doanh nghiệp ứng ra để tiến hành sản xuất kinh doanh ở từng chu kỳ sản xuất hay từng số lượng thời gian. Tất cả các doanh nghiệp đều phấn đấu hạ thấp chi phí sản xuất . Biểu hiện bằng tiền của chi phí sản xuất chính là giá thành sản phẩm, do đó việc hạ thấp giá thành sản phẩm với tốc độ nhanh hơn sự hạ của giá bán sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để hạ thấp giá thành sản phẩm cần tăng cường độ lao động hoặc tốt hơn là tăng năng suất lao động . Để tăng năng suất lao động cần phải đầu tư, do đó cần phải có vốn. Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian. Tài chính của các ngân hàng. Tài chính của các ngân hàng được phản ánh thông qua các hoạt động của nó, bao gồm: -- Nghiệp vụ nợ: Về bản chất ngân hàng tiến hành huy động để hình thành nguồn vốn của ngân hàng do đó hình thành các nghĩa vụ tài chính và trách nhiệm của ngân hàng chính là trả nợ.Tài sản nợ của ngân hàng bao gồm: + Tiền gửi hkông kỳ hạn. Đây chính là đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng vì nó chiếm tỷ trọng lớn nhưng vì hkách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào nên việc thực hiện rất phức tạp, không đơn giản. + Tiền tiết kiệm. Tính chất vận động của nó là ổn định nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ cho nên nó không phải là đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng. + Đi vay: Có thể vay Ngân hàng trung ương thông qua tái chiết khấu, hoặc có thể vay các ngân hàng thương mại khác. + Phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu. + Vốn tự có của ngân hàng thương mại : thuộc sở hữu của ngân hàng dưới những hình thức hình thành khác nhau. Thông thường vốn tự có chiếm khoảng 7% tổng nguồn vốn. -- Nghiệp vụ có. Nó hình thành nên tài sản có của doanh nghiệp. + Kho quỹ. Dự trữ bắt buộc, chiếm 10% tổng tài sản nợ. Dự trữ vượt quá. Đó là tồn quỹ nghiệp vụ ngân hàng: không cho vay, không sinh lời. Nhưng ngân hàng phải có để tránh rủi ro . + Cho vay. Có thể cho vy đối với chính phủ hoặc đối với khu vực tư nhân. + Đầu tư. Nhưng quy định của mỗi nước cho thấy tầm hoạt động của ngân hàng thương mại là khác nhau. Có nước quy định cho phép ngân hàng thương mại được phép đầu tư vào chứng khoán như Đức, Bỉ...nhưng có nước lại không cho phép ngân hàng thương mại như Mỹ, Nhật hay nửa cho phép nủa không như Anh. Hoạt động đầu tư làm cho ngân hàng có thể thò tay vào nền kinh tế, có thể tiếp nhận những thông tin chính xác hơn về nền kinh tế. +Tài sản có khác: việc sử dụng vốn không mang tính thường xuyên như các hoạt động tài trợ hay quảng cáo, marketing. -- Nghiệp vụ trung gian. Ngân hàng đứng ở vị trí giữa các khách hàng để thực hiện các lệnh của khách hàng bao gồm các hoạt động như: + Nghiệp vụ chuyển tiền. Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng để chuyển tiền cho người thứ ba ở một nơi nào đó. + Thanh toán không dùng tiền mặt. Bao gồm các công cụ như là : Séc , uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, hối phiếu... + Cung cấp dịch vụ tài chính như : Mua bán hộ tài sản, quản lý đầu tư, hay các dịch vụ khác như hỗ trợ kỹ thuật, môi giới vốn , tài sản, uỷ thác. Tài chính của các tổ chức phi ngân hàng. Các tổ chức phi ngân hàng bao gồm: các công ty tài chính như công ty bảo hiểm , công ty cho thuê tài chính, công ty môi giới tư vấn ; hoặc các quỹ đầu tư như quỹ mua chung... Khác với các ngân hàng thương mại , nguồn vốn của các tổ chức phi ngân hàng nguồn vốn tự có. Đối tượng của họ là cho vay bằng hiện vật, hàng hoá hay tài sản ; và một điểm khác nữa là các tổ chức này không thể tạo ra tiền. Tài chính của các hộ gia đình. Đây là vấn đề tài chính của mỗi hộ gia đình trong xã hội. Nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như thu nhập , chi tiêu , tiết kiệm hay đầu tư... Tài chính quốc tế. Bao gồm các nội dung như: + Cán cân thanh toán quốc tế. Đây là một bảng cân đối so sánh những khoản tiền của một nước thu được ở nước ngoài và chi trả nuức ngoài trong một khoảng thời gian nhất định. Nó bao gồm những nội dung như: cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, chuyển hối, cho vay hay đầu tư vốn. Khi cán cân thanh toán là thặng dư thì đó là rất tốt, nhưngg khi cán cân thanh toán là thâm hụt thì việc cân bằng mang tính chất sức ép, lúc đó nợ nước ngoài sẽ tăng, đồng nội tệ trở nên mất giá, uy tín trên trường quốc tế giảm, lạm phát tiền tệ làm ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ. + Tỷ giá. Là mối quan hệ về mặt giá trị giũa đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác. Tỷ giá có vai trò rất quan trọng bởi nó là điều kiện để người ta thực hiện việc mua bán ngoại tệ; là một công cụ phân phối , nó tiến hành phân phối lại với các khu vực xuất khẩu và nhập khẩu và phân phối lại với toàn nền kinh tế; là công cụ để kiểm soát những luồng di chuyển ngoại tệ. + Thị trường ngoại hối. Là nơi diễn ra mua bán ngoại tệ và vốn bằng ngoại tệ. Là nơi giải quyết những nhu cầu khác nhau đối với ngoại tệ do đó là cơ sở để xác định tỷ giá. Là của ngõ để cho một nước tham gia vào thị trường quốc tế, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nghiệp vụ cơ bản của thị trường ngoại hối là: Trao ngay và giao dịch theo kỳ hạn và kết hợp hai nghiệp vụ này là nghiệp vụ SWAP. + Thanh toán quốc tế. + Tín dụng quốc tế. Bao gồm các loại sau: Tín dụng thương mại quốc tế giữa nguời xuất khẩu với người nhập khẩu. Tín dụng ngân hàng quốc tế giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong quốc tế bao gồm việc cho vay , bảo lãnh mở thư tín dụng hay ký chấp nhận... Tín dụng hỗn hợp. Tham gia vào là tất cả các đối tượng, các chủ thể. Tuy vậy tín dụng quốc tế cũng có những điều kiện riêng khác với tín dụng diễn ra ở trong mỗi nước. Tất cả các khâu này đều hoạt động trên thị trường tài chính. Nhưng sự hoạt động của các khâu này ở mỗi nước là khác nhau do đặc điểm riêng của nền kinh tế của họ hay cụ thể hơn là mỗi nước theo đuổi một cơ chế tài chính riêng của mình. Với mỗi một cơ chế tài chính, mối quan hệ giữa các thành phần trong hệ thống tài chính là khác nhau. Cơ chế tài chính là một tập hợp các quy định, chế độ, các phương thức điều tiết đối với các hoạt động tài chính nhằm đạt được các mục đích nhất định. nội dung của cơ chế tài chính bao gồm: + Kế hoạch tài chính: là việc xác định mục tiêu tài chính và các biện pháp để thực hiện mục tiêu. Kế hoạch tài chính có kế hoạch tài chính ngắn hạn và kế hoạch tài chính dài hạn. Kế hoạch tài chính thường do các nhà lãnh đạo cấp cao lập ra và có ý nghĩa mang tính chiến lược đối với tổ chức tài chính và đối với nền tài chính của cả đất nước nếu ở cấp quốc gia. + Hệ thống công cụ, bao gồm : các báo biểu, các định mức, các đòn bẩy... Hệ thống công cụ này được sử dụng một cách linh hoạt và mang nặng tính chủ quan, bởi nó phụ thuộc vào các nhà lãnh đạo hệ thốnh tài chính. Thông thường cơ chế tài chính phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế. Có hai loại cơ chế tài chính là : * Cơ chế tài chính kiềm chế. Cơ chế tài chính kiềm chế là cơ chế tài chính mà các quy định, chế độ, các phương thức điều tiết hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước hay cụ thể hơn là Nhà nước kiểm soát hoàn toàn hệ thống tài chính. Nhà nước tiến hành theo dõi thường xuyên về các hoạt động của hệ thống tài chính và điều tiết để tránh những ảnh hưởng không có lợi đối với nền kinh tế. Cơ chế tài chính kiềm chế có những đặc trưng sau : + Nhà nước thường xuyên can thiệp vào lãi suất. + Tỷ giá là cố định và do Nhà nước ấn định, không phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường về ngoại tệ. + Dự trữ bắt buộc thường là cao do có sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước đối với các hoạt động của các ngân hàng thương mại. + Nhà nước can thiệp vào phân phối vốn tín dụng. Nhà nước không những can thiệp vào biên chế của các ngân hàng thương mại mà còn can thiệp trực tiếp vào việc phân phối vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, can thiệp vào việc cho vay đối với từng đối tượng khách hàng và phải theo sự ưu tiên của Nhà nước. Lý do người ta theo đuổi cơ chế này là: người ta chỉ quan tâm đến mặt tiêu cực của tài chính. Ngươi ta sợ rằng trong hoạt động tài chính có quá nhiều các rủi ro cho nên không thể mạo hiểm mà nên cẩn thận . Một khi rủi ro xảy ra thì hậu quả là không thể lường trước được cho nên phải tiến hành ngăn chặn ngay từ đầu. * Cơ chế tài chính tự do. Cơ chế tài chính tự do là cơ chế tài chính mà hoạt động của hệ thống tài chính không có những quy định mang tính chất chủ quan của Nhà nước mà diễn ra theo cung cầu trên thị trường. Cơ chế tài chính tự do có những đặc trứngau đây : + Nhà nước không can thiệp vào lãi suất. Lãi suất được hình thành theo cung cầu về vốn trên thị trường. Các biến động về nhu cầu vốn trên thị trường sẽ làm thay đổi lãi suất. + Tỷ giá là thả nổi . Nhà nước không can thiệp vào tỷ giá mà để cho nó hình thành tự do dựa theo cung cầu về ngoại tệ trên thị trường quốc tế khác với cơ chế tài chính kiềm chế là tỷ giá do Nhà nước ấn định. + Dự trữ bắt buộc thường không cao do có sự hoạt động tương đối tự do của các ngân hàng thương mại, nhờ đó các ngân hàng thương mại có thể cho vay nhiều hơn đối với nền kinh tế. + Các ngân hàng được tự do tín dụng, không bị sự can thiệp một cách chi tiết vào việc cho vay đối với khách hàng của ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng thương mại được tự do lựa chọn khách hàng, tự do trong sự ưu tiên với những khách hàng mà ngân hàng tin tưởng... Lý do mà người ta theo đuổi cơ chế tài chính kiềm chế, đó là người ta muốn phát huy hết sức mạnh của tài chính. Nhưng đối với các nước theo đuổi cơ chế tài chính tự do thì việc xảy ra khủng hoảng tài chính là có nguy cơ rất cao, đặc biệt là đối với những nước có đự trữ ngoại hối không phải thuộc loại cao. Do đó, khủng hoảng tài chính xẩy ra phụ thuộc phần lớn vào cơ chế tài chính mà mỗi nước đã lựa chọn. Nếu xảy ra khủng hoảng tài chính thì hậu quả của nó là rất lớn đối với nền kinh tế. Hậu quả của khủng hoảng tài chính. Giá trị của đồng bản tệ bị giảm quá nhanh. Một nước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, tức là nước đó không tự kiểm soát được hệ thống tài chính của mình do nhiều nguyên nhân khác nhau thì việc này rất bất lợi đối với nền kinh tế nói chung và với đồng tiền nước đó nói riêng. Nhà nước không kiểm soát được các nhân tố tác động đến hệ thống tài chính, lòng tin của dân chúng trong nước nói riêng và quốc tế nói chung đối với đồng tiền đó sẽ giảm, do đó sức mua của đồng tiền đó sẽ bị giảm mạnh. Khi đồng bản tệ bị mất giá, nếu Nhà nước muốn sức mua của đồng tiền đó tăng lên lại như cũ thì họ sẽ phải tung lượng ngoại tệ dự trữ của mình ra để bán, thu đồng tiền nước mình về, lúc đó cầu về đồng tiền đó sẽ tăng lên và sẽ làm cho sức mua của đồng tiền tăng lên. Nhưng muốn làm được điều đó thì Nhà nước hay Ngân hàng trung ương cần phải có một lượng dự trữ về ngoại tệ mạnh đủ lớn. Trong trường hợp nước đó không có đủ dự trữ về ngoại tệ thì không còn cách nào khác là phải cầu cứu bên ngoài mà chủ yếu là phải đi vay nhưng để vay được tiền thì sẽ bị bên ngoài áp đặt điều kiện và một trong những điều kiện đó là việc Nhà nước buộc phải phá giá đồng bản tệ . Song hành với việc Nhà nước buộc phải tuyên bố phá giá đó chính là nước đó phải chấp nhận lạm phát. Có ba mức độ lạm phát là : Lạm phát vừa phải: có thể kiểm soát được tức là ở mức dưới 10%. Lạm phát phi mã: nàm trong khoảng từ 10% tới 100%. Siêu lạm phát: lớn hơn 100%. Khi xảy ra lạm phát thì hậu quả của nó là rất nghiêm trọng, cụ thể là : + Đối với nền kinh tế, thông qua các chỉ tiêu như : sản lượng, cán cân thanh toán, ngân sách nhà nước, GDP ta thấy giá cả tănglên hì lạm phát tăng làm cho đầu tư của nền kinh tế giảm và sẽ ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế. Lạm phát sẽ làm cho cán cân thanh toán ngày càng thâm hụt, do đó gánh nặng nợ nước ngoài sẽ tăng lên đặc biệt là đối với những nước nhập siêu. Lạm phát làm cho bội chi ngân sách ngày càng lớn và nếu bội chi ngân sách càng lớn thì uy tín cuả Nhà nước đối với công chúng giảm do đó để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bắt buộc phải in tiền là cho lượng tiền trong lưu thông tăng, chính điều đó sẽ làm cho lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Lạm phát làm cho GDP giảm . + Đối với xã hội thì đây chính là giai đoạn mà việc đầu cơ, tích trữ là rất phổ biến. Điều này sẽ tạo ra cầu giả tạo và làm cho giá cả ngày càng tăng lên. Đó chính là ách tắc trong lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Lạm phát tạo ra việc phân phối lại một cách bất hợp lý của các tầng lớp dân cư, cụ thể là sẽ lợi cho người đi vay, những người đi thuê thực hiện các hợp đồng kinh tế. + Đối với kinh tế đối ngoại thì lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm nghiên trọng do uy tín của cả nền kinh tế cũng như của các doang nghiệp giảm sút và điều này sẽ gây thiệt hại về cả hữu hình lẫn vô hình. Đầu tư bị giảm nhanh chóng. Đầu tư ở cả trong nước lẫn nước ngoài đều giảm. Khi một đất nước có mức lạm phát không thể kiểm soát được thì các nhà đầu tư sẽ có tâm lý chung là không dám mạnh dạn bỏ vốn của mình ra để đầu tư vào nơi không an toàn bởi khi đó rủi ro là rất cao. chương II. Nguyên nhân , diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997 và sự ảnh hưởng tới Việt nam. 1. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. -- Nhóm nguyên nhân thứ nhất : sự bất cập trong quản lý vĩ mô của chính phủ. Sụ chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỉ giá khiến các đồng bản tệ bị đánh giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đồng đô la Mỹ . Điều này càg kích thích các nhà đi vay của Thái Lan và các nước tăng cường vay nosng USD rồi chuyển chúng sang bản tệ với lãi suất cao tại các ngân hàng trong nước để hưởng lợi và do đó kéo theo một khối lượng lớn vốn nước ngoài ngắn hạn vào trong nước đã kich thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu cũng như các khoản mục đầu tư dễ dãi và tiềm ẩn trong nó là nguy cơ làm phát sinh và gia tăng một nền kinh tế ảo. Chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đòng bộ đi đôi với việc tăng còng giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân hàng chính là sự yếu kém trong hệ thống quản lý. Ngoài ra, ở các nước này còn có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế nhu là khủng hoảng tài chính tiền tệết quả của những sai lầm nêu trên trong đó mất cân đối lớn nhất là sự thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước. --Nhóm nguên nhân thứ hai: sai lầm của các nhà đầu tư trong nước. ở khu vực kinh tế tư nhân đã xảy ra cuộc “khủng hoảng nợ” và điều nay lại được khích lệ bởi cơ chế giám lỏng lẻo của chính phủ , bởi chênh lệch lãi suất trong nước và nước ngoài. Số nợ của nhiều doanh nghiệp vượt quá tổng số vốn của bản thân doanh nghiệp tới 200 - 400%. Mặt khác, bản thân doanh nghiệp còn chưa bắt kịp những diễn biến trong và ngoài nước , chưa xử lý kịp thời các tình huống cung - cầu, giá cả mặt hàng và chất lượng sản phẩm , chiến lược thị trường và xuất khẩu không đủ đa dạng … do đó, lúng túng trong các quyết định sđầu tư mới và bỏ lỡ csc coẻ hội kinh doanh . -- Nhóm nguyên nhân thứ ba: các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước khu vực. Trứơc hết đó là chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn cả trong lẫn ngoài khu vực Châu á. Một vấn đề không kém phần quan trọng là ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngòai có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Một vấn đề nữa thuộc những nhân tố bên ngoài , đặc biệt là đối với các nước Đông Nam á, là sự tham của một số nước mới và đặc biệt là Trung Quốc và ấn Độ, vào thị trường xuất khẩu của các nước này làm cho các nước này mất lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. 2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng. Thái Lan- ngòi nổ của cuộc khủng hoảng. Trong cả một thập kỷ, Thái Lan đã là một nơi hấp dẫn để tiến hành đầu tư. Mức lợi nhuận thu được caovà dòng vốn đổ vào để hưởng ứng với những nỗ lưc ổn định, cải tổ và tự do hoá tài chính. Cơ chế tỷ giá hối đoái ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và nhập khẩu. Do chỉ thu được những khoản lãi thấp đối với các vụ đàu tư trong nước nên các ngân hàng Mỹ và Nhật cần phải tìm ra những khách hàng mớiđể cho vay và họ đã tìm ra những vị khách hàng này ở các nước Đông Nam á có nền kinh tế đang bùng nổ. Tình trạng nợ nước ngoài đã đặt Thái Lan vào vị trí dễ bị tổn thương, thêm vào đó, việc thiếu sự linh hoạt trong cơ chế tỷ giáhối đoái và những nỗ lực yều kém của ngân hàng Thái Lan trong việc bỏ vệ đồng tiền chống lại sự tấn công của hoạt động đầu cơ tích trữ đã khiến ngân hàng Thái Lan đi vào tình trạng phá sản. Sự rút vốn là tất yếu khi người ta dự kiến đồng tiền sẽ sụt giá. Những khoản tiền lớn đã chạy khỏi thái Lan . Ngân hàng Thái Lan cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại hối và cố gắng một cách vô vọng để bảo vệ tỷ giá cố định. Do ngân hàng trung ương bắt đầu hết nguồn dự trữ ngoại hối, đồng tiền bị sụt giá nghiêm trọng. Chi phí thực tế để hoàn trả các khoản nợ quốc tế tăng lên , thị trường tín dụng bị phong toả và các hoạt động lan truyền bắt đầu xuất hiện, khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu xảy ra. Indonexia - hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng. Nếu so sánh trường hợp của Idonexia với Thái Lan và môt số nước xảy ra khủng hoảng thì chúng ta thấy rằng : ở Idonexia cũng có đầy đủ những nguyên nhân khác quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài tích họp và đủ làm bùng phát cuộc khủng hoảng như ở Thái Lan và nhiều nước Đông Nam á khác. Song do thời gian ủ bệnh quá lâu, mức độ khá trầm trjng nên nét đặc trưng ở Idonexia là diễn biến của cuộc khủng hoảng với tốc độ cao và những hậu quả gây ra nặng nề, kéo dài hơn nhiều so với các nước khác. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở đây cũng được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah, nhưng tốc độ thì không gì cản nổi. Đồng rupiah từng có thời điểm mất giá cao nhất tới trên 625% . Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm cho mức sống của người dân giảm xuống rất nhanh, tỷ lệ thất nghiệp tăng 4 lần so với trước, 16 ngân hàng và trên 80% công ty bị phá sản. Dự trữ ngoại tệ giảm chỉ còn 14 tỷ USD, trong khi đó nợ nước ngoài của Idonexia lên tới 133,67 tỷUSD. Hàn Quốc - sự sụp dổ của các tập đoàn kinh tế. Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Nam á và gây thiệt hại nhiêm trọng đối với nền kinh tế các nước như Thái Lan , Indonexia, Malaayxia…, đến tháng 10 năm 1997, khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Các tập đoàn kinh tế lớn( chaebol) vẫn được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 10 tháng , 7 trong số 30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Như một bệnh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt tập đoàn khác lần lượt gục ngã. Đìeu này đã làm ảnh hưởng nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này, người nước ngoài không còn tín nhiệm các ngân hàng nước này nữa. Trong bối cảnh đó, tổng số nợ nước ngoài của Hàn Quốc đã lên tới 130 tỷ USD. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối cuối tháng 10 năm 1997 chỉ còn 30,5 tỷ USD. Đồng won đã bị sức ép nặng nề từ nhiêfu phía nên đã giảm giá mạnh, các chỉ số chứng khoán Hàn Quốc đã liên tục tụt xuống, khủng hoảng tài chính tiền tệ là không thể tránh khỏi. Nhật Bản - sự sụt giá của đồng Yên. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật Bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng Yên từ tháng 5 năm 1998, có lúc lên cao 146,5 Yên / USD. Sự sụt giá của đồng yên đã gây ra hậu quả to lớn tức thì . Với riêng nền kinh tế Nhật Bản nó làm cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ càng trở nên trầm trọng gấp bội . Toàn bộ hệ thống tài chính ngân hàng bị trao đảo mạnh và đứng trước nguy cơ đổ bể . trong bối cảnh nền kinh tế như thế này , xuất khẩu đã và sẽ tiếp tục sụt giảm nhanh theo đà mất giá của đồng yên . Các mất cân đối sẽ trầm trọng hơn. 3 . ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đến Việt Nam. a. Đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường hối đoái : Cuộc khủng hoảng tài chính –tiền tệ ở khu vực châu á ngay lập tức đã gây sức ép giảm giá đồng Việt Nam do thị trường dự đoán về khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam , dẫn tới tình trạng găm giữ , đầu cơ ngoại tệ . Tâm lý đầu cơ của thị trường đã đẩy tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh (có thời điểm tỷ giá VND/USD lên đến mức 14600 tạo chênh lệch lớn so với tỷ giá của các ngân hàng thương mại ). Bên cạnh đó , tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại cũng luôn ở mức trên giao dịch cho phép , gây sức ép giảm giá đồng Việt Nam . ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng Khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á gián tiếp tác động tới cơ cấu tiền gửi giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng . Tiền gửi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng chậm , trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân chúng và tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp (tính đến 30-11-1997 tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ là 526 triệu USD ,tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp là 1720 triệu USD ). Nhiều doanh nghiệp giữ ngoại tệ trên tài khoản mà không bán cho ngân hàng để tránh khả năng giảm giá đồng Việt Nam . Tình hình trên đã gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ tại một thời điểm . tạo sức ép không nhỏ đến tỷ giá đồng Việt Nam và đã gây những xáo trộn bất ổn nhất định trên thị trường ngoại hối nước ta . Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ : Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường nói chung bị giảm sút . Thực tế nửa cuối năm 1997 , nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ , hoạt động của thị trường có lúc bị ngưng trệ và nhu cầu mua bán chỉ nhằm mục đích phục vụ cho các khách hàng chính của mình , không mang tính chất kinh doanh . Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD , giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD , giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997 . Tăng gánh nợ cho các doanh nghiệp : Khủng hoảng tiền tệ khu vực tác động tăng tỷ giá hối đoái đã gián tiếp làm tăng thêm các khoản nợ nước ngoài . Đặc biệt là các khoản nợ đến hạn thanh toán . Nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ hoặc phải mua với giá cao đã chịu lỗ rất lớn . Tỷ giá tăng đột biến cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong khi giá hàng hoá trong nước tăng không nhiều . Gây sức ép đối với lãi suất đồng Việt Nam : Ngoại tệ tăng mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn đồng Việt Nam do lãi suất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá . Nhu cầu vay vốn VND tăng đã gây mất cân đối cung cầu về tiền đồng trên thị trường , tạo sức ép tăng lãi suất đồng nội tệ và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách lãi suất thấp nhằm khuyến khích đầu tư kinh doanh sản xuất đối với nền kinh tế . Đe doạ sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam : Do các ngân hàng thương mại gặp khó khăn về huy động vốn , về khả năng thanh toán trong nước và quốc tế . b. Đối với lĩnh vực ngoại thương : Châu á là một thị trường thương mại lớn nhất của Việt Nam hiện nay . Năm 1997 , thị trường này chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó ASEAN chiếm 20% ) và 70% tổng kim ngạch nhập khẩu (trong đó ASEAN chiếm 28% ). Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sang Châu á là dầu thô , than đá , cao su , cà phê , hạt có dầu , gạo , hải sản ,dệt –may da –giày . . .và nhập khẩu chủ yếu từ đó về là xăng , dầu , sắt thép , phân bón , xi măng , linh kiện điện tử , ô tô , xe máy . . .Xingapo là thị trường xuất –nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam ở khu vực ASEAN , chiếm tới 2/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN , và kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN . Như vậy , ở mức độ nào đó , luồng hàng xuất –nhập khẩu giữa ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29910.doc
Tài liệu liên quan